Vận dụng quan điểm toàn diện trong vấn đề thực hiện công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

Lời nói đầu Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, mức sống nhân dân thấp. Đứng trước bối cảnh đó con đường đúng đắn duy nhất để đổi mới đất nước là đổi mới kinh tế. Từ 1986 , vận dụng quan điểm toàn diện của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2767 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vận dụng quan điểm toàn diện trong vấn đề thực hiện công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lênin và nhận thức rõ về thực trạng đất nước Đảng ta đã có những chủ chương đúng đắn thể hiện trong các văn kiện đại hội Đảng từ đại hội Đảng VI đến đại hội Đảng IX làm kim chỉ nam cho sự nghiệp giải phóng xã hội, phát triển con người xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Đường lối đó được thực hiện mười sáu năm đổi mới đã đem lại những thành tựu đáng khích lệ chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng phía sau những thành tựu đó còn không ít những khó khăn nổi cộm. Do đó cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó. Vì vậy em chọn đề tài: Vận dụng quan điểm toàn diện trong vấn đề thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay. Làm tiểu luận triết học cho mình. Chương I phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu của quan điểm toàn diện I. phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu của quan điểm toàn diện 1.1 Thế giới vật chất được tạo thành từ những sự vật, những hiện tượng, những quá trình khác nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập tách rời nhau? Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ qua lại, thì nhân tố gì quy định sự liên hệ đó? Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật và hiện tượng tồn tại tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia; giữa chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau; có chăng chỉ là những liên hệ hời hợt bên ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có người thừa nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó nhưng lại phủ nhận khả năng chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Ngược lại những người theo quan điểm biện chứng coi thế giới như một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật, hiện tượng và quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Liên hệ theo quan điểm biện chứng là sự phụ thuộc, ràng buộc, quy định lẫn nhau và tác động qua lại với nhau. Phép biện chứng nói chung đều thừa nhận mối liên hệ phổ biến của những sự vật, hiện tượng, quá trình cấu thành thế giới. Tuy vậy, khi nói về cơ sở của sự liên hệ phổ biến, phép biện chứng duy tâm coi cơ sở của sự liên hệ là ở cảm giác( duy tâm chủ quan) hay ở ý niệm tuyệt đối( duy tâm khách quan).Đó là những cách giải thích một cách chủ quan, thần bí, không khoa học. Đứng trên quan điểm duy vật khoa học, phép biện chứng duy vật khẳng định rằng cơ sở của sự liên hệ là ở tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật, các hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả tư tưởng, ý thức của con người vốn là những cái phi vật chất, cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan. Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính phổ biến, tính khách quan của sự liên hệ mà còn chỉ ra tính đa dạng của nó. Có mối liên hệ bên trong, có mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ bản chất và liên hệ không bản chất, liên hệ tất yếu và liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu. Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp . Có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thê giói, có mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực nào đó của thế giới. Có mối liên hệ về thời gian trong quá trình lịch sử của sự vật, hiện tượng…Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, vận động và phát triển của chính sự vật và hiện tượng quy định. Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn: sự vật, hiện tượng nào cũng có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, nhưng vai trò của chúng đối với sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng là khác nhau. Mối liên hệ bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, còn mối liên hệ bên ngoài không có ý nghĩa quyết định, vả lại nó phải thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Dĩ nhiên sự phân loại các mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối. Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá như vậy có thể diễn ra hoặc do thay đổi phạm vi bao quát qua xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong mối quan hệ này nhưng lại là tất nhiên khi xem xét trong mối quan hệ khác; vả lại trong quá trình vận động, mối liên hệ ngẫu nhiên có thể chuyển hoá thành tất nhiên và ngược lại. Như vậy sự tác động qua lại, liên hệ của sự vật, hiện tượng trên thế giới không những là vô cùng, vô tận mà còn rất phong phú đa dạng và phức tạp. Đặc biệt trong lĩnh vực đời sống xã hội, tính phức tạp của sự liên hệ được nhận lên do sự đan xen, chồng chéo, chằng chịt của vô vàn các hoạt động có mục đích, có ý thức của con người. Chính vì vậy mà quá trình nhận thức và phân loại sát, đúng các mối liên hệ trong xã hội trở nên khó khăn hơn nhiều so với trong tự nhiên. Nguyên lý về mối liên hệ phổ bíên là một trong những cơ sở, nền tảng của phép biện chứng duy vật. Đồng thời, nó cũng là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện một quan điểm mang tính phương pháp luận khoa học trong nhận thức và thực tiễn. Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật và hiện tượng, quan điểm toàn diện thể hiện ở một số yêu cầu cơ bản sau đây: 1.1.1: Phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ phổ biến, mối liên hệ vốn có của nó. Sự vật, hiện tượng, bản chất của sự vật, hiện tượng được hình thành, bíên đổi và bộc lộ thông qua mối liên hệ giữa chúng với các sự vật hiện tượng khác. Vì vậy để nhận thức đúng đắn sự vật, hiện tượng không chỉ xem xét bản thân nó mà còn phải xem xét mối liên hệ giữa nó với các sự vật hiện tượng khác.Khẳng định yêu cầu này, Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”. Chẳng hạn kinh tế và chính trị tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Xem xét vấn đề chính trị mà không tính đến các vấn đề kinh tế, hoặc ngược lại sẽ dẫn đến những sai lầm cực đoan. Dĩ nhiên, như nguyên lý mối liên hệ phổ biến đã chỉ ra sự vật, hiện tượng tồn tại trong vô vàn mối liên hệ, do đó trong mỗi điều kiện lịch sử nhất định con người không thể nhận thức được tất cả các mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn.ý thức được điều đó chúng ta sẽ tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã có về sự vật, coi những tri thức đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối, không thể sửa đổi, bổ xung và phát triển. Bởi vậy, trong cuộc sống đòi hỏi sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc. 1.1.2: Xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật phải đánh giá đúng vị trí, vai trò của chúng, tránh xem xét một cách dàn trải, bình quân. Sự vật tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, nhưng vị trí, vai trò các mối liên hệ không ngang bằng nhau. Vì vậy, có xác định được vị trí, vai trò của các mối liên hệ mới nhận thức được bản chất của sự vật, mới thấy được khuynh hướng vận động phát triển của nó. Chẳng hạn xã hội học trước khi triết học Mác xuất hiện mới chỉ dừng lại ở sự mô tả các mối liên hệ đa dạng, phong phú mà chưa xác định được vị trí, vai trò của chúng hoặc đánh giá sai vị trí vai trò của chúng nên chưa thể được coi là một khoa học. Trong cuộc sống thực tiễn chúng ta phải tìm nguyên nhân một hiện tượng, một vụ việc nào đó, Nếu chỉ dừng lại ở việc liệt kê một loạt các nguyên nhân mà chưa phân loại được, chưa xác định được nguyên nhân nào là cơ bản, chủ yếu, bên trong, bêm ngoài, khách quan, chủ quan… thì nhận thức còn rất hạn chế và thực tiễn sẽ gặp nhiều khó khăn. 1.1.3: Phải nhận thức sự vật trong tính chỉnh thể của nó, trong tính nhiều mặt và sự tác động qua lại quy định lẫn nhau, chi phối lẫn nhau của chúng.Sự vật trong thực tế tồn tại với tư cách như một chỉnh thể. Nó không phải là tổng số đơn giản các mối liên hệ ( mối liên hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác, mối liên hệ giữa các mặt của sự vật, các yếu tố cấu thành sự vật), mà là tổng số các mối quan hệ hữu cơ, có sự tác động qua lại, quy định, chi phối lẫn nhau. Có nhận thức sự vật trong tính chỉnh thể thỉ mới nhận thức được bản chất của sự vật. Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. ảnh hưởng lối tư duy của người sản xuất nhỏ, chúng ta hay mắc phải bệnh phiến diện trong nhận thức và thực tiễn: chỉ thấy mặt này, mối liên hệ này mà không thấy mặt khác, mối liên hệ khác; làm việc nọ, bỏ việc kia; nhận thức sự vật trong trạng thái cô lập, giải quyết công việc không đảm bảo tính đồng bộ. Một biểu hiện của bệnh phiến diện nữa là xem xét và giải quyết công việc một cách dàn đều, bình quân, không thấy được vị trí, vai trò khác nhau của các mối liên hệ, không xác định được trọng tâm, trọng điểm trong hoạt động. Quan điểm toàn diện cũng hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ bịên. Thực chất của chủ nghĩa chiết trung là kết hợp một cách vô nguyên tắc, chủ quan những mối liên hệ với nhau, coi những mối liên hệ là ngang bằng nhau hoặc kết hợp những cái mà về khách quan không thể kết hợp được với nhau. Đi đôi với chủ nghĩa chiết trung là thuật ngụy biện. Thuật ngụy biện là lối tư duy đánh tráo một cách có chủ đích vị trí, vai trò của các mối liên hệ, coi cái không cơ bản là cái cơ bản, cái không bản chất là cái bản chất… Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi cải tạo sự vật phải tính đến mối liên hệ phổ biến của nó, phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động nhằm thay đổi những mối liên hệ tương ứng. Chương II Vận dụng quan điểm toàn diện trong vấn đề thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam II. Vận dụng quan điểm toàn diện trong vấn đề thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam 2.1 : Quan điểm này của Đảng nhà nước ta về CNH-HĐH: Trước khi nói về quản điểm của Đảng ta hiện nay về CNH-HĐH chúng ta cần biết rằng,ở nước ta CNH-HĐH đã được tiến hành từ những năm 60 đầu thế kỉ XX.TạI Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua đường lối tiến hành “công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa” theo hướng “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và cộng nghiệp nhẹ... nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật cao cho CNXH” đã được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kì quá độ lên CNXH.Với đường lối này , mặc chúng ta đã đề ra chủ trương trú trọng phát triển cộng nghiệp nhẹ và nông nghiệp , nhưng trên thực tế , công nghiệp nặng mà trọng tâm là ngành cơ khí chế tạo , luôn được coi là tiền đề thiết yếu nhất của “ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”.Hơn một phần tư thế kỉ thực hiện “công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa” chúng ta đã mắc nhưng sai lầm cả về nội dung và cách tức tiến hành . Chúng ta đã không xuất phát từ đặc điểm , thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước và bối cảnh quốc tế . Kết quả là : hiệu quả của công nghiệp hoá rất thấp và trên nhiều lĩnh vực thậm chí không có hiệu quả ; cùng tình hình đó , nông nghiệp và công nghiệp nhẹ hầu như không có sự phát triển , nhu cầu hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân không đáp ứng , đời sống người lao động quá khó khăn. Nghiêm trọng hơn , nền kinh tế nước ta đã lâm vào tình trạng thiếu hụt mất cân đối một cách căn bản , chúng ta hầu như không có tích lũy và rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài. Có thể nói chúng ta đã phải trả một giá đắt cho “công nghiệp hoá XHCN” kiểu đó.Việc giờ dâu của chúng ta là phải từ bỏ một quan niệm không đúng , thậm chí có thể nói là sai lầm , về CNH và cách thức tiến hành CNH theo lối cũ , kém hiệu quả hoàn toàn không có nghĩa là phủ nhận tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá . Cả lý luận và thực tiễn dều chỉ ra rằng tiến trình phát triển đầy khó khăn,thử thách từ tình trạng kinh tế lạc hậu sang trạng thái kinh tế hiện đại không thể không tiến hành CNH và cùng với CNH là HĐH.CNH phải gằn liền với HĐH.CNH-HĐH thời đại ngày nay phải lấy giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ làm nền tảng và động lực . Hơn một trăm năm trước đây , C.Mác đã từng nói: “ Theo đà phát triển của đại công nghiệp , việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và vào số lượng lao động và vào số lượng lao động đã hao phí hơn là những tác nhân được đưa vào vận động trong suốt thời gian lao động và bản thân những tác nhân đến lượt mình (hiệu suất to lớn của chúng) , lại tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tiếp cần thiết để sản xuất ra chúng mà nói đúng hơn , chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào bước tiến bộ của khoa học , hay là vào việc sử dụng khoa học ấy vào sản xuất...