A.lời mở đầu
B.Nội dung
Chương I
Lý luận chung về xuất khẩu tư bản và đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.Lý luận chung về xuất khẩu tư bản 2
1.2.Các hình thức của xuất khẩu tư bản 5
1.3.Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong gia đoạn phát triển hiện nay. 6
Chương II
Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt nam trong giai đoạn hiện nay
2.1.Những thành tưụ đạt được trong quá trình thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt nam 10
2.2.Những khó khăn hạn c
29 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hế còn tồn tại 12
2.2.1.những khó khăn, hạn chế 12
2.2.2.Nguyên nhân gây ra những hạn chế trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. 14
Chương III
Giải pháp về vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt nam trong giai đoạn hiện nay
3.1.Giải pháp hoàn thiện cơ cấu đầu tư nước ngoài 19
3.2.Giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. 22
3.3.Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. 27
C.Kết luận 28
D.Tài liệu tham khảo 29
Chương i
Lí luận chung về tư bản
và đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.Lí luận về xuất khẩu tư bản và đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Theo kinh tế chính trị học Mác-Lênin thì xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài ( đầu tư tư bản ra nước ngoài ) nhằm mục đích bóc lột giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác ở các nước nhập khẩu tư bản. Lênin cũng khẳng định : xuất khẩu tư bản khác với xuất khẩu hành hoá và là quá trình ăn bám bình phương.
Vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước công nghiệp phát triển lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản đầu tư khổng lồ. Đó là tiền đề quan trọng đầu tiên cho việc xuất khẩu tư bản. Như vậy, tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là “ tư bản thừa ” xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng xét về thực chất, xuất khẩu tư bản là một hiện tượng kinh tế mang tính chất tất yếu khách quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội, đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Thông thường khi nền kinh tế ở các nước công nghiệp đã phát triển, việc đầu tư ở trong nước không còn mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà tư bản, vì lợi thế so sánh ở trong nước không còn nữa. Để tăng thêm lợi nhuận, các nhà tư bản ở các nước tiên tiến đã thực hiện đầu tư ra nước ngoài, thường là vào các nước lạc hậu hơn, vì ở đó do các yếu tố đầu vào của sản xuất còn rẻ hơn nên lợi nhuận thu được thường cao hơn. Chẳng hạn, vào đầu thế kỉ XX, lợi nhuận thu được từ các hoạt động đầu tư ra nước ngoài ước tính khoảng 5% trong một năm, cao hơn đầu tư ở trong các nước tiên tiến. Sở dĩ như vậy là vì ở các nước lạc hậu, tư bản vẫn còn ít, giá đất đai tương đối thấp, tiền công hạ và nguyên liệu rẻ. Mặt khác, các công ty tư bản lớn đang cần nguồn nguyên liệu và các tài nguyên thiên nhiên khác, đảm bảo cung cấp ổn định và đáng tin cậy cho việc sản xuất của họ. Điều này vừa tạo điều kiện cho các công ty lớn thu được lợi nhuận cao, vừa giúp họ giữ được vị trí độc quyền.
