Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Trong nhiều năm tồn tại nền kinh tế tập trung bao cấp ở nước ta, thị trường lao động với tư cách là một bộ phận cấu thành của thị trường các yếu tố sản xuất đã được công nhận. Điều đó, có nguồn gốc sâu xa từ thành kiến nhận thức về hàng hoá sức lao động, về việc làm và thất nghiệp. Trong đó, quan điểm về sức lao động là hàng hoá, có thể trao đổi trên thị trường bị coi là một điều cấm kỵ. Phân bổ lao động được thực hiện chủ yếu bằng sự điều động của Nhà Nước thông qua biện pháp hành c

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1685 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính, mệnh lệnh, ít khi tính đến nhu cầu thị trường. Các quyết định liên quan đến việc phân bổ lực lượng lao động, về luân chuyển lao động chủ yếu được thực hiện nhằm mục đích công bằng xã hội hơn là chú trọng đến hiệu quả kinh tế. “Toàn dụng lao động” ở thời kỳ này không phản ánh đúng sự cân bằng cung- cầu lao động. Mặt khác, còn tồn tại quan điểm cho rằng chỉ có lao động trong khu vực Nhà Nước, tập thể mới được coi là lao động, là có việc làm, nó là nguyên nhân trong một thời gian dài thị trường lao động phi Nhà nước bị đóng băng hoàn toàn. Những người làm việc ngoài hệ thống nhà nước hay tập thể thường bị coi là người không có việc làm. Công cuộc đổi mới kinh tế đã qua gần 20 năm và đã đạt được nhiều thành tựu, bước đầu nền kinh tế vượt qua thử thách bắt đầu đi vào thế ổn định và từng bước phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, bộ mặt xã hội thay đổi một cách rõ rệt cả nội dung lẫn hình thức. Trong đó, có thị trường lao động, đã được công nhận về mặt pháp lý và bước đầu có những hoạt động cụ thể. Trên thực tế, sức lao động đã dần đựơc coi là hàng hoá, thông qua việc công nhận quyền tự do tìm việc, thuê mướn lao động của người lao động và chủ sử dụng lao động. Nền kinh tế thị trường có vận động một cách liên tục hay không? Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không? Điều đó phụ thuộc một phần vào thị trường lao động vì nó nằm trong chiến lược phát triển tổng thể các thị trường trong nền kinh tế thị trường theo địng hướng XHCN ở Việt Nam. Do đó, khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, thì thị trường lao động đã có những bước tíên nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng, cơ cấu…. Tuy nhiên, thị trường lao động Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, đang chịu sức ép về tăng dân số, tăng cung về lao động. Trong khi đó, việc điều tiết thị trường này đang phải đối mặt với những hạn chế lớn do thiếu căn cứ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. Mục đích của tề tài” Thị trường lao động. Thực trạng và giải pháp” nhằm làm rõ một số vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn trong hoạt động của thị trường lao động ở nước ta, xem xét thực chất những khó khăn, thuận lợi trong quá trình hình thành và vận hành của thị trường này trong thời gian tới, cung cấp một số khuyến nghị, chính sách để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, tăng việc làm và thu nhập, ổn định xã hội , đảm bảo phát triển bền vững. Nội dung của đề tài gồm 3 chương: Chương 1 : Lý luận và đặc điểm chung về thị trường lao động Chương 2 : Thực trạng thị trường lao động ở Việt Nam Chương 3 : Định hướng và một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động trong thời gian tới. Phương pháp nghiên cứu: tổng hợp kết hợp so sánh, phân tích giữa các vấn đề có liên quan, nhằm làm nổi bật những vấn đề trọng tâm, đồng thời đưa ra những nhận xét, phán đoán về các vấn đề đó. Do nhận thức và tầm hiểu biết có hạn, nên đề tài không tránh khỏi những thiếu xót hay nhận thức chưa thâu xuốt. Vì vậy, em mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VÀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG 1.1. Khái niệm về thị trường lao động: Sự hình thành và phát triển của thị trường lao động là tất yếu của nền kinh tế thị trường. Nếu như thị trường là nơi diễn ra môí quan hệ giữa người mua và người bán hàng hoá, dịch vụ, thì thị trường lao động lại khác. Vậy thị trường lao động là gì? Hiện nay đang tồn tại nhiều định nghĩa về thị trường này, tuỳ theo các phương diện của thị trường được nhấn mạnh khi định nghĩa: - Theo Adam Smith: Thị trường lao động là không gian trao đổi dịch vụ lao động( hàng hoá sức lao động) giữa một bên là người mua sức lao động( chủ sử dụng lao động) và người bán sức lao dộng ( người lao động). Dựa vào định nghĩa này Adam Smith muốn nhấn mạnh đến đối tượng trao đổi trên thị trường lao động là dịch vụ lao động chứ không phải người lao động. - Theo từ điển kinh tế học Pengiun: Thị trường lao động là thị trường trong đó tiền công, tiền lương và các điều kiện lao động được xác định trong bối cảnh quan hệ của cung lao động và cầu lao động. Định nghĩa này nhấn mạnh đến kết quả của quan hệ tương tác cung – cầu trên thị trường lao động. - Theo từ điển kinh tế MIT: Thị trường lao động là nơi cung và cầu lao động tác động qua lại với nhau. Định nghĩa này nhấn mạnh vào quan hệ cung - cầu trên thị trường như bất kể một thị trường nào. - Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra định nghĩa: Thị trường lao động là thị trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua bán thông qua quá trình để xác định mức độ có việc làm của người lao động, cũng như mức độ tiền công. Khái niệm này nhấn mạnh đến dịch vụ lao động được xác định thông qua việc làm được trả công. - Giáo trình kinh tế lao động ở Liên bang Nga lại đưa ra định nghĩa: Thị trường lao động là hệ thống các quan hệ kinh tế- xã hội giữa Nhà nước, các tổ chức, những người sử dụng lao động, người lao động trong việc mua, bán hàng hoá dịch vụ lao động, bao gồm cả đào tạo, đào tạo lại, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động trong quá trình sản xuất.Khái niệm này đề cập đến các quan hệ kinh tế- xã hội ba bên giữa Nhà nước, người lao động và người sử dụng lao động. - Trong văn kiện Đại hội IX của Đảng đã định nghĩa: Thị trường lao động là thị trường mua bán các dịch vụ của người lao động, về thực chất là mua bán sức lao động, trong một phạm vi nhất định. Ở nước ta, hàng hoá sức lao động được sử dụng trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân, tư bản Nhà nước, các doanh nghiệp tiểu chủ và hộ gia đình. Có người đi làm thuê, có người thuê, có giá cả sức lao động dưới hình thức tiền công hay tiền lương. Theo định nghĩa này , thị trường lao động chỉ bó hẹp trong một vài thành phần kinh tế nhất định. Còn các quan hệ lao động trong khu vực nhà nước, tập thể, hành chính sự nghiệp đều bị đặt ngoài quy luật của thị trường. Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng có thể thống nhất về nội dùng khái niệm thị trường lao động như sau: “Thị trường lao động (hoặc thị trường sức lao động) là nơi thực hiện các quan hệ giữa người bán sức lao động (người làm thuê) và người mua sức lao động (người sử dụng lao động), thông qua các hình thức thoả thuận về giá cả (tiền công hay tiền lương) và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông qua các hình thức thoả thuận khác”. Thị trường lao động không thể tách rời nền kinh tế thị trường và chịu sự tác động của hệ thống quy luật của nền kinh tế thị trường. Một thị trường lao động tốt là một thị trường ở đó lượng cầu tương ứng với lượng cung. Thị trường này chỉ hoạt động hiệu quả khi các quyền tự do mua- bán sức lao động được đảm bảo bằng pháp luật, bằng chính sách có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thị trường. Thị trường lao động chỉ có thể hình thành khi hội đủ các yếu tố sau: Một là: Có nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ chế thị trường Hai là: Có định chế pháp luật tồn tại thị trường lao động Ba là: Người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất, muốn tồn tại phải bán sức lao động của mình Bốn là: Có hệ thống thể chế thị trường lao độngđể giải quyết các nhu cầu phát sinh. Vậy thị trường lao động có những đặc điểm gì không giống so với các thị trường khác. 1.2. Đặc điểm của thị trường lao động: Gồm 4 đặc điểm sau: 1.2.1. Hàng hoá trao đổi trên thị trường lao động là hàng hoá đặc biệt Trên thị trường lao động, hàng hoá đem ra trao đổi là sức lao động mà sức lao động được định nghĩa là tổng hợp trí và lực của con người trong quá trình tạo ra của cải, vật chất. Sức lao động là một hàng hóa đặc biệt thể hiện ở việc nó được gắn chặt với chủ thể mang nó, không thể tách rời và khi tiêu dùng nó tạo ra một giá trị lớn hơn bản thân nó. Xét về số lượng và chất lượng thì hàng hoá này phụ thuộc vào chính bản thân người mang nó, đây là một sản phẩm có tư duy, có đời sống tinh thần. Thông qua thị trường, hàng hoá sức lao động xác định giá cả (tiền công). Hàng hoá sức lao động cũng tuân theo quy luật cung- cầu của thị trường, cung cao dẫn đến dư thừa lao động làm cho giá cả sức lao động thấp và ngược lại. Điểm khác nữa của hàng hoá sức lao động còn thể hiện ở cách xác định về giá trị và giá trị sử dụng: xét về giá trị, nếu hàng hoá thông thường được xác định là thời gian lao động xã hội cần thiết kết tinh trong sản phẩm ( hàng hoá) thì gía trị sức lao động được tính toán thông qua giá trị tư liệu sinh hoạt nuôi sống bản thân và gia đình họ, đồng thời tái sản xuất ra bản thân họ. Xét về giá trị sử dụng, đối với hàng hoá thông thường thì giá trị sử dụng biểu hiện ở công dụng của nó khi tiêu dùng nó, giá trị sử dụng sẽ giảm dần trong quá trình sử dụng. Còn giá trị sử dụng của sức lao động biểu hiện như một yếu tố của quá trình sản xuất, khi tiêu dùng thì giá trị của nó ngày càng tăng vì càng làm việc người lao động càng lành nghề, càng tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao hơn. Điều kiện cần thiết để sức lao động trở thành hàng hoá: *Sức lao động phải có giá trị kinh tế nhất định, có khả năng làm ra một lượng tương đương sản phẩm thặng dư. *Người lao động tự do về thân thể, có thể tự do trao đổi trên thị trường. *Người lao động không có tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt cần thiết để tồn tại họ phải bán sức lao động. *Sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hóa phát triển đến một mức cao tương đối. Nếu trong nền kinh tế hoá tập trung bao cấp, sức lao động không được thừa nhận là hàng hoá thì trong nền kinh tế thị trường việc xuất hiện hàng hoá sức lao động như là một nhu cầu khách quan (theo Đại từ điển kinh tế thị trường), lý luận về hàng hoá sức lao động vừa không gây cản trở đối với địa vị chủ nhân của người lao động vừa không phá bỏ phương thức phân phối theo lao động mà các nước XHCN đang theo đuổi. 1.2.2. Tính đa dạng của thị trường. Trong thực thực tế, tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà thị trường lao động được chia thành nhiều dạng: Xét từ góc độ pháp lý: gồm thị trường hợp pháp và thị trường bất hợp pháp. Xét từ góc độ quản lý: gồm thị trường tự do và thị trường có tổ chức. Xét từ góc độ hình thức tổ chức: gồm trị trường tập trung và thị trường phi tập trung. Xét từ góc độ kỹ năng: gồm thị trừng lao động giản đơn và thị trường lao động phức tạp. Xét từ góc độ địa lý: gồm thị trường địa phương và thị trường quốc gia,thị trường lao động quốc tế. Thông thường hai tiêu chí sau cùng hay được sử dụng để phân loại thị trường. 