Tình hình Xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU trong sau khi Việt Nam gia nhập WTO

Lời mở đầu 1. Tính tất yếu của đề tài Thúc đẩy xuất khẩu là một chủ trương lớn trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của Đảng và Nhà Nước ta, điều này đã được khảng định rõ trong Đại Hội lần thứ 8 và nghị quyết 01NQ/TW của Bộ chính trị về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, nhằm thực hiện chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, nâng cao năng lực xuất khẩu hiện tại. Giày dép là một trong những mặt hàng chủ lực của Việt Nam ngoài

doc56 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1438 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình Xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU trong sau khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuỷ sản, dệt may...Nó có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngành này đóng góp một phần không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Với tiềm năng của mình như nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, đặc biệt là lao động Việt Nam vốn có tính chăm chỉ, cần cù. Nó phù hợp với tính chất lao động của ngành, Khối lượng xuất khẩu lớn, giải quyết được nhiều việc làm, đồng thời tạo động lực phát triển ngành. Tuy nhiên ngành giày dép Việt Nam đang đứng trước những khó khăn, thách thức về nguyên liệu, năng lực cạnh tranh. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi Việt Nam là thành viên thứ 150 WTO thì Việt Nam còn phải đối đầu với hàng loạt các vụ kiện chống bản phá giá, sự thay đổi xu hướng tiêu dùng. Vì vậy để có thể phát huy lợi thế so sánh của mình một cách hiệu quả thì cần phải nghiên cứu kỹ tình hĩnh xuất khẩu của Việt Nam cũng như nghiên cứu nhu cầu thị trường để đưa ra những giải pháp phù hợp làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tương xứng với tiềm năng của mình. EU là một thị trường tiêu thụ giày dép lớn nhất thế giới, với nhu cầu nhập khẩu hàng năm là 1,5 tỷ đôi giày dép các loại, nhưng đây cũng là một thị trường khá phức tạp với 27 quốc gia trong khối. Vì thế hiện nay EU vẫn được coi là một trong những thị trường mục tiêu cho ngành giày dép Việt Nam . Ngoài ra còn có những thị trường khác mà Việt Nam không thể bỏ qua như Mỹ và Nhật Bản...Vậy để tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường mục tiêu này đề tài: “Tình hình xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU trong sau khi Việt Nam gia nhập WTO” được chọn để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài phân tích những kết quả và những hạn chế của việc xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU sau khi trở thành thành viên của WTO từ đó đề ra những giải pháp thích hợp để tăng khả năng cạnh tranh cũng như kim ngạch xuất khẩu của ngành 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng Tình hình xuất khẩu giày dép của Việt Nam và thị trường EU Phạm vi nghiên cứu Từ năm 2003 đến nay 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu là sự vận dụng phân tích tổng hợp, đánh giá để tìm ra những giải pháp phù hợp cho xuất khẩu giày dép sang EU của Việt Nam trong điều kiện là thành viên của WTO 5. Kết cấu của bài gồm có 3 chương: Chương 1: Tổng quan về xuất khẩu Chương 2: Tình hình xuất khẩu giày dép sang EU Chương 3: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu giày dép sang EU Chương 1: Tổng quan về xuất khẩu 1.1. KháI niệm và vai trò của xuất khẩu 1.1.1. Khái niệm Xuất khẩu trong thương mại quốc tế là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thương mại quốc tế theo IMF là việc bán hàng hoá cho nước ngoài. Xuất khẩu trong thương mại quốc tế không phải hoạt động mua bán thông thường, hoạt động này nó đòi hỏi phải có sự tham gia của các chủ thể mang quốc tịch khác nhau, hoạt động xuất khẩu không chỉ đơn thuần là mang lại lợi nhuận cho riêng doanh nghiệp xuất khẩu, mà nó còn có ý nghĩa rất lớn đối với quốc gia. Thông qua động xuất khẩu người ta sẽ biết được trình độ phát triển, mức độ hội nhập của quốc gia này. Hoạt động này càng phát triển thì càng tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia không những về kinh tế mà còn về văn hoá, chính trị, xã hội... 1.1.2. Vai trò của xuất khẩu Theo lý thuyết thương mại quốc tế của David Ricardo ông đã chứng minh được rằng thương mại quốc tế làm cho tất cả các nước tham gia đều có lợi và nó đã khắc phục được hạn chế trong lý thuyết của Adam Smith là thương mại quốc tế chỉ làm lợi cho một bên mà thôi, bên còn lại sẽ bị thiệt. Hiện nay trong quá trình toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới thì trong chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia đang có sự chuyển đổi dần từ chính sách bảo hộ mậu dịch sang chính sách tự do hoá thương mại. Thương mại quốc tế bao gồm cả hoạt động xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu, bài viết này chỉ đi vào vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các quốc gia 1.1.2.1 Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng Ngoại tệ là một trong những nguồn dự trữ quan trọng của các quốc gia ngoài vàng để ổn định nền kinh tế, đặc biệt là những nguồn ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi như USD, EUR, GBP..thì việc nắm gữi nó càng trở nên cần thiết. Nó giúp cho các quốc gia tiến hành các hoạt động giao dịch dễ dàng hơn. Nhất là đối với các nước đang phát triển thì hoạt động này càng trở nên quan trọng hơn, các quốc gia này thường xuyên phải nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ của các nước tiên tiến để tiến hành hoạt động sản xuất. Hoạt động nhập khẩu này đã làm cho lượng ngoại tệ dự trữ trong nước bị giảm. Để bù đắp cho lượng giảm ngoại tệcó rất nhiều con đường như: thu hút vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ nước ngoài, thu từ lượng kiều hối từ nước ngoài chuyển về, nhưng con đường cơ bản và quan trọng nhất là xuất khẩu hàng hoá để thu ngoại tệ. 1.1.2.2 Hoạt động xuất khẩu giúp phát huy được lợi thế so sánh Mỗi quốc qia đều có những lợi thế riêng của mình, các quốc gia phát triển thườngcó lợi thế về vốn, công nghệ do đó các quốc gia này thường đem vốn, công nghệ đi đầu tư ở các quốc gia kém phát triển thiếu vốn, công nghệ kém để tăng hiẹu quả sử dụng vốn, công nghệ. Ngoài ra họ còn tiến hành các hoạt động chuyển giao công nghệ. Các quốc gia kém phát triển thường có lợi thế về nguồn lao động đòi rào, già nhân công rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú. Vì thế họ luôn tập trung sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều tài nguyên sẵn có, cần nhiều lao động nhưng yêu cầu hàm lượng chất xám không cao. Như vậy, hoạt động này giúp cho chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động quốc tế phát triển 1.1.2. 3 Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Để phát huy lợi thế so sánh có hiệu quả các quốc gia đã thực hiện chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu mặt hàng mà mình có lợi thế. Hoạt động xuất khẩu phảt triển kéo theo một loạt các hoạt động dịch vụ khác ra đờivà phảt triển mạnh như: hoạt động tín dụng ngân hàng, hoạt động thanh toán quốc tế, hoạt động vận tải quốc tế, bảo hiểm quốc tế...và các hoạt động đầu tư quốc tế để phát triển cơ sở hạ tầng, hoạt động chuyển giao công nghệ cũng phát triển theo. Vì vậy nó làm cho cơ cấu của nền kinh tế dịch chuyển theo hướng công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Đây là tiền đề cơ bản để có thể tiến hành thành công hiện đại hoá nền kinh tế. 1.1.2.4 Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của hàng hoá trên thị trường thế giới, nâng cao vị thế của một quốc gia trên thị trường quốc tế. Để có thể thực hiện hoạt động xuất khẩu và không ngừng nâng cao kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá thì các quốc gia phải tiến hành các hoạt động đổi mới trang thiết bị, máy móc phục vụ cho sản xuất để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh và đứng vững trên thị trường quốc tế. Chính từ những sản phẩm này ma không những hình ảnh của doanh nghiệp xuất khẩu được quang bá mà hình ảnh của quốc gia đó cũng được quảng bá trên trường quốc tế và nó ăn sâu vào tâm thức của người tiêu dùng. Từ đó vị thế của quốc gia được nâng cao. Hoạt động xuất khẩu làm củng cố và tăng cường quan hệ với các nước. Hoạt động xuất khẩu phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khác cũng phát triển theo. Điều này thúc đẩy quan hệ ngoại giao giữa các nước ngày càng được tăng cường và phát triển thông qua các hiệp ước về kinh tế, chính trị, văn hoá. 