Báo cáo Thực trạng tổ chức kế toán lập & phân tích tài chính ở Nhà máy thiết bị bưu điện

Chương i Những vấn đề chung về công tác kế toán lập và phân tích Báo cáo Tài chính trong các doanh nghiệp 1.1. những vấn đề chung về BCTC 1.1.1. Thông tin kế toán tài chính và việc trình bày trên BCTC 1.1.1.1. Khái niệm về thông tin kế toán tài chính Các nghiệp vụ kinh tế- TC phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được lập chứng từ làm cơ sở cho việc ghi chép phản ánh vào các TK, sổ kế toán. Số liệu từ các TK, sổ kế toán được phân loại, hệ thống hoá, t

doc107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Thực trạng tổ chức kế toán lập & phân tích tài chính ở Nhà máy thiết bị bưu điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổng hợp theo các chỉ tiêu để trình bày trên BCTC. Việc trình bày và cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng được coi là khâu cuối cùng trong toàn bộ công tác kế toán của doanh nghiệp. Thông tin kế toán tài chính có đặc điểm là những thông tin thích hợp, hiện thực về hoạt động kinh tế TC đã diễn ra và hoàn thành, có độ tin cậy và giá trị pháp lý cao. 1.1.1.2. Thông tin trình bày trên BCTC Thông tin trình bày trên BCTC ở các doanh nghiệp về cơ bản cũng tương đồng với những quy định trong chuẩn mực kế toán Quốc tế. Để đạt được mục đích của BCTC, những thông tin sau đây cần phải trình bày trên BCTC: Tên của doanh nghiệp lập báo cáo. BCTC là báo cáo cho một doanh nghiệp riêng lẻ hay một nhóm các doanh nghiệp. Ngày lập báo cáo hoặc niên độ báo cáo được lập. Các bộ phận cấu thành của BCTC được trình bày bao gồm: Bảng cân đối kế toán- Mẫu BO1-DN. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh-Mẫu BO2-DN. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ- Mẫu BO3- DN. Thuyết minh báo cáo tài chính- Mẫu BO9- DN. Các BCTC phác hoạ những ảnh hưởng TC của các giao dịch, các sự kiện bằng cách tập hợp thành các khoản mục lớn theo tính chất kinh tế của chúng. Những khoản mục này được gọi là các yếu tố của BCTC và cũng chính là những thông tin cơ bản cần phải trình bày trên các BCTC. 1.1.2. Khái niệm, tác dụng, mục đích và yêu cầu của BCTC BCTC vừa là phương pháp kế toán, vừa là hình thức thể hiện và truyền tải thông tin kế toán tài chính đến những người sử dụng để ra quyết định kinh tế. BCTC là phương pháp tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán theo các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh tình hình lưu chuyển các dong tiền và tình hình vận động, sử dụng vốn của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Mục đích của BCTC là cung cấp những thông tin về tình hình TC, tình hình sản xuất kinh doanh và những biến động về TC của Nhà máy. Những thông tin này rất hữu ích, giúp cho người sử dụng ra quyết định kinh tế kịp thời. Đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC là những người bên trong, bên ngoài doanh nghiệp, có lợi ích kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp. Các quyết định kinh tế này đòi hỏi việc đánh giá về năng lực của doanh nghiệp để tạo ra ngồn tiền và các khoản tương đương tiền cũng như về thời gian và tính chắc chắn của quá trình này. Thông tin về tình hình TC: Tình hình TC doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi các nguồn lực kinh tế do doanh nghiệp kiểm soát, cơ cấu TC, khả năng thanh toán và khả năng thích ứng phù hợp với môi trường kinh doanh. Nhờ có thông tin về các nguồn lực kinh tế do doanh nghiệp kiểm soát và năng lực kinh doanh trong quá khứ đã tác động đến nguồn lực kinh tế này và có thể dự đoán năng lực của doanh nghiệp tạo ra các khoản tiền và tương đương tiền trong tương lai. Thông tin về cơ cấu TC có tác dụng to lớn để dự đoán nhu cầu đi vay, phương thức phân phối lợi nhuận, tiền lưu chuyển cũng là mối quan tâm của doanh nghiệp và cũng là thông tin cần thiết để dự đoán khả năng huy động các nguồn TC ở doanh nghiệp. Thông tin về tình hình kinh doanh: Trên các BCTC trình bày những thông tin về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là thông tin về tính sinh lợi, tình hình biến động trong sản xuất kinh doanh sẽ giúp cho đối tượng sử dụng đánh giá những thay đổi tiềm tàng của các nguồn lực kinh tế mà doanh nghiệp có thể kiểm soát trong tương lai, để dự đoán khả năng tạo ra các nguồn tiền của doanh nghiệp trên cơ sở hiện có và việc đánh giá hiệu quả các nguồn lực bổ sung mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Thông tin về sự biến động tình hình TC của doanh nghiệp: Những thông tin này trên BCTC rất hữu ích trong việc đánh giá các hoạt động đầu tư, tài trợ và kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Hệ thống BCTC có tác dụng chủ yếu là: Cung cấp những chỉ tiêu kinh tế TC cần thiết giúp cho việc kiểm tra một cách toàn diện có hệ thống tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện các điều chỉnh kinh tế TC chủ yếu của doanh nghiệp. Cung cấp những số liệu, thông tin để kiểm tra giám sát tình hình hạch toán kinh doanh, tình hình chấp hành các chính sách chế độ kinh tế TC của doanh nghiệp. Cung cấp số liệu cần thiết để tiến hành phân tích hoạt động kinh tế TC doanh nghiệp, để nhận biết tình hình kinh doanh, tình hình kinh tế TC nhằm đánh giá quá trình hoạt động kinh doanh, xác định kết quả hoạt động kinh doanh cũng như tình hình và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Dựa vào các BCTC có thể phát hiện những khả năng tiềm tàng về kinh tế, dự đoán tình hình hoạt động kinh doanh cũng như xu hướng vận động của doanh nghiệp để từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn và có hiệu quả. Cung cấp tài liệu, số liệu để tham khảo phục vụ cho việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch đầu tư mở rộng hay thu hẹp phạm vi… Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, như: chủ doanh nghiệp, hội đồng quản trị, ban giám đốc… Dựa vào BCĐKT để biết được tiềm lực của doanh nghiệp, tình hình công nợ, tình hình thu, chi TC, khả năng TC, khả năng thanh toán, kết quả kinh doanh… để có quyết định về những công việc cần phải tiến hành, phương pháp tiến hành và kết quả có thể đạt được… Đối với các nhà đầu tư, các chủ nợ, ngân hàng, đại lý và các đối tác kinh doanh: dựa vào báo cáo kế toán doanh nghiệp để biết được thực trạng về TC, sản xuất kinh doanh, triển vọng thu nhập, khả năng thanh toán, nhu cầu về vốn của doanh nghiệp …để quyết định đầu tư, quy mô đầu tư, quyết định liên doanh, cho vay hay thu hồi vốn…. Đối với các cơ quan chức năng, cơ quan quản lý Nhà nước: dựa vào Báo cáo kế toán của doanh nghiệp để kiểm soát kinh doanh của doanh nghiệp có đúng chính sách chế độ đúng pháp luật không, để thu thuế và ra các quyết định cho những vấn đề xã hội… Để có thể thực sự phát huy tác dụng Báo cáo kế toán cần phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau: Phải được lập theo mẫu thống nhất, nhất là BCTC. Cần tuân thủ những quy định của Nhà nước. Nội dung và phương pháp tính toán các chỉ tiêu trên Báo cáo kế toán phải thống nhất với nội dung và phương pháp tính các chỉ tiêu kế hoạch tương ứng. Yêu cầu này giúp cho việc tổng hợp số liệu và phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế được dễ dàng, chính xác và khách quan. Số liệu trên Báo cáo kế toán phải đảm bảo chính xác trung thực khách quan và phải được tổng hợp từ các sổ kế toán sau khi đã đối chiếu, kiểm tra việc ghi chép một cách chính xác. Các chỉ tiêu trên các Báo cáo kế toán có liên quan phải thống nhất với nhau, liên hệ bổ sung cho nhau và đảm bảo phản ánh trung thực và khách quan tình hình và kết quả kinh doanh của đơn vị cũng như các vấn đề về kinh tế TC của doanh nghiệp. Báo cáo kế toán phải được lập và gửi đúng kỳ hạn quy định, nhằm đảm bảo tính kịp thời của thông tin. Chủ doanh nghiệp và kế toán trưởng doanh nghiệp là người chịu trách nhiệm chính về tính trung thực, đúng đắn và đáp ứng các yêu cầu của Báo cáo kế toán doanh nghiệp. Do vậy, trong việc tổ chức công tác kế toán cần phải chú trọng việc tổ chức phân công lập và xét duyệt Báo cáo kế toán cho phù hợp. Ngoài ra, BCTC phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán được chấp nhận và ban hành. Có như vậy, hệ thống BCTC mới thực sự hữu ích, đảm bảo được các yêu cầu của các đối tượng sử dụng để ra các quyết định hợp lý. 1.1.3. Những quy định chung về BCTC Mục tiêu của BCTC là xây dựng hệ thống BCTC phù hợp với môi trường kinh tế, luật pháp của Việt Nam, đồng thời có tính đến sự phù hợp với thông lệ kế toán Quốc tế, đảm bảo cho thông tin trình bày trên BCTC vừa tuân thủ pháp luật, vừa mang tính trung thực, hợp lý. Trên cơ sở đó, cung cấp những thông tin hữu ích nhất cho các đối tượng sử dụng BCTC. Để đáp ứng mục tiêu trên, theo Quyết định số 167/QĐ- BTC ngày 25/10/2000 của Bộ trưởng bộ TC, quy định: - Nhà nước quy định có tính bắt buộc về mẫu biểu, nội dung, phương pháp lập, đối tượng, phạm vi áp dụng và thời hạn nộp đối với các BCTC. - Hệ thống BCTC quy định trong chế độ này bao gồm 4 báo cáo sau: Bảng cân đối kế toán- Mẫu số B01-DN. Kết quả hoạt động kinh doanh- Mẫu số B01-DN. Lưu chuyển tiền tệ- Mẫu số B03- DN. Thuyết minh BCTC- Mẫu số B09- DN. - Đối tượng và phạm vi áp dụng: Nội dung phương pháp tính toán, hình thức trình bày các chỉ tiêu trong từng BCTC áp dụng thống nhất cho các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình, lĩnh vực, thành phần kinh tế . - Trách nhiệm, thời hạn lập và gửi BCTC: Tất cả các doanh nghiệp độc lập, có tư cách pháp nhân đều phải lập và gửi BCTC theo đúng các quy định của chế độ. Trước mắt, riêng Báo cáo B03-DN tạm thời chưa quy định là báo cáo bắt buộc phải lập và gửi nhưng khuyến khích các doanh nghiệp lập và sử dụng nó. BCTC quý đối với doanh nghiệp