Vấn đề giải quyết cho lao động bị mất việc làm tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đấ

Bộ lao động thương binh xã hội hội đồng khoa học bộ ============== cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ================= biên bản hội thảo khoa học "Vấn đề giải quyết cho lao động bị mất việc làm tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất" Ngày 10 và 11/12 tháng / năm 2006, HĐKH tổ chức hội thảo khoa học "Vấn đề giải quyết cho lao động bị mất việc làm tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất" Dưới sự chủ trì của TS. Lê Duy Đông - Thứ trưởng, Phó chủ tị

doc15 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề giải quyết cho lao động bị mất việc làm tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đấ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch HĐKH Bộ. Thành phần dự: - Các thành viên HĐKH Bộ - Đại diện một số đơn vị liên quan - Khách mời - Các Bộ phòng thư ký tổng hợp QLKH Nội dung hội thảo: - Hội thảo tập trung thảo luận các vấn đề sau: 1. Tác động tích cực của việc thu hồi đất 2. Các vấn đề xã hội bức xúc trong thời gian thu hồi đất. 3. Vấn đề xây dựng chất lượng chính sách đồng bộ nhằm giải quyết và ổn định đời sống lâu dài cho nguồn lao động tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. * Ngành thứ nhất: Hội đồng thảo luận các vấn đề: (1) Tác động tích cực của việc thu hồi đất (2) các vấn đề xã hội bức xúc trong quá trình thu hồi đất Về tác động tích cực của việc thu hồi đất, hội thảo nhất trí đánh giá: Đất đai được thu hồi đã góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng của đất nước. Một là, nhờ có đất thu hồi, cả nước đã xây dựng được 131 khu công nghiệp, thu hút được hàng trăm dự án đầu tư ở trong và ngoài nước với hàng chục tỷ USD và hàng ngàn tỷ đồng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hai là, chúng ta đã nâng cấp và xây dựng mới được khá đồng bộ và tương đối hiện đại hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng. Ba là, các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ được mở rộng nhanh và được xây mới hiện đại hơn trước. Ngoài ra, một loạt các thị xã cũng được mở rộng, xây mới khá khang trang và được nâng lên thành thành phố như: Lạng Sơn, Lào Cai, Điện Biên, Hải Dương, Thanh Hóa, Pleyku, Quảng Ngãi… cả nước đã hình thành một hệ thống khá đồng bộ các đô thị trung tâm và đô thị vệ sinh, từng bước thực hiện tốt mục tiêu chiến lược phát triển đô thị Việt Nam giai đoạn 1996 - 2020. Bốn là, kinh tế phát triển đã tạo điều kiện thu hút, giải quyết việc làm ổn định cho hàng triệu lao động với thu nhập tương đối khá, giúp họ từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, cũng như tinh thần của bản thân và gia đình. Ngoài số lao động trực tiếp được thu hút vào các doanh nghiệp của các khu công nghiệp còn có trên 1 triệu lao động gián tiếp phục vụ cho các khu công nghiệp. Các tỉnh, thành phố thu hút được nhiều lao động vào làm việc trong các khu công nghiệp là: Đồng Nai: 190 ngàn người, Hà Nội: 15 ngàn người, Đà Nẵng: 14,5 ngàn người và Bình Định: 12 ngàn người. Một số vấn đề bức xúc trong quá trình thu hồi đất: Hội thảo nhất trí đánh giá: Mặc dù thu hồi đất có tác động rất tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội như nêu trên, nhưng cho đến nay, thu hồi đất đang là vấn đề "nóng", bức xúc ở nhiều địa phương. Việc thu hồi đất ở nước ta đang còn tồn tại nhiều vấn đề cần được giải quyết một cách đồng bộ như: đời sống, việc làm của người bị thu hồi đất; chuyển đổi nghề nghiệp cho những người bị mất tư liệu sản xuất; chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng; vấn đề tái định cư; vấn đề sử dụng hợp lý đất đã thu hồi… Trong đó, vấn đề bức xúc đang được các cơ quan chức năng Nhà nước và xã hội quan tâm đến việc làm và đời sống của lao động bị thu