1.2.3. Tính không đồng nhất của hàng hoá sức lao động trên thị trường Đối với các hàng hoá thông thường là những thứ thường được chuẩn hoá ở mức cao, hàng hoá sức lao động lại không giống nhau, mỗi người lao động là một tập hợp năng lực bẩm sinh cộng với kỹ năng chuyên biệt tiếp thu từ giáo dục và đào tạo. Mỗi người lao động lại có đặc điểm riêng về khả năng, trình độ, tuổi tác, giới tính thể lực… Do đó, sức lao động đem ra thị trường trao đổi của những người này là hoàn toàn không giống nhau. 1.2.4.Vị thế yếu hơn của người lao động trong việc đàm phán trên thị trường Trong những năm qua, cán cân giao dịch trên thị trường lao động thường nghiêng về người có nhu cầu thuê lao động, có thể một nguyên nhân quan trọng là số người tìm việc luôn nhiều hơn số lượng các cơ hội việc làm sẵn có. Mặt khác, người tìm việc thường có nguồn lực hạn chế, trong khi đó người chủ sử dụng lao động vẫn có khả năng chờ đợi để lựa chọn được những người phù hợp nhất. Chính vì thế, trong quá trình đàm phán hoặc giao dịch, thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng, người sử dụng lao động thường có vị chí quết định hơn. 1.3. Các yếu tố hình thành thị trường lao động: Gồm 3 yếu tố chính là cung, cầu và giá cả sức lao động. Trạng thái của ba yếu tố này quyết định cơ cấu và đặc điểm của thị trường lao động. Trong đó cung- cầu là 2 chủ thể có quan hệ ràng buộc với nhau, dựa vào nhau để tồn tại. Nếu cung lớn hơn cầu thì người thuê sẽ được lợi và ngược lại , qua đó xác định giá cả sức lao động trên thị trường. 1.3.1. Cung lao động Là tổng sức lao động do người lao động tự nguyện đem ra bán (ra vào quá trình tái sản xuất xã hội) tức là tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động có năng lực lao động, và cả số nhân khẩu không nằm trong độ tuổi lao động nhưng lại tham gia vào quá trình lao động. Cung lao động mô tả toàn bộ hành vi của người đi làm thuê khi thoả thuận ở các mức giá dặt ra. Cung lao động luôn tỷ lệ thuận với giá cả sức lao động, tức là giá cả tăng thì cung lao động tăng và ngược lại. Khi nói đến cung lao động, người ta thường phân biệt rõ thành 2 phạm trù: cung thực tế và cung tiềm năng. *Cung thực tế: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và cả những người thất nghiệp. Cung thực tế thể hiện rõ ở các trung tâm môi giơí và giới thiệu việc làm *Cung tiềm năng: bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc, ngững người đang thất nhgiệp, những người tronh độ tuổi lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ, hoặc không có nhu cầu làm việc. Vậy nhân tố nào ảnh hưởng đến cung lao động: đó là quy mô và tốc độ tăng dân số, quy định về độ tuổi lao động, tình trạng tự nhiên của con người, tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động vào thị trường và một số nhân tố khác. Thị trường lao động luôn diễn ra sự biến động về cung, tuỳ theo điều kiện tác động vào nó. Ở đó, luôn có sự tăng, giảm lực lượng lao động hình thành cung tiềm năng, do đó có sự xuất nhập lao động giữa các ngành, các thành phần kinh tế. Cung tiềm năng của một ngành liên quan đến sự đào tạo lại và di chuyển lao động từ ngành này sang ngành khác do yếu tố tiền lương, tính ổn định của công việc hay chất lượng của sản xuất 1.3.2. Cầu lao động Là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa phương, hay một ngành, một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định, nhu cầu này thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên thị trường. Về mặt lý thuyết, cầu lao động cũng được chia thành loại: cầu thực tế và cầu tiềm năng. Cầu thực tế là nhu cầu về lao động cần sử dụng taị một thời điểm nhất định thông qua số lượng chỗ việc trống và chỗ làm việc làm mới. Cầu tiềm năng là nhu cầu lao động cho tổng số chỗ việc làm có thể được, sau khi đã tính đến khả năng tạo việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ và cả những điều kiện khác như chính trị, xã hội… Trong một thời điểm nhất định, với mức tiền công chấp nhận được, có một mức cầu nào đó về lao động. Cầu về lao động là cầu dẫn xuất, phụ thuộc vào các yếu tố trong cơ chế thị trường và các yếu tố sau cầu như đất đai, vốn, tài nguyên, tôn giáo, phong tục tập quán… đều ảnh hưởng đến việc thu hẹp hay mở rộng sản xuất, mở thêm hay đóng cửa các doanh nghiệp, hạn chế hay khuyến khích một ngành nghề nào đó. Các yếu tố trên có sự khác biệt giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ, các ngành và các khu vực kinh tế. Bởi vậy, cầu thực tế và cầu tiềm năng ở mỗi nơi đều có sự khác nhau. Cầu lao động mô tả hành vi của người mua có thể mua được và cầu có liên quan chặt chẽ đến giá cả sức lao động( quan hệ ngược chiều). Cầu lao động bao gồm 2 mặt; thứ nhất, cầu về chất lượng lao động và thứ hai, là cầu về số lượng. Xét từ góc độ số lượng, trong điều kiện năng xuất lao động không đổi cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ sản xuất. Nếu quy mô không đổi, cầu về lao động xã hội tỷ lệ nghịch với năng xuất lao động. Xét từ góc độ chất lượng, việc nâng cao năng xuất lao động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri thức… của doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi nâng cao cầu về lao động có chất lượng 1.3.3: Giá cả sức lao động và quan hệ cung- cầu trên thị trường lao động “Giá cả là biểu hiện bằng tiền của hành hoá sức lao động” (C. Mác). Trên thị trường lao động giá, cả được thể hiện dưới dạng tiền công hay tiền lương. Tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động trả công khi họ hoàn thành công việc theo chức năng và nhiệm vụ được pháp luật quy định hoặc hai bên thoả thuận trong hợp đồng. Cũng như các hàng hoá khác, giá cả hàng hoá sức lao động không chỉ quy định bởi giá trị của nó mà còn chịu ảnh hưởng của quy luật cung- cầu sức lao động. Khi cung vượt quá cầu thì giá cả lao động sẽ thấp hơn giá trị, ngựơc lại khi cầu lớn hơn cung thì giá cả sẽ lớn hơn giá trị. Mối quan hệ này thể hiện bằng hình vẽ sau: Giá cả hàng hoá sức lao động P S D1 S1 P1 Po P2 S2 D2 D Q Số lượng lao động Trong đó, P: giá cả hàng hoá sức lao động Q:số lượng lao động trên thị trường D: sự biến thiên của cầu lao động S: sự biến thiên của cung lao động Khi cung lao động trên thị trường đạt mức cân bằng thì giá cả sẽ dừng ở Po. Nếu giá cả cao ở P1( P1>Po) thì mức cung sẽ là S1 và cầu sẽ giảm đi còn D1, khoảng cách D1S1 là khoảng chênh lệch giữa cung và cầu ( tại P1cung lớn hơn cầu). Xét trường hợp ngược lại P2<Po thì cầu lớn hơn cung, S2D2 là mức chênh lệch khi P2<Po. Tuy nhiên, thị trường lao động Việt nam là thị trường không hoàn hảo, tiền công trên thị trường chưa phản ánh đầy đủ đúng giá cả sức lao động. Mặt khác, do kinh tế phát triển chậm khả năng mở rộng ngành nghề thu hút thêm lao động còn chậm , dân số đông, nên cung lao động luôn có xu hướng lớn hơn cầu lao động. Vì vậy, dể cân bằng trên thị trường lao động cần có những chính sách phù hợp để thu hút số lao động dôi dư, làm hẹp dần khoảng cách giữa cung và cầu. Ngoài ra, tiền lương cao hay thấp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như điêù kiện công việc, trình độ lao động, sự can thiệp của Chính Phủ và Công Đoàn vào việc điều chỉnh mức lương trên thị trường 1.4. Một số vấn đề cần quan tâm khi nghiên cứu thị trường lao động: 1.4.1. Việc làm Theo Luật lao động thì việc làm được định nghĩa:” Mọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà Nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”( Điều 13 Bộ Luật Lao động) Các hoạt động lao động được xác định là việc làm gồm: - Làm công việc được trả công bằng tiền hay bằng hiện vật - Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc gia đình mình nhưng không được trả công Khái niệm này bao hàm một phạm vi rất rộng từ những công việc được thực hiện trong nhà máy, công sở đến các hoạt động hợp pháp phi chính quy, các công việc nội trợ chăm sóc con cái trong gia đình đều được coi là việc làm. Trong thị trường lao động, người được coi là có việc làm khi có người mua hàng hoá sức lao động mà họ muốn bán. Ngược lại, những người muốn bán sức lao động mà không tìm được người mua trở thành thất nghiệp. Trên thực tế, việc xác định người có việc và người thất nghiệp trong mỗi quốc gia là khác nhau tuỳ theo định nghĩa thế nào là thất nghiệp và thế nào là việc làm 1.4.2. Thất nghiệp Thất nghiệp là một biến số của kinh tế vĩ mô, mang tính chất cả kinh tế và xã hội, là vấn đề của mọi quốc gia, làm thế nào để giảm thất nghiệp, tạo việc làm cho người lao động. Trước khi đi vào khái niệm và bản chất của thất nghiệp, ta cần hiểu thế nào là việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý: theo Dvid Begg, việc làm đầy đủ là trạng thái trong nền kinh tế có nhiều công ăn việc làm, mọi nhu cầu về lao động đều được thoả mãn, người nào muốn có việc làm thì có thể tìm được việc trong một thời gian ngắn, nền kinh tế đạt mức” hữu nghiệp toàn phần”. Còn việc làm hợp lý là việc làm đầy đủ và phù hợp với khả năng nguyện vọng của người lao động. Nhưng trong xã hội luôn tồn tại tình trạng thiếu việc làm và việc làm không hợp lý, đây là một biểu hiện của tình trạng thất nghiệp Thất nghiệp là khái niệm dùng để chỉ những người trong lực lượng lao động có khả năng lao động, muốn có việc làm s( thể hiện qua cố gắng tìm kiếm công ăn việc làm hoặc đang chờ để trở lại công việc cũ) nhưng hiện nay đang không có việc hoặc bị đuổi trong thời gian đó họ bị thất nghiệp Người ta đo lường thất nghiệp bằng tỷ lệ thất nghiệp Số người thất nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp = *100 % Tổng lực lượng lao động (Tổng lực lượng lao động =tổng số người có việc làm + tổng số người thất nghiệp) Tuỳ theo đặc điểm của từng quốc gia, chính sách về lao động, điều kiện phát triển kinh tế và xã hội, mức tăng dân số mà tỷ lệ thất nghiệp của các nước là không giống nhau. Dựa vào số liệu thống kê, người ta có thể tính được tỷ lệ thất nghiệp theo lứa tuổi, giới tính, theo ngành, hoặc vùng… Trong điều tra về thực trạng lao động và việc làm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: người bị coi là thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, hiện đang : - Có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần đã qua, hoặc không đi tìm việc vì lý do không biết tìm việc ở đâu, hoặc tìm nhưng chưa tìm được. - Trong tuần lễ trước đó( tính đến thời điểm điều tra) có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ/ ngày( 40giờ/ tuần), có mong muốn và sẵn sàng làm thêm giờ nhưng không tìm được việc. Còn theo nhà dân số học AlFred Sanvy cho rằng:” người lao động là người khoẻ mạnh muốn lao động kiếm sống và sẵn sàng làm thêm giờ nhưng không tìm được việc, hay thất nghiệp”. Để giải thích mặt kinh tề của vấn đề này, cần đi sâu phân tích cung cầu lao động. Việc tăng cung gây ra 2 tác động trái ngược nhau: một mặt người lao động muốn làm thêm giờ ( do tiền công tăng), mặt khác khi có thu nhập họ muốn nghỉ ngơi làm cung giảm. Hiện nay, trên thế giới, người ta dựa vào kinh tế học lao động mà chia thất nghiệp ra làm nhiều dạng khác nhau. Trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam hiện tại cần quan tâm đến các dạng thất nghiệp sau: *Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp do sự mất cân bằng cung-cầu trong một thời gian dài. Sự mất cân bằng này do có sự điều chỉnh về chính sách kinh tế làm thay đổi cơ cấu sản xuất- tiêu thụ của doanh nghiệp và của nền kinh tế, làm xuất hiện một số ngành mới đồng thời làm suy thoái một số ngành truyền thống. Những thay đổi về kỹ năng, tay nghề cũ trở lên không thích hợp với ngành nghề mới buộc họ phải thôi việc, hoặc mất một thời gian để đào tạo lại. Khi nghiên cứu nền kinh tế của các nước đang chuyển đổi như Việt Nam thì thuật ngữ” thất nghiệp do chuyển đổi” được sử dụng. Thất nghiệp do chuyển đổi là một dạng của thất nghiệp cơ cấu xuất hiện do có sự biến đổi sâu sắc toàn bộ cơ cấu kinh tế- xã hội. Thất nghiệp do chuyển đổi có quy mô lớn hơn, trầm trọng hơn so với thất nghiệp cơ cấu ở các nước phát triển. Nguyên