Áp dụng các công cụ toán tài chính vào quản lý rủi ro và ứng dụng cho thị trường chứng khoán Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nền kinh tế Việt Nam đang khởi sắc, vững bước đi lên sánh vai cùng các nước, cùng hoà vào xu thế hội nhập chung của thế giới. Hơn 20 năm mở cửa, hội nhập và phát triển kinh tế đất nước tuy là quãng đường không dài nhưng nó đánh dấu bước ngoặt trọng đại, những biến chuyển, đổi thay sắc nét. Mục tiêu phát triển kinh tế của chúng ta là tốc độ cao và ổn định. Để làm được điều này cần phải có một lượng vốn tương đối lớn đảm bảo cho quá trình trên đượ

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Áp dụng các công cụ toán tài chính vào quản lý rủi ro và ứng dụng cho thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c thực hiện một cách thông suốt, chính vì lẽ đó mà thị trường chứng khoán ra đời như một tất yếu khách quan. Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là mục tiêu đã được Đảng và chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 - thế kỷ 20 nhằm huy động một kênh dẫn vốn mới cho đầu tư và phát triển, tạo ra một bước phát triển mới cho thị trường tài chính Việt Nam nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc khai trương đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động (từ tháng 7/2000) và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (tháng 3 năm 2005) đã đánh dấu một bước tiến trong quá trình cải cách kinh tế ở Việt Nam, khẳng định quyết tâm phát triển kinh tế thị trường của Đảng và Chính phủ trong tiến trình đổi mới. Sau 7 năm đưa thị trường chứng khoán Việt Nam vào hoạt động, với mục tiêu ban đầu là đưa vào vận hành một trung tâm chứng khoán tập trung với qui mô thích hợp, phát triển từ thấp đến cao và không gây mất ổn định kinh tế xã hội, thị trường chứng khoán Việt Nam đã bắt đầu thể hiện vai trò của mình. Trong quản trị tài chính hiện đại, nghiệp vụ quản lý rủi ro giữ một vị trí trung tâm, nó là bộ phận không thể thiếu trong hoạt động đầu tư tại các tổ chức tài chính. Tuy vậy, lĩnh vực này chỉ mới thực sự phát triển từ thập kỷ 90 trở lại đây nhờ sự phát triển vượt bậc của công nghệ - kỹ thuật, đặc biệt là sự xuất hiện của các công cụ tính toán với tốc độ cao đã cho phép giải quyết các bài toán đầu tư và tính toán rủi ro phức tạp. Cùng với xu thế toàn cầu hoá, cơ hội đầu tư được mở rộng song rủi ro và thách thức đi kèm cũng không nhỏ. Đã có không ít vụ đổ bể tài chính của các ngân hàng, các tập đoàn kinh tế lớn diễn ra tại nhiều quốc gia trên thế giới từ các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật, Anh, Đức… đến các nước đang phát triển như Thái Lan, Malaysia, Hàn quốc. Thực trạng này đã khiến các nhà hoạch định chính sách quốc gia và các tổ chức tài chính quan tâm đặc biệt đến quản lý rủi ro. Trong quản lý rủi ro tài chính hiện đại nếu chỉ đơn thuần dựa vào các chính sách định tính thì chưa đủ mà quan trọng hơn là phải hình thành và phát triển một hệ thống các phương pháp khoa học nhằm lượng hoá mức độ rủi ro và tổn thất tài chính có thể xảy ra trong những điều kiện nhất định của thị trường và của nền kinh tế để từ đó đưa ra các giải pháp quản lý rủi ro hữu hiệu. Lý thuyết và thực tiễn của nghiệp vụ quản lý rủi ro đã được đúc kết qua nhiều năm phát triển của thị trường chứng khoán tại nhiều nước. Việc nghiên cứu, khai thác những kiến thức này nhằm áp dụng có chọn lọc vào thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam sẽ bước đầu giúp ích cho việc đẩy mạnh phát triển loại nghiệp vụ này, góp phần vào sự phát triển một thị trường chứng khoán Việt Nam ổn định và hiệu quả. Đó cũng là lý do để tôi lựa chọn đề tài: “Áp dụng các công cụ toán tài chính vào quản lý rủi ro và ứng dụng cho thị trường chứng khoán Việt Nam”. Trong quá trình học tập tại trường kết hợp với thời gian thực tập tại công ty TNHH Chứng khoán NHNO&PTNT (Agriseco), được sự giúp đỡ hết sức tận tình của các thầy cô và của công ty nói chung, Bộ phận kinh doanh cổ phiếu nói riêng em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc công ty cùng tập thể cán bộ, nhân viên toàn Công ty và đặc biệt cảm ơn các cán bộ Bộ phận kinh doanh cổ phiếu đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập, để em có thể tìm hiểu về các nghiệp vụ của Công ty, được tiếp cận với thực tế của thị trường chứng khoán Việt Nam. Em cũng xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Quang Dong – Khoa Toán Kinh Tế trường đại học Kinh Tế Quốc Dân đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp em hoàn thành chuyên đề này! CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ RỦI RO 1.1 VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1.1 Những lý luận chung Trong nền kinh tế, nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh từ các chủ thể khác nhau. Trong đó, thường xảy ra tình huống: những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư vào đâu. Từ đó hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện và điều chỉnh trong khuôn khổ một thị trường đó là thị trường tài chính. Trên thị trường tài chính, những người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu…. Những người có vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư (mua) các công cụ tài chính được phát hành bởi những người cần huy động vốn. Vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người dư thừa vốn tới những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi phát hành, mua bán, trao đổi và chuyển nhượng các công cụ tài chính theo các quy tắc, luật lệ đã được ấn định. Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của thị trường tài chính là một tất yếu khách quan. Thông qua việc dẫn chuyển vốn, thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, trên cơ sở đó làm tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Thị trường tài chính trực tiếp cải thiện mức sống cho cả những người có vốn và những người cần vốn. Hoạt động trên thị trường tài chính có những tác động, hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân, của các doanh nghiệp, ảnh hưởng tới hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế. Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán (TTCK) được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những quy tắc ấn định trước. Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Vào khoảng thế kỷ 15, ở các thành phố trung tâm thương mại của các nước phương Tây, trong các chợ phiên hay hội chợ, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hoá. Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi với nhau bằng lời nói về các hợp đồng mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng hoá hay giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ 15, “khu chợ riêng” đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho các cuộc thương lượng. Những quy ước này dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia. Sở giao dịch chứng khoán đầu tiên trên thế giới được thành lập năm 1531 tại thành phố Anvers (thuộc nước Bỉ). Toà nhà của Sở giao dịch Anvers có ghi dòng chữ rất ấn tượng “Phục vụ khách hàng thuộc mọi dân tộc và tiếng nói khác nhau”. Có thể coi đó là lời tuyên ngôn đầu tiên của sự ra đời và phát triển của TTCK trên thế giới với nội dung hàm chứa như sau: mọi người đều có thể tham gia vào TTCK với những cách thức, toan tính khác nhau và thị trường này hoạt động không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà có tính chất quốc tế. Từ thời điểm lịch sử đó, TTCK lần lượt được thiết lập ở các nước Châu Âu như: Hà Lan, Anh, Đức, Pháp và mãi đến thế kỷ 19 thị trường chứng khoán mới ra đời ở Mỹ với sự khai trương của Sở giao dịch chứng khoán NewYork (Sở giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới hiện nay với chỉ số Dow – Jone nổi tiếng). Đến nay, TTCK đã được thiết lập ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường và có thể nói sự phát triển của TTCK gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Không có một nước nào có nền kinh tế phát triển mà không có sự hoạt động của TTCK. Thị trường này được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên TTCK. Ngày nay, vai trò của thị trường này ngày càng thể hiện rõ nét trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Hiện nay tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán, tuy nhiên quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay, đó là: “Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán”. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá và có khả năng chuyển nhượng hay bút toán ghi sổ, xác định số vốn đầu tư (tư bản đầu tư). Nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu trong một thời hạn nào đó. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán và tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over – The Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hóa thông thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. Các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán cũng rất đa dạng như: cổ phiếu, trái phiếu (trái phiếu công ty và trái phiếu Chính phủ), các loại chứng khoán phái sinh. - Cổ phiếu: Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ tài chính có thời hạn thanh toán là vô hạn. Khi một công ty gọi vốn (lúc thành lập hoặc phát triển kinh doanh) thì số vốn cần gọi đó được chia ra thành nhiều phần nhỏ bằng nhau, gọi là cổ phần. Người mua cổ phần được gọi là cổ đông, là người góp vốn vào công ty. Giấy chứng nhận về việc sở hữu cổ phần đó được cấp cho cổ đông được gọi là cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu là chứng khoán vốn được sinh ra từ công ty cổ phần và chỉ có công ty cổ phần mới có cổ phiếu. Cổ phiếu thể hiện quan hệ đồng sở hữu giữa người phát hành và khách hàng. Giá trị ban đầu ghi trên cổ phiếu được gọi là mệnh giá. Mệnh giá của cổ phiếu chỉ là giá trị danh nghĩa. Tuỳ theo tình hình sản xuất kinh doanh, triển vọng lợi nhuận và chính sách phân phối lợi nhuận mà giá cổ phiếu của công ty được tăng lên hay giảm xuống, dần dần rời xa mệnh giá. Với tư cách là người sở hữu một phần công ty, cổ đông được hưởng các quyền đối với công ty với mức độ tương ứng tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ, đồng thời khi công ty làm ăn thất bại cổ đông cũng phải gánh chịu thiệt hại với một tỷ lệ tương ứng. Cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật. Cổ phiếu là loại tài sản được đầu tư phổ biến nhất cho các nhà đầu tư, tổ chức trên thế giới. Tuy nhiên do biến động cao về thu nhập và giá nên rủi ro của đầu tư cổ phiếu cũng cao. Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, có hai loại cổ phiếu cơ bản: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. + Cổ phiếu thường (hay cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu thông thường): Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định, thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu mang lại gọi là cổ tức (hay lợi tức cổ phần). Cổ tức biến động tuỳ theo sự biến động lợi nhuận và chính sách phân phối lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu lại rất nhạy cảm trên thị trường, không chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận công ty mà còn rất nhiều nhân tố khác như: môi trường kinh tế, thay đổi lãi suất, hay nói cách khác tuân theo quy luật cung cầu. Cụ thể hơn nữa, thị giá cổ phiếu thông thường phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế nói chung và biến động theo chiều ngược lại với biến động lãi suất trái phiếu chính phủ, các công cụ vay nợ dài hạn lãi suất cố định và lãi suất huy động tiền gửi của ngân hàng. Khi công ty bị phá sản hoặc giải thể phải thanh lý tài sản, cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường chỉ được nhận những gì còn lại sau khi công ty trang trải xong tất cả các nghĩa vụ như thuế, nợ và cổ phiếu ưu đãi. Tuy nhiên, cổ phiếu thường được hưởng quyền mua cổ phiếu mới và quyền bỏ phiếu. Lợi ích của đầu tư cổ phiếu thông thường bao gồm: Thanh khoản cao, tăng trưởng dài hạn, lợi ích về thuế. Rủi ro bao gồm: biến động giá, không ổn định về thu nhập cổ tức, rủi ro phá sản và rủi ro kinh tế khác, các rủi ro ngoại hối và thanh toán khác nếu cổ phiếu là bằng ngoại tệ. + Cổ phiếu ưu đãi: Cổ phiếu ưu đãi được phân thành cổ phiếu ưu đãi biểu quyết và cổ phiếu ưu đãi tài chính. Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết là các cổ phiếu dành cho các cổ đông sáng lập, tuỳ theo công ty có thể quy định 1 cổ phiếu ưu đãi biểu quyết có quyền biểu quyết bằng bao nhiêu lần một cổ phiếu thường trong Đại hội cổ đông hay quyết định những vấn đề quan trọng của công ty. Tuy nhiên cổ đông có cổ phiếu ưu đãi biểu quyết phải nắm giữ cổ phiếu này trong một thời gian nhất định, không được chuyển nhượng, trao đổi. Cổ phiếu ưu đãi tài chính tương tự như cổ phiếu thường nhưng có một số hạn chế như cổ đông sở hữu cổ phiếu này không được tham gia bầu cử, ứng cử vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát của công ty. Nhưng bù lại, họ được hưởng ưu đãi về tài chính theo một mức cổ tức riêng biệt có tính cố định hàng năm, được ưu tiên chia cổ tức và được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty sau khi thanh lý, giải thể trước cổ phiếu thường. Thị giá của cổ phiếu ưu đãi phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất trái phiếu kho bạc và tình hình tài chính của công ty. Việc đầu tư vào cổ phiếu không chỉ đơn giản là nhận được cổ tức mà quan trọng hơn chính là chênh lệch giá cổ phiếu trên thị trường (lãi vốn). Khi cổ phiếu của công ty được nhiều người mua chứng tỏ thị trường tin tưởng vào hiện tại và khả năng phát triển của công ty trong tương lai và ngược lại. - Trái phiếu công ty: Trái phiếu là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành phải trả cho người nắm giữ chứng khoán đó một khoản tiền xác định, vào những thời hạn cụ thể và theo những điều kiện nhất định. Trái phiếu là chứng khoán nợ, người mua trái phiếu là trái chủ, là chủ nợ của các tổ chức phát hành, có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào hoạt động của tổ chức phát hành. Trái phiếu có thể phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ. Trái phiếu công ty là những trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn trung và dài hạn. Khi công ty bán trái phiếu thì công ty là người đi vay và người mua trái phiếu là chủ nợ (trái chủ). Công ty phải cam kết thanh toán cả gốc lẫn lãi cho trái chủ theo những quy định đã nêu trong hợp đồng phát hành trái phiếu. Khi công ty giải thể hoặc phá sản thì trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Lãi suất của trái phiếu công ty thường khá cao, giúp công ty huy động khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn Trái phiếu công ty có thể có nhiều loại: Trái phiếu có đảm bảo (được đảm bảo bằng các tài sản của công ty), Trái phiếu không có đảm bảo, Trái phiếu có thể mua lại (người phát hành có thể mua lại trước khi đáo hạn), Trái phiếu có thể bán lại (trái chủ có thể bán lại trước khi đáo hạn), Trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường… - Các loại chứng khoán Chính phủ: Là các công cụ vay nợ do Chính Phủ hoặc những ngành đặc biệt như ngành giao thông, bưu điện, xi măng, điện lực được Chính Phủ uỷ quyền phát hành. Nó bao gồm: Trái phiếu Chính Phủ, Tín phiếu kho bạc, Công trái quốc gia…. Những loại chứng khoán này được phát hành nhằm bù đắp sự thiếu hụt Ngân sách Nhà nước, để xây dựng các công trình giao thông công cộng hoặc để giải quyết những khó khăn về tài chính. Đặc điểm chung của các loại chứng khoán này là rủi ro rất nhỏ, coi như không có rủi ro. - Các loại chứng khoán phái sinh (derivatives): Chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ với các chứng khoán gốc. Các chứng khoán phái sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch của người mua và người bán. Nó phát triển phụ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường chứng khoán. Có thể phân loại chứng khoán phái sinh thành các loại như sau: Quyền mua trước, chứng khế, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn… Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều kiện kinh tế - chính trị, xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình thị trường chứng khoán trên thế giới, Việt Nam đã quyết định thành lập TTCK với những đặc thù riêng biệt. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm Giao dịch Chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh (HoSTC) ngày 20/07/2000, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Năm năm sau đó sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HaSTC) cũng đi vào hoạt động đánh dấu bước phát triển mới của TTCK Việt Nam. 1.1.2 Lý thuyết thị trường hiệu quả Khi nói đến thị trường chứng khoán chúng ta không thế không nhắc đến Lý thuyết thị trường hiệu quả bởi đây là lý thuyết cốt lõi của thị trường này. Giả thiết giá chứng khoán phản ánh các triển vọng của công ty thì những biến động có chu kỳ của nền kinh tế sẽ có thể được thể hiện trong các biến động của giá cả chứng khoán đó. Nhận định này đã được Maurice Kendall kiểm tra trong năm 1953. Ông đã phát hiện một điều ngạc nhiên là không thể dự đoán được biến động của giá chứng khoán. Giá cả thay đổi ngẫu nhiên, giá cả có thể lên xuống bất kỳ trong bất kỳ ngày giao dịch nào. Sau nhiều tranh cãi về sự diễn giải kết quả nghiên cứu này trên thị trường chứng khoán, người ta thấy rằng sự biến động ngẫu nhiên của giá chứng khoán chính là bằng chứng của một thị trường hoạt động tốt, hiệu quả, chứ không phải là hiện tượng bất thường của chứng khoán. Giá chứng khoán biến động dựa vào các thông tin mới (không dự đoán được) cũng biến động theo chiều hướng không dự đoán được. Đây chính là cốt lõi của lập luận rằng giá chứng khoán là một chuỗi ngẫu nhiên không thể dự đoán trước. Nếu giá chứng khoán có thể được dự đoán, đó là bằng chứng của một thị trường không hiệu quả, vì khả năng dự đoán cho thấy rằng không phải tất cả các thông tin trên thị trường đã được phản ánh trong giá chứng khoán. Trên cơ sở này, nhận định giá chứng khoán đã phản ánh toàn bộ thông tin trên thị trường gọi là Giả thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis – EMH). Thông thường, dựa trên sự khác nhau của khái niệm “tất cả thông tin” trên thị trường được phản ánh vào giá chứng khoán, người ta phân ra ba cấp độ của EMH. EMH cấp thấp: giả định giá cả chứng khoán đã phản ánh các thông tin có thể thu thập thông qua nghiên cứu số liệu giao dịch như biến động giá, khối lượng, lãi suất trong quá khứ. EMH cấp độ này cho thấy việc phân tích xu hướng là không có giá trị gì. Số liệu chứng khoán trong quá khứ được công bố rộng rãi và không mất tiền mua. Nếu những số liệu này có thể đưa ra các dấu hiệu tin cậy về xu thế giá chứng khoán trong tương lai thì tất cả các nhà đầu tư đã sử dụng dấu hiệu này. Cuối cùng, các dấu hiệu này sẽ mất giá trị vì chúng đã được phổ biến trên toàn thị trường. EMH cấp trung: tất cả các thông tin công khai trên thị trường liên quan đến triển vọng của một công ty luôn được phản ánh trong giá chứng khoán. Những thông tin này bao gồm: các thông tin trong quá khứ, các số liệu cơ bản của dây chuyền sản xuất của công ty, chất lượng quản lý, cơ cấu bảng tổng kết tài sản, các bằng sở hữu sáng chế, dự đoán thu nhập và các phương thức kế toán. Nếu nhà đầu tư có thể có các thông tin này từ nguồn công cộng thì thông tin đó đã được phản ánh trong giá chứng khoán. EMH cấp cao: Giá chứng khoán của công ty luôn phản ánh mọi thông tin liên quan đến công ty, thậm chí ngay cả các thông tin chỉ có người nội bộ công ty được biết. Cấp độ này của EMH tương đối cực đoan. Nhiều học giả cho rằng các quan chức của công ty được tiếp cận các thông tin quan trọng, có đủ thời gian để kiếm lời từ việc mua bán theo các thông tin đó. Những người nội bộ công ty, họ hàng, người thân hay bạn bè của họ nếu giao dịch dựa trên các thông tin nội bộ đều bị coi là vi phạm pháp luật. Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động được gần 7 năm, Đảng và Chính Phủ ta đang tích cực xây dựng một thị trường chứng khoán trong sạch và lành mạnh. Tuy nhiên thị trường của chúng ta vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện nên hiện chỉ được đánh giá là thị trường hiệu quả cấp thấp tức là tất cả những thông tin trong quá khứ đều được phản ánh vào giá chứng khoán. 1.1.3 Động thái chỉ số giá Vn – Index Mỗi một thị trường đều có một chỉ số chung đại diện, ở Việt Nam chỉ số đó là chỉ số thị trường Vn-Index. Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét 9 giai đoạn phát triển chính của thị trường chứng khoán Việt Nam trong gần 7 năm thông qua những biến động của chỉ số giá chứng khoán chung. Đồ thị 1.1: Chỉ số Vn-Index gần 7 năm hoạt động (Nguồn: TTGDCK Tp.HCM) 1.1.3.1 Giai đoạn 1: Thời kỳ từ 28/07/2000 đến 25/06/2001 (từ 100 điểm lên 571.04 điểm) Đồ thị 1.2: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 1 (Nguồn TTGDCK Tp.HCM) Đây là giai đoạn đầu của quá trình phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Trong phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/07/2000 chỉ có 2 loại cổ phiếu giao dịch là REE (công ty cổ phần cơ điện lạnh) và SAM (công ty cổ phần Cáp và Vật liệu viễn thông) Đến phiên giao dịch thứ 4, có thêm 3 loại cổ phiếu mới được niêm yết là công ty cổ phần giấy Hải Phòng – HAPACO (HAP), (công ty cổ phần kho vận giao nhận ngoại thương Sài Gòn – Transimex (TMS) và công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (LAF). Trong giai đoạn này có một số đặc điểm chính sau: Biên độ dao động giá được điều chỉnh: Ở phiên thứ nhất là 5%, đến phiên thứ 2 được điều chỉnh còn 2%, và đến ngày 13/06/2001 lại là 7% Lượng hàng hoá trên thị trường Niêm yết còn quá ít. Nhà đầu tư trên thị trường chưa có những hiểu biết đầy đủ, đúng đắn về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Thông tin của các công ty niêm yết nói riêng và của thị trường chứng khoán nói chung còn thiếu tính minh bạch, chính xác và kịp thời. Ngày 02/04/2001 (phiên giao dịch thứ 102) giới đầu tư nước ngoài chính thức gia nhập TTCK Việt Nam. Việc Ủy ban chứng khoán Nhà nước liên tục điều chỉnh biên độ dao động giá (2 lần trong vòng chưa đầy 1 năm) đã có những tác động rất khác nhau đến xu hướng biến động của thị trường. Lần đầu tiên từ 5% xuống còn 2%. Với biên độ nhỏ như vậy, nhà đầu tư biết chắc rằng mình sẽ không bị lỗ tối đa 2% lại cộng với lượng hàng hoá ít ỏi trên thị trường đã làm cho giá liên tục tăng trần. Chỉ số giá Vn-Index tăng liên tục và đạt 145.83 điểm tại phiên giao dịch ngày 04/11/2000. Đến 13/06/2001, lần điều chỉnh biên độ dao động giá thứ 2 từ 2% lên 7%. Đây là lần mở rộng biên độ dao động giá đầu tiên trong lịch sử chứng khoán Việt Nam, việc mở rộng biên độ lần này dựa trên tình hình thực tế của thị trường. Khi biên độ mở rộng, các nhà đầu tư sẽ phải thận trọng và cân nhắc kỹ hơn đến mức giá khi ra quyết định đầu tư. Điều này có ảnh hưởng mạnh tới diễn biến giao dịch trên TTCK. Trong giai đoạn này TTCK Việt Nam chỉ có vỏn vẹn 5 cổ phiếu, điều này cho thấy mất cân bằng về cung – cầu một cách nghiêm trọng. Minh chứng rõ ràng nhất là các phiên giao dịch “khối lượng chào bán với giá thấp nhất nhỏ hơn rất nhiều so với khối lượng chào mua với giá cao nhất”. Các nhà đầu tư phải tranh nhau mới có thể mua được chứng khoán. Thời kỳ này ai có tiền đầu tư vào chứng khoán thì chắc chắn có lãi. Tuy nhiên, đầu tư trên TTCK lúc này hầu hết dựa vào tin đồn. Các giao dịch diễn ra chủ yếu theo “hiệu ứng đám đông” hay còn gọi là “hiệu ứng bầy cừu”. Những thông tin trên thị trường còn thiếu tính minh bạch, trung thực và kịp thời. Các nhà đầu tư còn ít hiểu biết về thị trường do đó những thông tin về lợi nhuận, chi phí, chiến lược phát triển của công ty trong tương lai, các chỉ số tài chính như: EPS, P/E … ít được quan tâm. Ngày 2/4/2001 ghi nhận một sự kiện đặc biệt đó là một nhà đầu tư nước ngoài mang quốc tịch Anh đã mua được 100 cổ phiếu TMS với giá 65.000đ/cp thông qua công ty chứng khoán ngân hàng Á Châu. Dù ít ỏi nhưng đã chứng tỏ TTCK Việt Nam bắt đầu thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. 