Đến một trình độ nào đó , tri thức xã hội phổ biến biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp”. Nhận định dó của Mác ngày càng dược thực tiễn phát triển khoa học và công nghệ xác nhận là đúng . Nhận thức rõ sự gắn kết giữa CNH-HĐH , tại hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khoá VII Đảng ta đã khẳng định : CNH-HĐH là “ quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất , kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến , hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ , tạo ra năng suất lao động cao”. Cũng có thể nói ,công nghiệp hoá,hiện đại hoá là qua trình xây dựng một xã hội văn minh , cải biến căn bản các ngành kinh tế , các hoạt động xã hội theo phong cách của nền công nghiệp hiện đại , tạo ra sự tăng trưởng bền vững , không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động . Nó không chỉ thể hiện ra ở chỉ số khoa học - kĩ thuật - công nghệ hay kinh tế-kĩ thuật , mà quan trọng hơn là đảm bảo cho xã hội phát triển như một chỉnh thể toàn vẹn (Kinh tế - xã hội , vật chất - tinh thần ) , tên cơ sở giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc , vì tiến bộ xã hội và phát triển con người toàn diện . Công nghiệp hoá và hiện đại hoá nguyên là hai quá trình nối tiếp , đan xen nhau.Có thể hiểu hiện đại hoá như quá trình chống lại sự tụt hậu trước sự bùng nổ của cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại đang diễn ra trên thế giới . Như vậy xét về mặt lịch sử thì qua trình CNH diễn ra trước quá trình HĐH . Tuy nhiên sự phân chia nay chỉ mang tính tương đối , trên thực tế luôn có sự gối đầu , đan xen , tác động qua lại giữa hai quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. 2.2 Nội dung CNH-HĐH của nước ta hiện nay 2.2.1: .Bối cảnh triển khai CNH-HĐH của nươc ta hiện nay. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện thời , CNH gắn liền với HĐH đã mở ra con đường tắt rút ngắn khoảng cách giữa các nước đang phát triển so với các nước tiên tiến.Đó chính là đặc điểm mới của CNH-HĐH .Thực tế lịch sử cho thấy rằng , rất nhiều nước và vùng lãnh thổ ở khu vực châu á như Xingapo , Đài Loan , Hàn Quốc ....chỉ trong thời gian rất ngắn đã từ một nước kém phát triển trở thành một nước công nghiệp mới (NIC) . Đó là những tấm gương mà nước ta có thể học tập kinh nghiệm khi tiến hành CNH-HĐH đất nước. Việt Nam ta sau hơn 15 năm đổi mới , những thành tựu thu được trong linh vực phát triển kinh tế-xã hội đều có sự góp phần quan trọng của CNH-HĐH , tuy so với các nước trong khu vực thì nền công nghiệp Việt Nam đang ở trình độ thấp . Song, nhìn chung CNH-HĐH đã đã dẫn đến chỗ đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện , trình độ dân trí và mức hưởng thụ của nhân dân tăng . Sự nghiệp giáo dục,chăm sóc sức khoẻ,các hoạt động văn hoá thể thao,nghệ thuật,phương tiện thông tin đại chúng và nhiều hoạt động xã hội khác,như bảo vệ môi trường,phòng chống các tệ nạn xã hội, chủ trương đền ơn đáp nghĩa được mở rộng . Từ đó lòng tin của nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN ngày càng được củng cố vững chắc thêm. Đại hội Đảng lần thứ IX đã tổng kết 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới , đánh giá những việc ta đã làm được cùng với nhưmg việc ta chưa làm được , rút ra những bài học kinh nghiệm để từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng cùng với những giải pháp nhằm đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước đến những năm 2010 và 2020 . Đại hội đánh giá trong nhữnh năm qua , sự nghiệp CNH-HĐH đã làm thay đổi bộ mặt của đất nước và của nhân dân , củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ XHCN , nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế ; song nền kinh tế nước ta vẫn chưa có sự phát triển vững chắc , hiệu quả và sức cạnh tranh thấp , một số vấn đề văn hoá-xã hội bức xúc, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động mạnh để phát triển...Trên cơ sở dánh giá đó , Đảng ta khẳng định tiếp tục đường lối đẩy mạnh CNH-HĐH , xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ để nhanh chóng đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhận định xu thế phát triển của tình hình thế giới trong thế kỉ XXI . Nghị quyết đại hội IX đã chỉ rõ : “Thế kỉ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt . Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất .Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan ... chứa đựng nhiều mâu thuẫn , vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực , vừa có hợp tác vừa có đấu tranh...Những nét mới ấy trong tinh hình thế giới và khu vực tác động mạnh mẽ đến tình hình nước ta . Trước mắt nhân dân ta có cả cơ hội lớn và thách thức lớn”. Đảng ta đã xác định nước ta tiến hành đẩy mạnh CNH-HĐH có cả “Thuận và khó khăn , thời cơ và nguy cơ đan xen lẫn nhau . Chúng phải chủ động nắm thời cơ , vươn lên phát triển nhanh và vững chắc , tạo ra thế và lực mới ; đồng thời luôn tỉnh táo kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ , kể cả nguy cơ mới nảy sinh , bảo đảm phát triển đúng hướng” .Việc “Nắm bắt cơ hội , vượt qua thử thách , phát triển mạnh mẽ trong thời kì mới , đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta”. Như vậy có thể nói , sự nghiệp CNH-HĐH đất nước đang được triển khai ở Việt Nam ta trong một bối cảnh mà thuận lợi và thời cơ là lớn , song cũng không ít khó khăn phức tạp , thậm chí có cả những nguy cơ , thách thức ở mức độ gay gắt . Một số thuận lợi và thời cơ lớn đó thể hiện ở những điểm sau : Chúng ta tiến hành CNH-HĐH trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao . Xu thế chung của hầu hết các nước trên thế giới là hoà bình ổn định và hợp tác để cùng nhau phát triển . Trong những năm gần đây , nhiều quốc gia ưu tiên phát triển kinh tế , và do vậy , ngày càng tham gia nhiều vào quá trình liên doanh , liên kết , hợp tác song phương , đa phương , khu vực và quốc tế...Đây là điều kiện thuận để các dân tộc xích lại gần nhau , trao đổi , học tập và giúp đỡ lẫn nhau ... 15 năm đổi mới đã làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống của nhân dân , nền độc lập dân tộc và chế xã hội chủ nghĩa được củng cố vững chắc , vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao .Đó chính là tiền đề đặc biệt quan trọng để nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước . Chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN . Cùng với đó chúng ta thực hiện chính sách “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực , nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế , bảo đảm dân tộc tự chủ và định hướng XHCN , bảo vệ lợi ích dân tộc , an ninh quốc gia , giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc , bảo vệ môi trường”.Chính điều này đã và đang khơi dậy, thu hút những nguồn lực lớn cho sự phát triển . Nước ta có nguồn đất đai , tài nguyên thiên nhiên phong phú , đặc biệt chúng ta có lực lượng lao động dồi dào với cơ cấu khá trẻ . Hơn nữa chúng ta được thừa kế được những kinh nghiệm CNH-HĐH của những nước đi trước , cùng với kinh nghiệm đổi mới đất nước ta. Tuy nhiên sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta hiện nay không chỉ có những thuận lợi và thời cơ lớn mà còn có cả nhữnh khó khăn , phức tạp và những nguy cơ thách thức gay gắt. Những khó khăn , phức tạp , những nguy cơ, thách thức này được thể hiện tập trung trong những vấn đề sau : Nước ta vừa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội , nhưng một số mặt còn chưa vững chắc . Cho đến nay nước ta vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới , trình độ phát triển kinh tế , năng suất lao động ,hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp , cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu .... Những hậu quả của cơ chế quản lý theo lối mệnh lệnh , tập trung bao cấp còn rơi rớt (quan liêu , cửa quyền , thủ tục hành chính rườm rà ...)lại cùng với những tiêu cực mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường (sùng bái lợi ích cá nhân , sùng bái đồng tiền ,tham nhũng ,các tệ nạn xã hội...). Còn nhiều thế lực sử dụng những chiêu bài “dân chủ” “nhân quyền” ... để mưu toan thực hiện “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ những thành quả cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Trình độ văn hoá chung , trình độ tri thức về khoa họcvà cộng nghệ ,về chính trị và xã hội , luật pháp , tổ chức quản lý ...của đa số cán bộ , Đảng viên và nhân dân ta còn khá thấp so với các nước trong khu vực và còn xa mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Như vậy có thể khẳng định sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH ở nước ta hiện nay được triển khai trong bối cảnh khá phức tạp : thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen lẫn nhau .Do vậy , cùng với việc khẳng định tính tất yếu khách quan của