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 1.2.1 Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hàng xuất khẩu Đây là những yếu tố thuộc về nội lực của quốc gia hay của doanh nghiệp xuất khẩu. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực sản xuất, chât lượng của sản phẩm. 1.2.1.1 Điều kiện tự nhiên Mỗi quốc gia đều có vị trí địa lí và điều kiện về tự nhiên là khác nhau, nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu của mỗi doanh nghiệp thuộc quốc gia đó. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi có tài nguyên thiên nhiên phong phú, đất đai, khoáng sản, cho phép sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng chủ lực tận dụng được điều kiện tự nhiên trong nước. Đây là tiền đề quan trọng để hàng hoá của ngánh công nghiệp mũi nhọn xuất khẩu cạnh tranh với hàng hoá cùng chủng loại của nước ngoài về chất lượng và giá cả. Vị trí địa lí của mỗi quốc gia rất quan trọng trong việc phát triển các hoạt động xuất khẩu. Vị trí đại lí thuận lợi có thể giao thông liên lạc với các nước dễ dàng thì nó không những tiết kiệm được chi phí vận chuyển, chi phí lưu kho hay bảo quản hàng hoá, mà còn làm cho hoạt động thương mại quốc tế phát triển nhộn nhịp hơn. Việt Nam là một ví dụ cho ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đối với hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Việt Nam có lợi thế nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng như đất đai, khoáng sản...Đất đai, khí hậu nóng ẩm giá mùa thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp chế biến phục vụ cho phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn. Chẳng hạn như Việt Nam có điều kiện thuận lợi trong nuôi trồng, chế biến thuỷ sản. Và xuất khẩu thuỷ sản hiện đang là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn có vị trí địa lí thuận lợi nằm trên các đường hàng không và hàng hải quốc tế quan trọng, đây là của ngõ để phát triển hoạt động vận tải quốc tế. 1.2.1.2 Nguồn vốn, lao động và công nghệ Vốn, lao động và công nghệ đây là những yếu tố không thể thiết được trong quá trình sản xuất và xuất khẩu. Nó quy định quy mô, chất lượng, giá cả của hàng hoá sản xuất ra, cũng như là sự tồn tại củ doanh nghiệp. Nguồn vốn rất quan trọng đối với sản xuất và xuất khẩu hàng hoá. Nguồn vốn này được sử dụng để mua nguyên vật liệu sản xuất, đầu tư trang thiết bị, máy móc, trả lương cho nhân viên... và các hoạt động khác nữa. Vì thế đây là yếu tố quy định quy mô của doanh nghiệp. doanh nghiệp có nhiều vốn thì cho phép mở rộng quy mô sản xuất, doanh nghiệp ít vốn thì quy mô nhỏ và hẹp. Tuy nhiên vốn không phải là một yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp mà nó chỉ là yếu tố cần thiết cho một doanh nghiệp sản xuất. Thực tế cho thấy có rất nhiều doanh nghiệp không có vốn, khởi đầu từ hai bàn tay trắng nhưng họ vẫn rất thành công. Có những doanh nghiệp thục tế không thiếu vốn nhưng hoạt động không hiệu quả nên làm ăn thua nỗ và dẫn đến phải đóng cửa Công nghệ được coi là chìa khoá của thành công. Nó quyết định đến năng suất lao động, mẫu mã, bao bì của sản phẩm. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã tạo ra rất nhiều sản phẩm chủng loại khác nhau mẫu mã đa dạng, phong phú, giá thành lại rẻ. Tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng lựa chọn. Vì thế doanh nghiệp nào có công nghệ sản xuất tiên tiến thì sẽ tồn tại, doanh nghiệp sản xuất với những công nghệ lạc hậu, lỗi thời thì hàng hoá không thể cạnh tranh được và bị đào thải. Lao động một nhân tố không kém phần quan trọng trong việc sản xuất hàng hoá. Nó cũng chi phối tới chất lượng và giá cả sản phẩm. Lao động có trình độ tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ cao sẽ tạo ra những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. Đây là một yếu tố cũng tạo ra lợi thế cạnh tranh của sản phẩm. Có thể khảng định con người là yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động sản xuất, thông qua con người và phải có những con người tri thức thì mọi hoạt động trong doanh nghiệp mới được thực hiện có hiệu quả. Do đó, trong bất kỳ hoạt động nào thì các doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm, phát triển con người. 1.2.2 Các yếu tố gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 1.2.2.1 Yếu tố luật pháp Một trong những yếu tố của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đó là luật pháp. Các doanh nghiệp này không những chịu ảnh hưởng bởi hệ thống luật pháp quốc gia mà còn chịu ảnh hưởng của luật pháp quốc tế. Hiện nay trên thế giới tồn tại 3 hệ thống luật pháp là luật quốc gia, luật quốc tế và thông lệ quốc tế. Nó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu của các doanh nghiệp ở các mặt sau: Quy định về giao dịch hợp đồng, quyền phát minh, sáng chế, sở hữu kiểu dáng công nghiệp Quy định về lao động, tiền lương... Quy định vận chuyển quốc tế Quy định về cạnh tranh, chống độc quyền... Quy định bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn chất lượng... Tất cả những quy định đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải cân nhắc, tuân thủ chặt chẽ trước khi xuất khẩu hàng hoá của mình ra thị trường quốc tế. 1.2.2.2 Chế độ chính sách quản lí của nhà nước Nếu luật pháp quốc tế và thông lệ quốc tế hầu như mang tính kho đổi, bắt buộc thì chính sách và luật pháp quốc gia lại mang tính linh hoạt vì mục tiêu của chính sách và luật pháp này là nhằm vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia thì không phải là bất kỳ mặt hàng nào cũng được tham gia xuất nhập khẩu một cách tự do, có những mặt hàng Nhà Nước khuyến khích xuất nhập khẩu, có những mặt hàng lại hạn chế xuất nhập khẩu, thậm chí có những mặt hàng còn bị cấm xuất nhập khẩu...tất cả những hoạt động nay đều nằm tronh chính sách thương mại của mỗi quốc gia. Các công cụ chính sách mà các quốc gia thường sử dụng là: thuế quan, hạn ngạch, chống bán phá giá... Thuế quan là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá. Có hai loại thuế là thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu. Tuy nhiên các quốc gia thường sử dụng thuế nhập khẩu, ít dùng thuế xuất khẩu Thuế quan nhập khẩu là loại thuếđánh vào mỗi đơn vị hàng hoá nhập khẩu. Nó có tác dụng là bảo hộ nhà sản xuất trong nước và chính phủ thu được khoản thuế, nhưng nó lại có nhược điểm là thiệt hại người tiêu dùng và biện pháp được áp dụng khi hàng hoá trong nước kém cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài hay trong thời kỳ đầu phát triển. Hạn ngạch xuất khẩu là công cụ phi thuế quan để hạn chế xuất khẩu. Mục đích của chính phủ khi sử dụng công cụ này là để quản lí hoạt động xuất nhập khẩu có hiệu quả và nhằm điều chỉnh loại hàng xuất khẩu. Hơn nữacó thể quản lí được nguồn lực trong nước. Tuy nhiên, trong xu thế mở cửa và hội nhập như ngày nay thì thuế quan và hạn ngạch dần được thay thế và loại bỏ bằng các công cụ khác như thuế chống bán phá giá, quy định về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh môi trường... 