hồi đất. Các vấn đề nổi lên là: + Mất việc làm của lao động hộ bị thu hồi đất: Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, giai đoạn 2000 - 2004, số diện tích đất nông nghiệp đã được chuyển đổi mục đích sử dụng là gần 157.000 ha, trong đó xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất gần 22.000 ha, xây dựng cụm công nghiệp vừa và nhỏ gần 35.000 ha, xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị gần 100.000 ha. Giai đoạn 2001 - 2005, tại 14 tỉnh có tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh, tổng diện tích đất nông nghiệp đã chuyển mục đích sử dụng là 20.631,4 ha. Những địa phương có diện tích thu hồi lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Phú Yên, Cần Thơ. Ngay sau khi thu hồi đất, đã có một bộ phận lao động mất việc làm hoặc thiếu việc làm. Tại 14 tỉnh, thành phố, khảo sát tình hình lao động bị mất việc làm trong nông nghiệp như sau: Trong giai đoạn 2001 - 2005, tại 14 tỉnh, thành phố kể trên, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi là 20.631,4 ha, tương ứng số lao động bị mất việc làm trong nông nghiệp là 265.709 người, tính bình quân mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi có khoảng 13 lao động phải chuyển sang làm việc khác, trong đó có nhiều lao động chưa tìm được việc làm mới. Các tỉnh, thành phố có nhiều lao động bị mất việc làm trong nông nghiệp là Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Hải Dương, Thái Bình, Đà Nẵng… Việc thu hồi đất tập trung phần lớn vào đất canh tác nông nghiệp và khu đông dân cư, tập trung vào một số xã, nhất là ở ven đô thị lớn (khoảng 70 - 80%), có xã thậm chí phải thu hồi 100% diện tích đất sản xuất. Vì vậy, mặc dù diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích đất nông nghiệp của nhiều tỉnh (1-2%), nhưng tình trạng khó khăn về việc làm của người lao động lại tập trung vào một số khu vực nhất định. + Giá đất đền bù cho người dân chưa thỏa đáng: Mặc dù Nhà nước ta đã có quy định về giá đền bù đối với từng loại đất khi bị thu hồi (Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ) nhưng do nhận thức và trình độ của đội ngũ cán bộ ở địa phương khác nhau nên trong thực tiễn việc định giá đất để đền bù cho người dân có đất bị thu hồi cũng rất khác nhau giữa các địa phương + Việc tổ chức tái định cư cho người dân một số nơi làm chưa tốt Trong thực tiễn việc tái định cư đối với các hộ dân bị thu hồi đất được tiến hành khá đa dạng, tuy nhiên phổ biến nhất có hai cách: Một là, xây các khu chung cư cao tầng rồi đưa dân đến sinh sống, làm ăn Hai là, bố trí một khu đất mới, rồi xây nhà sau đó đưa dân đến ở, hoặc phân lô, hỗ trợ kinh phí để người dân tự xây. - Đào tạo nghề, giúp giải quyết việc làm cho những người bị thu hồi đất làm chưa được chú trọng. Việc mở rộng các thành phố, xây dựng các khu công nghiệp là cơ hội rất tốt cho việc thu hút và giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, lao động công nghiệp và dịch vụ là lao động đòi hỏi phải có tay nghề, có chuyên môn và nghiệp vụ, nói cách khác là phải được đào tạo bài bản. Điều đáng nói là lao động nông thôn, nông nghiệp do Tổng cục Thống kê công bố đầu năm 2004, cả nước có 93% số lao động nông thôn chưa qua đào tạo, chỉ có 2,3% lao động được đào tạo tay nghề theo trình độ sơ cấp hoặc công nhân kỹ thuật, 2,4% có trình độ trung cấp kỹ thuật, 0,8% có trình độ cao đẳng, 0,7% có trình độ đại học và tương đương. Vì vậy, các khu công nghiệp thu hút được rất ít lao động nông thôn. ở hầu hết các địa phương, số lượng lao động trên 35 tuổi chiếm tỷ lệ lớn (35%). Trong sản xuất nông nghiệp, đây là lực lượng có kinh nghiệm, song khi bị thu hồi đất thì đây là bộ phận có nguy cơ thất nghiệp kéo dài lớn nhất vì tuổi cao nên khả năng được tuyển vào các doanh nghiệp rất ít và khó thích nghi với những công việc mới. Trong khi