Theo Lênin thì xuất khẩu tư bản là một trong năm đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa Đế quốc. Thông qua xuất khẩu tư bản, các nước phát triển thực hiện việc bóc lột đối với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó. Nhưng cũng chính Lênin khi đưa ra “ chính sách kinh tế mới ” đã nói rằng những người Cộng sản phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kĩ thuật của Chủ nghĩa tư bản thông qua hình thức “ Chủ nghĩa Tư bản độc quyền nhà nước”. Theo quan điểm này, nhiều nước đã chấp nhận phần nào sự bóc lột của Chủ nghĩa tư bản để phát triển kinh tế, như thế còn có thể phát triển nhanh hơn là tự thân vận động hay đi vay vốn để mua lại những kĩ thuật của các nước phát triển. Mặt khác, mức độ bóc lột của các nước tư bản cũng tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế chính trị của các nước tiếp nhận đầu tư tư bản. Nếu như trước đây, hoạt động xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc chỉ phải tuân theo luật pháp của chính họ thì ngày nay, các nước nhận đầu tư đã là các quốc gia độc lập có chủ quyền, hoạt động đầu tư nước ngoài phải tuân theo pháp luật, sự quản lý của chính phủ sở tại và thông lệ quốc tế. Nếu chính phủ của nước chủ nhà không phạm những sai lầm về quản lý vĩ mô thì có thể hạn chế được những thiệt hại do hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài gây ra. Muốn thực hiện việc đầu tư vào một nước nào đó, nước nhận đầu tư phải có những điều kiện tối thiểu như : phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng đủ đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt động sản xuất công nghiệp và phải hình thành một số ngành dịch vụ, phụ trợ, phục vụ cho nhu cầu của sản xuất và đời sống. Chính vì vậy mà các nước phát triển thường chọn nước nào có những điều kiện kinh tế tương đối phát triển hơn để đầu tư trước. Còn khi phải đầu tư vào các nước lạc hậu, chưa có những điều kiện tối thiểu cho việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài, thì các nước đi đầu tư cũng phải giành một phần cho việc đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và một số lĩnh vực dịch vụ khác ở mức tối thiểu, đủ đáp ứng yêu cầu của sản xuất và một phần nào đó cho cuộc sống, cho sinh hoạt của bản thân những người “nước ngoài” đang sống và làm việc ở đó.
Sau mỗi chu kỳ kinh tế, nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển lại rơi vào một cuộc suy thế kinh tế. Chính lúc này, để vượt qua giai đoạn khủng hoảng và tạo ra những điều kiện phát triển, đòi hỏi các nước này phải đổi mới tư bản cố định. Thông qua các hoạt động đầu tư nước ngoài, các nước công nghiệp phát triển có thể chuyển các máy móc, thiết bị cần thay thế sang các nước kém phát triển hơn và sẽ thu hồi được một phần ( nhiều khi cũng không nhỏ ) giá trị để bù đắp những khoản chi phí khổng lồ cho việc mua sắm các thiết bị, máy móc mới. Những thành tựu khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng đi vào ứng dụng trong sản xuất và đời sống. Các chu kỳ kinh tế ngày càng rút ngắn lại, vì vậy yêu cầu đổi mới máy móc thiết bị ngày càng cấp bách hơn. Ngày nay bất kỳ một trung tâm kỹ thuật tiên tiến nào cũng cần phải luôn luôn có thị trưòng tiêu thụ công nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên thay đổi công nghệ – kĩ thuật mới.
Nguyên tắc lợi thế so sánh cho phép hoạt động đầu tư nước ngoài lợi dụng được những ưu thế tương đối của mỗi nước, đem lại lợi ích cho cả hai bên : bên đi đầu tư và bên nhận đầu tư. Những thuận lợi về kĩ thuật của các công ty cho phép nó khai thác những lợi thế so sánh trong các công ty con của mình ở những vị trí khác nhau do việc chuyển giao công nghệ sản xuất của nước ngoài tới những nơi có giá thành thấp.
Do có những thay đổi trong chính sách kinh tế của các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển đã thúc đẩy mạnh hoạt động đầu tư nước ngoài. Ví dụ : việc thay đổi tỉ lệ thu thuế ( thuế VAT, thuế thu nhập …) ở nhiều nước công nghiệp theo xu hướng ngày càng cao. Trong khi đó, ở nhiều quốc gia đang phát triển, để tranh thủ được nguồn vốn nước ngoài, họ đã có chủ trương giảm tỉ lệ thu thuế, nhất là có nhiều ưu đãi về thuế đối với các hoạt động đầu tư nước ngoài. Chỉ riêng điều đó đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đầu tư của nước ngoài.