1.2.2.3 Yếu tố văn hoá Văn hoá là di sản được kế thừa từ ông cha qua một quá trình lịch sử dài, là những hiểu biết về phong tục,tập quán, giá trị tinh thần cũng như vật chất. Chính nền văn hoá kế thừa này tạo nên phong cách sống riêng của cả cộng đồng, của mỗi quốc gia và nó ảnh hưởng đến thị hiếu tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho nhu cầu thoả mãn hàng hoá của con người. Do đó nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt đông thương mại quốc tế. Các yếu tố văn hoá tạo nên nhu cầu khác nhau của thị trường, tác động đến thị hiếu của người tiêu dùng. Doanh nghiệp chỉ có thể thành công trên thị trường quốc tế khi có sự hiẻu biết nhất định về thị trường trong đó có tính đến phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng. Mà điều này lạicó sự khác biệt ở mỗi quốc gia. Do đó khi tìm hiểu tiềm năng của một thị trường thì cần phải chú ý yếu tố văn hoá của thị trường đó 1.2.2.4 Môi trường kinh doanh quốc tế Môi trường kinh doanh quốc tế là yếu tố bên ngoài, ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu, thể hiện ở những mặt sau đây Thứ nhất : sự ổn định về chính trị là nhân tố cần thiết đối với nhà xuất khẩu các doanh nghiệp cần quan tâm đến vấn đề chính trị của quốc gia mà mình xuất khẩu hàng tới. Nếu tình hình chính trị của quốc gia đó không ổn định thường xuyên có bạo loạn, chiến tranh...thì đối với quốc gia này khi xuất khẩu vào phải chú ý hơn nữa diễn biền hoà bình, ổn định chính trị của nó, nếu không rủi ro rất cao. Thứ hai : Thủ tục, chính sách của nước nhập khẩu có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu như thủ tục hành chính thông thoáng, minh bạch, không bị chồng chéo nhau. Ngược lại nếu thủ tục rườm rà nó sẽ cản trở hoạt động nhập khẩu. Thứ tư : Chính sách mặt hàng của các nước nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Với những mặt hàng mà các nước nhập khẩu không có khả năng sản xuất, hoặc là sản xuất kém hiệu quả thì nó sẽ không sản xuất nữa mà thay vào đó là nhập khẩu hàng ở nước ngoài. Khi đó, những mặt hàng này sẽ được nhập khẩu dễ dàng hơn vào quốc gia đó thông qua tăng hạn ngạch, không đánh thuế nhập khẩu...Có những mặt hàng mà quốc gia này có khả năng sản xuất có hiệu quả thì nó bảo vệ hàng sản xuất trong nước bằng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn hàng nhập khẩu qua kiểm định chất lượng hàng hoá, các tiêu chuẩn về vệ sinh, biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện... Thứ năm : Môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu đối thủ cạnh tranh về mặt hàng xuất khẩu của mình là ai? mạnh hay yếu, đối phó với họ bằng cách nào thì tốt? và môi trường cạnh tranh không chỉ có các đối thủ trong nước mà còn có những đối thủ nước ngoài. Vì vậy cần tìm hiểu kỹ môi trường cạnh tranh, cũng như xem xét nội lực của mình để đưa ra những phương án tối ưu, giúp hàng hoá của mình có thể cạnh tranh được và đứng vững trên trường quốc tế. Ngày nay, vần đề cạnh tranh càng trở nên gay gắt và quyết liệt hơn. Bất kì một doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế cũng phải đối mặt với vấn đề này. Thị trường quốc tế rộng lớn, đối thủ cạnh tranh cũng nhiều và càng lớn mạnh, nhất là đối thủ lại là những tập đoàn, công ty xuyên quốc gia thì cạnh tranh cang trở nên gay gắt. Đây là vấn đề khó khăn của cácdoanh nghiệp, đặc biệt là các nước đang phát triển, cácdoanh nghiệp thường vừa và nhỏ mang tầm cỡ quốc gia, chưa phải là quốc tế. 1.3. Lý thuyết xuất khẩu 1.3.1 Lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế Lý thuyết về thương mại quốc tế được coi là bắt đầu bằng các tác phẩm của trường phái trọng thương vào các thế kỷ 16-18, tiếp theo là thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam smith và lợi thế so sánh của David Ricardo. Theo đánh giá lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh đều nhấn mạnh yếu tố cung, coi quá trình sản xuất của mỗi nước là yếu tố quy định hoạt động thương mại quốc tế. Theo các lý thuyết này thương mại quốc tế giữa các nước được thực hiện theo phương thức hàng đổi hàng. Những giả định này khiến cho sự phân tích trở nên đơn giản hơn, nhưng đồng thời vẫn giúp chỉ ra được nguồn gốc sâu xa của thương mại quốc tế. Quá trình chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi chỉ có thể đem lại lợi ích tối đa nếu như nguồn lực được di chuyển trong phạm vi quốc gia. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, hạn chế cơ bản nhất của lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế là ở chỗ nó được xây dựng trên cơ sở học thuyết về giá trị lao động, theo đó lao động là yếu tố duy nhất và đồng nhất trong tất cả các ngành sản xuất. Do tính chất phi thực tế của học thuyết về giá trị lao động cho nên lý thuyết lợi thế so sánh gặp phải nguy cơ bị bác bỏ. 1.3.2 Lý thuyết heckscher-ohlin (H-O) Vào đầu thế kỷ 20, H-O đã đề xuất quan điểm cho rằng chính mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất ở các quốc gia khác nhau và hàm lượng các yếu tố sản xuất sử dụng để làm ra các mặt hàng khác nhau mới là những nhân tố quan trọng quy định thương mại. Dựa trên các khái niệm cơ bản về hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu tố thì nội dung định lý H-O được phát biểu như sau: Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào của quốc gia đó. Giả sử thế giới có hai quốc gia là Việt Nam và Nhật Bản với hai mặt hàng là thép và vải. Việt Nam có 20 chiếc máy và 200 lao động, Nhật Bản có 30 chiếc máy và 1500 lao động. Ngoài ra vải là mặt hàng cần nhiều lao động, thép là mặt hàng cần nhiều vốn. Luc đó Việt Nam sẽ là nước dồi dào tương đối về lao động vì: = > = Lúc đó theo lý thuyêt H-O, Việt Nam sẽ sản xuất và xuất khẩu vải – là mặt hàng cần nhiều lao động, còn Nhật Bản sẽ sản xuất và xuất khẩu thép – là mặt hàng cần nhiều vốn. Dựa trên lý thuyết H- O thì có thể hình dung rằng những nước giàu tài nguyên thiên nhiên sẽ là nước xuất khẩu chúng trên thị trường thế giới. Những nước có nguồn nhân công lớn và tương đối rẻ thì sẽ tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng chế biến sử dụng nhiều lao động. Kết luận so với lý thuyết cổ điển, lý thuyết H-O không những giải thích được bản chất của lợi thế so sánh, mà còn cho phép phân tích tác động của thương mại quốc tế đến giá cả các yếu tố sản xuất và phân phối thu nhập giữa các quốc gia, cũng như trong phạm vi từng quốc gia. 1.4. Các hình thức xuất khẩu Thương mại quốc tế bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Trên giác độ một quốc gia đó chính là hoạt động ngoại thương. Các hình thức xuất khẩu chính bao gồm : 1.4.1 Xuất khẩu hàng hoá hữu hình Xuất khẩu hàng hoá hữu hình (bao gồm nguyên vật liêu, máy móc, thiết bị, lương thực thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng...) Đây là bộ phận chủ yếu và giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. 1.4.2 Xuất khẩu hàng hoá vô hình Xuất khẩu hàng hoá vô hình ( bao gồm các bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng chế, phần mêmg máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dụng cụ lắp ráp thiết bị máy móc, dịch vụ du lịch và nhiều loại hình dịch vụ khác...) Đây là bộ phận có tỷ trọng ngày càng gia tăng phù hợp với sự bùng nổ của cách mạng khoa học – công nghệ và việc phát triển các ngành dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. 