1.1.3.2 Giai đoạn 2: Thời kỳ từ 25/06/2001 đến 11/03/2002 (từ 571.04 đến 180.73) Đồ thị 1.3: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 2 (Nguồn: TTGDCK Tp.HCM) Ngày 25/06/2001 đánh dấu mức kỷ lục của chỉ số Vn-Index từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Sau đó là sự xuống dốc không phanh của chỉ số giá Vn-Index ở giai đoạn tiếp theo. Sự sụt giảm giá mạnh này có thể do các nguyên nhân sau: Sự can thiệp bằng biện pháp hành chính của UBCKNN, Ủy ban có thông báo “mỗi nhà đầu tư được mua tối đa 10.000 cổ phiếu/phiên”, trên mỗi cổ phiếu nhà đầu tư chỉ được đặt một lệnh mua với số lượng tối đa là 2.000 đơn vị. Thông tin về việc nhà đầu tư mua chứng khoán thì phải nắm giữ chứng khoán đó trong vòng ít nhất 6 tháng mới được phép bán. Thị trường vàng, bất động sản, ngoại hối tăng giá đã thu hút đầu tư vào lĩnh vực này trong khi TTCK kém hấp dẫn hơn. Ủy ban chứng khoán Nhà nước quyết định điều chỉnh biên độ dao động giá từ 7% về 2%(ngày 10/10/2001) Nhà đầu tư chưa có hiểu biết sâu về chứng khoán và TTCK. Sau khi UBCKNN không thành công trong việc “xì hơi quả bóng giá chứng khoán” bằng công cụ biên độ dao động giá (từ 2% lên 7%) có lẽ công cụ khống chế lượng mua cổ phiếu là phương thức “làm dịu” cơn sốt cổ phiếu này. Thông báo có hiệu lực từ ngày 22/06/2001. Bên cạnh việc giới hạn số lượng được phép mua thì trên thị trường còn có thông tin về việc phải nắm giữ chứng khoán ít nhất 6 tháng mới được phép giao dịch. Điều này như một “gáo nước lạnh” dội vào một thị trường đang “nóng”. Nó tác động rất lớn đến nhà đầu tư và tính thanh khoản của các cổ phiếu trên thị trường. Lúc này, nhà đầu tư không chỉ quan tâm đến lựa chọn loại cổ phiếu nào để đầu tư khi biên độ dao động giá là 7% mà còn phải cân nhắc đến rủi ro nắm giữ cổ phiếu đó trong vòng 6 tháng. Trước những thông tin trên, ngày 27/06/2001 cả 5 loại cổ phiếu giao dịch tại sàn Tp.HCM đều giảm giá mạnh. Sự kiện này làm cho chỉ số Vn-Index lần đầu tiên giảm tới mức 7% trong 1 phiên giao dịch. Lượng lệnh đặt bán được ghi nhận cao gấp 10 lần lượng lệnh đặt mua chính là nguyên nhân dẫn tới sự sụt giảm giá một cách ồ ạt như trên. Trong khi đó thị trường vàng, bất động sản, ngoại hối tăng giá thu hút đầu tư. Thêm vào đó là sự hạn chế trong hiểu biết về chứng khoán và TTCK của các nhà đầu tư, tâm lý hoang mang lo sợ bị mất vốn đã khiến cho các cổ phiếu được chào bán ồ ạt. Chỉ số Vn-Index liên tục giảm qua các phiên. Đây là phản ứng tất yếu của thị trường đối với những can thiệp trên của UBCKNN. Đến ngày 5/10/2001 chỉ số giá Vn-Index là 203.12 điểm. Tại đây đã có sự tăng giá trở lại của các cổ phiếu niêm yết, điều này làm cho chỉ số giá Vn-Index có xu hướng đổi chiều. Sở dĩ có điều này do UBCKNN bắt đầu lo lắng về tình trạng giá cổ phiếu liên tục chạm sàn sẽ ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư, ảnh hưởng dây chuyền đến hoạt động bình thường của các công ty Niêm yết, công ty chứng khoán. Ủy ban quyết định rút ngắn biên độ dao động giá về 2% thay vì 7%. Ngoài ra trong nội dung sửa đổi Nghị định 48/CP, Uỷ ban Chứng khoán nhà nước đã lấy ý kiến đóng góp của các bộ, ngành và các cơ quan liên quan về việc cho phép cán bộ, công nhân viên của công ty chứng khoán được phép tham gia mua bán chứng khoán. Các thông tin trên như một cú hích vào thị trường “Bear Market” này. 1.1.3.3 Giai đoạn 3: Thời kỳ từ 11/3/2002 đến 24/10/2003 (từ 180.73 điểm xuống 130.9 điểm) Đồ thị 1.4: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 3 (Nguồn: TTGDCK Tp.HCM) Sau một thời gian các cổ phiếu niêm yết liên tục rớt giá, thị trường tiếp tục đi xuống và có phần trầm lắng. Trong giai đoạn này có các đặc điểm sau: Lãi suất tiền gửi của các ngân hàng tăng (trên 8,2%/năm). Thị trường vàng, thị trường bất động sản ngày càng trở lên hấp dẫn. Đấu thầu hàng trăm tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế (500 triệu USD). Nhà đầu tư thiếu thông tin về các tổ chức niêm yết và thị trường, “tù mù” về biên độ dao động giá. Kể từ ngày 20/5/2003, TTGDCK đã thực hiện giảm lô giao dịch từ 100 cổ phiếu xuống 10 cổ phiếu, áp dụng lệnh ATO, tăng số lần khớp lệnh lên 2 lần/phiên và giảm tỷ lệ ký quỹ xuống 70%. Bộ Tài chính vừa ra quy định, nhà đầu tư là cá nhân, tổ chức nước ngoài bị đánh thuế chuyển lợi nhuận ra khỏi Việt Nam bằng 5% số thu nhập từ TTCK Việt Nam. Giai đoạn này của TTCK Việt Nam được giới phân tích gọi là “Thị trường ngủ gật”. Thật vậy, sau một chuỗi các can thiệp của UBCKNN nhằm kìm hãm giá chứng khoán thì dư âm của những tác động đó vẫn còn kéo dài đến thời kỳ này. Sự “chờ đợi và cầm chừng” bao trùm toàn bộ thị trường. Nhà đầu tư chờ đợi sự điều chỉnh, sửa đổi của Nghị định 48/NĐ-CP đang ở khâu cuối cùng, chờ đợi biên độ dao động giá sẽ là 5% hay vẫn giữ 2% như trước đây. Các nhà đầu tư Việt Nam chờ đợi động thái từ những nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi TTCK đang “ngủ gật” thì các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng như cổ phần lại điều chỉnh tăng lãi suất nhằm thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng. Sự biến động của thị trường vàng trong nước và trên phạm vi quốc tế theo chiều hướng tăng nhanh và khá đều cũng tạo nên xu hướng đầu tư mới. Thị trường bất động sản mặc dù đã có những biện pháp để “hạ sốt” nhưng vẫn là môi trường đầu tư hấp dẫn đối với những nhà đầu tư có vốn lớn. Đây là thời kỳ đen tối của TTCK Việt Nam, các cổ phiếu liên tục rớt giá, nhiều cổ phiếu giảm đến 70% giá trị. Sau khi giảm giá thì các cổ phiếu bị “đóng băng”, nhiều cổ phiếu không giao dịch trong nhiều phiên. Vào ngày 24/1._.0/2003 (phiên 244) chỉ số giá Vn-Index tụt xuống chỉ còn 130.9 điểm. 1.1.3.4 Giai đoạn 4: Thời kỳ 24/10/2003 đến 1/4/2004 (từ 130.9 điểm lên 279.71 điểm) Đồ thị 1.5: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 4 (Nguồn: TTGDCK Tp.HCM) Đây là giai đoạn TTCK Việt Nam có những thay đổi lớn cả về khung pháp lý và tình hình giao dịch trên thị trường. Ban hành Nghị định 144/CP, sau một thời gian dài chờ đợi Thủ tướng Chính phủ chính thức ban hành vào cuối tháng 11/2003. Nó được xem là một bước tiến lớn nhằm tạo ra hành lang pháp lý an toàn, thông thoáng và phù hợp với thực tiễn phát triển của thị trường. Biên độ dao động giá là 5% Cuối tháng 1/2004 Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển Ủy ban chứng khoán nhà nước (SSC) về Bộ Tài chính. Công bố chiến lược phát triển TTCK đến năm 2010 Tình hình giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài tăng mạnh, nhất là sau khi có Quyết định 