nhân chính là do sự biến đổi cơ cấu kinh tế, trong khi cung lao động không được điều chỉnh kịp thời. *Thất nghiệp do tăng trưởng kém: do tăng trưởng kinh tế thấp không đảm bảo công ăn việc làm. Nguyên nhân chính do mức tăng dân số cao, trình độ thấp, mức độ điều tiết quá cao dẫn đến chi phí lao động cao gây trở ngại cho khả năng tạo việc làm mới ( vì các doanh nghiệp sẽ tìm yếu tố sản xuất rẻ hơn để thay thế), hoặc có nhiều rào cản về hành chính hoặc kinh phí cho việc di chuyển lao động. *Thất nghiệp không tự nguyện: Là loại thất nghiệp người lao động bằng lòng tiếp nhận mức lương thực tế và điêù kiện làm việc hiện hành, nhưng vẫn không được tuyển dụng hoặc không có việc làm. *Thất nghiệp do mùa vụ: Đây là loại thất nghiệp xuất hiện trong một khoảng thời gian xác định thường là 1 năm, do tính mùa vụ của quá trình sản xuất- kinh doanh gây ra, hoặc theo chu kỳ kinh doanh mà 2 giai đoạn chủ yêu là hưng thịnh và giai đoạn suy thoái, trong giai đoạn suy thoái có nhiều xí nghiệp bị phá sản làm cho tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao, nhất là những nước có nền kinh tế kém phát triển dễ bị động trước những xáo trộn bất ngờ. *Thiếu việc làm: Theo Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, thiếu việc làm được tính:” trong tuần lễ tình từ thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40 tiếng/ tuần, có nhu cầu làm việc thêm giờ và sãn sàng làm việc nhưng không có việc. *Lao động dôi dư: Là những người dù có bị cắt giảm khỏi số lao động hiện có cũng không ảnh hưởng đến sản lượng của các doanh nghiệp. Tóm lại: Thất nghiệp và thiếu việc làm là những vấn đề nghiêm trọng tại các nước đang phát triển, vì chúng đi liền với nghèo đói, không có thu nhâp , hoặc thu nhập thấp, đồng thời kéo theo những tệ nạn xã hội… Nguyên nhân chính là do sự mất cân bằng cung- cầu mà nó là hậu quả của rất nhiều tương tác kinh tế- xã hội phức tạp. Mặt khác, thất nghiệp và thiếu việc làm còn thể hiện ở hai mặt định tính và định lượng, mặt định lượng thể hiện qua việc người lao động không có chỗ làm hoặc loại hình công việc ưa thích, có thể một tuần chi làm vài tiếng hoặc vài ngày. Còn về mặt định tính, thể hiện ở việc người lao động không có vịêc làm phù hợp hoặc làm với năng xuất thấp, mà năng xuất lao động ảnh hưởng đến mức lương và tính bền vững của công việc và luôn tiềm ẩn rủi ro trên thị trường( Phần này sẽ được làm rõ ở Chương 2: Thực trạng thị trường lao động Việt Nam). 1.4.3. Các cơ quan giao dịch và phương pháp giao dịch Để thị trường lao động có thể hoạt động tốt thì bên cạnh các chủ thể chính thức của thì trường là người bán và người mua sức lao động còn cần các trung gian hoạt động với điều kiện tạo thị trường, tạo điều kiện cho cung và cầu gặp nhau nhanh chóng và thuận tiện và có thể với chi phí rẻ hơn . Trung gian thị trường bao gồm: Hệ thống các cơ quan quản lí lao động, các tổ chức cá nhân giới thiệu việc làm, các trung tâm giao lưu nhân tài …Các cơ quan này, thông qua việc xây dựng mạng lưới thông tin về việc làm, có thể phục vụ tìm kiếm, cung cấp nhân lực, phục vụ tuyển dụng, xúc tiến giao dịch trên thị trường. Ngày nay, việc gặp gỡ trực tiếp giữa người bán và người mua ngày càng ít đi và thay vào đó là vai trò của các trung gian thị trường hoạt động khá sôi nổi và phong phú gồm: Các trung tâm dịch vụ việc làm: là nơi để nhu cầu của người mua và bán gặp nhau để có được sự lựa chọn thích hợp nhất đối với yêu cầu của bản thân họ . Giao dịch thông qua báo, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng: cả hai bên có thể tự giới thiệu về mình, điều kiện, yêu cầu đối với người bên kia. Đây là dạng giao dịch phổ biến trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin hiện nay. Chợ lao động: Là một loại hình giao dịch truyền thống của thị trường lao động, có thể được tổ chức quy củ với luật lệ chặt chẽ và quy mô trình độ cao, có định kỳ như các hội chợ việc làm…Song bên cạnh đó, luôn tồn tại các chợ lao động kiểu tự phát, không được tổ chức như cửu vạn , chợ lao động ở các đầu đường trong các thành phố lớn. Vì vậy cần có chính sách để kiểm soát thị trường này. 1.4.4. Các chính sách của thị trường lao động: Đây chính là công cụ can thiệp của Nhà Nước vào các hoạt động của thị trường nhằm mục đích đảm bảo tốt cơ hội việc làm cho người lao động, cung cấp việc làm tương xứng với khả năng và đem lại thu nhập cao hơn cho người lao động. Trong hoạt động thực tiễn, các chính sách được sắp xếp vào 2 nhóm cơ bản sau: - Chính sách chủ động: Là các biện pháp do chính phủ đề xướng nhằm ngăn chặn thất nghiệp và thiếu việc làm, được cụ thể trong mục tiêu : tạo việc làm mới, tăng thu nhập; điều hoà cầu về lao động; nâng cao công bằng xã hội…Hiện nay, các nước trên thế giới đã áp dụng một số chính sách chủ động sau: hỗ trợ tìm kiếm việc làm (dịch vụ việc làm), đào tạo về thị trường lao động; hỗ trợ bước đầu cho doanh nghiệp; tạo việc làm chuyên biệt cho các nhóm lao động khác nhau. - Chính sách thụ động: Là các chính sách hỗ trợ thu nhập cho người lao động bị thất nghiệp. Mục tiêu của chính sách này là: điều hoà mức tiêu dùng cho những người thất nghiệp; đảm bảo sự công bằng trong phân phối; thúc đẩy việc tái cơ cấu trong doanh nghiệp. Hiện đã có nhiều loại hình chính sách này được áp dụng, nhưng được bàn nhiều nhất là các chính sách về bồi thường thất nghiệp, trợ cấp thất nghiệp, cho về hưu trước thời hạn, chính sách bảo hiểm thất nghiệp … Khi bàn về các chính sách thị trường lao động, thường có 2 luồng ý kiến khác nhau. Một số cho rằng, Chính phủ không nhất thiết phải thực hiện các biện pháp can thiệp, hoặc có thì cũng chỉ ở mức thấp nhất để đảm bảo sự vận hành của thị trường một cách có hiệu quả. Một số khác lại cho rằng, thị trường luôn tồn tại những thất bại không thể tự nó tìm ra cách giải quyết vì thế cần có sự can thiệp của chính phủ để giảm thiểu những thất bại đó, giảm hoặc ngăn chặn sự mất cân đối trong việc phân bổ thu nhập và việc làm. Những can thiệp đó có thể là: + Xây dựng hệ thống dịch vụ giới thiệu việc làm, hỗ trợ cho tìm kiếm việc làm, rút ngắn thời gian. + Thiết lập các hệ thống lương nhằm làm giảm sức ép thất nghiệp. + Tạo việc làm qua các chương trình đầu tư của Nhà Nước và tư nhân, + Cung cấp cơ hội đào tạo và đào tạo lại, nâng cao chất lượng đào tạo. + Xây dựng mối quan hệ 3 bên: công đoàn, chủ doanh nghiệp và Chính phủ. Để các chính sách thị trường lao động có thể được thực hiện một cách hiệu quả, cần phải được lồng ghép vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội với tư cách là một chỉnh thể. Với sự vận động của thị trường lao động thế giới không ngừng thay đổi và theo dự đoán của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì hiện nay có khoảng trên 500 triệu người thất nghiệp và thiếu việc làm, nó có xu hướng dần tăng lên 700 triệu người. Khoảng 9/10 số này rơi vào các nước đang phát triển. Từ nay đến cuối thế kỷ cần tạo ra hơn 2 tỷ việc làm. Như vậy, thị trường lao động tương lai sẽ trở thành vấn đề toàn cầu bên cạnh các lĩnh vực khác như ô nhiễm môi trường, HIV, mại dâm, ma tuý… Bảng 1 : Dân số 1 số nước Châu á - Thái Bình Dương năm 1990 và dự báo tới năm 2025 (Đơn vị : 1000 người) Nước 1990 2000 2010 2025 Hồng Kông Inđônêxia Thái Lan Xrilanca Ân Độ 6034 181539 55712 17451 27152 6775 211367 65503 19620 964072 79044 238605 74795 21843 1081821 97011 272744 85929 24453 1223829 Nguồn: Số liệu thống kê - Viện khoa học thống kê 1992 Qua bảng trên ta thấy sự bùng nổ dân số và ngày càng có nhiều người tham gia vào lực lượng lao động gây sức ép giải quyết việc làm và thu nhập. Đứng trước tình hình khó khăn chung của thế giới, thị trường lao động Việt Nam thực trạng hoạt động ra sao? Những thành quả và hạn chế sau hơn 15 năm đổi mới và sự phát triển của thị trường này. Đây chính là nội dung của Chương II: Thực trạng thị trường lao động Việt Nam. CHƯƠNG 2: THỰ C TRẠNG THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM. 2.1. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và sự hình thành thị trường lao động ở Việt Nam :._. 2.1.1. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế tập trung đã bộc lộ những khủng hoảng, nền kinh tế trì trệ không phát triển. Trước tình hình đó đòi hỏi phải có một cơ chế mới phù hợp hơn với trào lưu phát triển chung của thế giới để thay đổi cơ chế cũ. Nền kinh tế thị trường ra đời đã đáp ứng những yêu cầu đó như là một tất yếu của lịch sử. Bước đầu nền kinh tế nhiều thành phần được công nhận và bắt đầu phát triển nhất là khu vực kinh tế tư nhân. Dù khi chuyển đổi nền kinh tế, ta cũng gặp nhiều khó khăn, thất bại do thiếu cơ sở vật chất kĩ thuật, thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực có trình độ tay nghề... song cuối cùng thì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã được xác lập vào năm 1989, nền tảng của cơ chế thị trường là cơ chế giá thị trường, mở ra cho sự tự do lưu thông hàng hoá, đảm bảo quyền chủ động kinh doanh của các doanh nghiệp, kích thích sản xuất tiêu dùng, góp phần điều hoà quan hệ cung cầu. Trong kinh tế thị trường thì công cụ kinh tế vĩ mô được hình thành, quyền lực của Nhà Nước được nâng lên nền kinh tế phát triển nhanh chóng từ nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất tự cung tự cấp dần chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đây là bước ngoặt lớn, quan trọng đối với nền kinh tế nước ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng, Nhà Nước. Sự chuyển đổi này tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong đó có sự hình thành và phát triển của thị trường lao động. 2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam. Kinh tế thị trường vẫn được coi là quỹ đạo phát triển kinh tế xã hội. Nên kinh tế thị trường bao gồm các loại thị trường hàng hoá, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động... trong thị trường lao động, sức lao động được coi là hàng hóa đặc biệt. Theo quan niệm kinh điển cho rằng sức lao động trở thành hàng hoá khi tách rời tư liệu sản xuất, hình thành quan hệ mua bán, người có tư liệu sản xuất là người mua và sử dụng sức lao động và người có sức lao động là người lao động, mức độ phát triển của thị trường lao động phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức tổ chức sản xuất và các yếu tố tự nhiên xã hội. Trong kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà Nước được coi là một bộ máy khổng lồ, là người chủ duy nhất về tư liệu sản xuất, điều hành các hoạt động, trong đó có lĩnh vực lao động. Người lao động được tuyển dụng theo biên chế với các quy định về giờ làm việc, chế độ nghỉ tiêu chuẩn, định mức lao động, tiền lương thống nhất... Sau nhiều năm, cơ chế trên tồn tại nhiều bất cập là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi cơ chế hàng loạt ở các nước Đông Âu những năm 90 của thế kỉ XX. Đối với Việt Nam thì sự tập trung kinh tế vào tay Nhà Nước chưa cao lắm, phần lớn dân cư sống bằng nông nghiệp, tự cung tự cấp , các dịch vụ phát triển thấp cùng với sự phát triển và đổi mới của Đảng đã tránh được những xáo trộn xã hội để chuyển sang cơ chế thị trường và đạt được những thành tựu nhất định. Trong lĩnh vực lao động, trước sức ép của lao động dôi dư trong khu vực Nhà Nước, hành chính sự nghiệp và các doanh nghiệp, một loạt các biện pháp mạnh được áp dụng để tháo gỡ tình trạng trên, các cuộc tranh luận về bóc lột sức lao động, thất nghiệp đã được nhường chỗ cho những quyết định tháo gỡ cấp bách. Những động thái trên là cơ sở cho sự hình thành rõ nét thị trường lao động vào cuối những năm 80 bắt nguồn từ những cải cách trong khu vực Nhà Nước. Theo điều tra năm 1989, dân số Việt Nam có khoảng 65 