Sau khi giành được độc lập dân tộc, nhiều quốc gia đã tiến hành các biện pháp nhằm từng bước phát triển nền kinh tế theo hướng tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Các quốc gia này có nhu cầu lớn về vốn đầu tư để khôi phục và phát triển nền kinh tế, đưa đất nước sớm thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Đây là cơ hội để các nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là các nước Đế quốc trước đây, giành giật và chiếm giữ thị trường các nước đang phát triển, trong đó có rất nhiều nước vốn trước đây là thuộc địa của họ. Đầu tư trực tiếp vào các nước này là con đường ngắn nhất và cũng dễ được các nước đang phát triển chấp nhận nhất để các nước công nghiệp có thể đạt được mục tiêu nói trên của mình.
Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội mở rộng trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả các nước và các vùng lãnh thổ từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó, chính sách biệt lập “ đóng cửa” là không thể tồn tại vì chính sách đó chỉ làm kìm hãm quá trình phát triển của xã hội. Một quốc gia hay vùng lãnh thổ khó tách biệt khỏi thế giới do những thành tựu của khoa học và kĩ thuật đã kéo con người ở khắp nơi trên thế giới xích lại gần nhau hơn và dưới những tác động quốc tế khác buộc các nước phải mở cửa với bên ngoài.
1.2 Các hình thức của xuất khẩu tư bản :
Xuất khẩu tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức.
Nếu xét cách thức đầu tư, có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
_ Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư , biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ. Các xí nghiệp mới được hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí nghiệp mà toàn bộ số vốn là của một công ty nước ngoài.
_ Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay lãi. Thông qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc gia và quốc tế, tư nhân hoặc các nhà tư bản cho các nước khác vay vốn theo những hạn định khác nhau để đầu tư vào các đề án phát triển kinh tế. Ngày nay các hình thức này còn được thực hiện bằng việc mua bán trái phiếu hay cổ phiếu ở các công ty nhập khẩu tư bản.
Nếu xét theo chủ sở hữu, có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân.
_ Xuất khẩu tư bản Nhà nước là hình thức xuất khẩu tư bản mà nhà nước tư sản lấy tư bản từ ngân quỹ của mình đầu tư vào các nước nhập khẩu tư bản, hoặc viện trợ hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu và kinh tế, chính trị và quân sự.
Về kinh tế, xuất khẩu tư bản Nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân.
Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm cứu vãn chế độ chính trị thân cận đang bị lung lay hoặc tạo ra mối liên hệ lâu dài.
Về quân sự, viện trợ của Nhà nước tư sản nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào các khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải đưa quân tham chiến chống nước khác, cho nước xuất khẩu lập căn cứ trên lãnh thổ của mình hoặc đơn thuần là để bán vũ khí.
_Xuất khẩu tư bản tư nhân, là hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân thực hiện. Ngày nay, hình thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia tiến hành thông qua hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân có đặc điểm là thường được đầu tư vào các ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức chủ yếu của xuất khẩu tư bản, có xu hướng tăng nhanh, chiếm tỉ lệ cao trong tổng tư bản xuất khẩu. Nếu những năm 70 của thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản tư nhân đạt trên 50% thì đến năm 80 của thế kỷ này nó đã đạt tỷ lệ 70% trong tổng tư bản xuất khẩu.
Nếu xét về cách thức hoạt động, có các chi nhánh của các công ty độc quyền xuyên quốc gia, hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng hay các trung tâm tín dụng và chuyển giao công nghệ. Trong đó, hoạt động dưới hình thức chuyển giao công nghệ là biện pháp chủ yếu mà các nước xuất khẩu tư bản thường sử dụng để khống chế nền kinh tế của các nước nhập khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản về thực chất là hình thức mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi quốc tế, là sự bành trướng thế lực của tư bản tài chính nhằm bóc lột nhân dân lao động thế giới, làm cho các nước nhập khẩu tư bản bị bóc lột gia trị thặng dư, cơ cấu kinh tế què quặt, lệ thuộc vào nền kinh tế nước tư bản chủ nghĩa. Từ đó làm cho mâu thuẫn kinh tế – xã hội tăng lên.