146 của Chính phủ cho phép nâng tỷ lệ nắm giữ của người nước ngoài tại một tổ chức niêm yết từ 20% lên 30%. Đến nay, tất cả các cổ phiếu trên sàn đều có sự tham gia sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài, với tỷ lệ nắm giữ cao nhất là 30% và thấp nhất là 0,31%. Sự ra đời Công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tiên là Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán VFM. Đây là liên doanh giữa Công ty Dragon Capital (chiếm 30% vốn) và ngân hàng Sacombank (chiếm 70% vốn). Theo kế hoạch, trong đợt đầu VFM sẽ huy động tối thiểu từ 100 tỷ lên 150 tỷ đồng để thành lập quỹ VietFund 1 (VF1). Tiền mà các quỹ huy động được sẽ được đầu tư vào thị trường chứng khoán tối đa 60% Hiệp hội kinh doanh chứng khoán (VASB) đã chính thức được thành lập trong tháng 12/2003. Việc ra đời hiệp hội này được xem là cần thiết trong bối cảnh lúc đó, giúp tạo thêm cầu nối cho các công ty chứng khoán cũng như các doanh nghiệp có được tiếng nói chung, tạo thêm sức mạnh cho hoạt động kinh doanh chứng khoán và niềm tin cho công chúng đầu tư. Tổ chức tuần lễ chứng khoán, đây được xem là sự kiện có quy mô tổ chức lớn nhất và dài ngày nhất kể từ khi TTCK mở cửa và đi vào vận hành, đồng thời cũng là nỗ lực kích cầu của cơ quan quản lý. Có thể nói, đây là thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ của TTCK sau giai đoạn “ngủ gật” trước đó. Với hàng loạt các biện pháp của Chính phủ, của Bộ Tài chính, của Ủy ban chứng khoán nhà nước đã giúp các nhà đầu tư có niềm tin vào TTCK Việt Nam. Thêm vào đó là sự làm ăn có hiệu quả của các công ty niêm yết, chỉ số P/E của thị trường chứng khoán còn thấp so với các TTCK trong khu vực và trên thế giới. Sự khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam của Nhà nước (nới lỏng quyền sở hữu từ 20% lên 30% và được quyền đầu tư vào tất cả 22 cổ phiếu đang niêm yết) đã đem lại bộ mặt hoàn toàn mới cho TTCK Việt Nam trong giai đoạn này. 1.1.3.5 Giai đoạn 5: Thời kỳ từ 1/4/2004 đến 26/8/2005 (từ 279.71 điểm xuống 249.74 điểm) Đồ thị 1.6: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 5 (Nguồn: TTGDCK Tp.HCM) Nhìn chung thời kỳ này TTCK không có những đột biến, mọi hoạt động đều diễn ra cầm chừng. Ở giai đoạn này có một vài đặc điểm đáng chú ý: Lãi suất huy động trái phiếu Chính phủ hấp dẫn người dân. Lãi suất ngân hàng xấp xỉ 8,4% trong khi cổ tức trả trung bình của các công ty niêm yết là 5-6%. Thị trường chứng khoán đang bị thao túng bởi bàn tay của các nhà đầu cơ cổ phiếu. Họ là những nhà đầu tư lớn, có kinh nghiệm và khả năng tài chính dồi dào nên dễ dàng giữ giá để mua vào. Thị trường chứng khoán vẫn chưa thực sự khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Ủy ban chứng khoán nhà nước và Bộ Tài chính chưa muốn mở rộng tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài. Đến giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài đã mua hết tỷ lệ 30% của mình. Việc nới rộng tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài không những thu hút được thêm luồng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam, mà còn tác động tích cực đến thái độ của nhà đầu tư trong nước đến TTCK. Cổ phiếu các công ty cổ phần chưa tham gia niêm yết trên sàn giàu tiềm năng hấp dẫn các nhà đầu tư như Vinamilk, Bảo Minh… Giá xăng dầu thế giới tiếp tục tăng cao, ngành xăng dầu trong nước cũng đã có những điều chỉnh nhất định. Điều này tác động không nhỏ đến chi phí sản xuất kinh doanh của các công ty hoạt động trong các lĩnh vực liên quan đến xăng dầu. Hàng hoá trên thị trường còn hạn chế và kém chất lượng. Các công ty cổ phần còn e dè trong việc quyết định niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch. Thông tin về hoạt động của các công ty niêm yết còn chưa minh bạch, chưa đầy đủ. Còn nhiều công ty báo cáo chậm và bưng bít thông tin. Các thông tin đến với nhà đầu tư chủ yếu là tin đồn, thiếu tính chính xác. 1.1.3.6 Giai đoạn 6: Thời kỳ từ 26/8/2005 đến 25/4/2006 (từ 249.74 điểm lên 632.69 điểm) Đồ thị 1.7: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 6 (Nguồn: TTGDCK Tp.HCM) Bước sang thời kỳ mới, TTCK Việt Nam từ một thị trường trầm lắng đã có những chuyển biến tích cực và lập được kỷ lục mới đáng ghi nhận. Trong giai đoạn này có những diến biến chính sau: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2005 của các công ty niêm yết thực sự thuyết phục giới đầu tư. Sau hơn một năm chờ đợi cuối cùng ngày 29/9/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 238/2005/QĐ-TTg cho phép nhà đầu tư nước ngoài được nâng tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu niêm yết/đăng ký giao dịch và chứng chỉ quỹ từ 30% lên 49%. Thông tin này đã kích thích các nhà đầu tư trên thị trường. Một loạt các doanh nghiệp lớn chào bán chứng khoán ra công chúng. Đáng kể là cuộc chào bán cổ phần của các doanh nghiệp ngành điện (Vĩnh Sơn – Sông Hinh, Nhiệt điện Phả Lại, Thuỷ điện Thác Bà…), doanh nghiệp ngành dầu khí, viễn thông….bất ngờ là hầu hết lượng chào bán đều được người mua đón nhận. Ngày 19/1/2006 Công ty cổ phần sữa Việt Nam chính thức tham gia giao dịch trên TTCK Việt Nam. Đây là một công ty có tổng số vốn lên đến 1.590 tỷ đồng. Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ, cổ phiếu VNM được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Với tỷ trọng gần bằng nửa TTCK Việt Nam, cổ phiếu VNM có tầm ảnh hưởng lớn gần như quyết định đến xu thế của thị trường. Thật không quá khi nói rằng VNM đang “bơm sữa vào TTCK Việt Nam”. Từ khi giao dịch lần đầu ngày 19/1/2006 giá cổ phiếu VNM là 53.000đ/cổ phiếu hiện nay đã là 102.000đ/cổ phiếu. Cùng với sự tăng trưởng này, VNM đóng vai trò như một đầu tàu kéo chỉ số giá Vn-Index đi lên. Trong thông báo ngày 2/2/2006, các nhà phân tích của Merrill Lynch đã xếp cổ phiếu của Việt Nam trong nhóm “cổ phiếu nên mua trong 10 năm”. Ngay sau thông báo này của công ty Merrill Lynch về TTCK Việt Nam, giá cổ phiếu của các công ty niêm yết đã gia tăng nhanh chóng. Tài khoản chứng khoán tăng gấp đôi. Hiện toàn quốc có khoảng 52.000 tài khoản đầu tư chứng khoán đã được mở, dự kiến đến cuối năm nay con số này có thể tăng 3 lần. Dư âm của đợt phát hành thành công 750 triệu USD trái phiếu Chính phủ trên thị trường NewYork cũng một phần tác động tích cực đến TTCK Việt Nam. Chỉ số giá chứng khoán lập kỷ lục mới từ khi TTCK Việt Nam hình thành cho đến nay, ngày 25/4/2006 chỉ số giá Vn-Index đạt 632.69 điểm. Thị trường bất động sản đóng băng, thị trường vàng giá quá cao, thị trường ngoại hối không còn thực sự hấp dẫn. Điều này đã tạo ra một cơn lốc xoáy hút vốn vào TTCK, tạo ra động lực cho thị trường phát triển. 1.1.3.7 Giai đoạn 7: Thời kỳ từ 25/4/2006 đến 2/8/2006 (từ 632.69 điểm xuống 399.8 điểm) Đồ thị 1.8: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 7 (Nguồn: TTGDCK Tp. HCM) Trong giai đoạn này chỉ số giá chứng khoán Vn-Index liên tục giảm và bước vào chu kỳ điều chỉnh. Ở giai đoạn này có một số điểm chính sau; Xu hướng chính trên thị trường lúc này là bán ra nhiều hơn mua vào, cầu chứng khoán nhỏ hơn rất nhiều so với cung chứng khoán. Một số người hào hứng với việc bán được giá cao, một số khác do tâm lý sợ nắm giữ phải những cổ phiếu có giá cao “ngất ngưởng” đã liên tục chào bán giá sàn càng làm cho thị trường liên tục giảm điểm. Trong thời gian này Bộ Tài chính và UBCKNN lại tiếp tục tạo “hàng” nhằm tăng quy mô cho TTCK như cấp phép Niêm yết cổ phiếu cho ngân hàng cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank - vốn điều lệ 1.899 tỷ đồng), Công ty cổ phần thuỷ điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh (vốn điều lệ 1.250 tỷ đồng)… Việc này đã bổ sung một lượng cung đáng kể cho thị trường càng làm cho cung cầu chênh lệch. Để đáp ứng nhu cầu giao dịch của nhà đầu tư và tăng tính thanh khoản cho các chứng khoán đăng ký giao dịch tại TTGDCK Hà Nội, UBCKNN đã quyết định từ ngày 1/6/2006 TTGDCK Hà Nội sẽ tăng phiên giao dịch từ 3 phiên lên 5 phiên một tuần. Điều này đã kích thích nhà đầu tư chuyển hướng sang sàn Hà Nội. Dự án luật chứng khoán được Quốc hội (kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá 11) thảo luận và thông qua, đồng thời UBCKNN cũng đang hoàn chỉnh dự thảo các văn bản hướng dẫn luật chứng khoán. Theo nhận định, việc xây dựng luật chứng khoán sẽ tạo cơ sở cho TTCK phát triển nhanh và ổn định, tạo sự yên tâm cho các tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh, đầu tư vào thị trường và đảm bảo lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. 