triệu người, hơn 30 triệu người trong độ tuổi lao động, tỉ lệ người không có việc làm khoảng 6%. Hơn 3,1 triệu người làm việc trong khu vực Nhà Nước : 1,9 triệu người (61%) làm trong khu vực xí nghiệp quốc doanh ; 1,2 triệu người (39%) làm việc trong khối hành chính sự nghiệp; 230 nghìn lao động quản lí Nhà Nước và số còn lại làm việc ở trường học, bệnh viện, nghiên cứu (không tính đến lực lượng vũ trang). Tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực công cộng thấp hơn so với các nước có cùng động thái chuyển đổi từ bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường. Do 85% còn lại làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, hợp tác xã và tư nhân, khi chuyển sang cơ chế thị trường không bị ảnh hưởng bởi các cải cách khu vực công cộng. Giảm biên chế là vấn đề bức xúc và là chủ trương của Đảng và Nhà Nước ta. Ước tính 25% lao động trong xí nghiệp quốc doanh; 20% lao động trong khối hành chính sự nghiệp là lao động dôi dư. Theo quyết định số 111/HĐBT-12/4/1991 của hội đồng bộ trưởng về một số chính sách trong việc sắp xếp lại biên chế, đặt mục tiêu giảm 20% số biên chế hành chính sự nghiệp. Tuy thực tế chỉ giảm 115 nghìn lao động (chiếm 6- 8% số biên chế hành chính, con số này nhỏ hơn dự kiến 12%), 1/3 số này là ở thành thị, còn lại ở nông thôn, nhưng dù sao nó vẫn thể hiện tính đột phá về nhận thức và hành động. Đến nay, việc cắt giảm biên chế vẫn theo tinh thần tự nguyện. Những người có thu nhập thấp tìm kiếm cơ may mới ở các khu vực kinh tế khác hoặc chuyển sang khu vực tư nhân. Phần lớn họ làm việc trong ngành y tế và giáo dục do Nhà Nước nắm giữ. Tinh giảm số cán bộ đang hưởng lương từ ngân sách là một trong những chính sách ưu tiên của Nhà Nước. Một trong những biện pháp mạnh nữa là việc ban hành và thực hiện quyết định số 176 (năm 1989) về sự cần thiết sắp xếp lại xí nghiệp quốc doanh và số lao động dôi dư, là một phần của cải cách các xí nghiệp quốc doanh, quyền tự chủ của các doanh nghiệp được tăng lên, quyền sa thải công nhân và xác định mức lương làm cho các doanh nghiệp phải đương đầu với áp lực giảm lao động mang tính cạnh tranh. Mặc dù số thôi việc đạt 50-90% tổng số công nhân hợp đồng không biên chế nhưng số lao động dôi dư cũng giảm đáng kể. Từ năm 1988-1991, số lao động trong các xí nghiệp quốc doanh đã giảm đi 29% (tức là 794 nghìn người), công nhân được động viên nghỉ sớm và được hưởng lương hưu trong 5 năm trước khi đến tuổi. Với sự ra đời của luật công ty 1990 và chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, khu vực ngoài quốc doanh phát triển mạnh và ngày càng thu hút nhiều lao động hơn trong đó có lao động dôi dư. Trong thời kì 1988-1991 số việc làm trong khu vực tư nhân và hợp tác xã đã tăng trung bình 3,5%/năm, số lao động trong khu vực thương mại dịch vụ đã thu hút được 410 nghìn lao động mới. Lao động nông nghiệp chiếm 72% tổng số lao động, tăng chậm (2,2%/năm) nhưng lại thu hút được một nửa số lao động mới bước vào độ tuổi lao động. Tuy nhiên khu vực ngoài quốc doanh vẫn không thu hút hết số lao động dôi dư và số lực lượng vũ trang xuất ngũ, do đó số người thất nghiệp vẫn ở mức cao: 6-7% (tính chung cho cả nước). Những năm đầu của quá trình chuyển đổi, trước khi Bộ Luật lao động ra đời (1994) sự hình thành và phát triển thị trường lao động không tránh khỏi những hạn chế. Còn nhiều tranh chấp giữa bên liên doanh và công nhân vể tiền làm thêm giờ, thù lao, thời hạn ngắn thường từ 6-12 tháng để duy trì động cơ lao động, hạn chế chi phí và sự phức tạp khi thải hồi, sự khác biệt tiền công giữa các miền, vùng (thường công nhân Miền Bắc được đào tạo nhiều hơn nhưng lại được tiền lương thấp hơn ở Miền Nam. Vì thế thời gian đào tạo không giải thích được sự khác nhau về tiền lương). Những kết quả hình thành và phát triển thị trường lao động đạt được trong thời gian này là một phần nhờ vào chính sách hỗ trợ (trợ cấp thôi việc: được nhận khi họ phải thôi việc hoặc tự nguyện thôi việc, số tiền được tính theo thâm niên và mức lương đã có khi còn làm việc). Tóm lại, các vấn đề cải cách khu vực Nhà Nước được xử lí hữu hiệu, dù thị trường lao động còn nhiều việc phải làm để cho thị trường này ngày càng hoàn thiện và theo sự điều tiết chủ động khách quan theo quy luật của thị trường. 2.1.3. Những hình thức biểu hiện của thị trường lao động Việt Nam Trong cơ chế cũ, quan hệ lao động được biểu hiện qua hình thức tuyển dụng vào biên chế suốt đời; chủ yếu ở khu vực Nhà Nước. Khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN, các hình thức biểu hiện của thị trường lao động ngày càng phong phú, đa dạng và phù hợp với sự phát triển chung của thị trường lao động. Qua thực tế nghiên cứu, có thể khái quát các hình thức biểu hiện sau đây: * Tuyển và thi tuyển: Đây là hình thức được áp dụng trong các bộ phận hành chính sự nghiệp do Nhà Nước quản lý và của các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên chủ yếu áp dụng trong khu vực Nhà Nước. Nhà Nước trực tiếp quản lí việc thi tuyển các chức danh, theo tiêu chuẩn viên chức. Quan hệ lao động chủ yếu là quan hệ trực tiếp giữa người lao động và Nhà Nước. Tiền lương chủ yếu lấy từ ngân sách Nhà Nước. * Hợp đồng lao động: Áp dụng chủ yếu trong khu vực sản xuất kinh doanh, tại đó diễn ra quan hệ giữa những người sử dụng lao động và người lao động. Nhà Nước trở thành người thứ ba tham gia điều chỉnh quan hệ bằng pháp luật. Trong hợp đồng lao động bao gồm những quan hệ về công việc phải làm, tiền lương, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện làm việc…Tiền lương hoàn toàn do kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của chính đơn vị mình quyết định. Hiện nay hình thức này thu hút khoảng trên 8 triệu lao động (khoảng 15 – 16% tổng số lao động có việc làm), kể cả đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy hợp đồng lao động là biểu hiện cơ bản của thị trường lao động hiện nay ở Việt Nam, nhưng tỷ lệ kí hợp đồng còn thấp chứng tỏ mức thị trường hoá chưa cao. * Quan hệ lao động theo hình thức thầu khoán: Là biểu hiện tương đối phổ biến ở một số ngành như xây dựng, giao thông vận tải, nông - lâm nghiệp. Thực chất là quan hệ lao động giữa người nhận thầu và người lao động. Người lao động nhận được tiền công do người nhận thầu trả. * Xuất khẩu lao động: Hình thức này biểu hiện sự giao lưu của thị trường lao động các nước. Ở Việt Nam, hình thức này phát triển đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay phát triển tương đối lớn. Quan hệ lao động được mở ra giữa Nhà Nước, các tổ chức, các cá nhân người lao động. Có 2 hình thức : làm việc tạm thời ở nước ngoài theo hiệp định và xuất khẩu tại chỗ theo luật đầu tư của Nhà Nước. Hiện nay, có khoảng 50% lao động xuất khẩu đi các nước là lao động phổ thông, trình độ chuyên môn thấp. Xu hướng tuyển dụng đi làm việc ở nước ngoài trong những năm tới tiếp tục tăng, dự báo trên 20%/năm và ngày càng đòi hỏi lao động có trình độ cao. Điều này, đặt ra một câu hỏi trong việc đào tạo bồi dưỡng kỹ năng, trình độ cho người lao động. Quan hệ lao động này dược đièu chỉnh và kiểm soát một cách chặt chẽ thông qua các hiệp định qui chế lao động giữa các bên. * Chợ lao động; Hình thức này có từ lâu nhưng cơ chế cũ không được khuyến khích phát triển ở đó diễn ra quá trình mua bán sức lao động chủ yếu thông qua thoả thuận bằng miệng hoặc giấy tờ không có chức năng pháp lý. Hình thức này tồn tại chủ yếu ở các đô thị thành phố lớn, quan hệ cung cầu sức lao động quyết định giá trị ngày công. * Bưởng và cửu vạn: Đây là hình thức mới phát triển ở Việt Nam khi ta tiến hành mở cửa các vùng biên giới phía Bắc và Tây Nam khi có sự hình thành các “công trường thủ công” khai thác vàng, sa khoáng ở một số địa phương như Lào Cai, Yên Bái…Quan hệ lao động diễn ra thô sơ, người lao động được trả công theo hình thức giá cả chung tại địa phương. * Tuyển mộ công nhân cho khai thác, khai phá nông – lâm nghiệp: Hình thức này xuất hiện 3 đối tượng: Người lao động chưa có việc làm nhất là ở nông thôn, chủ thuê lao động và người tuyển mộ. Dân thợ được người lao động trả tiền còn người lao động được chủ thuê (Nghĩa là: 1 người lao động nhận được một công việc nhưng họ không làm mà thuê người khác làm với mức lương thấp hơn mức mà họ được chủ thuê trả để lấy chênh lệch còn họ đi làm công việc khác). Hình thức này phát triển tự phát mang nhiều yếu tố tiêu cực không được khuyến khích phát triển. * Thuê người giúp việc trong gia đình: Đây là hình thức truyền thống đã tồn tại lâu nay ở Việt Nam, quan hệ thuê mướn chủ yếu là vấn đề dân sự, người được thuê tự nguyện làm công việc gia đình như lái xe, gia sư, nội trợ, trông trẻ…được trả công theo thoả thuận. Qua quá trình hình thành, phát triển và những hình thức biểu hiện của thị trường lao động Việt Nam, sau đây chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu những vấn đề nổi cộm trong quá trình hoạt động của thị trường này. Như vậy, thị trường lao động là một loại thị trường đặc biệt với tính chất, đặc điểm và các hình thức biểu hiện riêng vì nó liên quan tới con người với tư cách. Một mặt là một thực thể kinh tế đóng vai trò vừa là người sản xuất vừa là người tiêu dùng những hàng hoá, dịch vụ do chính mình sản xuất ra. Mặt khác, là thực thể xã hội đóng vai trò một công dân có quyền lợi và nghĩa vụ trước xã hội và cộng đồng. Thị trường lao động định hướng XHCN ở nước ta là thị trường lao động được hình thành và phát triển trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng và Nhà Nước ta về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà Nước theo định hướng XHCN. Mục đích của thị trường lao động định hướng XHCN là xây dựng quan hệ lao động mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý, phân phối. Tính đa dạng và đan xen các hình thức sở hữu quy định tính chất của các quan hệ lao động, quan hệ phân phối và phương thức quản lý. Nhà Nước ta là Nhà Nước XHCN, phát triển thị trường lao động nhằm giải phóng sức lao động, tạo môi trường pháp lý, xã hội lành mạnh, thuận lợi cho người lao động và sử dụng lao động , phát huy mặt tích cực, hạn chế tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích chinhd đáng của người lao động. 2.2: Thực trạng thị trường lao động Việt Nam. Trong một vài năm gần đây, thị trường lao động đã có những chuyển biến tích cực hơn, nền kinh tế ngày càng tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị , tăng tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn, bộ mặt đời sống người dân được nâng cao một bước, người lao động đã tích cực tham gia vào các hoạt động lao động làm giàu cho bản thân,gia đình và xã hội. Khi xem xét thực trạng hị trường lao động Việt Nam, đi sâu phân tích một số khía cạnh như : Mối quan hệ giữa dân số và lực lượng lao động; cơ cấu của lực lượng lao động ( nhóm tuổi, giới tính, phân bố theo khu vực, theo ngành thành phần kinh tế), chất lượng của lực lượng lao động… Những khía cạnh này là những bộ phận cấu tạo lên cung- cầu lao động trên thị trường lao động. 2.2.1. Mối quan hệ giữa dân số và lực lượng lao động. Theo quy định của Bộ Luật Lao động, ở Việt Nam, người trong độ tuổi lao động là những người từ 15 tuổi trở lên đến 60 tuổi đố với nam giới và 55 tuổi đối với nữ. Việt Nam dược xếp vào loại hình dân số trẻ so với khu vực và trên thế giới, tính chung trên cả nước năm 2002 nhóm tuổi 15- 24 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất ( 28,06%) tổng dân số, đây là nguồn lao động dồi dào cung cấp cho thị trường, lao động trẻ chiếm tỷ lệ cao vừa là lợi thế trong việc lắm bắt công nghệ mới nhưng đồng thời cũng là một gánh nặng nếu không kết hợp giữa đào tạo và sử dụng