1.3. Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn phát triển hiện nay :
Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có sự biến đổi lớn.
Thứ nhất là, hưóng xuất khẩu tư bản đã có sự thay đổi cơ bản. Trước kia, luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển ( chiếm tỉ trọng trên 70% ). Nhưng những thập kỷ gần đây, đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua chảy lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu tư bản giữa ba trung tâm tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ và Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ làm cho luồng xuất khẩu tư bản của các nước đang phát triển giảm mạnh, thậm chí chỉ còn 16,8% ( 1996) và hiện nay khoảng 30%ấ (Con số và sự kiện số19).
Trước tình hình đó, nhiều nhà lý luận tư sản cho rằng, xuất khẩu tư bản không còn là thủ đoạn và phương tiện mà các nước giàu dùng để bóc lột các nước nghèo. Theo họ, xuất khẩu tư bản đã trút bỏ bản chất cũ của nó và trở thành hình thức hợp tác cùng có lợi trong mối quan hệ quốc tế. Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm.
Như đã biết, cuộc Cách mạng khoa học – công nghệ đã tạo ra những bước nhảy vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời và phát triển thành các ngành mũi nhọn như : ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới, ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại dương … Những ngành này có thiết bị và quy trình đánh máy hiện đại, tiêu tốn ít nguyên, nhiên vật liệu. Trong nền kinh tế của các nước tư bản phát triển dã diễn ra sự biến đổi cơ cấu các ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong thời gian đầu nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch rất cao. Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra ở các nước đang phát triển có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội lạc hậu, không phù hợp, tình hình chính trị kém ổn định, sức mua kém, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư không còn cao như trước. Còn với những nước đang phát triển nhưng đã trở thành NIEs thì tỉ trọng của nguồn tư bản xuất khẩu vẫn lớn : chiếm 80% tổng tư bản xuất khẩu của các nước đang phát triển. Mặt khác, thời gian này, xu hướng liên kết các nền kinh tế ở các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh. Hệ quả của hoạt động này bao giờ cũng là sự hình thành các khối kinh tế với những đạo luật bảo hộ rất khắt khe. Để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các doanh nghiệp chi nhánh của mình thành một bộ phận cấu thành của khối kinh tế mới nhằm tránh đòn thuế quan nặng nề của các đạo luật bảo hộ. Nhật và Tây Âu đã tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách đó.
Sự biến đổi về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản phát triển không làm cho bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi, mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và phức tạp hơn. Sự xuất hiện các ngành mới có hàm lượng khoa học - công nghệ cao ở các nước tư bản phát triển bao giờ cũng dẫn đến cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng cao và điều đó tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống. Hiện tượng thừa tư bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó là không tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của những thiết bị và quy trình công nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị và công nghệ lạc hậu ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp ( do bị hao mòn hữu hình và vô hình ). Đối với nền kinh tế thế giới đang phát triển, những tư liệu sản xuất này rất có ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ. Nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao, các tập đoàn tư bản độc quyền đưa các thiết bị đó sang các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, khi chủ nghĩa Đế quốc còn tồn tại thì xuất khẩu tư bản từ các nước tư bản phát triển sang các nước đang phát triển là điều không tránh khỏi. Xét trong một giai đoạn phát triển nhất định, có thể diễn ra sự thay đổi tỷ trọng tư bản đầu tư vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phân tích một thời kỳ đầu tư dài hơn ở quy mô thế giới cho thấy : xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu mà tư bản độc quyền sử dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của các nước đang phát triển ở châu á, Phi và Mỹ Latinh là thực tế chứng minh cho kết luận trên.