đó, ở độ tuổi này, số lao động chưa qua đào tạo rất nhiều và việc tham gia các khóa đào tạo chuyển nghề đối với họ cũng không dễ dàng như đối với lao động trẻ. Số lao động này thực tế rất khó để tìm được việc làm mới. Hơn nữa, nhận thức của người lao động còn thụ động, ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước, vào tiền đền bù mà không cố gắng vượt qua khó khăn tìm kiếm việc làm. Tâm lý chờ nhận sự ưu đãi của Nhà nước và các doanh nghiệp mà không có sự chuẩn bị nghề nghiệp mới đang tồn tại một cách phổ biến ở người lao động thuộc các vùng bị thu hồi đất. Hiệu quả sử dụng tiền đền bù rất thấp, rất ít hộ dùng tiền để tham gia vào các lớp học nghề. Như vậy, vấn đề bất cập hiện nay là công tác quy hoạch ở vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp chưa gắn với chế độ chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động; việc tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ chưa thiết thực và đồng bộ; nguồn lực để hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm cho lao động khu vực chuyển đổi chưa được đầu tư thích đáng. Với mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị… thì việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp trong thời gian tới sẽ vẫn tiếp tục gia tăng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chuyển đổi ồ ạt mà phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và việc giải quyết việc làm cho người lao động. - Việc thu hút lao động tại chỗ, nhất là thanh niên vào các khu công nghiệp phải là ưu tiên số một, hoặc thực hiện phương châm địa phương có công trình, có dự án, người dân có việc làm, đang còn khó khăn, trên thực tế chưa giải quyết được bao nhiêu, mặc dù các địa phương đều có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đóng trên địa bàn, đặc biệt là doanh nghiệp sử dụng đất thu hồi phải ưu tiên thu hút lao động tại chỗ. Nguyên nhân chủ yếu là: + Người lao động, nhất là thanh niên chưa được qua đào tạo nghề nên không đáp ứng được yêu cầu về tay nghề của doanh nghiệp. Kết quả khảo sát cho thấy chỉ có 27,23% lao động bị thu hồi đất nông nghiệp đã tốt nghiệp THPT và 14% lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở lên. Nhiều địa phương có tới hàng ngàn lao động bị mất việc làm trong nông nghiệp nhưng chỉ có 10-20 lao động đã qua đào tạo. + Nhiều địa phương có tình trạng quy hoạch treo, đất đã được thu hồi nhưng không triển khai dự án theo đúng tiến độ, hoặc chủ đầu tư nhận đất nhưng cũng không triển khai xây dựng dẫn đến dân mất đất không có việc làm, còn doanh nghiệp cũng không thu hút được lao động vào làm việc. Đây là hiện tượng khá phổ biến và gây lãng phí lớn, dân rất bất bình. - Thị trường lao động ở nông thôn chưa phát triển mạnh, tính chủ động năng động trong chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm, tự tạo việc làm của bộ phận lớn người lao động còn hạn chế. - Chính sách và việc thực hiện các chính sách của Nhà nước liên quan đến thu hồi đất còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu của nhân dân, nhất là nguồn lực dành cho dạy nghề, hỗ trợ việc làm đối với lao động bị thu hồi đất còn hạn chế; vốn cho vay từ quỹ quốc gia về việc làm chỉ đáp ứng được khoảng 35% nhu cầu vay vốn; chưa hình thành quỹ hỗ trợ việc làm, dạy nghề ở tỉnh, thành phố nên chưa có điều kiện tập trung hỗ trợ đủ cho các đối tượng thuộc diện bị thu hồi đất. Ngày thứ 2: Hội thảo tập trung thảo luận về: - Vấn đề xây dựng chính sách đồng bộ nhằm việc làm, thu nhập ổn định lâu dài cho lao động tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất: - Để giải quyết việc làm cho lao động mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất phải hoàn thiện chính sách tạo việc làm và thu nhập cho hộ bị thu hồi đất. a) Giải quyết việc làm và thu nhập của người dân có đất bị thu hồi gắn với