hợp lý, theo số liệu của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội cho thấy đến hết ngày 1/7/2002 dân số Việt Nam là 79.930.000 người; số người trong độ tuổi lao động là 48.455.538 người chiếm 60,66% tổng dân số. Trong đó, số người tham gia vào lực lượng lao động là 40.694.360 người ( tăng 2,99% so với năm 2001). Tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm trong hơn một thập kỷ qua là 1,7%/ năm; mức tăng trung bình hàng năm của dân cư trong độ tuổi lao động là 2,6%, so vớ tốc độ tăng dân số thì tốc độ tăng của số dân trong độ tuổi lao động cao hơn nhiều. Bảng 2: Cơ cấu dân số chia theo nhóm tuổi( trang 21) Bảng 3:Tỷ lệ tăng bình quan của dân số và nguồn nhân lực( trang 21) Bảng 2: Cơ cấu dân số chia theo độ tuổi và khu vực (đến hết ngày 1/7/2002) Tổng số Khu vực Thành thị Nông thôn Tổng số ( người) Chiếm tỷ lệ(%) 79.930.000 100 19.880.00 24,87 60.050.000 75,13 Dưới độ tuổi lao động ( người) Chiếm tỷ lệ( %) 22.828.008 28,56 4.618.124 23,23 18.213.165 30,33 Trong độ tuổi lao động( người) Chiếm tỷ lệ (%) 48.485.538 60,66 13.039.292 65,59 35.447.515 59,03 Trên độ tuổi lao động( người) Chiếm tỷ lệ (%) 8.618.454 10,78 2.222.584 11,18 6.389.320 10,64 Nguồn: Điều tra thực trạng lao động – việc làm, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội(1/7/2002). Tạp chí kinh tế phát triển số 70,72,76/2003 Bảng 3: Tỷ lệ tăng bình quân dân số và nguồn nhân lực Thời kỳ Tỷ lệ tăng % của dân số Tỷ lệ tăng % hàng năm của nguồn lực 1960-1975 1975-1980 1980-1990 1990-1994 1995-2000 2000-2005 (dự kiến) 3,05 2,45 2,25 2,30 1,80 1,50 3,20 3,47 3,20 2,80 2,05 2,05 Nguồn: Tạp chí kinh tế và phát triển số 70 tháng 4/2003 ( trang 21) Từ bảng 2, dân số Việt Nam năm 2002 là 79.930.000 người tăng 1.230.000 người so với năm 2001 (78.700.000) và con số này đến năm 2003 là 80.782.700 người, do đó tốc độ tăng dân số cao khoảng hơn 1 triệu người một năm. Bên cạnh đó, số người trong độ tuổi lao động là 48.485.538 người chiếm 60,66%tổng dân số, tăng 1,41% so với năm 2001, số người tham gia vào lực lượng lao động là 40.694.360 người chiếm 84% tổng lực lượng lao động tăng 2,99% so với năm 2001. Tỷ lệ gia tăng dân số có xu hướng giảm xuống trong giai đoạn 1960-1975 đã giảm xuống gần một nửa đến giai đoạn2000-2005, nhưng tỷ lệ tăng nguồn nhân lực vẫn cồn cao là 2,05%/ năm, tốc độ tăng nguồn nhân lực ở Việt Nam vẫn còn rất lớn so với các nước trong khu vực và trên thế giới có điều kiện về dân số và mức phát triển gần như Việt Nam: ví dụ như Thái Lan là 2,1%; Trung Quốc là 1,5%; Châu Âu là 0,8%… Kết quả là mỗi năm nước ta có khoảng 1,3 triệu người bước vào độ tuổi lao động , hiện tại Việt Nam có lực lượng lao động rất lớn, với tỷ lệ tăng hàng năm của số người đến tuổi lao động khá cao, ngoài yếu tố cơ học (tự nhiên) còn có các yếu tố khác làm tăng lực lượng lao động như là một bộ phận bộ đội giải ngũ ,hay những người lao động ở nước ngoài trở về nước sau các cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội ở Đông Âu và các nước khác. Hơn nữa, nếu so sánh mức tăng việc làm cùng thời kỳ ( khoảng1,4 % đến 2%/ năm), thì thấy rõ có một bộ phận người lao động trong độ tuổi lao dộng không tìm được việc làm ( vì cộng cả số thất nghiệp năm trước sẽ lớn hơn mức mà nền kinh tế có thể tạo ra được). Thị trường lao động luôn có mối quan hệ với số người trong độ tuổi lao động mà số người trong độ tuổi lao động lại gắn bó với quy mô và tốc độ, cơ cấu mỗi loại hình dân số, nên sự lên xuống của thị trường này luôn ràng buộc bởi tình hình phát triển dân số. Vì thế, việc nghiên cứu và tìm hiểu rõ mối quan hệ giữa dân số và lực lượng lao động là cần thiết trong bối cảnh thị trường lao động Việt Nam hiện nay, vì một mức gia tăng cao về dân số tất yếu sẽ dẫn đến nguồn lao động cao, đòi hỏi xã hội phải giải quyết vấn đề việc làm kịp thời cho người lao động, làm sao giảm được sức ép về cung lao động trong khi cầu về lao động còn hạn hẹp về số lượng và chất lượng (mặc dù thời gian qua phát triển rất nhanh). Vấn đề này sẽ được làm sáng tỏ thêm trong mục cơ cấu của lực lượng lao động. 2.2.2. Cơ cấu của lực lượng lao động Những điiểm quan trọng nhất khi nghiên cứu cơ cấu lực lượng lao động chính là đi nghiên cứu các khía cạnh về nhóm tuổi, giới tính, sự phân bố theo vùng lãnh thổ và theo ngành, thành phần kinh tế. Do trình độ và quy mô phát triển kinh tế chưa cao, nên tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động còn thấp ( chỉ còn khoảng 80-85% số người trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động) thấp hơn mứ trung bình của thế giới( hơn 90%). Vì thế tiềm năng huy động nguồn lao động vẫn còn rất lớn, nhưng phải làm cách gì để huy động hếtưôsố lao động này? Đây cũng là một bài toán khó cho các nhà hoạch định chính sách và bản thân mỗi người lao động. Phải thừa nhận một thực tế đang diễn ra ở nước ta, người ta có thể tham gia lao động trước 15 tuổi hoặc trên 60 tuổi, đặc biệt ở các vùng nông thôn, miền núi, phi kết cấu, nên người ta thường sử dụng thuật ngữ “ dân số hoạt động kinh tế” để giải thích nguồn cung thật sự trên thị trường. Như vậy, nếu bổ xung thêm số lượng này thì cung lao động sẽ tăng lên đáng kể. * Cơ cấu của lực lượng lao động theo nhóm tuổi. Theo quy của các nhà thống kê và điều tra dân số, người ta chia lực lượng lao động ra làm nhiều nhóm tuổi khác nhau để phân tích gồm: nhóm từ 15-19 tuổi; nhóm 20-24 tuổi; 25-29 tuổi; 30-34 tuổi; tuổi; 35-39 tuổi; 40-44 tuổi; nhóm 45-49 tuổi; 50-54 tuôỉ; 55-59 tuổi và nhóm trên 60 tuổi. Tuỳ theo các nhóm tuổi mà tỷ lệ tham gia lực lượng lao động có khác nhau. Bảng 4: Tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế của lao động chia theo nhóm tuổi(1/7/2002) Nhóm tuổi % lực lượng lao động của nhóm 15-19 20-24 25-29 30-34 35-39 40-44 45-49 50-54 55-59 60+ 41,02 78,60 92,78 93,40 93,75 92,82 88,84 80,88 63,05 18,23 Nguồn: Tạp chí kinh tế và phát tiển số 72 tháng 6/2003 ( trang30) Qua số liệu thống kê trên, tỷ lệ tham gia hoạt động của nhóm tuổi 25-45 tuổi là cao nhất trên 90% lực lượng của nhóm. Để giải thích cho hiện tượng này, ta thấy trong độ tuổi này họ đã được đào tạo cơ bản xong sẵn sàng bắt đầu làm việc hoặc là giai đoạn người lao động bắt đầu lập gia đình hay đã lập gia đình rồi, vì thế, họ bắt buộc phải lao động đem lại thu nhập để nuôi sống không những bản thân họ mà còn gia đình họ, đồng thời ở độ tuổi này là giai đoạn mà người lao động có kỹ năng, tay nghề, có sức khoẻ, có nhận thức đúng đắn về lao động, có lòng nhiệt tình và đầu óc sáng tạo cao, vì thế đây sẽ là nguồn lao động chủ lực không chỉ của Việt Nam mà còn đối với các nước khác. Làm sao để khai thác và sử dụng tốt có hiệu quả nguồn lao động này cho xây dựng đất nước. Mặt khác, nhóm tuổi trên 60 tuổi có tỷ lệ tham gia ít nhất chỉ có 18,23% lực lượng của nhóm tuổi này, lý do cơ bản là ở tầm tuổi này đa số người lao động đã có tuổi, sức khoẻ suy giảm, tính minh mẫn trong nghề nghiệp không cao, họ chỉ tham gia khi còn đủ năng lực thật sự trong một số lĩnh vực như nghiên cứu khoa học, hay lĩnh vực giảng dậy, Nhà nước ta cũng rất khuyến khích những người trong độ tuổi này nếu còn năng lực và khả năng trong nghiên cứu xây dựng và phát triển đất nước. Nhóm tuổi 15-19 là nhóm tuổi có tỷ lệ tham gia thấp thứ hai ( 41,02% lực lượng lao động của nhóm), trong khi lại chiếm % gần như nhất trong tổng dân số ( cả nhóm15-24 chiếm 28,06% tổng dân số). Tỷ lệ tham gia thấp do ở tầm tuổi này nhiều thanh thiếu niên đang còn đi học, vì thế lao động chỉ là hoạt động phụ tạo ra nguồn lao động không thường xuyên ( lao động tiềm năng) cho thị trường.( Theo phân tích kết quả điều tra mẫu trong cuộc tổng điều tra dân số Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội-1991,tr123) cho thấy xu hướng nhóm tuổi 15-24 có xu hướng giảm xuống tronh lực lượng lao động, đồng thời nhóm tuổi từ 55-60 lại tăng lên so với tổng dân số sẽ tăng lên, dự báo đến năm 2009 số lao động 55-60 tuổi sẽ là 2922 nghìn người tăng 1118 nghìn so với năm 1999. Nguyên nhân chủ yếu là do quá trình già hoá dân số, người dân không muốn sinh thêm, vì thế trong những năm tiếp theo vừa phải đảm bảo mức tăng dân số hài hoà với việc cơ cấu lại lực lượng lao động một cách hợp lý mới đem lai hiệu quả kinh tế và xã hội cao . * Cơ cấu lực lượng lao động theo góc độ giới tính Theo kết quả điều tra thực trạng lao động –việc làm năm 2002 tại thời điểm 1/7/2002, cả nước có 40.694.360 người trong độ tuổi lao động hoạt động kinh tế thường xuyên, so với năm 2001 tăng 467.100 người ( tăng 2.49%), trong đó có 20.061.462 người là nữ chiếm 49,30% và nam là 20.632.908 người chiếm 50,77%. Bảng 5: Cơ cấu lực lượng lao động theo giới tính Đến hết ngày 1/7/2001 Đến hết ngày 1/7/2002 Tỷ lệ tăng(%) Tổng số - Nam( người) Chiếm tỷ lệ (%) - Nữ( người) Chiếm tỷ lệ (%) 39.488.900 19.894.538 50,38 19.594.362 49.62 40.694.360 20.632.898 50,70 20.061.462 49,3 2,96 3,58 2,33 2.33 Nguồn : Bộ Lao động – TB và XH ( 2002) Trong khi tỷ lệ nam giới trong lực lượng lao động ở nước ta hầu như không tương đương với tỷ lệ tham gia của các nước trong khu vực và trên thế giới, thì tỷ lệ nữ giới tham gia và lực lượng lao động lại cao hơn nhiều, ví dụ năm 1997-1998, ở Việt Nam tỷ lệ lao động nữ tham gia lao động xã hội chiếm 79,5% tổng số lao động nữ trong độ tuổi lao động thì theo số liệu của tổ chức lao động quốc tế (ILO) ở Philippin, Inđônêxia, Hàn Quốc tỷ lệ này chỉ trên dưới 50% tổng số lao động nữ. Đặc biệt ở các vùng nông thôn tỷ lệ nữ tham gia lao động ở mọi độ tuổi đều ngang bằng nam giới, thậm chí còn cao hơn vì họ phải lo thêm công việc gia đình, ở thành thị tỷ lệ nữ tham gia lao động có ít hơn so với nông thôn nhưng vẫn cao hơn nhiều so với các nước khác. Xu hướng trong những năm tới, tỷ lệ nữ tham gia lao động sẽ tiếp tục tăng có thể do cấu trúc dân số tự nhiên( 51% tổng dân số là nữ), hoặc do một bộ phận nam giới phải đi làm nghĩa vụ đối với Nhà Nước. * Cơ cấu lao động xét dưới góc độ phân bố khu vực Tổng số lao động luôn có sự gắn bó mật thiết với tổng dân số, như ta đã biết sự phân bố dân cư khá chênh lệch giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, nếu năm 2002 dân số thành thị chỉ chiếm trên dưới 25% tổng dân số thì nông thôn là gần 75% dân số , do đó cơ cấu của lực lượng lao động cũng diễn ra tương tự giữa hai khu vực này. Bảng 6: Cơ cấu lực lượng lao động Việt Nam theo khu vực Đến ngày 1/7/2001 Đến ngày 1/7/2002 Tỷ lệ tăng (%) Tổng số: -Thành thị ( người) Chiếm tỷ lệ(%) -Nông thôn (người) Chiếm tỷ lệ(%) 39.488.900 9.193.667 23,6 30.329.793 76,74 40.694.360 9.709.967 23,86 30.984.393 76,14 5,42 2,11 Nguồn: Bộ lao động- Thương binh và Xã hội Từ bảng trên ta thầy, sự phân bố lao động giữa thành thị và nông thôn qua 2 năm luôn có hệ số là 1:3, nhưng sự đóng góp cho GDP của 2 khu vực này lại ngược lại. Đồng thời mức tăng lao động năm 2002 so với năm 2001 cũng khác nhau, nếu tỷ lệ tăng của khu vực thành thị là 5,42%/năm thì khu vực nông thôn chỉ có 2,11%/năm, nhưng số lao động trong khu vực này lại tăng cao hơn số lao động tăng thêm của khu vực thành thị là 128.300 người. Điều này cũng đặt ra cho các nhà chức trách có liên quan phải có những chính sách và động thái cụ thể để tác động nhằm phân phối lại lao động một cách hợp lý hơn vì xu hướng lao động sẽ tăng nhanh ở khu vực thành thị , do ở nông thôn diện tích đất canh tác bị thu hẹp, dân số đông, mức độ đô thị hoá nhanh, cho nên một phần đất nông nghiệp phải chuyển sang mục đích sử dụng khác (để ở, làm đường, hay xây khu công nghiệp), vì thế lao động trong khu vực này sẽ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, để đảm bảo cuộc sống họ sẽ đổ dồn về thành phố tìm kiếm việc làm gây ứ đọng ở các chợ lao động,do chủ yếu là lao động phổ thông nên họ sẽ bị chèn ép trong việc trả công, gây khó khăn cho việc quản lý vốn đã gặp rất nhiều cản trở. *Cơ cấu lao động theo ngành, thành phần kinh tế Theo số liệu thống kê, năm 1996 tổng số việc làm 100% thì các ngành sẽ là: nông- lâm- ngư nghiệp chiếm 69% tổng số việc làm; xây dựng và công nghiệp là 10,9%: dịch vụ 20,1%. Thì đến năm 2002 tỷ lệ này là 60,67%: 15,12% và 24,21%.Tỷ trọng các ngành nông- lâm- ngư nghiệp đã giảm đi đánh kể 9% từ năm 1996 đến năm 2002, cùng với nó là sự tăng lên tương đối trong hai nhóm ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên, ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ vẫn chưa tạo được số việc làm tương xứng với mức tăng trưởng của2 nhóm ngành này, khiến một bộ phận lực lượng lao động vẫn phải tìm kiếm việc làm trong khu vực nông nghiệp vố đã dư thừa nhiều lao động. Bảng 7: Cơ cấu lao động theo ngành và thành phần kinh tế (Đơn vị%) GDP Tổng Số Nhà Nước Tập Thể Tư Nhân Cá Thể Đầu tư nước ngoài Hỗn Hợp Tổng số: -Nông,lâm, ngư nghiệp -Công ngiệp, xây dựng - Dịch vụ 100,00 25,0 54,2 20,8 100,00 60,67 15,13 24,20 100,00 6,42 27,65 65,93 100,00 96,54 1,71 2,75 100,00 14,64 54,53 30,83 100,00 64,98 12,31 22,71 100,00 7,94 74,84 12,22 100,00 5,51 67,53 26,96 Nguồn : Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội Đối với cơ cấu việc làm theo thành phàn kinh tế, ta thấy xu hướng tăng cả 3 nhóm ngành là Nhà Nước, ngoài Nhà Nước, và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trung bình mỗi năm kku vực Nhà Nước tăng thêm được 160 nghìn lao động, ngoài Nhà Nước 511 nghìn lao động, và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 57 nghìn lao động. Thành phần thu hút thêm nhiều lao động nhất là kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 79,1% tổng số việc làm mới tăng thêm ( trong đó kinh tế cá thể tạo 56,2%), tiếp đến là kinh tế nhà nước 14,1% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 5,4%. Năm 2002 cả nước xuất khẩu được 46.000 lao động chủ yếu sang các nước Đài Loan, Hàn Quốc,Malaixia… Phần lớn lao động, theo nguyên tắc thì số việc làm nằm ở nông thôn nhưng do diện tích đất canh tác bị thu hẹp, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp chậm, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong nông nghiệp chưa phát triển, mức đầu tư thấp, nên tình trạng thiếu việc làm trầm trọng thể hiện ở thời gian sử dụng lao động trong khu vực này không cao( đạt trên 80%). Khu vực ngoài quốc doanh đặc biệt là kinh tế hộ gia đình ở nông thôn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành thị là nơi có khả năng tạo được nhiều việc làm vì ưu thế về quy mô và chi phí thấp để tạo ra một chỗ việc làm mới, tính năng động và lợi ích của người lao động phù hợp với chất lượng lao động và trình độ quản lý. Tuy nhiên, tiềm năng thu hút lao động của khu vực này cũng đang gặp khó khăn trong điều kiện nền kinh tế mở cửa và hội nhập mà sản phẩm lại có tính cạnh tranh kém, môi trường chưa ổn định, còn nhiều rủi ro thông tin. Đối với khu vực Nhà nước, việc tạo việc làm mới thực sự gặp khó khăn do nhiệm vụ và yêu cầu cải cách bộ máy quản lý và thủ tục hành chính đòi hỏi phải tinh giảm biên chế, xắp sếp lại số biên chế sẵn có, hạn chế nhận thêm lao động. Mặt khác, các doanh nghiệp Nhà Nước dù có nhiều khoản đầu tư song cũng gặp khó khăn trong khâu sản xuất- kinh doanh trước yêu cầu nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh, chống độc quyền, do đó cơ hội có thêm việc làm là rất hạn hẹp. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tuy tốc độ tăng trưởng trung bình hành năm cao 17%/ năm song tỷ trọng GDP thấp, hơn nữa lại tập trung vào những ngành công nghiệp nặng như dầu khí, bất động sản… đó là những ngành cần n._.hần kinh tế, coi trọng, khuyến khích các hình thức thu hút nhiều lao động. - Phân bố hợp lí giữa công nghiệp và nông nghiệp theo hướng ngày càng giảm tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Đến năm 2005 tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chỉ đạt 39-40%, nông-lâm nghiệp đạt 15-20%, dich vụ 40-45%. Để thực hiện được cần có sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành tiến tới xây dựng một nền công nghiệp toàn diện “nông thôn phi nông nghiệp”. - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực : Hiện nay chất lượng nguồn nhân lực còn yếu, trình độ tay nghề thấp. Việc nâng cao chất lượng là hết sức cần thiết đưa thị trường lao động Việt Nam nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung phát triển kịp với thời đại. Mục tiêu được thể hiện bảng sau: Bảng 19: Mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2020 2000 2010 2020 - H/s Tiểu học (triệu) Tỷ lệ học sinh đi học (%) 11,72 100 12,3 100 14,25 100 -H/s Trung học cơ sở (triệu) Tỷ lệ học sinh đi học (%) 4,91 60 7,44 78 10,94 95 - H/s Trung học chuyên ban và sau THCS (triệu) Tỷ lệ học sinh đi học (%) 1,59 30 2,76 45 4,26 60 - Đại học và sau TH chuyên ban (triệu) Tỷ lệ học sinh đi học (%) 0,544 7 1,335 15 2,575 25 Nguồn: Bộ giáo dục và đào tạo Hà Nội (Kinh tế xã hội VN thực trạng và giải pháp tháng 8/1996 – trang 27) Cùng với đào tạo trong nước cần quan tâm đến sự phát triển nguồn nhân lực ở nước ngoài vì nó không những ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng, tiếp nhận cơ hội việc làm và thu nhập mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế và sự thất bại của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. * Quan điểm phát triển thị trường ở nước ta: Một là : Phát triển thị trường lao động trên cơ sở tuân thủ tính quy luật vận động khách quan của nền kinh tế thị trường, nhận thức và vận dụng để xây dựng một cơ chế chính sách phù hợp. Hai là : Xác định thị trường lao động là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển đồng bộ với các loại thị trường khác. Ba là: Phát triển thị trường lao động phải trên cơ sở xây dựng và hoàn thiện đồng bộ các bộ phận cấu thành như cung-cầu lao động, tiền lương, giá cả sức lao động, việc làm thất nghiệp – từ nhận thức thực tế, từ quan niệm đến thiết kế chính sách. Bốn là: Phát triển thị trường lao động được coi là động lực để phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác tốt tiềm năng lao động dồi dào ở nước ta. Năm là: Phát triển thị trường lao động trên cơ sở hài hoà lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động, hạn chế khoảng cách phân biệt giàu nghèo, thất nghiệp từng bước đảm bảo an ninh xã hội. Sáu là: Phát triển thị trường lao động phải dựa trên cơ sở nhất quán giữa chủ chương chính sách của Đảng và Nhà Nước. Nhà Nước quản lý đối với thị trường lao động trên cơ sở hệ thống pháp luật đồng bộ, trong đó chú trọng thích đáng tới những trọng tâm, trọng điểm cần thiết. 3.1.2. Ý nghĩa của việc phát triển thị trường lao động ở nước ta Thị trường lao động Việt Nam phát triển có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, nâng cao chất lượng, giải quyết việc làm cho người lao động. Phát triển thị trường lao động gắn với sự phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, phát huy tiềm năng của con người của mọi thành phần kinh tế tạo nên bước ngoặt lớn trong thị trưòng nói chung. Cùng với sự phát triển này thì đời sống nhân dân được nâng lên do có trình độ cao hơn, đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng lao động. Tuy nhiên thị trường lao động phát sinh đến một mực độ nào đó sẽ nảy sinh tiêu cực vì thế đòi hỏi phải có sự điều tiết của Nhà Nước và các ban ngành liên quan. Việc phát triển thị trường lao động có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế và quá trình hội nhập, nhưng để thị trường lao động phát triển toàn diện không phải là vấn đề một sớm một chiều mà cần có thời gian, khoảng thười gian này ngắn hay dài tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, chính sách của Nhà Nước trong việc điều tiết thị trường. Vậy xu hướng phát triển thị trường lao động trong những năm tới như thế nào và càn đề ra những giải pháp gì để giải quyết tình hình trên . 3.2. Xu hướng phát triển thị trường lao động: * Xu hướng phát triển cung Trong phần thực trạng đã đề cập đến xu hướng thay dổi dân số từ 15 đến 60 tuôi từ năm 1979 đến nay. Xu hướng này chỉ ra rằng số lao động theo tuổi đã và đang tăng, tạo ra sức ép lớn về cung lao động. Theo kết quả dự báo dân số trong chương trình mục tiêu đến năm 2010 và 2020 xu hướng này vân tiếp tục. Bảng 20 : Cơ cấu dân số chia theo nhóm tuổi lao động quy ước qua các kết quả dự báo Nguồn tính toán chiến lược dân số VN 2001-2010. Hà Nội 2000, phụ lục 2- trang 61 Năm 2005 Năm 2010 Năm 2015 Năm2020 Nhóm tuổi Nghìn người % so với tổng Nghìn người % so với tổng Nghìn người % so với tổng Nghìn người % so với tổng 0- 14 23796,3 28,85 21774,0 24,93 21970,5 23,8 22355,5 23,03 15-59 52176,6 63,25 58688,2 67,18 65328,6 67,52 64527,3 66,46 60+ 6519,7 7,9 6890,6 7,89 8009,3 8,68 10203,5 10,51 Tổng 82492,6 100 87352,8 100 92308 100 97086,3 100 Nguồn : Tính toán Chiến lược dân số Việt Nam năm 2001-2010. Hà Nội 2000 (Phụ lục 2 trang 61) Từ bảng trên cho thấy dân số trong độ tuổi lao động (15-29) năm 2020 có 64527,3 nghìn người tức là 123,67% so với bây giờ. Mỗi năm có khoảng hơn 1 triệu lao động mới tham gia vào hoạt dộng kinh tế chưa kể số thất nghiệ hàng năm từ 5-6% cần phải bố trí việc làm dẫn đến sức ép cung lao động lớn. Theo cơ cấu lãnh thổ thì vùng nông thôn đông dân tốc độ tăng còn nhanh và kinh tế kém phát triển như Đồng Bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ …Phương hướng phát triển cung đặc biệt tập trung vào chất lượng của vấn đề. Một mặt phải chú ý đến kỹ năng, trình độ cơ bản, mặt khác cần phải huấn luyện tác phong công nghiệp, đạo đức văn hoá nghề nghiệp. Ngoài ra việc sắp xếp lại cơ cấu, tổ chức, giảm biên chế, áp dụng công nghệ mới…cũng tạo ra một số lao động dôi dư bổ sung cho cung lao động. * Xu hướng phát triển cầu lao động Phát triển cầu lao động đầu tiên nhằm vào khả năng thu hút nhiều lao động vào nền kinh tế quốc dân, tạo ra nhiều việc làm mới. Cầu lao động đồng nghĩa với tổng thu nhập quốc nội (GDP) nhưng trong nền kinh tế thị trường tỷ lệ nghịch với tỷ lệ thất nghiệp. Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng GDP đều ở mức cao (đặc biệt năm 1995 đạt 9,5%) và tốc độ tăng các năm gần đây : Năm 1998 là 5,67%; 1999 - 4,77%; 2000 - 5,79%; 2001 - 6,89%;2002 - 7,04%.Tỷ lệ thất nghiệp tương ứng : Năm 1998 là 6,85%; 1999 - 6,74%; 2000 - 6,4%; 2001 - 6,28%;2002 -6,01%.Tỷ lệ thời gian lao động được sử dung ở nông thôn : Năm 1998 là 71,13%; 1999- 73,56%; 2000 – 74,19%; 2001 – 74,37%; 2002 –75,41%. Trong những năm tiếp theo GDP dự tính ở mức 7,5%/năm. khu vực có khả năng thu hút nhiều lao động lớn vẫn là công nghiệp, dịch vụ. Giá trị sản xuất công nghiệp liên tục 12 năm đạt 2 chữ số (Năm 2002 là 14,5%), đưa quy mô công nghiệp năm 2002 gấp 4,8 lần so với năm 1990. Giá trị tăng thêm các ngành dịch vụ 6,5% cao hơn các năm trước. Về cơ cấu nhờ luật doanh nghiệp mở đường và tiếp xúc, khu vực ngoài quốc doanh tăng cao nhất tới 19,2% nhờ năng lực sản xuất gia tăng, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,5% . Xu hướng này sẽ còn tiếp tục tăng trong thời gian tới phù hợp với đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng và Nhà Nước ta và cũng là hướng phát triển của cầu lao động (Ví dụ như việc thực hiện vốn đầu tư phát triển trong những năm qua). Tổng vốn năm 2002 đạt 180,4 nghìn tỷ đồng tăng 10,3% so với năm 2001. Tỷ lệ so với GDP là 34% vượt chỉ tiêu 32% đề ra cho năm 2002. Trong đó vốn đầu tư cho phát triển của khu vực ngoài quốc doanh tăng cao nhất (52 nghìn tỷ đồng tăng 35,1%). Khu vực doanh nghiệp doanh nhân sau gần 3 năm từ khi thực hiện luật doanh nghiệp đã có 80 nghìn doanh nghiệp và 2 triệu hộ kinh doanh cá thể hoạt động và phát triển. Năm 2002 có 22 nghìn doanh nghiệp mới được thành lập. Tổng vốn đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 45 nghìn tỷ đồng tương đương 3 tỷ USD gấp 1,5 lần so với năm 2001. Đầu tư nước ngoài Việt Nam được đánh giá là địa chỉ hấp dẫn 4500 dự án đầu tư được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký 50 tỷ USD. Lý do là do tình hình chính trị ổn định, thị trường trong nước mở rộng, tốc độ tăng trưởng cao và chính phủ có nhiều cố gắng cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đầu tư nước ngoài chủ yếu vào lĩnh vực xây dựng và công nghiệp so với 569 dự án chiếm 82% số dự án và 84% tổng số vốn đăng ký, thu hút 70% lao động và tạo trên 90% giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên lĩnh vực dịch vụ và nông – lâm – ngư còn khá khiêm tốn. * Phương hướng cải cách tiền lương, xác định giá cả sức lao động : Để phát triển thị trường lao động thì việc cải cách tiền lương là một vấn đề bức xúc nhất cũng là vấn đề nhạy cảm khó khăn nhất. Nguyên nhân do động chạm trực tiếp đến thể chế, cơ cấu tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý, tới quyền lợi của nhiều người lao động, nó cũng là vấn đề liên quan tới thời bao cấp. Trong đề án cải cách tiền lương trình hội nghị TW 7 khoá VIII và Hội nghị TW 7 khoá IX nhấn mạnh đến hướng cải cách tiền lương, Nhà Nước phải trả cho ai ? Xác định số lương và cơ cấu trả lương hành chính sự nghiệp, hưu trí mất sức, những người có công với đất nước, cán bộ phường xã…từ đó xác định ngân sách phải dành bao nhiêu tiền để trả lương. Cải cách tiền lương luôn đi đôi với cải cách hành chính mà cải cách hành chính bắt đầu với phương châm “từng bước” sau đó chuyển sang “vừa làm vừa rút kinh nghiệm”. Năm 2002 Thủ tướng chính phủ thông qua chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010, mục tieu là xây dựng thành công “một nền hành chính dân chủ, trong sạch vững mạnh, chuyên nghiệp hiện đại hoá hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà Nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng ” và đảm bảo “đội ngũ công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng được công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ”. Theo quyết định 111,217 về tinh giảm biên chế và các cơ sở sản xuất kinh doanh tự hạch toán, tự trả lương đã có những xoá trộn nhưng theo chiều hướng tích cực. Trong những năm tới sẽ xác định các cơ sở sự nghiệp có thu như trường học, bệnh viện, nhà văn hoá…sẽ tự trả lương vì các doanh nghiệp Nhà Nước tự trả lương cho cán bộ công nhân viên dựa theo kết quả sản xuất kinh doanh mà các đơn vị có thu lại không thực hiện được. Phải chăng kinh tế thị trường ở Việt Nam chưa phát triển đến các lĩnh vực đó? Hay còn có những rào cản gì? Giải pháp để giải quyết là gì? 3.3. Giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường theo thời gian tới : Mục tiêu của nhóm giải pháp này là từng bước thực hiện cân đối giữa cung và cầu về số lượng và chất lượng lao động trên thị trường. * Giải pháp trên phương diện cung a/ Các giải pháp nhằm làm giảm sức ép đối với cung lao động Trước hết đó là chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình nhằm hạn chế gia tăng dân số, đạt quy mô dân số và cấu trúc tuổi hợp lý, ổn định. Việc thực hiện mục tiêu Đại hội IX đề ra là giảm 0,05% mức tăng dân số mỗi năm để đạt mức tăng dân số 1,2% vào năm 2005. Chương trình kế hoạch hoá gia đình là một công cụ trực tiếp hữu hiệu làm giảm mức sinh. Phấn đấu năm 2010 tỷ lệ sinh là 1,1%,trong chiến lược dân số Việt Nam năm 2001-2010 đề ra 7 chương trình hành động bao gồm: Nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân số; truyền thông giáo dục thay đổi hành vi; chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình; nâng cao chất lương thông tin, dữ liệu về dân cư; nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chất lượng dân số; lồng ghép dân số với phát triển gia đình bền vững thông qua hoạt động tín dụng tiết kiệm và phát triển kinh tế gia đình, tăng cường dịch vụ SKSS/KHHGĐ cho vùng nghèo, khó khăn, vùng xâu và xa. Để thực hiện nó ngày 9 - 1-2003 Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước ký lệnh công bố pháp lệnh dân số quy định cụ thể phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng trách nhiệm và quyền lợi cá nhân. Ngoài ra cần chú ý đến kinh phí và cơ sở vật chất cho hoạt dộng cần thiết cho công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình. Việc xây dựng mạng lưới y tế cơ sở cũng cần phải tăng cường công tác truyền thông về dinh dưỡng và sức khoẻ, vệ sinh an toàn thực phẩm. Cần kết hợp các biện pháp truyền thông giáo dục với các biện pháp hành chính và kinh tế để nâng cao đạo đức và kỷ luật lao động công nghiệp cho người lao động trong mọi thành phần kinh tế. Nếu giải quyết được vấn đề trên thì vấn đề cung lao động dôi dư sẽ được hạn chế, mặt khác người lao động cũng có điều kiện nâng cao trình độ hơn giúp cho việc phát triển thị trường này. b/ Phát triển giáo dục đào tạo; phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực. Nếu phần (a) chủ yếu nói về số lượng cung thì phần này chuyển sang chất lượng của cung lao động trên thị trường. Đây là vấn dề nổi bật của ta hiện nay, trong phần thực trang ta đã thấy chất lượng nguồn nhân lực thấp, thiếu lao động được đào tạo có tay nghề. Nguyên nhân do sự méo mó, yếu kém của hệ thống giáo dục nước ta. Vì vậy, phát triển giáo dục nằm nâng cao dân chí nói chung và cho người lao động nói riêng là giải pháp cơ bản không chỉ trước mắt mà còn lâu dài, giáo dục đào tạo phải tạo ra bước “đột phá” trong việc thực hiện nguồn nhân lực, mở rộng phạm vi lựa chọn của con người để đạt đến một cuộc sống trường thọ, khoẻ mạnh và có ý nghĩa xứng đáng với con người hơn. Thế kỷ XXI là thế kỷ của yếu tố vô hình như thông tin và khả năng sáng tạo, do đó nếu chúng ta thành công trong việc phát triển tiềm năng của con người thì quốc gia sẽ thành công trở nên giàu có ngay cả khi không có nhiều vốn hoặc tài nguyên. Đảng và Nhà Nước ta luôn coi phát triển giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu”, vì thế phải cải cách giáo dục đào tạo, phải tạo được sự chuyển biến căn bản toàn diện từ nội dung đến hình thức ở tất cả các cấp, trong đó bậc phổ thông phải chú ý đến kiến thức thực tiễn, tăng giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh cũng rất cần thiết để chuyển một bộ phận học sinh sang học nghề ngay từ khi tốt nghiệp cấp 2 cấp 3. Những biện pháp khác như mở rộng quy mô các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (chú ý đến các ngành thị trường đang thiếu: công nghệ thông tin. Bưu chính, Cơ điện tử, dầu khí, hàng không…và những ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giầy, chế biến lương thực thực phẩm). Việc dạy nghề cần được xem xét kĩ từ cơ cấu vùng, ở các bậc đại học cao đẳng để đạt được mục tiêu 140 sinh viên/10nghìn người (năm 2005); 200 sinh viên/10 nghìn người (năm 2010) nhưng phải tăng các ngành kỹ thuật trong cơ cấu và khi đào tạo phải gắn với thực tiễn phát huy tính sáng tạo ngay khi còn đang học. Hoạt động đào tạo bao gồm cả bồi dưỡng, nâng cao tay nghề (đào tạo lại) và đào tạo các ngành nghề mới như là một biện pháp đối ứng với các yêu cầu tức thời của thị trường do cấu từ ngành nghề mới xuất hiện. Cuối cùng từ phía các cơ quan quản lý Nhà Nước cần phải xác định rõ ràng các lĩnh vực, ngành nghề hiện đang thiếu bộ phận nào, công nhân hay lao động có trình độ. Tiêu chuẩn hoá các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng có chất lượng theo quy định pháp luật. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa hoạch định chính sách và điều chỉnh cơ cấu, hợp tác giữa các bên tham gia thị trường, khuyến khích tất cả các hình thức đào tạo , tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ giảng dạy. c/ Nâng cao độ linh hoạt của thị trường thông qua di chuyển lao động: Điều tiết di cư ngày càng trở nên quan trọng, là một giải pháp tác dộng đến cung lao động. Những xu hướng di dân được chú ý là từ Miền Bắc và duyên hải Miền Trung vào Cao nguyên Trung Bộ và Miền Đông Nam Bộ. Ngoài ra cần chú ý đến dòng di dân từ nông thôn ra thành thị. Đây là 2 xu hướng tất yếu phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nhà Nước cần sớm có biện pháp để điều tiết vấn đề này như vấn đề xuất cư, nhập cư, sử dụng lao động nhập cư quyền và nghĩa vụ của họ. Biện pháp hữu hiệu nhất để giảm tình trạng di chuyển lao động bằng cách tạo điều kiện sống làm việc tốt hơn đảm bảo cơ sở hạ tầng nơi họ ở, đồng hời là biện pháp thu hẹp khoảng cách chênh lệch về cơ hội việc làm, thu nhập giữa thành thị và nông thôn (phát triển ngành nghề phi nông nghiệp, ngành nghề truyền thống tại địa phương). Di dân có ảnh hưởng tích cực và là công cụ điều hoà lao động và thu nhập giữa các vùng. Tuy nhiên cần tránh những tác động tiêu cực của di dân tự do đến môi trường thiên nhiên, quá tải về cơ sở hạ tầng và quản lý dân cư… *Đối với cầu lao động Tăng cầu về lao động được coi là giải pháp cấp bách thu hút lao động dôi dư ở nước ta hiện nay, Việc tăng cầu cần có những giải pháp sau: a/ Đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế là tiền đề để phát triển thị trường lao động. Cần hiểu rằng một tốc độ tăng trưỏng kinh tế cao không nhất thiết dẫn đến tăng cầu lao động vì nó phụ thuộc vào phương thức tăng trưởng dựa nhiều vào vốn, công nghệ hay lao động. Nước ta vẫn chưa tạo ra sự cân bằng giữa 2 mục tiêu phát triển kinh tế và tạo việc làm, vẫn ưu tiên phát triển khu vực I (sản xuất tư liệu sản xuất) với chiến lược thay thế nhập khẩu sử dụng nhiều vốn song việc tăng trưởng kinh tế nhanh để tạo việc làm vẫn là nhiệm vụ không thể thiếu trong thời gian tới. Theo ước tính thì trong thế kỷ XX (đầu thập kỷ 90) Việt Nam phải có mức tăng trưởng 8%/năm trở lên thì mới có thể tạo đủ việc làm cho người lao động trong khi nền kinh tế tăng trưởng chỉ đạt trên dưới 7%/năm, do đó vẫn thiếu việc làm trong xã hội. b/ Phát triển kinh tế nhiều thành phần Chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN của Đảng và Nhà Nước đề ra, cùng với luật khuyến khích đầu tư trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài đã tao ra ngày càng nhiều cơ hội cho người lao động có việc làm. Khai thác tiềm năng kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xoá bỏ định kiến đối với khu vực ngoài quốc doanh, cả thiện bảo trợ xã hội đối với người lao động trong khu vực này để tăng thêm nhu cầu lao động, tăng việc làm tự phát, Kinh nghiệm một số nước cho thấy việc áp dụng các chương trình trợ giúp cho người lao động tự tạo công ăn việc làm cho mình hoặc hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp tư nhân là biện pháp tốt nhất giải quyết sự mất cân bằng cung cầu trên thị trường. Việc hỗ trợ có thể bằng nhiều cách như thành lập trung tâm hỗ trợ kinh doanh, đào tạo, kinh nghiệm, tư vấn; tạo môi trường kinh doanh chế độ ưu đãi cung cấp những hạ tầng cơ sở cơ bản cho kinh doanh nhằm tháo gỡ về mặt pháp lý và tâm lý để phát triển kinh tế thu hút thêm lao động; hỗ trợ về tài chính, tỷ giá hối đoái, xuất nhập khẩu, thuế… c/Phát triển kinh tế nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn Các chương trình phát triển khu vực nông thôn cần tập trung vào việc tạo thu nhập cho dân cư nông thôn tăng số công ăn việc làm, cải thiện dịch vụ y tế- giáo dục, phát triển cơ sở hạ tầng . Việc thực hiện nó sẽ tạo ra 2 tác dụng: Một mặt sẽ giảm cung lao động lâu dài; mặt khác tăng cầu lao động tại chỗ, hạn chế di dân ồ ạt, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn. Đảng và Nhà Nước luôn coi trọng nông nghiệp, nông thôn là mặt trận hàng đầu không chỉ bởi kinh tế mà cả chính trị xã hội. Trong phiên họp thường kỳ tháng 5- 2002 Chính phủ khẳng định đưa luật doanh nghiệp về nông thôn và nhiều chương trình hợp tác quốc tế (WB) đầu tư vào khu vực này (tăng 27% tổng dự án năm 1994-1998 lên 38% trong năm 1999-2002 với tổng số vốn 1,2tỷ USD cho phát triển hệ thống thuỷ lợi, tài chính nông thôn, bảo về rừng…). Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là việc phát triển kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn bằng cách công nghiệp nông thôn, các ngành tiểu thủ công nghiệp. Khôi phục và phát triển các nghề truyền thống hình thành khu công nghiệp nhỏ, các làng nghề, công nghiệp chế biến nông – lâm- thuỷ sản tại địa phương, phát triển ngành dịch vụ trong nông nghiệp …để giải quyết việc làm tại chỗ. Thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn, phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các khu kinh tế cửa khẩu gắn liền với sự phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn. d/ Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tham gia vào thị trường lao động khu vực và quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia. Được coi là giải pháp hữu hiệu giải quyết việc làm và nâng cao trình độ tay nghề của người lao động thông qua đàm phán và hợp tác lao động quốc tế giữa Việt Nam và quốc tế nhằm đưa vị thế của thị trường lao động trong thế giới. 3.3.2. Nhóm giải pháp về tiền lương tiền công Cần cải cách triệt để tiền lương theo hướng thị trương, nhằm xoá bỏ những bất hợp lý hiện hành để tiền lương trở thành một động lực thực sự kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động, có thể sử dụng gián tiếp một số chỉ báo nâng dần mức lương tối thiểu, ví dụ như điều chỉnh theo lạm phát hoặc tăng trưởng. Luôn coi việc trả lương đúng là thực hiện đầu tư phát triển. Có thể bằng ngân sách Nhà nước hay tiến hành vay ưu đãi có cân đối hàng năm để trả lương thì sẽ không làm tăng giá đột biến và có thể dự báo lạm phát hoặc biến động giá do tăng lương. Theo kinh ngiệm Trung Quốc : cải cách chế độ tiền lương cần tính đúng, tính đủ mức độ đóng góp, công trạng của người lao động, phải kết hợp chặt chẽ lợi ích của người lao động, doanh nghiệp và Nhà Nước. Việc trả công phải theo nguyên tắc : công việc và điều kiện lao động giống nhau, itền lương như nhau. Ngoài ra cần đảm bảo công bằng xã hội đối với người lao động giữa các ngành nghề , khu vực kinh tế vùng lãnh thổ, xây dựng hoạch toán kinh tế đối với các đơn vị có thu, đơn vị hành chính, áp dụng thuế thu nhập cá nhân( hiện nay đang áp dụng thuế thu nhập cá nhân là 5 triệu đồng trở lên) , đến việc hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Đổi mới hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội, ở Việt Nam chính sách này đang thực hiện 2 chức năng khác nhau là bảo hiểm và phân phối lại thu nhập, tạo điều kiện cho người lao động không bị ràng buộc vào thành phần kinh tế nào miễn là họ đóng góp đầy đủ, vì thế cần đa dạng hoá các loại hình bảo hiểm và khuyến khích mọi thành phần tham gia . 3.3.3. Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách và tổ chức thực hiện a/ Giải pháp thúc đẩy giao dịch trên thị trường - Phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, Chính Phủ cần ban hành quy chế và hoạt động giới thiệu việc làm theo quy định của Bộ Luật Lao động sửa đổi, quy định cấp giấy phép khuyến khích hỗ trợ phát triển rộng rãi ở mọi nơi có thị trường phát triển mạnh, có nhiều người tìm kiếm việc làm. Tăng cường quản lý đối với các trung tâm, tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động, đầu tư xây dựng nâng cấp trang thiết bị, đào tạo kiến thực cơ bản cho đội ngũ cán bộ ở các trung tâm đặc biệt ở cấp huyện. Nhà Nước cần thường xuyên kiểm tra thanh tra các trung tâm để ngăn chặn vi phạm quy định của Nhà Nước và thu phí cao, gây thiệt hại cho ngươì lao động đặc biệt là những người nghèo và thất nghiệp. - Tăng cường quản lý Nhà nước, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động; dưới sự quản lý của Nhà nước (trực tiếp là Cục quản lý lao động với người nước ngoài), các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp lao động cho thị trường quốc tế. Vì vậy, cần xắp xếp lại các doanh nghiệp này, đánh giá hoạt động hàng năm của các doanh nghiệp này theo tiêu chí quy định như : chất lượng tuyển chọn, đào tạo, giáo dục, định hướng cho người lao động trước khi xuất khẩu. Thanh tra, kiểm tra, khen thưởng đối với các cá nhân tổ chức có đóng góp lớn, dần hình thành hệ thống tuỳ viên ở nước có số lượng lao động lớn. - Phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động: Gồm các hoạt động cụ thể như là, Điều tra, kiểm soát, tập hợp và xử lý, lưu trữ các thông tin về thị trường lao động. Tổ chức cho người lao động tiếp cận với thông tin với thông tin về lao động và việc làm, điều tra lao động việc làm định kỳ, tổ chức các hội chợ việc làm ở một số đô thị lớn. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ chương của Đảng, Nhà Nước có liên quan đến thị trường lao động, hỗ trợ giải quyết việc làm. Đẩy mạnh công tác thị trường ngoài nước, ban hành các quy chế tổ chức và hoạt động của hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động . - Khuyến khích mở rộng các hình thức giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động. Đây là biện pháp để thoả mãn kịp thời nhanh gọn, thuận tiện về cung và cầu lao động nhất là khu vức phi chính quy. b/ Nhóm giải pháp để hoàn thiện về thể chế tạo môi trường cho phát triển thị trường lao động - Hoàn thiện thể chế thị trường lao động theo tinh thần của Đại hội Đảng I X, theo Bộ Luật Lao động, pháp lệnh công chức bổ xung, sửa đổi các chế độ chính sách về lao động việc làm và tiền công. Việc sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường lao động trong điều kiện kinh tế thị tường, mở rộng hội nhập là việc làm cần thiết. Như ta đã biết, Bộ Luật lao động được ban hành ngày 23/ 6/1994 gồm 17 chương, điều tiết những vấn đề về việc làm, vấn đề học nghề, về hợp đồng lao động… , Bộ Luật Lao động cần được nghiên cứu tiếp tục sửa đổi cho phù hợp với thời kỳ mới, Bộ Luật lao động đã được sửa đổi đầu năm 2003 trong đó đặc biệt đề cao quyền lợi của người lao động, đảm bảo quyền tự do lựa chọn chỗ làm việc, nơi trú thông qua rào cản về hộ khẩu và các thủ tục hành chính khác, thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động bắt buộc người lao động và người sử dụng lao động vào quyền nghĩa vụ trong đó. Tăng cường giáo dục pháp luật lao động, trước mắt cần soạn thảo một số vấn đề cần thiết bằng các văn bản dưới luật về hợp đồng lao động, tiền lương, tuổi nghỉ hưu và thời gian làm thêm giờ. - Hoàn thiện bộ máy quản lý và vận hành có hiệu quả thị trường lao động. Hiện nayBộ Lao động-Thương binh và Xã hội được Chính Phủ giao nhiệm vụ quản lý thị trường, nhưng trên thực tế còn nhiều vướng mắc và chồng chéo giữa các bộ ngành, vì vậy trong thời gian tới cần hoàn thiện theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả để tránh chồng chéo, trùng lắp. Tăng cường trang thiết bị cho các cơ quan quản lý lao động. Khuyến khích sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ vào quản lý thị trường lao động. Nâng cao vai trò hơn nữa của các tổ chức đại diện cho người lao động và người sử dụng lao động ngư công đoàn, hiệp hội giới chủ… Tiếp tục hoàn thiện các chính sách thị trường lao động theo hướng khuyến khích tính chủ động của họ trong việc tạo ra việc làm hoặc tự tìm việc làm cho mình. - Hoàn thiện cơ chế chính sách tuyển dụng lao động vào khu vực kinh tế Nhà Nước và bộ máy công quyền. Đây là một thị trường lao động tiềm năng lớn do tính ổn định cao, thái độ xã hội coi trọng, hay được đào tạo cơ bản. Vì vậy, cần tiến hành kiểm tra giám sát việc thực hiện nghiêm túc quy chế trong khu vực này. - Xây dựng và thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp: vì thất nghiệp là một hiện tượng khong thể tránh khỏi của kinh tế thị trường gây tác hại về mặt kinh tế, chính trị , xã hội.Bảo hiểm thất nghiệp là hình thức tạo cho nghười lao động một khoản thu nhập bù đắp thu nhập do bị thất nghiệp để có điều kiện quay trở lại thị trường, nhưng đây lại là vấn đề khá mới mể ở Việt Nam, vì thế cấn xúc tiến việc nghien cứu và ban hành chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện thí điểm rút kinh nghiệm và nhân rộng ra. Theo dự thảo, thì đối tượng là người lao động hợp đồng không xác định thời hạn và thời gian từ 1 đến 3 năm trong các doanh nghiệp, cơ quan Nhà Nước, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức nước ngoài tại Việt nam và các hợp tác xã thuộc phạm vi điều chỉnh của chế độ này. 3.3.4: Các kiến nghị nhằm phát triển thị trường lao động đồng bộ với các loại thị trường cơ bản khác trong nền kinh tế thị trường ở nước ta Như ta đã biết, số lượng lao động có việc làm đến số lao động có ký hợp đồng tồn tại một khoảng cách, nếu khoảng cách này hẹp thì thị trường lao động phát triển mạnh và ngược lại. Theo điều tra số liệu” kết quả điều tra sơ bộ ngày1/7/2001” của ban chỉ đạo điều tra lao động việc làm Trung Ương thì năm 2001 có 14,77% số người từ 15 tuổi trỏ lên có ký hợp đồng lao động, nếu tính cả số người hoạt động phi nông nghiệp thì có khoảng 26,99%. Để tăng được số hợp đồng lao động phụ thuộc vào 2 nhóm yếu tố: Một là, các yếu tố khách quan gồm sự phát triển kinh tế, phát triển đồng bộ các loại thị trường đặc biệt chú ý phát triển các loại hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, đối với thị trường hàng hoá, thị trường bất động sản thì hàng hoá có thể được xác định thông qua cung- cầu có tính đến quyền sở hưũ ,đối với thị trường khoa học công nghệ, giáo dục, ytế, văn hoá thì việc xác định hàng hoá khó khăn hơn vì nó nhạy cảm về thể chế, về xã hội và về con người, do đó hợp đồng lao động phụ thuộc vào hợp đồng kinh tế. Hai là, yếu tố chủ quan gồm các hoạt động cải cách thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính trong quản lý thị trường. KẾT LUẬN Cơ chế quản lý kinh tế thay đổi kéo theo sự thay đổi của bản chất và hiên tượng của đời sống kinh tế, đồng thời cũng ảnh hưởng đến các thị trường mà thị trường lao động không nằm ngoài sự vận động đó. Cùng với sự phát triển của các loại thị trường, việc phát triển thị trường lao động hiện được Đảng và Nhà Nước ta coi là hướng đi không thể thiếu để thực hiện chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do vậy, việc nghiên cứu và phân tích thị trường này một cách đúng hướng là một hoạt động mang tính chiến lược. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, việc định ra các giải pháp nhằm thúc đẩy và hoàn thiện thị trường lao động đang còn là điều mới mẻ. Mặt khác, do đặc diểm của thị trường vừa mang đặc điểm kinh tế vừa mang đặc điểm xã hội của hàng hoá sức lao động nên các giải pháp đưa ra vùa đảm bảo đồng thời 2 mục tiêu: một là vừa đảm bảo tính hiệu quả kinh tế ( phân bổ tối ưu các nguồn lực) vừa đảm bảo quyền lợi cho người lao động( tính công bằng). Để nó trở thành một động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những vấn đề được đề cập trong khoá luận này chỉ mang tính chất gợi mở và có một số vấn đề không được đề cập, hoặc đề cập chưa sâu, chắc chắn sẽ cần được xem xét kỹ hơn, bổ xung sửa đổi để phù hợp với sự phát triển không ngừng của thời đại và nhân loại. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA2127.doc