Thứ hai là, chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là trong FDI. Chẳng hạn vào những năm 90, các công ty xuyên quốc gia đã chiếm tới 90% luồng vốn FDI. Mặt khác đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triển đặc biệt là các NIEs châu á
Thứ ba là, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan quyện giữa xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp xuất hiện những hình thức mới như BOT, BT …sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng buôn bán hàng hoá, dịch vụ, chất xám không ngừng tăng lên.
Thứ tư là, sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao.
Ngày nay, xuất khẩu tư bản luôn thể hiện kết quả hai mặt. Một mặt nó làm cho các quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển và mở rộng ra trên địa bàn quốc tế, góp phần thúc đẩy nhanh phân công lao động và quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều nước. Đó là một trong những nhân tố cực kì quan trọng tác động từ bên ngoài vào làm cho quá trình công nghiệp hoá và tái công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở các nước nhập khẩu phát triển nhanh chóng. Song mặt khác, xuất khẩu tư bản vẫn để lại cho các quốc gia nhập khẩu tư bản, nhất là với những nước đang phát triển những hậu quả nặng nề như : nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chống chất do bị bóc lột quá nặng nề. Tuy nhiên, điều này còn tuỳ thuộc một phần rất lớn vào vai trò quản lí của Nhà nước ở các nước nhập khẩu tư bản. Lợi dụng mặt tích cực của xuất khẩu tư bản, nhiều nước đã ở rộng việc tiếp nhận đầu tư để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá ở nước mình. Vấn đề đặt ra là cần phải biết vận dụng mềm dẻo, linh hoạt theo nguyên tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực để khai thác các nguồn lực một cách hiệu quả và kinh tế nhất.
Chương II
thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt nam trong giai đoạn hiện nay
2.1.Những thành tựu đạt được trong quá trình thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam :
Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam trong thời gian qua đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần tạo điều kiện và động lực cho việc điều chỉnh chính sách kinh tế. Đây cũng là một trong những chủ trương vô cùng đúng đắn của Đảng : “ FDI là nguồn vốn quan trọng, bổ sung đầu tư phát triển, là một trong những điều khiện tiên quyết để thực hiện chiến lược CNH – HĐH đất nước”.
Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam cho đến nay, bình quân mỗi năm FDI thực hiện là 1.12 triệu USD, chiếm khoảng 26.5 % tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản của xã hội. FDI là nguồn vốn quan trọng giúp Việt Nam phát triển nền kinh tế cân đối, bền vững theo hướng CNH – HĐH góp phần tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,5 % trong giai đoạn 1991 – 1997 và khoảng 6% trong giai đoạn 1997 – 2000, là động lực cho việc khai thác và phát huy có hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực trong nước ( Tạp chí ngoại thương 26).
FDI góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới, làm cho nước ta từng bước chuyển biến theo kinh tế thị trường hiện đại góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH. Các thành phần kinh tế của đất nước đã xây dựng những khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các ngành kinh tế khác và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước ( năm 1995 chỉ số phát triển của khu vực FDI là 114,98% thì chỉ số phát triển chung của cả nước là 109,54%, số liệu tương ứng 1996 là 119,42% / 109,34, năm 1997 là 120,75% /108,15%, năm 1998 là 116,88%/ 105,8%). ( Con số và sự kiện 9/2002)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài với những thế mạnh về vốn, công nghệ đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhiều ngành nghề mới đã xuất hiện như : lắp ráp ô tô, xe máy, tivi, máy giặt, điều hoà nghiệt độ, tổng đài điện thoại … trong ngành công nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ, đưa ra những mô hình quản lý tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại và là động lực quan trọng buộc các nhà đầu tư trong nước phải đôỉ mới công nghệ, nâng cao chất lượng, hình thức … của sản phẩm để cạnh tranh và tồn tại trong cơ chế thị trường.