giải quyết việc làm cho người lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hoá Việc làm của người lao động ở nước ta chỉ có thể giải quyết được căn bản nếu gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây cũng là con đường cơ bản và lâu dài để giải quyết vấn đề lao động dôi dư trong nông nghiệp và việc làm của hộ có đất bị thu hồi Do vậy, các chính sách về đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, thương mại và du lịch; phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; phát triển các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông thôn; ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, tạo ra những sản phẩm nông nghiệp có hàm lượng chất xám cao, giá trị kinh tế cao; phát triển mạnh mẽ ngành nghề thủ công nghiệp, dịch vụ trong nông thôn… có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hiện nay và lâu dài để giải quyết việc làm và thu nhập cho nông dân và việc làm cho lao động mất việc làm trong hộ bị thu hồi đất. b. Hoàn thiện chính sách khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp - Nhà nước có chính sách hỗ trợ khuyến khích hộ gia đình vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất tích cực ứng dụng công nghệ mới, mở các lớp đào tạo nghề mới miễn phí hoặc phí thấp; hỗ trợ việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho hộ gia đình, doanh nghiệp tích cực ứng dụng khoa học và công nghệ vào nông nghiệp - Hoàn thiện chính sách đầu tư đồng bộ ứng dụng khoa học và công nghệ để có hiệu quả, kể từ đầu tư cho con người, đến máy móc thiết bị, kết cấu hạ tầng. - Cần có chính sách khuyến khích liên kết giữa các cơ sở sản xuất vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất với các cơ quan nghiên cứu và hoạt động khoa học công nghệ để gắn khoa học, công nghệ với sản xuất, sản xuất với đời sống. c. Cần bổ sung vào Luật đất đai và các nghị định của Chính phủ về trách nhiệm của Nhà nước các cấp có liên quan đến vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp và đào tạo đối với người dân có đất bị thu hồi. Trong Luật và các Nghị định của chính phủ cần đặt vấn đề đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm mới đối với người có đất bị thu hồi là vấn đề kinh tế, chính trị xã hội hàng đầu mà chính quyền các cấp phải có trách nhiệm giải quyết. d. Đối với người lao động tuổi từ 35 trở lên, khó có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi đất, Nhà nước cần có chính sách dành một phần đất trong hoặc sát với khu công nghiệp cấp cho nông dân để tổ chức các hoạt động dịch vụ như xây nhà cho thuê, bán hàng tạp hóa, quán ăn, sửa chữa xe máy… phục vụ sinh hoạt cho các khu công nghiệp. Khi thực hiện di dân tái định cư hoặc thu hồi đất, cần đánh giá đúng thực trạng lao động, việc làm của những hộ sau khi bị thu hồi đất. Trên cơ sở đó, Nhà nước các cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp mới có được kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động sát với yêu cầu của các doanh nghiệp. - Chính sách lập quỹ hỗ trợ dạy nghề từ tiền thu của địa phương cho thuê đất và từ nguồn kinh phí giải phóng mặt bằng. - Chính sách hỗ trợ của ngân sách và của doanh nghiệp cho giải quyết việc làm đối với lao động bị thu hồi đất; - Chính sách dành tỷ lệ nhất định đất cho các hộ gia đình trong vùng chuyển đổi đất để làm kinh tế gia đình (dịch vụ); - Chính sách giải quyết việc làm cho số lao động lớn tuổi; - Chính sách tổ chức khu tái định cư theo nghề nghiệp để gắn tái định cư với tái tạo việc làm; - Chính sách phát triển dịch vụ ngoài khu công nghiệp - Chính sách đối với lao động trẻ về dùng một phần tiền đền bù để đào tạo nghề bắt buộc cho họ, đồng thời có cơ chế buộc các doanh nghiệp phi nông nghiệp được sử dụng đất thu hồi phải có trách nhiệm tuyển dụng số thanh niên được đào tạo này vào làm việc. e. Chính