CNH-HĐH việc nhận rõ những điều kiện thuận lợi ,thời cơ và những khó khăn phức tạp , đặc biệt là những nguy cơ thách thức có ý nghĩa lý luận và phương pháp luận đặc biệt quan trọng không chỉ trong việc hoạch định chiến lược , mục tiêu , nội dung và phương pháp tiến hành sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH mà có tác dụng thiết thực trong việc xây dựng , phát triển nguồn nhân lực , củng cố quyết tâm chủ động nắm thời cơ ,vươn lên phát triển nhanh và vững chắc , tạo thế và lực mới , đồng thời luôn tỉnh táo kiên quyết đẩy lùi khắc phục các nguy cơ , kể cả nhữnh nguy cơ mới nảy sinh , đảm bảo phát triển đúng định hướng XHCN. 2.3. Nội dung của CNH-HĐH ở Việt Nam hiện nay . 2.3.1 Công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá : kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại , tranh thủ đi nhanh vào hiện đại hoá ở những khâu quyết định. Trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang có những bước phát triển nhanh chóng và xu thế quốc tế hoá kinh tế hiện nay , công nghiệp hoá nhất thiết phải gắn liền với hiện đại hoá .Thực chất của quá trình hiện đại hoá nền kinh tế là không ngừng nâng cao trình độ phát triển của lực lượng sản xuất theo tiến trình phát triển của khoa học và công nghệ trên thế giới. Tuy nhiên ,quá trình này khi thực hiện ở nước ta sẽ gặp phải một nghịch lý . Một mặt , nếu không kịp thời sử dụng các công nghệ hiện đại để nhanh chóng hiện đại hoá nền kinh tế thì nguy cơ tụt hậu xa hơn sẽ tăng lên . Mặt khác , nếu dồn tất cả mọi sự đầu tư cho việc trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại thì lại có nguy cơ không phù hợp điều kiện hiện có , lãng phí nhiều tiềm năng và nảy sinh những vấn đề xã hội bức xúc .Để khắc phục nghịch lý này , trong quá trình CNH-HĐH chúng ta cần áp dụng nhiều trình độ kĩ thuật và công nghệ mà các nước đi trước đã thực hiện ở những thời điểm khác nhau .Chỉ như vậy , chúng ta mới có thể từng bước hiện đại hoá nền kinh tế , vừa khai thác được các nguồn lực đất nước . Nước ta hiện nay thiếu vốn , dư thừa lao động và mặt hàng có chất lượng lao động còn thấp thì chúng ta không thể đi ngay vào trình độ cao nhất của kĩ thuật và công nghệ trên quy mô toàn xã hội . Nhưng đối với các ngành mũi nhọn , những lĩnh vực cần ưu tiên phát triển , những công đoạn quan trọng mà điều kiện cho phép thì cần áp dụng ngay trình độ hiện đại , thực hiện “đi tắt đón đầu” để tạo bước nhảy vọt trong tiến trình phát triển lực lượng sản xuất .Nói cụ thể hơn , con đường CNH-HĐH nền kinh tế phải kết hợp giữa nhảy vọt từ thủ công lên hiện đại , với bước đi tuần tự thủ công , nửa cơ khí , cơ khí , tự động hoá .v.v..Đồng thời phát huy đẩy đủ tính ưu việt của công nghệ truyền thống , giữ vững bản sắc dân tộc . Trong quá trinh lựa chọn cộng nghệ để hiện đại hoá nền kinh tế , chúng ta phải xem xét toàn diện các yêu cầu , không chỉ về tính hiện đại về công nghệ , mà còn hiệu quả kinh tế-xã hội và yếu tố sinh thái của nó. 2.3.2 CNH-HĐH được thực hiện trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN , lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản. Hiện nay , CNH-HĐH được tiến hành theo cơ chế thị trường có sự quả lý của Nhà nước . CNH-HĐH trong bối cảnh đó trước hết phải tuân thủ các quy luật của nền kinh tế thị trường , như giá trị , cung cầu , cạnh tranh . Kế hoạch chỉ mang tính định hướng : thị trường là nơi phản ánh nhu cầu xã hội , có tiếng nói quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực cho sản xuất và kinh doanh .Cơ chế thị trường có tác dụng làm cho chủ thể của quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá năng động , biết tính toán , có ý thức tiết kiệm và luôn đề cao tính hiệu quả .Tuy nhiên , cơ chế thị trường cũng có những hạn chế và khuyết tật của nó , mà nếu không chủ động khắc phục , điều tiết thì quá trình CNH-HĐH sẽ không đạt được mục tiêu ổn định xã hội , an ninh quốc gia và sự bền vững của môi trường . Vì sự lợi nhuận người ta sẵn sàng bất chấp những yêu cầu bảo đảm về mặt xã hội và bảo vệ môi trường tự nhiên của sự phát triển . Thực tế khách quan đòi hỏi phải có sự quản lý khách quan của nhà nước , một bộ phận không thế thiếu của cơ chế quản lý quá trình CNH-HĐH .Nhà nước thực hiện quản lý quá trình CNH-HĐH . Nhà nước thực hiện quản lý của mình thông qua các công cụ chủ yếu như định hướng kế hoạch phát triển , hệ thống pháp luật , các chính