Đầu tư nước ngoài cũng góp phần mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện tăng cường, củng cố và tạo ra những thế lực mới cho nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực. Xem xét kết quả đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) theo ngành kinh tế từ năm 1998 đến hết quý I/2001, không kể 33 dự án đã hết hạn với số vốn đầu tư 316,4 triệu USD và 68 dự án giải thể trước thời hạn với số vốn đầu tư đăng ký 8.329,4 triệu USD, tại Việt Nam hiện có 2725 dự án còn hiệu lực với số vốn đầu tư đăng ký là 36,565 tỷ USD.( Con số và sự kiện 9/2002)
Vốn FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 1712 dự án ( chiếm 63% tổng số dự án ) tổng vốn đầu tư 20.267,7 triệu USD ( chiếm 55,4% tổng số vốn FDI ). Đứng thứ hai là lĩnh vực dịch vụ có 663 dự án ( chiếm 23,2% số dự án) với vốn đầu tư 14.037 triệu USD ( chiếm 38,4% tổng số vốn đầu tư). Lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp có số dự án và vốn đầu tư nhỏ nhất với 380 dự án( chiếm 13,8% số dự án ), vốn đầu tư đăng ký đạt 2.260,359 triệu USD ( chiếm 6,2%).( Con số và sự kiện 9/2002)
Thực tế hoạt động FDI cho thấy dòng vốn đầu tư vào Việt Nam những năm qua chủ yếu tập trung vào những ngành dễ thu lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn nhanh, có thị trường trong nước lớn và những ngành trong nước có tiềm năng nhưng chưa được khai thác như các ngành sản xuất chất tẩy rửa, ngành may mặc, giầy dép, lắp ráp ô tô, xe máy, hàng điện tử dân dụng, sắt thép xi măng, khách sạn văn phòng cho thuê … còn đầu tư vào các ngành công nghệ cao thì chưa nhiều, nhất là đầu tư chiều sâu và chuyển giao công nghệ gốc.
FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào tổng GDP, tạo nguồn thu ngân sách. Các doanh nghiệp FDI đóng góp vào GDP ở mức 2% năm 1992, 7,7% 1996 và 9% năm 1998. Các doanh nghiệp FDI đã góp phần tạo ra một khối lượng chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp, tham gia phát triển nguồn nhân lực, đem lại phương thức quản lý kinh doanh mới, tạo điều kiện cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước hoàn thiện năng lực sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tính đến nay, các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm cho khoảng 33 vạn lao động với thu nhập bình quân 70 USD / người / tháng, ngoài ra còn tạo ra hàng vạn lao động gián tiếp. Như vậy số lao động làm việc cho các doanh nghiệp FDI và các bộ phận khác liên quan bằng khoảng 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước. Trong số lao động này có khoảng 6000 cán bộ quản lý và 2500 cán bộ kỹ thuật.(trích Con số và sự kiện 9/2002)
ĐTNN đã góp phần thay đổi bộ mặt của đất nước ( đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM ) nâng cấp được nhiều cơ sở hạ tầng trong cả nước. Nhờ đó các hoạt động trao đổi kinh tế được diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.
ĐTNN đã cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiêù kinh nghiệm, tạo nên nguồn động lực giúp các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn đầu tư vào sản xuất. Sản xuất trong các doanh nghiệp đã mang tính chuyên môn hoá, tập trung hoá. Các doanh nghiệp làm quen với thị trường thế giới và kinh nghiệm của các doanh nghiệp và các nền kinh tế trên thế giới.
Chính phủ không ngừng hoàn thiện môi trường đầu tư để tạo môi trường đầu tư để môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài, Luật đầu tư đã không ngừng được cải thiện với tốc độ nhanh để phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho quá trình hội nhập.
Trong quá trình hội nhập kinh tế, chúng ta đã tranh thủ FDI để phát triển đất nước và đã đạt được những thành công nhất định. Bên cạnh đó, còn rất nhiều bất cập, hạn chế đòi hỏi chúng ta phải xem xét toàn diện, cụ thể để tìm ra những bài giải cũng hết sức cụ thể.