quyền địa phương cần chủ động hướng dẫn người dân sử dụng tiền đền bù một cách có hiệu quả. Qua tổng kết mô hình tạo việc làm cho lao động bị thu hồi đất cho thấy, số tiền đền bù do thu hồi đất một phần giao cho người dân xây dựng nhà cửa và chi dùng vào những việc thật cần thiết, phần còn lại lớn hơn có thể được góp vố với doanh nghiệp dưới hình thức mua cổ phần, hoặc gửi vào ngân hàng hoặc mua bảo hiểm. Với cách này, người dân sau khi bị thu hồi đất, vẫn được chia lợi nhuận từ kết quả sản xuất công nghiệp, kể cả có việc làm ngay trên mảnh đất của mình hoặc nhận được lãi suất tiền gửi để có thu nhập ổn định, điều này rất cần thiết đối với lao động hết tuổi, với người già không có khả năng lao động. Bộ lao động thương binh xã hội hội đồng khoa học bộ ============== cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ================= biên bản hội thảo khoa học "Vấn đề xây dựng luật BHXH Ngày 16 tháng 01 năm 2006, HĐKH Bộ tổ chức HTKH chuyên đề; "Vấn đề xây dựng luật BHXH" dưới sự chủ trì của TS. Lê Duy Đông - Thứ trưởng - Phó chủ tịch HĐKH Bộ. Thành phần dự: - Các thành viên HĐKH Bộ - Đại diện một số đơn vị liên quan - Các cán bộ phòng thư ký tổng hợp, phòng QLKH Nội dung họp: Hội thảo thảo luận các vấn đề sau: + Thực trạng hệ thống chính sách BHXH + Quan điểm nguyên tắc xây dựng luật BHXH + Kết cấu của việc thảo luận I. Đánh giá thực trạng hệ thống chính sách BHXH 1. Những kết quả đạt được sau 10 năm thực hiện chính sách BHXH: Phạm vi đối tượng tham gia BHXH được mở rộng đến mọi người lao động thuộc các thành phần kinh tế có hợp đồng lao động có thời hạn đủ 3 tháng trở lên. Năm 1996 mới có 3,2 triệu người lao động tham gia BHXH thì đến năm 2004 đã lên tới 5,8 triệu người (tăng gần 2 lần so với năm 1996). + Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của người sử dụng lao động (15% tổng quỹ lương) và người lao động (5% tiền lương, tiền Nhà nước đảm bảo. Quỹ bảo hiểm xã hội đã được thành lập, hoạt động theo nguyên tắc hạch toán cân đối thu chi, độc lập với Ngân sách Nhà nước, được quản lý, sử dụng theo các quy định của pháp luật. + Các chế độ BHXH đã góp phần ổn định đời sống của người lao động trong quá trình lao động và nghỉ hưu; quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động và nghĩa vụ của người lao động hướng tới sự bình đẳng giữa người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế, giải quyết hợp lý hơn mối quan hệ giữa đóng và hưởng, khắc phục một bước tính bình quân nhưng vẫn đảm bảo tính xã hội thông qua việc điều tiết, chia sẻ rủi ro. Thực hiện thống nhất việc quản lý Nhà nước về BHXH; xác định rõ chức năng quản lý Nhà nước với chức năng hoạt động sự nghiệp. Trên cơ sở đó năm 1995, Chính phủ đã thành lập tổ chức Bảo hiểm xã hội Việt Nam để thực hiện nhiệm vụ, quản lý và chi trả các chế độ BHXH. Từ khi có tổ chức Bảo hiểm xã hội Việt Nam, việc thu chi và giải quyết chế độ BHXH được chặt chẽ, đúng đối tượng, số thu BHXH tăng nhanh hàng năm. Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, năm 1996 thu được 2.570 tỷ đồng; năm 2000 thu được 5.215 tỷ đồng; năm 2003 số thu là 9.620 tỷ đồng, tăng gần 4 lần so với năm 1996 và năm 2004 số thu BHXH đạt mức 10.704 tỷ đồng. 2. Những vấn đề còn tồn tại: Về đối tượng tham gia BHXH tuy đã được mở rộng nhưng số người tham gia BHXH chưa nhiều. Hiện nay cả nước có khoảng trên 40 triệu lao động, trong đó gần 10 triệu lao động có quan hệ lao động, nhưng thực tế số người tham gia BHXH chỉ có 5,8 triệu người, chủ yếu vẫn là lao động ở khu vực Nhà nước; số lao động làm việc ở các cơ sở sản xuất, kinh doanh ngoài quốc doanh (kể cả liên doanh) tham gia BHXH thấp, chỉ chiếm khoảng 20% tổng số lao động ngoài quốc doanh thuộc diện phải tham gia BHXH. + Một số quy định trong các chế độ BHXH không còn phù hợp, cụ thể: - Phần lớn người lao