Nhà nước: Các doanh nghiệp hạch toán độc lập và hạch toán phụ thuộc Tổng công ty và các doanh nghiệp hạch toán độc lập không nằm trong Tổng công ty, thời hạn gửi BCTC quý chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày kết thúc quý. Đối với các Tổng công ty, thời hạn gửi BCTC quý chậm nhất là 45 ngày kể từ ngày kết thúc quý. BCTC năm đối với doanh nghiệp Nhà nước: Các doanh nghiệp hạch toán độc lập và hạch toán phụ thuộc Tổng công ty và các doanh nghiệp hạch toán độc lập không nằm trong Tổng công ty, thời hạn lập và gửi BCTC năm chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày kết thúc năm TC. Đối với Tổng công ty, thời hạn gửi BCTC năm chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm TC. Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các loại hình Hợp tác xã, thời hạn gửi BCTC năm chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm TC. Đối với các doanh nghiệp có năm TC kết thúc không vào ngày 31/12 hàng năm thì phải gửi BCTC quý kết thúc vào ngày 31/12 và có số luỹ kế từ đầu năm TC đến hết ngày 31/12. - Nơi nhận BCTC: Nơi nhận BCTC được quy định cụ thể đối với từng đối tượng (từng loại doanh nghiệp theo hình thức sở hưũ vốn) nó thể hiện tính thiết thực của báo cáo đối với từng nơi nhận BCTC: Các loại doanh nghiệp Thời hạn lập báo cáo Nơi nhận báo cáo Cơ quan tàI chính (1) Cục thuế (2) Cơ quan thống kê (3) Doanh nghiệp cấp trên (4) Cơ quan đăng ký kinh doanh (5) 1. Doanh nghiệp Nhà nước Quý, năm X X X x x 2. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Năm X X X x 3. Các loại doanh nghiệp khác Năm X x 1.1.4. Những công việc cần phải thực hiện trước và sau khi lập BCTC Trước khi lập BCTC: Kiểm tra, đối chiếu số liệu trên các sổ kế toán đảm bảo ghi đầy đủ và đúng tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong kỳ. Lập bảng cân đối thử (Bảng đối chiếu số phát sinh trước khi có các nghiệp vụ kết chuyển chi phí, DT và xác định kết quả). Lập các bút toán khoá sổ (các bút toán điều chỉnh DT, phân bổ chi phí, bút toán kết chuyển chi phí, DT và xác định kết quả kinh doanh). Kiểm kê tài sản, vật tư tiền vốn, đối chiếu công nợ, điều chỉnh số liệu trên sổ kế toán cho phù hợp với số liệu thực tế (nếu có chênh lệch). Khoá sổ kế toán cuối kỳ. Lập bảng đối chiếu số phát sinh các tài khoản (Bảng cân đối tài khoản). Chuẩn bị mẫu biểu báo cáo. Sau khi lập BCTC nhưng trước khi kiểm toán, thanh tra: Người lập BCTC phải kiểm tra, đối chiếu số liệu trên các BCTC, đảm bảo lập đúng sau đó ký vào BCTC để trình cho Kế toán trưởng. Kế toán trưởng xem xét kiểm tra lại số liệu trên các BCTC đã lập và ký vào để trình lên Ban giám đốc. Ban giám đốc xem lần cuối trước khi duyệt. Sau khi kiểm toán nội bộ (kiểm toán độc lập) hoặc thanh tra TC, thuế… nếu có sự thay đổi số liệu trên BCTC mà kiểm toán hoặc thanh tra yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh sửa đổi, nếu doanh nghiệp đồng ý chấp nhận sửa chữa thì kế toán phải sửa đổi (chỉnh lý) số dư đầu niên độ sau cho phù hợp với số liệu BCTC đã được kiểm toán hoặc thanh tra. Sau khi BCTC đã được kiểm toán thì tổ chức công khai BCTC theo các chỉ tiêu cần công khai với hình thức công khai phù hợp. 1.2. Bảng cân đối kế toán 1.2.1. Khái niệm và