2.2.Những khó khăn, hạn chế còn tồn tại :
2.2.1.Những khó khăn, hạn chế trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam :
Trong suốt hơn 15 năm hội nhập và khuyến khích đầu tư nước ngoài FDI, bên cạnh những đóng góp to lớn vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế.
Nguồn vốn FDI vào Việt Nam trong những năm gần đây giảm mạnh nhưng cũng đang có xu hướng phục hồi. Điều này đỏi hỏi chúng ta phải xem xét cụ thể để có đủ sức mạnh vượt qua nhiều thử thách còn trước mắt.
Cơ cấu đầu tư tuy có nhiều cải biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý. Vốn đầu tư vẫn chủ yếu tập trung vào các vùng trọng điểm như Hà Nội, TP HCM và các thành phố lớn khác, điều này đã tạo ra sự chênh lệch ngày càng lớn giữa các vùng. Về đối tác nước ngoài, 70% vốn đầu tư từ nước ngoài là các Châu á, Châu âu và Mỹ vẫn còn rất dè dặt khi đầu tư. Về hình thức đầu tư thì đang có sự chuyển mạnh sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Hiệu quả của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thấp hơn so với điều kiện thực tế. Tính trong khoảng thời gian 1988 – 2000, vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài đã đạt 17,7 tỷ USD doanh thu đạt 21,6 tỷ USD, đây là một con số rất ý nghĩa với nền kinh tế Việt Nam, song còn nhỏ bé trong quá trình hội nhập và phát triển. Tuy nhiên trong các năm trở lại đây, đầu tư tư nước ngoài đã giảm cả về chất lượng và số lượng. Trong cơ cấu vốn nói chung của cả nước, vốn đầu tư nước ngoài giảm liên tiếp từ 24,9% năm 98 xuống 18,2% năm 99 và 16,8% trong năm 2000. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn ở mức cao so với mức tăng trưởng chung của công nghiệp cả nước, song vẫn tiếp tục suy giảm từ 23,3% năm 1998 xuống 20% năm 1999 và 18,6% năm 2000. Đã có 7.014 dự án bị giải thể, thu hồi giấy phép ( 1998-2000 ) do không thực hiện góp vốn như đã cam kết và phần lớn hoạt động không có hiệu quả. Bên cạnh đó còn không ít các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đạc biệt là các liên doanh của đối tác Việt Nam, đã rơi vào tình trạng thua lỗ trong nhiều năm liền. Phía nước ngoài thường đặt vấn đề : chịu lỗ và mua lại phần vốn của Việt Nam hoặc nhượng cả phần vốn của họ cho phía Việt Nam. Trong phần lớn các trượng hợp, Nhà nước cho phía nước ngoài được mua phần chuyển nhượng của đối tác Việt Nam với một số điều kiện nhất định để trở thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và điển hình là công ty COCACOLA Việt Nam tại Hà Nội.