động đóng BHXH trên tiền lương của thang bảng lương và mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định. Do chế độ tiền lương thấp nên mặc dù hưởng lương hưu với tỷ lệ cao, đời sống của người nghỉ hưu vẫn còn khó khăn. - Quyền lợi và trách nhiệm khi đóng BHXH của người lao động quy định trong các chế độ, nhất là hưu trí và tử tuất chưa hợp lý, người có thời gian đóng ít, về hưu sớm nhưng hưởng chế độ với thời gian dài. Ngược lại người có thời gian đóng BHXH dài chưa hưởng chế độ hưu hoặc mới hưởng ít năm bị chết mà thân nhân không đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng thì chỉ được hưởng tối đa 12 tháng lương hưu. Theo mức đóng hiện nay thì số tiền đóng BHXH trong 30 năm của một người hưởng lương theo thang lương, bảng lương do Nhà nước quy định chỉ đủ chi trả lương hưu bình quân 8 năm. Trong khi đó thời gian hưởng lương hưu của người lao động sau khi nghỉ hưu bình quân khoảng từ 15 năm đến 18 năm. Do đó, quỹ BHXH phải bù thêm bình quân từ 7 năm đến 10 năm. + Việc tổ chức thực hiện chính sách BHXH còn một số hạn chế, chưa có giải pháp tích cực để chống tình trạng chiếm dụng, nợ đọng quỹ BHXH. Theo số liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tính đến 31/12/2004 số nợ đọng BHXH khoảng 582,5 tỷ đồng (chiếm 5% tổng số thu BHXH). Nguyên nhân chủ yếu là do: - Nhận thức của các bên tham gia BHXH chưa đầy đủ; - Cơ chế chính sách, chế tài chưa đủ mạnh để buộc người sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động; - Một số quy định về thủ tục giải quyết chế độ BHXH cho người lao động còn rườm rà, chưa bảo đảm các yêu cầu của cải cách hành chính. + Quỹ BHXH dài hạn (thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất) chưa đảm bảo cân đối dài hạn. Kết quả dự tính cho thấy, quỹ có khả năng cân đối thu - chi đến năm 2019, từ năm 2020 trở đi số chi lớn hơn số thu, quỹ sẽ giảm nhanh và dự báo năm 2031 số chi sẽ lớn hơn rất nhiều so với số thu. Nguyên nhân - Do thực hiện một số chính sách xã hội như tinh giảm biên chế, sắp xếp tổ chức trong khu vực hành chính sự nghiệp, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước nên từ năm 1999 trở lại dây tuổi nghỉ hưu bình quân chỉ đạt 51,8 (nam 54,8 và nữ 49,2); trước năm 1999 tuổi nghỉ hưu bình quân là 54,4 tuổi (nam 57,1 và nữ 51,9 tuổi) đã làm giảm nguồn thu và tăng chi trả từ quỹ; - Tiền nhàn rỗi của quỹ đầu tư chủ yếu hiện nay dưới hình thức mua trái phiếu, cho Nhà nước và các ngân hàng vay nên mức tăng trưởng thấp. + Bộ luật lao động đã quy định loại hình BHXH tự nguyện, nhưng chưa thể hiện hóa bằng văn bản dưới luật, nên một bộ phận người lao động không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc có nguyện vọng nhưng chưa được tham gia loại hình BHXH này. + Chưa có chính sách về bảo hiểm thất nghiệp để giải quyết chế độ cho người bị thất nghiệp. Một thực tế tất yếu xảy ra tình trạng thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường, thị trường lao động đã được hình thành và phát triển. Hiện nay ở nước ta tỷ lệ thất nghiệp chiếm khoảng 6%, họ đều phải tự lo nên đời sống gặp nhiều khó khăn. + Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về BHXH còn tản mạn, chồng chéo và đa số là những văn bản dưới luật. Những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới liên quan đến chính sách BHXH như: Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Phá sản doanh nghiệp, Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam , Luật Hôn nhân gia đình, pháp lệnh Cán bộ, công chức, Pháp lệnh lực lượng cảnh sát nhân dân Việt Nam làm cho việc thực hiện các chế độ BHXH chưa được đồng bộ và thống nhất. 2. Quan điểm, nguyên tắc xây dựng luật BHXH - Quan điểm: a. Luật Bảo hiểm xã hội tiếp tục thể chế hóa Hiến pháp và đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động, bảo đảm sự bình