1.1.3.8 Giai đoạn 8: Thời kỳ từ 2/8/2006 đến 12/3/2007 (từ 399.8 điểm lên 1170.67 điểm) Đồ thị 1.9: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 8 (Nguồn: TTGDCK Tp.HCM) Ngày 2/8/2006 chỉ số Vn-Index trên TTCK Việt Nam tụt xuống mức thấp nhất 399.8 điểm, giảm 232.89 điểm kể từ mức đỉnh đã từng đạt được trong năm là 632.69 điểm. Tuy nhiên thị trường đã kết thúc giai đoạn suy giảm kéo dài suốt 3 tháng 5, 6, 7 và sang tháng 8 trở thành điểm khởi đầu của một chu kỳ mới. Giai đoạn này có một số điểm chính sau: Cán cân cung cầu đã có sự cân bằng do nguồn cung được điều chỉnh từ cả phía UBCKNN và cả phía các tổ chức phát hành. Nguồn cung trên thị trường được bổ sung mạnh mẽ bởi những cổ phiếu có chất lượng cao từ các tổ chức phát hành là một số tổng công ty, ngân hàng thương mại cổ phần, doanh nghiệp có quy mô vốn lớn và kinh doanh phát đạt. Sức cầu đã được phục hồi cả từ phía các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Trong thời kỳ này các quỹ đầu tư nước ngoài liên tục bơm một lượng lớn tiền vào thị trường để gom mua các cổ phiếu. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu TTCK Việt Nam của các tổ chức tài chính quốc tế như Merrill Lynch, Citygroup, JP Morgan… là những tín hiệu tốt cho thị trường về 1 sức cầu tiềm năng. Những nhận định khả quan của các tổ chức tài chính lớn trên thế giới về thị trường chứng khoán Việt Nam đã kích thích giới đầu tư mua vào làm giá cổ phiếu tăng liên tục. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh khả quan của các công ty Niêm yết, những phân tích đánh giá về các chỉ tiêu thị trường cũng như nhận định về khả năng phát triển từ những cơ sở hiện thực của cơ quan quản lý thị trường và các chuyên gia kinh tế đã trấn an được tâm lý nhà đầu tư. Độ nhạy bén thông tin của thị trường đã thể hiện rõ qua từng phiên giao dịch, từng bước khẳng định sức mạnh, tầm quan trọng và vai trò định hướng xã hội của thông tin, góp phần điều chỉnh những biến thái mang màu sắc cảm tính của thị trường. Việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO và tổ chức thành công hội nghị APEC 14 đã làm thay đổi rõ rệt vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong “Báo cáo triển vọng phát triển Châu Á 2006” của ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Việt Nam được đánh giá cao vị trí cũng như vai trò đối với khu vực. Theo ADB mặc dù còn khá non trẻ nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam đã nhanh chóng đứng vào hàng ngũ các TTCK năng động nhất Châu Á với tốc độ tăng trưởng hơn 70% trong năm 2006. Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên sự bùng nổ cho thị trường chứng khoán Việt Nam vào giai đoạn cuối năm 2006 đầu 2007. 1.1.3.9 Giai đoạn 9: Thời kỳ từ 12/3/2007 đến 25/4/2007 (từ 1170.67 điểm xuống 923.89 điểm) Đồ thị 1.10: Chỉ số Vn-Index giai đoạn 9 (Nguồn: TTGDCK Tp.HCM) Sau một thời gian dài tăng điểm không biết mệt mỏi, thị trường đã có dấu hiệu đảo chiều vào ngày 13/3/2007 và liên tục giảm 4 phiên sau đó. Ở giai đoạn này có một số đặc điểm sau: - Thị trường đã bắt đầu hạ nhiệt sau những cảnh báo của một số chuyên gia trên thế giới (trong đó có Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF) về mức độ tăng trưởng nóng của thị trường. Các nhà phân tích dự báo sẽ có một đợt điều chỉnh giảm sâu tới 30% của TTCK Việt Nam và kéo chỉ số Vn-Index trở về vị trí dưới 900 điểm. Điều đó đã tác động rất lớn đến tâm lý của nhà đầu tư nên thời kỳ này xu thế chủ đạo là bán ra nhiều hơn mua vào. - Do tâm lý đầu tư không ổn định, không có sự chọn lọc trước những luồng thông tin đa chiều, những toan tính, hành vi đầu tư đều dựa trên cơ sở phân tích thông tin dựa nhiều vào cảm tính. Hiện tượng tranh mua khi giá cổ phiếu tăng và ồ ạt bán khi giá cổ phiếu giảm của các nhà đầu tư mới tham gia thị trường đã đẩy giá cổ phiếu trên thị trường tăng quá nhanh để rồi sau đó lại đột ngột tụt dốc một cách khó đoán định. Mặc dù trước những thông tin hấp dẫn như nhiều công ty Niêm yết trên thị trường tăng vốn điều lệ, trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng chỉ giúp tốc độ tăng của thị trường trong một số phiên nhất định. Nhiều nhà đầu tư đã tỏ ra lo lắng, liên tưởng đến một kịch bản cũ diễn ra vào các tháng 4, 5, 6, 7 năm 2006. 1.1.4 Đánh giá chung về hoạt động của TTCK Việt Nam trong thời gian qua 1.1.4.1 Những thành công đã đạt được của thị trường Với gần bảy năm hình thành và phát triển, tuy đây chưa phải là quãng thời gian dài nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đã kinh qua nhiều sóng gió, thăng trầm. So với các thị trường chứng khoán phát triển thì thời gian 7 năm hoạt động là quá ngắn, chưa thể đánh giá hết những đóng góp của TTCK Việt Nam khi so với TTCK các nước trên thế giới đã có hàng chục, hàng trăm năm. Tuy nhiên, có thể khẳng định với những kết quả đã đạt được, sự cố gắng vượt bậc của cơ quan quản lý và các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường đã tạo dựng lên một bức tranh hiện thực, sinh động cho TTCK Việt Nam. Điều đó góp phần vào quá trình phát triển chung của nền kinh tế thị trường theo định hướng mà Đảng và Chính phủ đã đề ra. Kể từ ngày khai trương thị trường năm 2000 với 1 trung tâm giao dịch duy nhất là Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP HCM, được vận hành theo quy luật cung cầu thông qua hệ thống giao dịch tập trung đến tháng 3/2005 TTCK có thêm Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội đi vào hoạt động theo cơ chế thỏa thuận, năm 2006 chứng kiến sự “bùng nổ” của thị trường chứng khoán Việt Nam cả về chất và lượng. Minh chứng cụ thể là các kỷ lục về chỉ số chứng khoán cũng như giá trị giao dịch đã liên tục được phá vỡ trong các kỳ giao dịch của năm. Đồ thị 1.11: Chỉ số Vn-Index năm 2006 (điểm) (Nguồn: TTGDCK Tp. HCM) Đồ thị 1.12: Tổng giá trị giao dịch cổ phiếu thị trường niêm yết (Đơn vị: tỷ đồng) Nguồn: TTGDCK Tp. HCM Đến cuối năm 2006, tổng khối lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường đã tăng lên khoảng 8 lần so với thời điểm cuối năm 2005. Sự tăng trưởng ngoài mong đợi đó là hệ quả của việc gia tăng số lượng cũng như quy mô công ty niêm yết/đăng ký giao dịch tại hai trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Tp.HCM và Hà Nội, đặc biệt là việc niêm yết của các công ty lớn và phát hành thêm để mở rộng quy mô của các công ty niêm yết. Việc Bộ Tài chính công bố quyết định huỷ bỏ ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp niêm yết kể từ ngày 1/1/2007 đã tạo động lực mạnh thúc đẩy hàng loạt doanh nghiệp sớm lên niêm yết hoặc đăng ký giao dịch tại các TTGDCK khiến cung chứng khoán tăng vọt vào hai tháng cuối năm 2006. Thành quả này một lần nữa cho thấy việc dùng đòn bẩy ưu đãi thuế cho những doanh nghiệp tham gia niêm yết tại TTCK đã có một tác dụng cực lớn mà