bản chất của BCĐKT BCĐKT là một phương pháp kế toán và là một Báo cáo kế toán chủ yếu phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp theo hai cách phân loại: cấu thành vốn và nguồn hình thành hiện có của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, được chia thành hai phần theo hai cách phản ánh tài sản và nguồn vốn, hai phần này luôn bằng nhau. Nó phản ánh vốn và nguồn vốn tại một thời điểm là ngày cuối cùng của kỳ hạch toán. 1.2.2. Kết cấu và nội dung của BCĐKT 1.2.2.1. BCĐKT được kết cấu dưới dạng bảng cân đối số dư các TK kế toán và sắp xếp trật tự các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý BCĐKT chia làm hai phần (có thể sắp xếp dọc hoặc ngang). Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ giá trị hiện có của doanh nghiệp đến cuối kỳ hạn hạch toán đang tồn tại dưới các hình thái và trong tất cả các giai đoạn, các khâu của quá trình hoạt đông kinh doanh. Các chỉ tiêu được phản ánh trong phần tài sản được sắp xếp theo nội dung kinh tế của các loại tài sản trong quá trình tái sản xuất. Xét về mặt kinh tế: số liệu các chỉ tiêu phản ánh bên tài sản thể hiện số vốn và kết cấu các loại vốn của đơn vị hiện có tại thời điểm lập báo cáo đang tồn tại dưới hình thái vật chất, tiền tệ, các hình thức đầu tư TC hoặc dưới hình thức nợ phải thu ở tất cả các khâu, các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. Căn cứ vào nguồn số liệu này trên cơ sở tổng số và kết cấu tài sản Có mà đánh giá một cách tổng quát quy mô tài sản, năng lực và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. Xét về mặt pháp lý: Số liệu của bên tài sản thể hiện số vốn đang thuộc quyền quản lý, quyền sử dụng vốn của doanh nghiệp. Phần nguồn vốn: Phản ánh các nguồn hình thành các loại tài sản, các loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch toán. Các chỉ tiêu ở phần nguồn vốn được sắp xếp, phân chia theo từng nguồn hình thành tài sản.Tỷ trọng và kết cấu của từng nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn hiện có phản ánh tính chất hoạt động, thực trạng tình hình TC của doanh nghiệp. Xét về mặt kinh tế: Số liệu nguồn vốn của BCĐKT thể hiện quy mô, nội dung và tính chất đối với các nguồn vốn doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng trong hoạt đông kinh doanh. Xét về mặt pháp lý: Số liệu các chỉ tiêu thể hiện trách nhiệm về mặt pháp lý, vật chất của doanh nghiệp đối với tài sản đang quản lý và sử dụng, cụ thể là đối với Nhà nước, với cấp trên, với nhà đầu tư, ngân hàng, với các tổ chức tín dụng, với khách hàng, với cán bộ công nhân viên. 1.2.2.2. Nội dung của BCĐKT Nội dung của BCĐKT thể hiện qua các hệ thống các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài sản và nguồn hình thành tài sản. Các chỉ tiêu được sắp xếp thành từng loại, mục cụ thể. Các chỉ tiêu đều được mã hoá để thuận tiện cho việc kiểm tra đối chiếu cũng như việc xử lý trên máy tính và được phân chia thành “Số đầu năm” và “Số cuối kỳ”. Phần “Tài sản” : bao gồm các chỉ tiêu phản ánh toàn bộ tài sản tại thời điểm lập báo cáo và được chia thành hai loại chỉ tiêu: - Loại A: TSLĐ và đầu tư ngắn hạn. - Loại B: TSCĐ và đầu tư dài hạn. Phần “Nguồn vốn” : bao gồm các chỉ tiêu các nguồn hình thành các loại tài sản tại thời điểm lập báo cáo được chia thành hai loại chỉ tiêu: - Loại A: Nợ phải trả. - Loại B: Nguồn vốn chủ sở hữu. Ngoài các chỉ tiêu trong phần chính, BCĐKT còn có các chỉ tiêu ngoài BCĐKT. 