đẳng của các bên tham gia BHXH, góp phần cải thiện cuộc sống người lao động trong quá trình lao động, sau lao động và ổn định xã hội. b. Nhà nước thống nhất quản lý về BHXH thông qua việc ban hành chính sách, chế độ BHXH bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động; quy định trách nhiệm của các bên tham gia BHXH, tổ chức hệ thống BHXH nhằm phục vụ người lao động, không vì mục đích lợi nhuận. c. Luật Bảo hiểm xã hội xây dựng trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện chính sách BHXH hiện hành, khắc phục những bất cập của các chế độ BHXH, bảo đảm tương quan hợp lý giữa đối tượng tham gia BHXH ở các thời kỳ khác nhau, bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật để bảo đảm quan hệ hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội trong quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế và bảo đảm sự cân đối, an toàn, tăng trưởng của quỹ BHXH; tạo điều kiện hội nhập, thúc đẩy cải cách kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực. - Nguyên tắc: a. Quy định quyền lợi gắn với trách nhiệm thể hiện nguyên tắc đóng hưởng; người sử dụng lao động có thuê mướn lao động và người lao động phải có trách nhiệm đóng đầy đủ BHXH theo quy định b. Chính sách BHXH vừa thể hiện được quan hệ hợp lý giữa đóng và hưởng, vừa thể hiện tính xã hội; chia sẻ rủi ro được thể hiện ở mức độ khác nhau tùy theo tính chất của từng chế độ BHXH. c. Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được hạch toán tương ứng với từng loại hình và từng nhóm chế độ; ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; hưu trí và tuất; bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Quỹ được quản lý và sử dụng theo nguyên tắc cân đối thu - chi, bảo toàn và phát triển. d. Tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng lao động và người lao động trong quá trình tham gia đóng và thụ hưởng chính sách BHXH một cách dễ dàng, đầy đủ và thuận lợi. 3. Kết cấu của dự thảo luật bảo hiểm xã hội Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội gồm 10 chương, 71 điều. Chương I: Những quy định chung Gồm 12 Điều (từ điều 1 đến điều 12) quy định phạm vi điều chỉnh đối tượng áp dụng, quyền và trách nhiệm của các bên trong quá trình tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội, giải thích một số từ ngữ và những quy định mang tính nguyên tắc chi phối toàn bộ nội dung của Luật bảo hiểm xã hội. Chương II: Bảo hiểm xã hội bắt buộc Gồm 18 Điều (từ điều 13 đến điều 30), chia thành 4 mục, mỗi mục tương ứng với một chế độ của bảo hiểm xã hội bắt buộc, như chế độ ốm đau; chế độ thai sản; chế độ cho người lao động khi bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí; chế độ tử tuất. Trong các chế độ này quy định cụ thể về đối tượng, điều kiện được hưởng và mức hưởng của từng chế độ. Chương III: Bảo hiểm xã hội tự nguyện Gồm 5 Điều (từ điều 31 đến điều 35), quy định đối tượng của bảo hiểm xã hội tự nguyện, các chế độ hưu trí, trợ cấp một lần; điều kiện hưởng; mức lương hưu; mức hưởng bảo hiểm một lần. Chương IV: Bảo hiểm thất nghiệp Gồm 6 Điều (từ điều 36 đến điều 41), quy định đối tượng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp; điều kiện hưởng, mức trợ cấp, thời gian hưởng trợ cấp; đào tạo nghề và giới thiệu việc làm; các trường hợp chấm dứt hoặc tạm dừng hưởng. Chương V: Quỹ bảo hiểm xã hội Gồm 14 Điều (từ điều 42 đến điều 55), chia thành 3 mục, Quỹ BHXH bắt buộc, Quỹ BHXH tự nguyện và Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Quỹ BHXH bắt buộc gồm 3 quỹ thành phần: quỹ ốm đau, thai sản; quỹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; quỹ hưu trí và tử tuất. Trong mỗi mục quy định rõ nguồn hình thành, quản lý và sử dụng quỹ, mức đóng của người tham gia bảo hiểm. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV669.doc
Tài liệu liên quan