1.4.3 Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công Gia công thuê là một hình thức cần thiết trong điều kiện phát triển của phân công lao động quốc tế và do sự khác biệt về điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia. Nó được phân chia thành hai loại hình chủ yếu tuỳ vào cai trò của bên nhận hàng và bên đặt gia công. Khi mà trình độ phát triển của một quốc gia thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ và thị trường thì các doanh nghiệp vào vị trí gia công thuê cho nước ngoài. Nhưng khi trình độ phát triển cao thì nên chuyển từ hình thức gia công cho nước ngoài sang hình thức thuê nước ngoài gia công. 1.4.4 Tái xuất khẩu và chuyển khẩu Trong hoạt động tái xuất khẩu người ta tiến hành nhập khẩu tạm thời hàng hoá từ bên ngoài vào, sau đó lại tiến hành xuất khẩu sang một nước thứ ba. Như vậy ở đây có cả hoạt động mua và bán nên mức rủi ro có thể lớn hơn và lợi nhuận có thể cao hơn. Trong hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán ở nước thứ ba mà ở đây chỉ thực hiện cácdịch vụ như : vận tải quá cảnh, lưu kho lưu bãi, bảo quản... 1.4.5 Xuất khẩu tại chỗ Trong trường hợp này hàng hoá và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài phạm vi biên giới của một quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu, là việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế... hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được kết quả cao do giảm bớt chi phíbao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh, trong khi vẫn có thể thu hồi được ngoại tệ. 1.5. Vì sao phải xuất khẩu giày dép sang EU Ngành da giày Việt Nam mà trong đó giày dép là một trong những mặt hàng chủ yếu đã phát triển rất nhanh và được xem là một trong những ngành công nghiệp chính đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển. Da giày là một trong 3 ngành đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất hiện nay sau dầu thô và dệt may, chiếm trên 10% tổng kim ngạch xuất khẩu. Với khoảng 240 doanh nghiệp đang hoạt động, ngành da giày đang là một ngành xuất khẩu mũi nhọn thu hút khoảng 500 000 lao động. Ngành công nghiệp giày dép Việt Nam trong những năm trở lại đây tăng trưởng rất nhanh đặc biệt là sản lượng và xuất khẩu vì thế việc tìm kiếm và phát triển thị trường là một yêu cầu không thể thiếu. Liên minh Châu Âu EU hiện nay gồm có 27 nước thành viên là một thị trường tiêu thụ giày dép lớn nhất thế giới, với nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới 1,5 tỷ đôi giày dép các loại, mức tiêu thụ giày dép bình quân đầu người hàng năm gần 4 đôi/ người/ năm. EU hiện vẫn là thị trường nhập khẩu giày dép lớn nhất của nước ta, chiếm tỷ trọng 60% về kim ngạch. Theo thống kê của EU, Việt Nam là nước cung cấp giày dép lớn thứ 2 cho các nước EU, chỉ sau Trung Quốc. Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 của nước ta, chiếm tỷ trọng 23% về kim ngạch. Tiếp đến là Mêhicô và Nhật Bản chiếm trên 3% về kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam Từ ngày 01/01/2006 đến 31/12/2008, EU áp dụng GSP mới dành cho 143 nước độ lập, 36 nước và vùng lành thổ, trong đó có Việt Nam. Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập này đơn giản hoá việc phân loại hàng hoá từ loại là rất nhạy cảm, bán nhạy cảm và không nhạy cảm thành hai loại sản phẩm nhạy cảm và không nhạy cảm. Theo hệ thống mới này, sản phẩm nhạy cảm( gồm rất nhiều sản phẩm nông nghiệp, dệt may, gang và thép) được giảm một mức thuế chung là 3,5% đối với những sản phẩm tính thuế theo trị giá( có một số ngoại lệ chủ yếu là hàng dệt may); và giảm 30% đối với sản phẩm tính thuế đặc định so với mức thuế MFN. Các sản phẩm không nhạy cảm được miễn thuế hoàn toàn khi nhập khẩu vào EU. Để tận dụng được điều kiện thuận lợi này chúng ta nên tăng cường xuất khẩu sang EU Kể từ 11/01/2007, khung pháp lý về thị trường thương mại, dịch vụ giữa Việt Nam và EU đã được mở hoàn toàn. Một thời kỳ mới với nhiều cơ hội và thách thức đang đặt ra. Tuy nhiên cơ hội mà chúng ta có được nhiều hơn thách thức cần phải vượt qua. Nhưng nếu chúng ta nắm vững và vận hành tốt các chính sách, thể chế, quy định của WTO nói chung và EU nói riêng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại, dịch vụ của đơn vị, ngành hàng mình nhằm góp phần đưa Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. 1.6 Kinh nghiệm xuất khẩu giày dép Trung Quốc sang EU và bài học đối với Việt Nam . 1.6.1 Tình hình xuất khẩu giày dép Trung Quốc sang EU. EU là một thị trường rộng lớn, song cho đến nay sản phẩm giày da, nhất là giày dép của Việt Nam xuất sang EU chỉ chiếm khoảng 3% khối lượng nhập khẩu của thị trường này, trong khi đó Trung Quốc là 44%. Nguyên nhân chủ yếu lá do các doanh nghiệp da giày Việt Nam ít tham gia trưng bày sản phẩm tại các hội chợ về da giày tại Eu hoặc nếu có chỉ là tham quan, khảo sát thị trường. Hơn nữa khi tham gia tại hội chợ, gian hàng của Việt Nam nghèo nàn hình thức, rời rạc, nhỏ lẻ, mang tính cá nhân không tập trung vào một khu vực để có thể làm nổi bật thương hiệu. Năm 2005, giày dép Trung Quốc xuất khẩu sang EU ước tính khoảng 730 triệu USD, trong khi đó giày dép của EU xuất sang Trung Quốc cũng tăng 34,45% so với năm 2004, đạt 39,03 triệu USD. Lợi thế lớn nhất của Trung Quốc sang thị trường EU nói chung và các thị trường khác nói riêng là sự cạnh tranh về giá do Trung Quốc áp dụng sản xuất hàng loạt với công suất lớn. Lợi thế tiếp theo đó là thiết kế mẫu mã của Trung Quốc đẹp, mặ hàng đa dạng. Năm 2005 khi EU áp dụng thuế chống bán phá giá với giày mũ da Trung Quốc thì Trung Quốc đã chuyển hướng xuất khẩu, mở rộng thị trường trong đó tăng cường xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, một trong những thị trường có nhu cầu nhập khẩu giày mũ da lớn nhất thế giới. Kết quả là xuất khẩu giày mũ da của Trung Quốc sang Nhật Bản tăng đáng kể. Theo số liệu thống kê của tổng cục Hải quan Nhật Bản, 10 tháng năm 2006, kim ngạch xuất khẩu giày mũ da của Trung Quốc sang Nhật Bản 66,378 tỷ yên ( 217,56 triệu USD). Hiện nay Trung Quốc chiếm 30,19% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản, tăng so với 10 tháng năm 2005 là 25,56%. Ngoài việc thực hiện đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, Trung Quốc thực hiện rất thành công chiến lược phân khúc thị trường để tiến hành xuất khẩu. Với những thị trường khó tính, Trung Quốc xuất khẩu những mặt hàng chất lượng tốt, giá cao, với những nước đang phát triển, thu nhập chưa cao Trung Quốc xuất khẩu những mặt hàng chất lượng trung bình, giá rẻ, phù hợp với túi tiền của người tiêu dùng. 1.6.2 Bài học đối với Việt Nam. Thông qua một số kinh nghiệm xuất khẩu Giày dép của Trung Quốc sang các thị trường đặc biệt là EU, Việt Nam nên tiếp thu và rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: Cần phải đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. Các nhà kinh tế đã có câu “không nên để trứng trong cùng một giỏ”. Câu nói này luôn đúng trong mọi thời điểm giảm thiểu được rủi ro. Khi bị áp thuế bán phá giá trên thị trường EU thì Trung Quốc vẫn tiêu thụ được sản phẩm của mình tại thị trường Nhật Bản. Cần mở rộng quy mô sản xuất, giảm chi phí sản xuất sản xuất, hạ giá thành sản phẩm để có lợi thế cạnh tranh về giá. Ngoài ra, phải luôn chú ý đến mẫu mã của sản phẩm, đa dạng, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Phân khúc thị trường để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao hơn. Việc phân khúc thị trường để tránh đối đầu với những sản phẩm săn xuất hàng loạt của Trung Quốc, tránh cạnh tranh với những sản phẩm có chất lượng cao của các nước nội khối EU. Để làm được việc này thì cần nghiên cứu kỹ về thị trường trước khi xuất khẩu. . Chương 2: Thực trạng xuất khẩu giày dép sang EU của Việt Nam. 2.1. Khái quát về tình hình xuất khẩu giày dép của Việt Nam. Trước khi nền kinh tế mở cửa vào những năm 1900, ngành giày dép Việt Nam chủ yếu may mũi giày để xuất sang Liên Bang Xô Viết nhưng chất lượng không cao và chủng loại ít. Khi đó ngành giày dép Việt Nam phải đối mặt với cuộc khủng hoảng gay gắt do không có nhà nhập khẩu. Nhờ chính sách cải cách của chính phủ Việt Nam, nhiều liên doanh với các đối tác nước ngoài được thành lập và ngành giày dép bắt đầu tìm được chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Hiện tại ngành giày dép Việt Nam đang đứng thứ tư trong số 8 nước xuất khẩu lớn nhất thế giới, chỉ sau Trung Quốc, Hồng Kông, Italia. Vì thế cho nên 90% sản phẩm của ngành giày dép Việt Nam là hàng gia công. Kim ngành xuất khẩu của ngành vẫn đạt mức tăng trưởng đều đặn hàng năm. 2.1.1 Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng năm 2006, cả nước có 430 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu giày dép. Khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước có 319 doanh nghiệp, đạt kim ngạch xuất khẩu 940,33 triệu USD. Trong đó 26 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 triệu USD, 24 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu từ 5 đén dưới 10 triệu USD, 45 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 đến dưới 5 triệu USD. Còn khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có 111 doanh nghiệp, đạt kim ngạch xuất khẩu 1,681 tỷ USD. Trong đó có 33 doanh nghiệp xuất khẩu đạt kim ngạch trên 10 triệu USd, 14 daonh nghiệp đạt kim ngạch từ 5 đến dưới 10 triệu USD, 24 daonh nghiệp đạt kim ngạch từ 1 đến dưới 5 triệu USD. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của ngành giày da Việt Nam đạt 3,59 tỷ USD/ năm trong giai đoạn 2001-2006. Thị._. trường chủ yếu của ngành đến nay vẫn là các nước EU, chiếm trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu 2.1 Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu giày dép các năm 2003-2006 Năm 2003 2004 2005 2006 Kim ngạch (tỷ) 2,3 2.43 3,35 3,59 Kim ngạch xuất khẩu giày dép tháng 5/2007 tăng khá mạnh, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm 2006. Trong đó kim ngạch xuất khẩu giày dép sang thị trường EU tăng 19,53%. Năm tháng đầu năm 2007, xuất khẩu giày dép của nước ta tăng 10,32% về lượng, tăng 11,6 % về giá trị. Xuất khẩu giày mũ da tổng hợp đạt mức kim ngạch cao nhất. Tháng 5/2007, xuất khẩu giày dép nước ta tăng 25,65% về lượng và 20,76% về giá trị so với tháng 5/2006, đạt 46,64 triệu đôi với trị giá 396,23 triệu USD. Tính chung 5 tháng đầu năm 2007, nước ta đã xuất khẩu được 202,113 triệu đôi giày dép với trị giá 1,55 tỉ USD, tăng 10,4% về lượng và 11,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2006 2.1.2. Thị trường xuất khẩu 2.1.2.1 Thị trường EU EU là thị trường nhập khẩu giày dép lớn nhất của Việt Nam, xuất khẩu giày dép của nước ta trong tháng 5/2007 sang các nước thuộc khối EU tăng 24,07% về lượng, tăng 19,53% so với cùng kỳ năm 2006. Hiện tại Việt Nam đang đứng thứ hai sau Trung Quốc về xuất khẩu giày dép sang EU, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Từ ngày 6/10/2006, EU áp dụng thuế chống bán phá giá giày mũ da sản xuất tại việt Nam Xuất khẩu sang EU với mức thuế là 10%, còn những sản phẩm giày dép khác không bị ảnh hưởng. Vì vậy, các doanh nghiệp có thể tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu vào EU song cần phải có chiến lược về sản phẩm không nằm trong diện bị áp thuế khi xuất sang EU 2.1.2.2 Thị trường Mỹ Mỹ là thị trường nhập khẩu giày dép thứ hai của Việt Nam với tốc độ nhập khẩu gia tăng mạnh trong thời gian qua, đặc biệt từ sau khi Việt Nam kỳ hiệp định song phương với Mỹ và sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang Mỹ đạt 802 triệu USD, tăng 31% so với năm 2005, chiếm 23% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành Ước tính 6 tháng năm 2007 Kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 1,7 tỷ USD, tăng 20,23 %. Hai thị trường nhập khẩu giày dép lớn nhất của Việt Nam là EU và Mỹ, chiếm tới 78% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước. Tăng trưởng xuất khẩu giày dép sang EU và Mỹ lần lượt là 17% và 40%. Trong thời gian tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với giày dép Việt Nam, với các sản phẩm chính là giày thể thao, giày da nam nữ. Tuy nhiên, để xâm nhập vào kênh phân phối và đáp ứng các yêu cầu của khách hàng tại thị trường này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm bắt đầy đủ thông tin, lựa chọn đối tác tin cậy và thực hiện tốt các yêu cầu về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp 2.1.2.3 Thị trường Nhật Bản Nhật Bản đang là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba với yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm. Tuy Việt Nam và Nhật Bản chính thức dành cho nhau quy chế Tối huệ quốc từ năm 2000 song ngành giày dép vẫn chưa gia tăng xuất khẩu sang thị trường này. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản mới chỉ chiếm gần 3% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Dự kiến đến năm 2010, giày dép của Việt Nam sẽ tăng tỷ lệ xuất khẩu vào Nhật cũng như vào các nước Đông Nam á. 2.2 Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam sang các thị trường Ngoài 3 thị trường trên, giày dép của Việt Nam còn xuất sang một số nước khác như Bỉ, Nam Phi, Hồng Kông, Trung Quốc..,đều tăng mạnh và có nhiều khách hàng đến từ Mêhico. Việt Nam có nhiều vùng tăng trưởng mạnh ngành giày dép như TP.HCM, Đồng như Bỉ, Nam Phi..., trong đó gia tăng mạnh và có nhiều khách hàng đến từ Mêhico Nai, Bình Dương, Hải Phòng...nhiều thương hiệu giày dép đã đứng vững trên thị trường trong nước và khu vực như Biti’s, vina giày... Mục tiêu của ngành giày dép Việt Nam vào năm 2010 là sản xuất 720 triệu đôi dép các loại. Theo đánh giá của các chuyên gia ngành giày dép trên thế giới, Ngành giày dép Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa nhờ vào các lợi thế vốn có của Việt Nam như nguồn nhân công dồi dào, giá rẻ với tinh thần làm việc nhiệt tình, hăng say, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên, thị trường giày dép trên thế giới đang có nhiều thay đổi vì vậy ngành giày dép Việt Nam cần chủ động đổi mới hơn nữa để theo kịp với thị trường Hầu hết các nước trên thế giới đều có ngành sản xuất giày dép nhưng chủ yếu là tại khu vực Châu á và đặc biệt phát triển mạnh ở Trung Quốc. Đến năm 2006, sản lượng giày dép sản xuất tại Trung Quốc chiếm 58,9% sản lượng tiêu thụ của thị trươngg trên thế giới. Vì thế, Trung Quốc đang là sức ép cạnh tranh lớn nhất của ngành giày dép Việt Nam, tiếp đó là ngành giày dép của ấn Độ, Braxin... Ngành giày dép còn phải đương đầu với sức ép từ phía thị trường. Hệ thống thông tin ngày một phát triển, người tiêu dùng co cơ hội để cập nhập thông tin liên quan đến sản phẩm như mẫu mã, thiết kế, nhãn mác cũng như là những thông tin liên quan đến giá cả của mặt hàng trên thị trường thế giới ngày một dễ hơn. Do vậy, khi mua hàng người tiêu dùng trở lên “ khó tính” hơn. Với thị trường phong phú mẫu mã, nhiều thương hiệu, khách hàng kén chọn hơn, có sự so sánh và cân nhắc kỹ lưỡng. Hiện nay ngành hàng này đang phải đối mặt với vấn đề thương hiệu, chiến lược phát triển và đang mất dần lợi thế. Đặc biệt là Việt Nam gia nhập WTO thì nó còn đối mặt với hàng loạt các vụ kiện bán phá giá 2.1.3 Cơ cấu mặt hàng 2.1.3.1 Giày thể thao cao su/ Plastic Kim ngạch xuất khẩu giày cao su/ plastic tháng 9/2006 tăng mạnh do: Xuất khẩu sang EU tháng 9/2006 tăng 71,26% so với cùng kỳ năm 2005, đạt 7,21 triệu USD; xuất khẩu sang Mỹ tăng 102,45%, đạt 3,3 triệu USD, xuất khẩu sang Mêhicô tăng 135,87%, đạt 2,17 triệu USD. Tháng 5/2007 tiếp tục tăng mạnh, tăng 112,9% so với tháng 5/2006, đạt 42,88% triệu USD. Tính tổng 5 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 152,16 triệu USD, tăng 101,23% so với năm 2006. Xuất khẩu giày cao su/ plastic sang EU tháng 9/2006 tăng gần 60% so với tháng 9/2005, đạt 12,49 triệu USD. Trong đó xuất khẩu sang EU, tăng 50,37%, đạt 8,12 triệu USD. 2.1.3.2 Giày mũ da tổng hợp Giày thể thao mũ da tổng hợp, giày đế mũ cao bằng cao su/ plastic; giày thể thao mũ da thuộc, giày có mũ bằng da thuộc, xăng đan trong tháng 5/2007, và trong 5 tháng đầu năm 2007 tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao. Tháng 9/2006 là tháng thứ 3 liên tiếp xuất khẩu giày thể thao mũ da thuộc đạt mức kim ngạch trên 200%. Trong đó xuất khẩu sang EU đạt 10,41 triệu USD, tăng 3,5 lần so với tháng 9/2005, xuất khẩu sang các nước châu Mỹ tăng 4,3 lần so với tháng 9/2005, đạt 3,9 triệu USD ( riêng xuất khẩu sang Mỹ tăng 5,86 lần so với tháng 9/2005, đạt 2,52 triệu USD). 2.1.3.3 Giày mũ nguyên liệu dệt Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu giày mũ nguyên liệu dệt, giày thể thao mũ nguyên liệu dệt, giày không thấm nước tiếp tục giảm mạnh. Trong 5 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu giày mũ nguyên liệu dệt giảm 59,86% ( tương đương 113,02 triệu USD), kim ngạch xuất khẩu giày thể thao mũ nguyên liệu dệt giảm 67,45% ( tương đương 64,3 triệu USD) Kim ngạch xuất khẩu giày mũ kim loại tháng 9/2006 tăng 117,65% so với tháng 9/2005. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Canada tăng 2,52 lần so với cùng kỳ năm 2005, đạt 1,26 triệu USD. 2.1.3.4 Giày tennis/ bóng rổ Trong tháng 5/2007 xuất khẩu tăng 6,5% về lượng nhưng giảm 9,6 % về giá trị do lượng giày tennis/ bóng rổ xuất khẩu có đơn giá trên 15 USD/ đôi giảm 36,07% (tương đương 387,3 nghìn đôi), trong khi lượng giày tennis/ bóng rổ có đơn giá dưới 15USD/ đôi tăng 15,7% ( tương đương 779,2 nghìn đôi). Tính chung 5 tháng đầu năm 2007 kim ngạch xuất khẩu giày tennis/ bóng rổ giảm 3,01% ( tương đương 8,95 triệu USD) 2.2. Thị trường EU 2.2.1. Đặc điểm của thị trường EU 2.2.1.1 Thị trường có quy mô lớn EU là một thị trường rộng lớn gồm 27 quốc gia, trên 500 triệu người, dân số EU đông nên nhu cầu tiêu dùng lớn với nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới 1,5 tỷ đôi giày các loại, mức tiêu thụgiày dép bình quân đầu người 4 đôi/người/năm. Ngoài ra, EU còn là một thị trường mang tính thống nhất cao thể hiện ở nhiều khía cạnh trong đó EU cho phép tự do lưu thông hàng hoá, vốn, sức lao động. Năm 1968, EU đã là một thị trường thống nhất hải quan, có mức thuế quan chung cho tất cả các nước thành viên. Hiện nay, hầu hết các nước sử dụng đồng tiền chung ChâuÂu điều này giúp cho các nước cảm thấy thoải mái, tiện lợi và đơn giản trong khâu thủ tục khi xuất khẩu hàng hoá sang EU. Liên minh Châu Âu chiếm 1/5 giá trị thương mại toàn cầu và là thành viên chủ chốt cuat tổ chức thương mại thế giới ( WTO), và là một trong ba trụ cột chính của nền kinh tế thế giới ( EU, Mỹ, Nhật Bản). Eu là một trong những thị trường lớn trên thế giới cũng như thị trường Mỹ nhưng điều khác ở đây là: EU là một cộng đồng kinh tế mạnh và là một trung tâm văn minh lâu đời của nhân loại. Châu Âu có quy mô lớn như vậy, nhu cầu rất nhiều nên trong hiện tại và tương lai cần đẩy mạnh xuất khẩu vào EU. 2.2.1.2 Thị hiếu và thói quen của người tiêu dùng EU tuy là một thị trường chung rộng lớn nhưng bên cạnh thị hiếu tiêu dùng chung, mỗi quốc gia trong đó lại có những thị hiếu tiêu dùng riêng. Vì vậy khi hàng hoá muốn xâm nhập vào thị trường EU thì cần tìm hiểu kỹ những quy định chung, thị hiếu thói quen, xu hướng tiêu dùng của Châu Âu và cũng không được bỏ qua nghiên cứu riêng về từng nước. Ngoài ra trình độ phát triển kinh tế – xã hội của các nước thành viên khá đồng đều nên người dân ở đây có những sở thích khá giống nhau. Thu nhập của họ khá cao với tổng GDP hiện nay lên tới 9,7 nghìn tỷ USD, thu nhập bình quân tính theo đầu người hơn 21 nghìn USD, EU chỉ còn đứng sau NAFTA có tổng GDP hơn 12 nghìn tỷ USD.. Cho nên họ yêu cầu rất khắt khe về chất lượng và mức độ an toàn về sản phẩm. Có rất nhiều trường hợp mặc dù giá cả rất đắt nhưng họ vẫn mua và không thích chuyển sang một thứ sản phẩm khảc mặc dù nó có thể là rẻ tiền hơn, vì họ quan trọng chất lượng chứ không phải là giá cả, và họ không thích chuyển sang dùng một sản phẩm mới mà mình chưa sử dụng. Đối với nhóm hàng giày dép : Người tiêu dùng EU đang có xu hướng đi giày vải. Xu hướng này ngày càng tăng tỷ lệ với nhu cầu tiêu dùng giày dép hàng năm của EU. Xu hướng này ngày càng tăng ở Châu Âu vì người tiêu dùng ngày càng thichsuwr dụng nhứng sản phẩm có nguyên liệu làm từ thiên nhiên, không gây nguy hiểm đến sức khoẻ người tiêu dùng, tạo cảm giác, tâm lí thoải mái khi sử dụng. Vì những sản phẩm làm từ da nói chung và những sản phẩm giày da nói riêng nếu công đoạn chế biến da không sạch sẽ gây ra những bệnh ngoài da cho chân, giày dép thì hay hỏng không bền. 2.2.1.3 Là một thị trường khó tính EU là một thị trường có lịch sử phát triển lâu đời. Những phong tục, tập quán, thói quen đã ăn sâu vào trong tiềm thức của người dân và nó khó có thể thay đổi những thói quen này nên người ta rất khó tính. Các sản phẩm được được lựa chọn rất kỹ lưỡng ngay từ giai đoạn nhập khẩu và cuối cùng là việc tiêu dùng của người dân, những đòi hỏi về tiêu chuẩn nhập khẩu rất cao và khắt khe. Họ thường tỏ ra thận trọng khi mua hàng. Đây cũng là một thói quen tốt vì ngày nay có rất nhiều hàng giả, hàng nhái đang tràn ngập thị trường. 2.2.1.4 Thị trường bảo vệ người tiêu dùng Chúng ta biết EU là một thị trường phát triển khá đồng đều, thu nhập cao nên họ ít quan tâm đến vấn đề giá cả, mà chất lượng hàng hoá những yếu tố liên quan đến an toàn, bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng được đặt lên hàng đầu. EU kiểm tra nguồn gố xuất sứ của sản phẩm nhằm bảo vệ người tiêu dùng một cách tối đa. Đồng thời đưa ra các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, các quy định chung của Châu Âu để cấm buôn bán sản phẩm sản xuất ở những nước chưa đủ tiêu chuẩn xuất khâủu Châu Âu. Hiện nay, EU có ba tổ chức định chuẩn: Uỷ ban Châu Âu về định chuẩn, Uỷ ban Châu Âu về định chuẩn điện tử, viện định chuẩn viễn thông Châu Âu. Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, EU tích cực tham gia chống nạn hàng giả bằng cách không cho nhập khẩu những sản phẩm ăn cắp bản quyền. 2.2.2. Những quy định của EU đối với giày dép nhập khẩu Với tư cách là thành viên của WTO Việt Nam có cơ hội rất lớn trong việc thúc đẩy hàng hoá vào thị trường EU, như một số mặt hàng may mặc, giày da và thuỷ sản. Đây là những quy định của EU đối với hàng giày dép nhập khẩu. 2.2.2.1 Về tiêu chuẩn Tiêu chuẩn ISO được áp dụng trong các quốc gia EU tuy nhiên ở một số thị trường có những yêu cầu khác nhau về chất lượng, kích cỡ, màu sắc...như tại Liên Hiệp Anh và Ireland. Các tiêu chuẩn quản lý môi trường cho phép các nhà xuất khẩu cơ hội nhằm giới thiệu cho các đối tác bên ngoài biết rằng việc sản xuất được thực hiện theo phương pháp trung thành với môi trường. Các tiêu chuẩn quản lý môi trường là các tiêu chuẩn mang tính tự nguyện. Hiện nay tiêu chuẩn quản lý môi trường cho các quốc gia đang phát triển được áp dụng nhiều nhất là ISO 14001. Mục đích của tiêu chuẩn ISO 14001 về bản chất cho phép mọi người biết rằng công ty được quản lý dưới hệ thống quản lý môi trường. Tiêu chuẩn ISO 14001 có thể trở thành 1 yêu cầu không chính thức tăng khả năng cạnh tranh trong nhiều khu vực thị trường. 2.2.2.2 Thuế nhập khẩu và hạn ngạch Tất cả các quốc gia EU áp dụng một khung thuế nhập khẩu cho hàng nhập khẩu từ bên ngoài. Trong trường hợp không có hiệp định thương mại đặc biệt là các quốc gia xuất khẩu sẽ được đánh thuế dựa khung thuế nhập khẩu chung với mức thuế từ 4,4% đến 18,2% cho các loại giày dép ( không áp dụng cho Trung Quốc, Triều Tiên theo luật chống phá giá). Tuy nhiên có 1 số hiệp định thương mại áp dụng cho nhiều quốc gia đang phát triển như: hệ thống GSP Genẻalized system of preferences với thuế suất từ 3% đến 12,7% cho các loại giày dép. EU không áp dụng hạn ngạch đối với các nước là thành viên của WTO do đó EU không áp dụng hạn ngạch đối với giày dép của Việt Nam hiện nay. 2.2.2.3 Các vấn đề về môi trường Tại nhiều quốc gia châu Âu, nhiều thoả thuận mang tính tự nguyện và mang tính pháp lý được thông qua giữa chính phủ và các nhà sản xuất. Các thoả thuận không chỉ áp dụng cho sản phẩm mà còn áp dụng cho bao bì của sản phẩm. Các nhà xuất khẩu của Việt Nam phải tuân thủ những quy định về môi trường để được xuất khẩu vào EU, do đó các nhà nhập khẩu sẽ chuyển những yêu cầu này cho nhà xuất khẩu. Theo đó, các nhà nhập khẩu buộc phải xem xét ảnh hưởng môi trường của sản phẩm của mình, của quá trình sản xuất và đóng gói. Người tiêu dùng yêu cầu các sản phẩm mang tính môi trường. Do vậy các nhà xuất khẩu Việt Nam phải hiểu rằng việc tuân thủ các quy định về sản phẩm là rất cần thiết, tuy nhiên đầu tiên là đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng EU là điều quan trọng trong thành công tại thị trường EU. Danh sách các sản phẩm bị ảnh hưởng bởi chính sách môi trường của EU và ảnh hưởng bởi sự quan tâm của khách hàng rất dài như các sản phẩm thực phẩm, gỗ, dệt may, điện từ các sản phẩm khoáng. Các vấn đề nhạy cảm là mức độ thặng dư thuốc trừ sâu, phụ gia thực phẩm, sự hiện diện của kim loại nặng, sự hiện diện của các chất ô nhiễm, sử dụng hoá chất, gỗ rừng nhiệt đới, ô nhiễm nguồn nước và không khí và việc sủ dụng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo. Ngoài ra còn những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp ngay đối với nhà xuất khẩu Việt Nam là: 2.2.2.4 Các biện pháp nhằm giảm thiểu chất thải bao bì và tái sử dụng, tái chế các vật liệu bao bì như: Quản lý chất thải, bao bì đóng gói Chỉ thị 94/62/EEC về đóng gói và chất thải bao bì đóng gói: có quy định các mức tối đa của các kim loại nặng trong bao bì và mô tả các yêu cầu đối với sản xuất và thành phần của bao bì: Bao bì được sản xuất bằng phương pháp để cho thể tích và cân nặng được giới hạn ở mức thấp nhất nhằm duy trì mức độ an toàn, vệ sinh cần thiết và sự chấp thuận của người tiêu dùng cho sản phẩm đóng gói. Bao bì được thiết kế, sản xuất và thương mại hoá sao cho có thể được tái sử dụng hoặc thu hồi, bao gồm tái chế, và để giảm thiểu ảnh hưởng về môi trường khi chất thải bao bì hoặc những phần dư từ chất thải bao bì được loại trừ. Bao bì phải được sản xuất để giảm thiểu sự hiện diện của các chất độc hại và các chất nguy hiểm khác có quan tâm đến sự hiện diện của các chất tro, bức xạ khi bao bì hoặc các phần dư được tiêu huỷ hoặc chôn. Vấn đề quản lý chất thải, bao bì đóng gói được quy định ở mỗi quốc gia khác nhau. Thông dụng nhất là hệ thống “Green Dot” do Chính phủ Đức áp dụng. Biểu tượng Green Dot thể hiện cho người mua biết rằng bao bì có thể được tái sử dụng hoặc tái chế và cũng cho biết việc loại bỏ và tái chế bao bì vận chuyển sẽ do các bên liên quan chịu chi 2.3. Thực trạng xuất khẩu giày dép vào EU 2.3.1 Quan hệ thương mại Việt Nam và EU Việt Nam và EU đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao từ tháng 11/1990. Từ đó đến nay, EU đã trở thành đối tác quan trọng của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như chính trị, hợp tác phát triển, thương mại và đầu tư. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EC phát triển rất khả quan, trong 10 năm từ năm 1990 –1999 với quy mô tăng hơn 12 lần và tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 32%. Năm 1999 tổn kim ngạch xuất khẩu hai chiều đạt 4500 triệu USD. Trong đó Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt hơn 3.300 triệu USD, nhập khẩu 1.120 triệu USD. Những mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang EU bao gồm hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản, cà phê, thủ công mỹ nghệ… Việt Nam nhập khẩu từ EU chủ yếu là máy móc, thiết bị công nghệ, hoá chất, tân dược, thực phẩm chế biến…Việt Nam và EU đã dành cho nhau quy chế tối huệ quốc (MFN) và EC cam kết dành cho hàng hoá xuất xứ từ Việt Nam chế độ ưu đãI phổ cập (GSP), gia hạn và tăng hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng dệt may Việt Nam. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU phát triển mạnh và có nhiều triển vọng. Việt Nam có 15 thị trường xuất khẩu trong khối EU kể từ năm 1995, khi EU mở rộng thành 15 nước thì tất cả các thành viên đều có mối quan hệ buôn bán với Việt Nam tuy ở các mức độ khác nhau. Hiện nay, xuất khẩu sang EU chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, trong khi đó giá trị thương mại của EU với Việt Nam chỉ chiếm 0.12% tổng kin ngạch ngoại thương của họ. Để thúc đẩy quan hệ thương mại với EC ( trước hết với các nước thành viên quan trọng như Đức, Pháp, Anh, Italy), doanh nghiệp Việt Nam cần năng động hơn nữa, đa dạng các mặt hàng, nâng cao chất lượng, tìm hiểu luật lệ của EC, nắm bắt cơ hội và phối hợp tốt với các doanh nghiệp trong quan hệ buôn bán với EC. EC chính thức công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Sự công nhận này tạo thêm thuận lợi trong quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa EU và Việt Nam. 2.3.2 Sản xuất giày dép của EU EU có ngành công ngiệp giầy từ rất lâu với quy mô sản xuất lớn và tiên tiến. Công nghệ sản xuất, máy móc, dây chuyền sản xuất giày của EU luôn được đầu tư và đổi mới, nâng cao đạt tới trình độ tinh xảo. Hàng năm, ngành công nghiệp này sản xuất trên dưới 1 tỷ đôI, chiếm 10% toàn thế giới. Ngành công nghiệp này có vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định và tăng trưởng, duy trì lượng cung cấp giày dép ổn định và chất lượng cao, tinh xoả, thời trang cho các quốc gia trên thế giới. Trong đó, Italia là nước đóng vai trò chủ chốt trong công nghiệp giày của khu vực Châu Âu. Quốc gia này có quy mô sản xuất giày lớn nhất,sản lượng luôn đứng đầu, chất lượng cao nổi tiêng thế giới. 2.3.3 Xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU Giày dép xuất khẩu vào EU phải có giấy phép nhập khẩu nhưng sau khi Việt Nam và EU kí hiệp định hợp tác (17/7/1995) thì nhóm hàng này được nhập khẩu tự do vào EU làm kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh lên, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xếp đầu bảng về xuất khẩu giày dép sang thị trường này. 2.3.3.1 Cơ cấu mặt hàng Các sản phẩm giày dép của Việt Nam xuất khẩu sang EU chiếm hơn 60% tổng số lượng giày dép xuất khẩu hàng năm của ta, chủ yếu là giày thể thao chiếm trên 40% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này, Giày vải gần 20%, giày nữ xấp xỉ 15%, dép khoảng 17% và giày da trơn 1,5%. 2.3 Biểu đồ cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang EU Từ năm 2006 tới nay kim ngạch xuất khẩu giày cao su/plastic của nước ta tới các nước EU liên tục tăng mạnh. Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu giày loại này sang EU 8 tháng năm 2006 tăng 52,42% so với cùng kỳ năm 2005, đạt 86,99 triệu USD, chiếm 80% kim ngạch xuất khẩu giày cao su/ plastic của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu giày cao su/ plastic sang EU 8 tháng năm 2006 chiếm 6,6% kim ngạch xuất khẩu giày dép sang EU 8 tháng năm 2006, cao hơn 4,8% trong 8 tháng năm 2005. Trừ Hi Lạp, Bỉ, Hà Lan, kim ngạch xuất khẩu giày cao su/ plastic sang các nước EU tăng mạnh, đặc biệt là Tây Ban Nha, Hungary, Thuỵ Điển và Anh. Việc EU áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da nhập khẩu từ Trung Quốc và Việt Nam trong vòng 2 năm sẽ làm cho giá giày mũ da bán lẻ tại thị trường EU tăng, vượt khả năng chi của một số bộ phận dân cư các nước EU và buộc họ phải chọn loại giày dép khác. Trước tình hình này, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu giày dép sang EU của Việt Nam đang nhanh chóng chuyển sang sản xuất và xuất khẩu sang EU các loại giày không sủ dụng chất liệu da, như giày cao su/ plastic. Vì vậy xuất khẩu giày cao su/plastic sang EU tiếp tục tăng trong thời gian tới. 2.3.3.2 Thị trường xuất khẩu 2.4 Bảng thị trường xuất khẩu giày dép lớn nhất trong liên minh Quốc gia Kim ngạch xuất khẩu (%) Đức 25,3 Anh 21 Pháp 14,3 Bỉ 13,2 ý 8,1 Hà Lan 7,9 Tây Ban Nha 4,6 Thuỵ Điển 2,2 Đan Mạch 1,3 Hy Lạp 0,8 Ai Len 0,6 Bồ Đào Nha 0,2 Luxembourg 0,1 ( nguồn Hiệp hội giày da Việt Nam) Thống kê trong EU cho thấy thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khối vẫn là Đức, thứ hai là Anh, thứ 3 là Pháp. Hiện nay, Bỉ đang là thị trường xuất khẩu giày dép lớn thứ năm của Việt Nam sau các thị trường Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu giày dép sang thị trường này đạt 199,6 triệu USD, 8 tháng đầu năm 2005 đạt 136,4 triệu USD. 2.3.3.3 Kim ngạch xuất khẩu Hàng năm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU đều tăng ( trừ thị trường Phần Lan và Hy Lạp). Tháng 6/2007 xuất khẩu giày dép của nước ta sang EU tăng 6,4% về lượng và 15,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. Xuất khẩu hầu hết sang các thị trường thuộc EU như Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Italia... đều tăng cả về lượng và giá trị. Tháng 6/2007 xuất khẩu sang thị trường Ba Lan đạt mức tăng cao nhất, tăng 259% về lượng và 163,4% so với tháng 6/2006, trong đó giày dép có đơn giá trên 15 USD/ đôi tăng 6,64 nghìn đôi, lượng giày dép có đơn giá dưới 15 USD/ đôi tăng 114,94 nghìn đôi. Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2007, xuất khẩu giày dép của nước ta sang khối EU tăng 7,63% về lượng và 8,87% về giá trị so với cùng kỳ năm 2006. 2.3.4 Cạnh tranh giữa giày dép của Việt Nam với Trung Quốc Giày dép của Việt Nam xuất khẩu sang EU đang phải cạnh tranh gay gắt với giày dép của Trung Quốc. Về các mặt như :chất lượng, giá cả, mẫu mã, thương hiệu… Hiện nay, Trung Quốc đang dẫn đầu thế giới về sản xuất giày dép với sản lượng hàng năm khoảng 6 tỷ đôi ( chiếm sản lượng 1/2 tổng sản lượng của thế giới). Như vậy cuộc cạnh tranh giữa sản phẩm giày dép của 2 nước sẽ là cuộc cạnh tranh giữa chất lượng và giá cả. Cái này buộc các doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua phải chọn hướng đi là làm gia công cho các đối tác từ EU mà chưa có nhiều sản phẩm giày trực tiếp vào thị trường này. 2.5 Mẫu giày dép Trung Quốc 2.6 Mẫu giày dép Việt Nam Tại hội chợ Duseldorf tại Đức năm 2004, Hiệp hội da giày Việt Nam có 11 gian hàng. Tuy nhiên theo nhận định, sự tiến bộ ấy xem chừng không thấm vào đâu với sự có mặt ồ ạt của các doanh nghiệp Trung quốc. Trong đợt này Trung Quốc tham gia trên 200 gian hàng. Mẫu giày Việt Nam hầu như na ná nhau, giá lại cao hơn của Trung Quốc 20-30%. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang phải hạ đơn giá hàng để tìm hợp đồng. Các loại giày Trung Quốc phần lớn là giày thể thao (bằng vải hoặc bằng cao su đúc nguyên khối), kể đến là giày thời trang nam/ nữ giả lot simili và một số ít dép xốp đi trong nhà bằng cao su mền( EVA). Giày Trung Quốc bán rất ăn khách, giá chỉ có 80.000- 100.000 đồng/ đôi đổ lại. Mua nhiều nhất là giới trẻ vì giày Trung Quốc rất bắt mắt, màu sắc trẻ trung, giá lại mền. Theo nhận xét của chủ tiệm giày thì “ cứ ba người vô mua thì cả ba đều chọn giày Trung Quốc, mặc dù trong tiệm cũng có giày Việt Nam. Đối với những sản phẩm giày dùng để đi chơi thường có khuynh hướng chọn mua những loại thời trang, có giá tiền vừa phải, không quan tâm nhiều lắm đến chất lượng. Giày Trung Quốc thường “ thắng” ở những chỗ này. Trong khi giày trong nước chỉ loay hoay với ba màu chủ đạo là nâu đen hoặc nửa nâu đen thì Trung Quốc chọn loại giả da simili pha hồ phối màu, màu nào cũng có. Một mẫu giày trong nước thường chỉ có 3-4 màu, kiểu dáng chừng năm kiểu là hết, giày trông to và thô, mang không êm chân, thậm chí còn thiếu size, giá cao hơn giày Trung Quốc từ 25.000 trở lên. Nhưng với giày Trung Quốc kiểu dáng, màu sắc đa dạng, giá rẻ người mua tha hồ chọn. Có lẽ đánh vào yếu tố thời trang nên dù hàng Trung Quốc chất lượng thật sự không cao, nhưng với tốc độ ra mẫu mới liên tục vẫn thu hút người tiêu dùng. Giày Trung Quốc cách ba ngày là có một đợt hàng mới, thậm chí có khi mới giao hàng hôm qua, hôm nay lại có hàng mang về, trong khi hàng trong nước cả thang vẫn không thấy mẫu mới nào. 2.4. Đánh giá về những kết quả và những hạn chế 2.4.1 Những kết quả 2.4.1.1 Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam sang EU liên tục tăng qua các năm từ năm 2003 đến nay. Riêng đối với năm 2006 do bị áp thuế chống bán phá giá nên những tháng đầu năm kim ngạch có giảm nhưng sau đó dần đi vào ổn định và tính chung cả năm thì kim ngạch xuất khẩu giày dép sang EU vẫn tăng trong năm 2006. 2.4.1.2 Chất lượng giày dép Thông qua việc hợp tác dưới nhiều hình thức với các đối tác nước ngoài, chất lượng giày dép Việt Nam đã có bước nhảy vọt khi những sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng của các công ty hàng đầu thế giới như Nike, Rêbok, Ađía, Bata, Fila... đã được sản xuất và xuất khẩu từ Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam đã có đủ khả năng sản xuất và cung cấp cho thị trường thế giới những sản phẩm có chất lượng, đáp ứng được thị hiếu của từng thị trường. 2.4.1.3 Hệ thống cơ sở hạ tầng Một số doanh nghiệp tiềm năng đã đầu tư hoàn chỉnh hệ thống tự động hoá thiết kế, các dây truyền sản xuất thử nghiệm phục vụ công tác ra mẫu chào hàng đáp ứng yêu cầu kịp thời của khách hàng, của nhà nhập khẩu. ĐIển hình như công ty cổ phần giày An Lạc, công ty cổ phần giày Thái Bình và các công ty 100% vốn nước ngoàI ( TeaKwang Vina, Shyang Hung Cheng, Giày Thượng Đình…) Để đẩy mạnh tócc độ phát triển ngành da giày Việt Nam, từ nay đến năm 2010, toàn ngành sẽ phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm, gia tăng nhanh số lượng và kim ngạch xuất khẩu thông qua việc tranh thủ các lợi thế, đáp ứng tối đa nhu cầu tiêu ding trong và ngoài nước, tạo thêm việc làm cho người lao động, đồng thời nâng cao hiệu quả, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu, chuyển mạnh từ gia công sang tự sản xuất không phụ thuộc vào đối tác như hiện nay. 2.4.2. Những hạn chế của ngành giày dép Việt Nam 2.4.2.1 Công nghệ yếu nên không có sức cạnh tranh Đông Âu là vùng đất còn tiềm năng để giày dép Việt Nam tiếp tục phát triển, mở rộng thị trường. Việt Nam được các nước đánh giá là có lợi thế về phát triển giày dép nhưng con đường cạnh tranh vẫn là khâu khó nhất Một trong những yếu tố đó là chất lượng, theo các doanh nghiệp giày dép đó là mẫu mã. Việt Nam cần chú trọng đặc biệt tới mẫu mã hơn nữa. Hiện tại vấn đề tiếp thị giày dép của Việt Nam còn qúa ít ỏi, gần như là thế giới chưa biết. Do xúc tiến thương mại kém nên hầu hết các doanh nghiệp sản xuất làm gia công ở tầng thứ 2, thứ 3. Như vậy cái gọi là sức cạnh tranh tiềm lực của ngành giày da đều thuộc các công ty lớn của Đài Loan, Hàn Quốc đặt tại Việt Nam. Chính họ đã khai thác được lợi thế về lao động, giá nhân công rẻ, môi trường xã hội ổn định...của Việt Nam Theo thống kê, trên 70% các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam là công ty liên doanh hoặc là 100% vốn nước ngoài. Do đó các doanh nghiệp này phụ thuộc vào họ về công nghệ, thiết bị kỹ thuật, các nguồn nguyên liệu thô, phụ liệu và thị trường. Ngoài ra trong số 30% công ty Việt Nam tham gia vào sản xuất giày thì có tới 70% làm gia công vì thế mà giá trị lợi nhuận đích thực mà ngành này mang lại không lớn. Và chưa tới 20 doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam đủ sức làm hàng dạng FOB. Doanh số xuất khẩu của ngành này tập trung chủ yếu vào các công ty nước ngoài như Samyang, Pouchen...Mặt hàng giày vải vốn là thế mạnh của Việt Nam cũng bị hàng của Trung Quốc chiếm chỗ Và Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là giày thể thao, giày dép và hài đi trong nhà. Cái khó của doanh nghiệp Việt Nam là ở chỗ: Nếu tham gia thị trường giày dép với sản phẩm chất lượng cao thì không cạnh tranh được với sản phẩm của chính các quốc gia nội khối như Italia, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Đức. Còn nếu trong sản phẩm cấp thấp, có chất lượng trung bình thì lại không cạnh tranh được với hàng của Trung Quốc, có chất lượng trung bình nhưng giá lại rất rẻ. Theo đánh giá của các chuyên gia, ở thị trường trong nước, các doanh nghiệp nội địa chưa phát huy được tiềm lực. Mặc dù hàng Trung Quốc chất lượng thực sự không cao, nhưng với tốc độ ra mẫu mới liên tục vẫn thu hút được người tiêu dùng. Thường chỉ cách vài ngày là có mẫu mới trong khi hàng trong nước cả tháng cung không có mẫu mới nào, giá giày trong nước lại cao hơn rất nhiều so với hàng Trung Quốc. Điểm yếu của các công ty giày Việt Nam là chưa có sụ định hướng rõ rệt, chưa tạo được dấu ấn cho thương hiệu của mình. Trong khi giày trong nước chỉ có 3 màu củ đạo là nâu, đen hoặc nửa nâu nửa đen thì Trung Quốc chọn loại giả da simili tha hồ phối màu, màu nào cùng có. Một mẫu giày trong nước thường chỉ có 3-4 mà, kiểu dáng chừng 5 kiểu là hết. Nhưng với giày Trung Quốc màu sắc thường không dưới 10 và và kiểu thì phải trên số chục. Nếu thất bại ngay trên sân nhà, thì giày dép Việt Nam khó có thể cạnh tranh trên sân khách. Việt Nam gia nhập WTO có rất nhiều đơn đặt hàng nhưng các doanh nghiệp Việt Na._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0446.doc
Tài liệu liên quan