sách kinh tế xã hội , các quỹ quốc gia để điều tiết quá trình CNH-HĐH. CNH-HĐH trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN phải hướng vào việc ưu tiên thúc đẩy sư tăng trưởng và phát triển của các ngành, các lĩnh vực , các thành phần kinh tế , các vùng lãnh thổ , các doanh nghiệp có khả năng đem lại tích luỹ nhanh , tích luỹ lớn và hiệu quả kinh tế cao để đạt mục tiêu dân giàu , nước mạnh . Mặt khác , CNH-HĐH còn phải đảm bảo mục tiêu xã hội công bằng , dân chủ , văn minh , bảo đảm an ninh quốc gia và sự phát triển bền vững .Khi hiệu quả kinh tế đã đại dược sẽ cho phép thực hiện hiệu quả xã hội , ngược lại hiệu quả xã hội được bảo đảm lại góp phần tạo nên động lực thúc đẩy việc thực hiện hiệu quả kinh tế . Khi hoạch định chính sách , lựa chọn phương hưóng phát triển, phương án đầu tư và trang bị cộng nghệ cho quá trình CNH-HĐH toàn bộ nền KTQD , cũng như từng ngành , từng thành phần kinh tế , từng vùng và từng doanh nghiệp thì phải lấy hiệu quả kinh tế -xã hội làm thước đo chủ yếu quyết định . 2.4 CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân , của tất các thành phần kinh tế , trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo . Trong văn kiện Hội nghị lần thứ bảy ban chấp hành trung ương khoá VII có viết : “ CNH-HĐH là một cuộc cách mạnh toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội , đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều trí tuệ , sức người , sức của .Chỉ có huy động sức mạnh và khả năng sáng tạo to lớn của toàn dân , dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng , sự quản lý có hiệu lực và có hiệu quả của nhà nước thì mới đảm bảo thắng lợi .” Quan điểm CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân thể hiện ở các mặt sau CNH-HĐH xuất phát từ lợi ích , nguyện vọng của nhân dân , đó là thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng dân chủ văn minh . CNH-HĐH do nhân dân thực hiện bằng sức lao động , tài năng , năng lực sáng tạo , tiền vốn tài sản của toàn dân , phát huy sức mạnh và lợi thế so sánh của các thành phần kinh tế , trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo , dẫn dắt các thành phần kinh tế CNH-HĐH chỉ thực sự là sự nghiệp của nhân dân và do nhân dân khi được xây dựng và thực hiện tố cơ chế phát huy quyền làm chủ của nhân dân , tạo diều kiện để nhân dân tham gia , góp phần xây dựng đường lối CNH-HĐH và kiểm tra quá trình thực hiện đường lối đó . Như vậy , việc phát huy mọi nguồn lực trong nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế -xã hội là biện pháp quan trọng bảo đảm sự thành công của công cuộc CNH-HĐH đất nước . 2.5 CNH - HĐH gắn liền với việc “xây dưng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với sự hội nhập kinh tế.” Từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII , Đảng ta đã khẳng định : “ giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế , đa phương hoá , đa dạng hoá quan hệ đối ngoại . Dựa vào nguồn lực trọng nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài . Xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới ...”. Tiếp tục quan điểm này , tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX một lần nữa , Đảng ta khẳng định : CNH-HĐH đất nước nhất thiết phải gắn liền với với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi vối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế . Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ “ trước hết là độc lập tự chủ về dường lối chính sách” , CNH-HĐH phải thúc đẩy xây dựng nền kinh tế mở . Đó là nền kinh tế dựa trên cơ sở phát triển có quan hệ hợp tác đa phương , đa hình thức , hướng mạnh vào xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả , nhằm tạo nguồn vốn cho CNH-HĐH. Đối vối những nước nghèo như như nước ta thì trong giai đoạn đầu của CNH-HĐH thì việc thu hút vốn nước ngoài giữ một vai trò quan trọng . Nó hỗ trợ đắc lực cho việc đổi mới công nghệ , nhờ đó nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm , tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu . 2.5 Khoa hoc và công nghệ được xác định là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Đảng đã có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học và công nghệ . Đặc biệt , Hội nghị lần bảy Ban chấp hành trung ương khoá VII đã khẳng định : “ Khoa ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0334.doc
Tài liệu liên quan