kết quả của nó bằng, thậm chí là hơn cả những nỗ lực trong việc tạo hàng, thuyết phục doanh nghiệp của Bộ Tài chính, uỷ ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN) và hai TTGDCK trong 6 năm qua. Bảng 1.1 : Diễn biến niêm yết cổ phiếu qua các năm Năm TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh TTGDCK Hà Nội Số loại cổ phiếu Khối lượng niêm yết (cổ phiếu) Tăng/giảm Số loại cổ phiếu Khối lượng niêm yết (cổ phiếu) Tăng/giảm 2000 5 32.117.840 - - - - 2001 5 16.243.880 -49,4% - - - 2002 10 51.601.620 217,7% - - - 2003 2 12.037.740 -76,7% - - - 2004 4 21.585.311 79,3% - - - 2005 6 58.163.824 169,5% 9 150.062.740 - 2006 74 1.274.409.553 2091,1% 78 970.098.596 546,46% Tổng 106 1.466.159.768 - 87 11.201.161.336 - (Nguồn: TTGDCK Tp. HCM và TTGDCK Hà Nội) Nếu như năm 2005, TTGDCK Tp.HCM tăng thêm 7 công ty niêm yết, thì năm 2006 đã có thêm 74 công ty, nâng số công ty niêm yết tại sàn này lên con số 106 doanh nghiệp, gấp hơn 3 lần so với năm 2005. Tại TTGDCK Hà Nội, sự tăng trưởng còn ngoạn mục hơn, khi cuối năm 2005 tại đây mới chỉ có 9 công ty đăng ký giao dịch cổ phiếu, nhưng đến cuối năm 2006 con số này đã được nâng lên là 87 công ty, tăng gấp gần 10 lần. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp đã nhận ra lợi ích to lớn của việc niêm yết trên TTCK. Bảng 1.2: Quy mô niêm yết cổ phiếu đến hết 31/12/2006 Số loại cổ phiếu Tổng khối lượng niêm yết Tổng mệnh giá niêm yết Vốn hoá thị trường (VND) (USD) (VND) (USD) 193 12.667.321.104 cổ phiếu 126.673,2 tỷ 7.917 triệu 221.156 tỷ 13.822,2 triệu Tỷ trọng ~ 13% GDP ~ 22,7% GDP (Nguồn: TTGDCK Tp. HCM và TTGDCK Hà Nội) Như vậy, tính đến thời điểm 31/12/2006, tại hai TTGDCK đã có 193 công ty niêm yết, đạt tổng giá trị vốn hoá thị trường 221.156 tỷ đồng (tương đương 14 tỷ đô la Mỹ), chiếm 22,7% GDP năm 2006. Năm 2006 cũng chứng kiến sự đổ bộ lên sàn của những ngân hàng, tổ chức tài chính như: Ngân hàng Sài Gòn Thương tín (Sacombank), ngân hàng Á châu (ACB), công ty chứng khoán như SSI, BVSC, HPSC, Tổng công ty bảo hiểm Bảo Minh. Nhân tố quan trọng giúp tăng cung cho TTCK chính là sự thành công của chương trình cổ phần hoá (CPH) gắn với đấu giá cổ phần một cách công khai, minh bạch tại các TTGDCK. Năm 2006, các TTGDCK đã tổ chức được 188 phiên đấu giá, cung cấp hơn 645 triệu cổ phiếu cho thị trường, đạt 84% tổng số lượng chào bán, thu hơn 12.880 tỷ đồng. Giá đấu bình quân tăng hơn 2 lần so với giá khởi điểm. Trước sự thành công của các đợt đấu giá cổ phiếu trên TTCK và sự tăng trưởng vượt bậc của các công ty niêm yết/đăng ký giao dịch nhiều doanh nghiệp đã lựa chọn TTCK như là một kênh huy động vốn hiệu quả, thay thế cho kênh truyền thống là vay vốn ngân hàng. Cả hai xu thế này tạo ra một lượng cung - cầu dồi dào cho thị trường. Bên cạnh đó thị trường trái phiếu cũng khá sôi động với gần 400 loại trái phiếu Chính Phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu ngân hàng niêm yết với tổng giá trị trên 70.000 tỷ đồng, bằng 7,7% GDP năm 2006. Đặc biệt, mặt hàng chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán không còn một mình VF1 (với tổng khối lượng niêm yết là 50 triệu chứng chỉ, tương đương giá trị 500 tỷ đồng tính theo mệnh giá 10.000 đồng), mà có thêm chứng chỉ quỹ đầu tư Prudential – BF1 niêm yết cũng với khối lượng tương đương. Cùng với sự tăng mạnh mẽ về nguồn cung, năm 2006 cũng chứng kiến cầu chứng khoán tăng mạnh, kéo theo sự tăng giá của các cổ phiếu niêm yết với mức tăng 2,5 lần. Tại TTGDCK Tp.HCM, chỉ số VN-Index tăng từ 305,28 (31/12/2005) điểm lên 751 điểm (31/12/2006). Tại TTGDCK Hà Nội, chỉ số HASTC-Index tăng từ 91,3 điểm (31/12/2005) lên 242,89 điểm (31/12/2006). Riêng trong tháng 12/2006, khối lượng giao dịch tại 2 TTGDCK đã gia tăng đột biến, mỗi ngày trung bình đạt 6-7 trăm tỷ đồng tại TTGDCK Tp. HCM và 100 tỷ đồng tại TTGDCK Hà Nội. Đầu tư chứng khoán đã trở thành mối quan tâm chủ yếu của đại đa số người dân thành thị và TTCK Việt Nam bước đầu trở thành kênh huy động vốn khá hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp đã tận dụng cơ hội vàng trong năm 2006 để huy động vốn thành công qua TTCK với chi phí rẻ nhất. 27 doanh nghiệp niêm yết huy động vốn qua TTCK (vốn cổ phần và trái phiếu) với giá trị trên 1.300 tỷ đồng. 15 công ty cổ phần đăng ký với UBCKNN phát hành 250 tỷ đồng vốn cổ phần ra công chúng. Vietcombank và BIDV góp 3.350 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn cho thị trường, Tổng công ty điện lực (EVN) phát hành 2.600 tỷ đồng; công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI) phát hành 500 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi. Bên cạnh cuộc đua lên sàn của các công ty cổ phần thì trong năm 2006 cũng chứng kiến một cuộc đua thành lập công ty chứng khoán. Theo ghi nhận, đến 31/12/2006, TTCK Việt Nam đã có 55 công ty chứng khoán đang hoạt động hoặc đã được cấp phép hoạt động với tổng vốn điều lệ gần 4.025 tỷ đồng, trong đó riêng năm 2006 số công ty được cấp phép lên tới 41 công ty. Các nghiệp vụ mà công ty chứng khoán cung cấp bao gồm: các dịch vụ môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư. Vốn điều lệ bình quân đạt trên 77 tỷ đồng/công ty, tăng 26% so với năm 2005. Nhiều công ty chứng khoán đã nâng quy mô vốn lên rất nhanh, cá biệt SSI tăng từ 9 tỷ lên 500 tỷ đồng. Có 18 công ty quản lý quỹ (cuối năm 2005 có 6 công ty); 6 ngân hàng lưu ký (2 ngân hàng trong nước và 4 ngân hàng nước ngoài) đã được cấp phép hoạt động. Nhiều công ty chứng khoán nước ngoài đang thực hiện thủ tục xin thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam để chuẩn bị tham gia TTCK. Sự tăng trưởng của TTCK còn phải kể đến các nhà đầu tư. Sự tham gia tích cực, lành mạnh có tính chuyên nghiệp hơn của các nhà đầu tư đã tạo nên hình ảnh đẹp cho TTCK. Tuy nhiên, đối với một TTCK còn non trẻ như Việt Nam, tính chuyên nghiệp của thị trường chưa cao do nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường chiếm đa số (khoảng 99%), thông thường đối tượng này trình độ hiểu biết về chứng khoán còn hạn chế. Tính đến cuối tháng 12/2006 số tài khoản giao dịch của nhà đầu tư là gần 100.000 (tăng hơn 3 lần so với cuối năm 2005 và trên 30 lần so với khi mới mở thị trường), trong đó nhà đầu tư tổ chức là 502. Hiện nay có khoảng 1.700 tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài và 23 quỹ đầu tư nước ngoài với quy mô vốn ước đạt 2,3 tỷ USD, gần 50 tổ chức đầu tư nước ngoài mở tài khoản hoặc uỷ thác vốn đầu tư trên TTCK Việt Nam. Sự tham gia đông đảo của nhà đầu tư định chế, nhà đầu tư nước ngoài với những tên tuổi như JP Morgan, Merill Lynch và Citi Group hình thành một làn sóng đầu tư chứng khoán của các tổ chức tài chính lớn trên thị trường Việt Nam. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự bùng nổ của TTCK Việt Nam năm 2006 xuất phát từ các sự kiện kinh tế chính trị quan trọng. Trong đó nguyên nhân có tác động sâu sắc và lâu dài là sự kiện Việt Nam chính thức được gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng như sự kiện tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC. Cả hai sự kiện này đã và đang tiếp tục tạo được ấn tượng tốt đối với các nhà đầu tư nước ngoài và đó là tín hiệu cho những làn sóng đầu tư trực tiếp và cả gián tiếp hứa hẹn sẽ đổ vào Việt Nam. Việc Việt Nam vừa được xếp trong Top những nước có môi trường đầu tư tốt nhất năm 2006 đã tạo cơ sở ban đầu thuận lợi, củng cố niềm tin cho các đối tác nước ngoài đã, đang và sẽ chuẩn bị đầu tư vào Việt Nam. Cũng trong năm 2006 Luật Doanh nghiệp mới và Luật Đầu tư có hiệu lực. Tháng 6/2006, Quốc hội thông qua Luật Chứng khoán (có hiệu lực từ tháng 1/1/2007) đưa công ty đại chúng vào diện phải thực hiện chế độ công bố thông tin, tạo nên một bước ngoặt quan trọng trong việc từng bước mở rộng thị trường có quản lý, bảo vệ số đông nhà đầu tư. 1.1.4.2 Những mặt còn hạn chế Tại buổi tổng kết TTCK năm 2006, Chủ tịch UBCKNN Vũ Bằng đã thừa nhận rằng, quy mô thị trường có quản lý vẫn khá nhỏ so với mức bình quân 30-40% GDP của các nước trong khu vực. Tuy đạt mức 24,4% GDP năm 2006 nhưng thực tế mức độ giao dịch thấp (chỉ khoảng 14%) do Nhà nước còn nắm giữ cổ phần khá lớn trong các công ty niêm yết và số cổ phiếu này không được giao dịch trên thị trường. Ngoại trừ một số công ty lớn, kinh doanh và tăng trưởng tương đối ổn định, phần lớn các công ty niêm yết/đăng ký giao dịch chưa phải là những công ty tiêu biểu cho các ngành kinh tế, đóng góp lớn vào GDP của Việt Nam. Đáng chú ý là sự tăng trưởng thị trường vẫn mang những yếu tố chưa tích cực, việc đầu tư theo phong trào của các nhà đầu tư cá nhân khá phổ biến, đặc biệt việc đầu tư không trên cơ sở thông tin chính thức là một nguy cơ đối với sự bền vững của TTCK và lợi ích của nhà đầu tư. Số lượng tài khoản đầu tư gia tăng nhanh nhưng chủ yếu là nhà đầu tư mua bán cổ phiếu ngắn hạn, bị chi phối bởi các nhà đầu tư lớn và nhà đầu tư nước ngoài. Tham gia của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư) còn hạn chế, hiện chỉ chiếm khoảng 20% thị phần. Đối với hệ thống các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường hạn chế về năng lực tài chính, quản trị công ty và chất lượng dịch vụ, chỉ có 12/55 công ty chứng khoán có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên. Mạng lưới các công ty chứng khoán mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn, hạn chế cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư rộng khắp trong toàn quốc. Hệ thống công nghệ thông tin lạc hậu, đội ngũ nhân viên hành nghề hạn chế về số lượng và chất lượng, kiểm soát nội bộ, quản trị công ty còn yếu, chất lượng dịch vụ chưa cao, mới chú trọng đầu tư ngắn hạn tìm kiếm lợi nhuận. Khi thị trường mở rộng nhanh thì quy mô các công ty chứng khoán chưa đảm bảo cung cấp dịch vụ một cách bình đẳng, gây phản ứng cho các nhà đầu tư. Hoạt động TTCK tự do còn ở phạm vi rộng, ước tính gấp đôi thị trường có tổ chức, thiếu tính công khai, minh bạch, không được quản lý và giám sát, khả năng xẩy ra rủi ro cao (như mất khả năng thanh toán, chứng khoán giả, lừa đảo… ) gây bất ổn cho thị trường chính thức và hệ thống tài chính. Trong khi đó việc quản lý giám sát các hoạt động và tuân thủ pháp luật trên TTCK còn nhiều bất cập, đặc biệt là giám sát công bố thông tin, hoạt động của các công ty chứng khoán, tuân thủ quy chế giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN). Các Quỹ ĐTNN mở các văn phòng đại diện (trước đây do Bộ Thương mại cấp phép) có hoạt động vượt quá chức năng theo giấy phép và chưa chịu sự quản lý, giám sát, không có chế độ báo cáo thông tin. Các tổ chức ĐTNN ủy thác cho cá nhân đầu tư mà không phải thực hiện chế độ đăng ký và báo cáo. Tình trạng trên dẫn đến khó kiểm soát được luồng vốn, rửa tiền, thao túng thị trường... đồng thời gây sức ép lên đồng bản tệ và nguy cơ đảo chiều rút vốn gây khủng hoảng thị trường. Hệ thống và bộ máy giám sát của UBCKNN và các TTGDCK còn hạn chế về năng lực, hiệu quả. Từ những bất cập đó đòi hỏi chúng ta cần phải có những biện pháp để quản lý thị trường như: nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý, phát triển cung cầu chứng khoán, nâng cao năng lực của các định chế trung gian thị trường, tái cấu trúc thể chế, tăng cường cơ sở hạ tầng thị trường, tiếp tục tuyên truyền đào tạo kiến thức về chứng khoán… Điều này là cần thiết để phát triển một thị trường chứng khoán lành mạnh, đặc biệt đối với những thị trường mới nổi như Việt Nam nhằm tránh những rủi ro, khủng hoảng có thể xảy ra đối với hệ thống tài chính. 1.2 VỀ QUẢN LÝ RỦI RO 1.2.1 Khái niệm và phân loại rủi ro tài chính - Khái niệm: Dưới giác độ hoạt động kinh doanh và đầu tư tài chính, rủi ro được định nghĩa một cách đơn giản và trực tiếp nhất là sự thay đổi không lường trước được về giá trị tài sản và khoản nợ. Rủi ro được phân thành các loại: rủi ro trong kinh doanh, rủi ro ngoài kinh doanh và rủi ro tài chính. Rủi ro tài chính được quan niệm là sự thay đổi, sự biến động không lường trước được của giá trị tài sản hoặc của giá trị các khoản nợ do sự biến động trong quá trình hoạt động của thị trường tài chính gây ra như: rủi ro về lãi suất, tỷ giá, rủi ro về biến động giá các loại chứng khoán, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản. Ngoại trừ rủi ro ngoài kinh doanh là bất khả kháng, rủi ro về tài chính thường được kiểm soát chặt chẽ để doanh nghiệp tập trung vào việc quản lý rủi ro phát sinh từ các hoạt động kinh doanh do chính doanh nghiệp chủ động tạo ra. - Phân loại rủi ro tài chính: Rủi ro tài chính bao gồm rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động và rủi ro pháp lý. + Rủi ro thị trường (Market risk): là rủi ro phát sinh do sự biến động về giá trên thị trường tài chính. Rủi ro thị trường có thể được xem xét dưới hai dạng: rủi ro tuyệt đối – tính bằng giá trị tuyệt đối của tiền tệ và rủi ro tương đối – khi so sánh mức rủi ro của doanh nghiệp với mức rủi ro trung bình của ngành/nghề so sánh. Việc ngăn ngừa rủi ro thị trường thường được thực hiện bằng cách định ra các chuẩn mực trong kinh doanh và hạn mức rủi ro. + Rủi ro tín dụng (Credit risk): là rủi ro phát sinh khi một hoặc các bên tham gia hợp đồng tín dụng không có khả năng thanh toán cho các bên còn lại. Biến động về giá trên thị trường tài chính cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng được kiểm soát thông qua các chính sách về hạn mức tín dụng, tài sản thế chấp và đánh giá rủi ro tiềm ẩn của khách hàng. + Rủi ro thanh khoản (Liquidity risk): rủi ro phát sinh do tính thanh khoản của các tài sản không được thực hiện. Có hai loại, rủi ro về tài sản và rủi ro về vốn. Rủi ro tài sản phát sinh do tính thanh khoản của tài sản không thể thực hiện được trong một số điều kiện nhất định của thị trường. Ngoại tệ mạnh, trái phiếu, ngân phiếu chính phủ có tính thanh khoản cao, ngược lại các hợp đồng về mua bán, trao đổi có kỳ hạn có tính thanh khoản thấp hơn và khi hợp đồng thực hiện sẽ có tác động trực tiếp đến giá tài sản. Rủi ro về vốn còn gọi là rủi ro về luồng tiền phát sinh do doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và bắt buộc phải nhượng bán tài sản đầu tư khác với giá thấp hơn giá thị trường. Việc quản lý rủi ro về thanh khoản được thực hiện bằng cách đa dạng hoá tài sản đầu tư, lập kế hoạch luồng tiền và đặt ra hạn mức chuẩn mực về luồng tiền. + Rủi ro hoạt động (Operation risk): loại rủi ro này do chính con người hoặc sự cố về kỹ thuật mang lại một cách vô tình hay cố ý. Rủi ro hoạt động cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng. Việc kiểm soát rủi ro hoạt động được thực hiện bằng cách phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm cá nhân, tăng cường kiểm soát nội bộ và nâng cao chất lượng lập kế hoạch. + Rủi ro pháp lý (Legal risk): phát sinh do thực hiện các giao dịch không đúng pháp luật gây nên tổn thất, kiện cáo của khách hàng hoặc của các cổ đông. Trong khuôn khổ của đề tài này chúng ta sẽ chỉ đề cập đến rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng. 1.2.2 Những biến động tài chính và vai trò của nghiệp vụ quản lý rủi ro Bắt đầu từ những năm 70, đặc biệt là những năm 80 và 90 của thế kỷ 20 trở lại đây, hoạt động đầu tư – kinh doanh của các tổ chức tài chính gặp nhiều rủi ro do n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29007.doc
Tài liệu liên quan