Bảng 1:Tổng hợp thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài ( tính đến 31-12-2000)
Đơn vị : Triệu USD
STT
Chỉ tiêu
1988-
2000
1988-
1995
1996-2000
1996
1997
1998
1999
2000
I
Vốn đăng ký cấp mới và tăng vốn
1
Vốn đăng ký
38.553
7.826
8.640
4.649
3.897
1.568
1.973
2
Tăng vốn
6.032
2.132,3
788
1.173
884
628
426
3
Giải thể
7.952
1.548
1.141
544
2.428
624
1.666
4
Hết hạn
291
98,9
146,1
24,4
19,1
1,1
1,9
5
Còn hiệu lực
1.556
26.453
31.705
34.040
35.612
36.342
II
Vốn thực hiện
19.984
7.153
2.923
3.137
2.364
2.179
2.228
Nguồn : Bộ kế hoạch và Đầu tư
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực chuyền giao công nghệ cũng tồn tại nhiều hạn chế : có những công nghệ được chuyển giao đã quá cũ kĩ, lạc hậu, hoạt động kém hiệu quả, công nghệ được chuyển giao không đồng bộ và định giá khó khăn chính xác …Từ đó, sản phẩm làm ra có tính cạnh tranh chưa cao và còn gây ra ô nhiếm môi trường.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng gây ra nhiều hạn chế về chính trị- văn hoá - xã hội …
2.2.2.Nguyên nhân gây ra những hạn chế trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Nguyên nhân chính làm giảm lượng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là do sự kém hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam. Hiện nay, các nhà ĐTNN đánh giá môi trường đầu tư Việt Nam đang mất dần tính cạnh tranh và hấp dẫn so các nước trong khu vực, cụ thể là :
-Thủ tục hành chính rườm rà, mất quá nhiều thời gian : Thủ tục cấp phép đã cải tiến nhưng lại dẫn đến tình trạng một cửa nhiều khoá, phối hợp giữa các ngành còn chưa kịp thời, địa phương cần xin ý kiến của trung ương cần mất nhiều thời gian, thủ tục sửa giấy phép đầu tư thường quá rườm rà, tỉ mỉ làm hạn chế đầu tư thêm. Có thể đơn cử một ví dụ : ở Hà Nội, để được cấp giấy phép đầu tư theo quy định của UBND thành phố, nhà đầu tư nước ngoài phải gửi nhiều bộ hồ sơ của dự án với đầy đủ 11 loại giấy tờ hợp lệ ( nếu là đầu tư 100% vốn nước ngoài ) đến Sở Kế hoạch và đầu tư hoặc ban quả lí khu công nghiệp. Sau khi các cơ quan này lấy ý kiến thẩm định của các bộ, sở ngành có liên quan bằng văn bản, rồi được sự chấp nhận của Hội đồng tư vấn thành phố và được UBND thành phố cấp giấy phép đầu tư thì tất cả thời hạn là 30 ngày. Đối với dự án không thuộc thẩm quyền của UBND thành phố thì thêm khâu gửi đến cấp trên ( Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ …) để cấp giấy phép đầu tư, thời gian kể từ khi nộp hồ sơ đầy đủ và hợp lệ đến khi được cấp giấy phép đầu tư trước đây là 60 ngày, nay còn 45 ngày. Trong quá trình thực thi của các ngành thời gian còn bị kéo dài hơn. Các thủ tục khác cũng vậy, rất phức tạp và nhiều vướng mắc như : Thủ tục hải quan ( danh mục tính thuế đất, xuất nhập khẩu, thời gian giải quyết thủ tục …) không rõ ràng ; thủ tục đất đai ( giá thuê đất, chính sách giải toả đền bù, cấp giấy chứng nhận sử dụng đất ở các khu công nghiệp và khu chế xuất ) không đồng nhất, phức tạp, còn nhiều vướng mắc ; thủ tục xây dựng ( cấp chứng chỉ quy hoạch, giấy phép xây dựng ) còn nhiều phiền hà ; thủ tục cấp VISA cũng rất phức tạp, mất thời gian và chi phí cao ; việc tuyển dụng lao động phải qua trung tâm dịch vụ gây mất nhiều thời gian, chi phí cao nhưng chất lượng lại thấp ; phương thức nộp thuế, thủ tục, thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng, chế độ tài chính kế toán, chế độ quản lí ngoại hối …cũng nhiều hạn chế, phức tạp.Chính những thủ tục hành chính này đã gây cản trở đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là các tiêu cực phát sinh trong quá trình thực hiện các thủ tục ( hiện tượng sách nhiễu, phiền hà, làm biến dạng chính sách, việc hình sự hoá các quan hệ kinh tế…) đã làm gia tăng những ảnh hưởng không tốt đến những nhà đầu tư nước ngoài làm ăn chân chính, nghiêm túc.
-Hệ thống pháp luật, chính sách đang trong quá trình thực hiện nên thiếu tính đồng bộ và không hoàn chỉnh, chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự báo được trước. Tính ổn định của pháp luật chính sá._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0158.doc