1.2.3. Cơ sở số liệu và phương pháp lập BCĐKT 1.2.3.1. Cơ sở số liệu BCĐKT niên độ kế toán trước. Số dư các TK loại I, II, III, IV và loại 0 trên các sổ kế toán chi tiết và tổng hợp của kỳ lập BCĐKT. 1.2.3.2. Phương pháp chung lập BCĐKT Cột “Số đầu năm”: Căn cứ vào cột “Số cuối kỳ” của BCĐKT niên độ kế toán trước để ghi vào các chỉ tiêu tương ứng. Cột “Số cuối kỳ”: Số liệu ghi vào cột này được ăn cứ vào số dư của các TK (cấp 1, cấp 2) trên các sổ kế toán có liên quan đã khoá sổ ở thời điểm lập BCĐKT để ghi như sau: Những chỉ tiêu trên bảng CĐKT có nội dung phù hợp với số dư của các TK thì căn cứ trực tiếp vào số dư của các TK để ghi vào các chỉ tiêu tương ứng theo nguyên tắc. Số dư Nợ của các TK ghi vào các chỉ tiêu tương ứng phần “tài sản” Số dư Có của các TK ghi vào các chỉ tiêu tương ứng ở phần “nguồn vốn”. Các trường hợp ngoại lệ Các TK liên quan đến dự phòng: TK 129-Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn; TK 139- Dự phòng phải thu khó đòi; TK 159- Dự phòng giảm giá HTK; Tk 229- Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn và TK 214- Hao mòn TSCĐ; tuy có số dư nhưng vẫn phản ánh ở các chỉ tiêu tương ứng phần “tài sản” bằng số âm dưới hình thức ghi trong ngoặc đơn hoặc ghi đỏ. Các chỉ tiêu thaih toán liên quan đến các TK 131 Phải thu của khách hàng. TK 331- Phải trả cho người bán. TK136- Phải thu nội bộ. TK 336- Phải trả nội bộ. TK 334- Phải trả công nhân viên, phải căn cứ vào số dư của các chi tiết tổng hợp lại để ghi vào các chỉ tiêu tương ứng. Các chi tiết dư Nợ tổng hợp lại để ghi vào các chỉ tiêu tương ứng phần “tài sản”, các chi tiết dư Có tổng hợp lại để ghi vào chỉ tiêu tương ứng phần “nguồn vốn”, không được bù trừ lẫn nhau. Một số TK có số dư lưỡng tính khác như TK 412- Chênh lệch đánh giá lại tài sản , TK 413- Chênh lệch tỷ giá và TK 421- Lãi chưa phân phối cũng được căn cứ vào số dư của chúng để ghi vào các chỉ tiêu tương ứng. Đối với các chỉ tiêu ngoài BCĐKT: do có đặc điểm là các TK ghi đơn, có số dư Nợ nên căn cứ trực tiếp vào số dư Nợ cuối kỳ trên sổ cái để ghi trực tiếp vào các chỉ tiêu tương ứng. 1.2.3.3. Phương pháp lập cụ thể Đối với từng chỉ tiêu trên BCĐK theo quy định 167/BTC và một số Thông tư liên quan 1.3. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 1.3.1. Tác dụng của BCKQHĐKD BCKQHĐKD là BCTC tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh cũng như tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước trong một kỳ kế toán. BCKQHĐKD có tác dụng: Thông qua các chỉ tiêu trên BCKQHĐKD để kiểm tra, phân tích và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, dự toán chi phí sản xuất, giá vốn, DT sản phẩm vật tư hàng hoá đã tiêu thụ, tình hình chi phí, thu nhập của hoạt động khác và kết quả của doanh nghiệp sau một kỳ kế toán. Thông qua số liệu trên BCKQHĐKD mà kiểm tra tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước về các khoản thuế và các khoản phải nộp khác. Thông qua BCKQHĐKD mà đánh giá xu hướng phát triển của doanh nghiệp qua các kỳ khác nhau. 1.3.2. Nội dung và kết cấu của BCKQHĐKD BCKQHĐKD gồm ba nội dung sau: - Phần I phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi kỳ hoạt động-Lãi hoặc lỗ. Các chỉ tiêu thuộc phần này đều được theo dõi chi tiết theo số quý trước, quý này và luỹ kế từ đầu năm. - Phần II phản ánh trách nhiệm nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước. Các chỉ tiêu thuộc phần này được theo dõi chi tiết thành số còn phải nộp kỳ trước, số phải nộp kỳ này, số đã nộp trong kỳ và số còn phải nộp đến cuối kỳ này. Phần III: Phản ánh số thuế GTGT được khấu trừ, thuế GTGT được hoàn lại, thuế GTGT được miễn giảm, thuế GTGT hàng bán nội địa. 1.3.3. Cơ sở số liệu và phương pháp lập BCKQHĐKD 1.3.3.1. Cơ sở số liệu BCKQHĐKD được lập dựa trên các nguồn số liệu sau: BCKQHĐKD kỳ kế toán trước. Số liệu các TK chủ yếu là loại 3, 5, 7, 8, 9 trên các sổ kế toán. Các tài liệu liên quan khác. 1.3.3.2. Phương pháp lập Phương pháp lập phần I: Lãi- Lỗ: Cột “ Quý trước” căn cứ vào số liệu cột “Quý này” của BCKQHĐKD kỳ trước để ghi vào cột “Quý trước” theo các chỉ tiêu tương ứng. Cột “Quý này” căn cứ vào các tài liệu, số liệu trên các TK ở các sổ kế toán liên quan để ghi vào từng chỉ tiêu. (Chi tiết như ở bảng BCKQHĐKD phần I: Phụ lục 2.2. Cột “ Luỹ kế từ đầu năm” căn cứ vào cột số liệu “ Luỹ kế từ đầu năm” của BCKQHĐKD quý trước cộng với cột “ Quý này” của BCKQHĐKD quý này. Phương pháp lập phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Số liệu để ghi vào các chỉ tiêu trên được căn cứ chủ yếu trên các TK cấp II (chi tiết theo từng loại thuế của TK 333- Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước; TK 338- Phải trả phải nộp khác và các sổ chi tiết liên quan). Phương pháp lập cụ thể: Cột “Số còn phải nộp đầu kỳ”: căn cứ vào số liệu ở “Số phải nộp cuối kỳ” của phần II của BCKQHĐKD kỳ trước để chuyển sang cột “ Số còn phải nộp đầu kỳ” theo các chỉ tiêu tương ứng Cột “Số phát sinh trong kỳ”: “Số phải nộp” căn cứ vào số phát sinh bên Có của các TK 333- Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước, TK 338- Phải trả phải nộp khác, chi tiết theo từng loại thuế và các khoản phải nộp tương ứng trên báo cáo để ghi. “Số đã nộp” căn cứ vào số phát sinh bên Nợ của các TK 333, TK 338 chi tiết theo từng chỉ tiêu để ghi. Cột: “Luỹ kế từ đầu năm”: “Số phải nộp”: căn cứ vào số liệu cột “ Số phải nộp” luỹ kế từ đầu năm của báo cáo này kỳ trước cộng với số liệu ở cột “Số phải nộp” phát sinh trong kỳ của báo cáo kỳ này để ghi vào các chỉ tiêu tương ứng. “Số đã nộp” căn cứ vào “Số đã nộp” luỹ kế từ đầu năm của báo cáo này kỳ trước cộng với cột số liệu ở cột “Số đã nộp” phát sinh trong kỳ của báo cáo này rồi ghi vào chỉ tiêu tương ứng Cột “Số còn phải nộp cuối kỳ”: Chỉ tiêu này phản ánh cả số phải nộp kỳ trước chuyển sang chưa nộp trong kỳ này và được tính: “Số phải nộp đầu kỳ” cộng “Số phải nộp trong kỳ” trừ đi “Số đã nộp trong kỳ” rồi ghi vào các chỉ tiêu tương ứng. 1.3.3.3. Phương pháp lập phần III: Thuế GTGT được khấu trừ, thuế GTGT được hoàn lại, thuế GTGT được giảm, thuế GTGT hàng bán nội địa Nội dung các chỉ tiêu phần này dùng để phản ánh số thuế GTGT được khấu trừ, đã khấu trừ và còn được khấu trừ. Số thuế GTGT được hoàn lại, đã hoàn lại và còn được hoàn lại. Số thuế GTGT được giảm, đã giảm và còn được giảm. Thuế GTGT hàng bán nội địa. Nội dung và phương pháp lập các chỉ tiêu ghi vào cột 4 “Luỹ kế từ đầu năm” được căn cứ vào số liệu ghi ở cột 4 “Luỹ kế từ đầu năm” của báo cáo này kỳ trước cộng với số liệu ghi ở cột 3 “Kỳ này” của báo cáo này kỳ này, kết quả tìm được ghi vào cột 4 ở từng chỉ tiêu phù hợp. Nội dung và phương pháp lập các chỉ tiêu ghi vào cột 3 “Kỳ này” theo quy định 167/ BTC và một số Thông tư khác liên quan. 1.4. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 1.4.1. Tác dụng của BCLCTT BCLCTT là BCTC tổng hợp phản ánh sự hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Thông tin về lượng tiền của doanh nghiệp có tác dụng trong việc cung cấp thông tin cho những đối tượng sử dụng thông tin trên các BCTC có cơ sở để đánh giá khả năng tạo ra các khoản tiền và việc sử dụng những khoản tiền đó trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các nhà đầu tư, các chủ nợ… BCLCTT có những tác dụng như sau: Cung cấp thông tin để đánh giá khả năng tạo ra các khoản tiền, các khoản tương đương tiền và nhu cầu của doanh nghiệp trong việc tạo ra các khoản tiền. Cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng để phân tích, đánh giá về thời gian cũng như mức độ chắc chắn của việc tạo ra các khoản tiền trong doanh nghiệp. Cung cấp thông tin về các nguồn hình thành từ các lĩnh vực hoạt động kinh doanh, đầu tư và TC của doanh nghiệp để đánh giá ảnh hưởng của các hoạt động đó đối với tình hình TC của doanh nghiệp. Cung cấp thông tin để đánh giá khả năng thanh toán và xác định nhu cầu về tiền của doanh nghiệp trong kỳ hoạt động tiếp theo. 1.4.2. Nội dung và kết cấu của BCLCTT Nội dung của BCLCTT gồm ba phần: Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh. Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư. Lưu chuyển tiền từ hoạt động từ hoạt động TC. * Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh: Nội dung của phần này gồm các chỉ tiêu phản ánh việc hình thành các khoản tiền và việc sử dụng chúng có liên quan trực tiếp đến hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp. * Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư: Nội dung của phần này gồm các chỉ tiêu liên quan đến việc hình thành và sử dụng các khoản tiền như: tiền thu về do thu hồi các khoản tiền đầu tư vào các đơn vị khác, tiền lãi thu được từ các hoạt động đầu tư, tiền thu về nhượng bán TSCĐ, các khoản tiền chi phí cho việc mua sắm, xây dựng TSCĐ, các khoản tiền đem đầu tư vào các đơn vị khác. * Lưu chuyển tiền từ hoạt động TC: Phần này gồm các chỉ tiêu với nội dung phản ánh các khoản tiền được tạo ra và sử dụng vào hoạt động TC của doanh nghiệp. Với nội dung trên BCLCTT được kết cấu thành các dòng để phản ánh các chỉ tiêu liên quan đến việc hình thành và sử dụng các khoản tiền theo từng loại hoạt động, các cột để chi tiết theo số kỳ này và kỳ trước để có thể đánh giá, so sánh giữa các kỳ khác nhau. 1.4.3. Phương pháp lập BCLCTT 1.4.3.1. Phương pháp lập trực tiếp Cơ sở số liệu: Theo phương pháp trực tiếp các chỉ tiêu của BCLCTT được căn cứ vào các tài liệu sau: Sổ kế toán vốn bằng tiền. Sổ kế toán theo dõi các khoản phải thu, phải trả. BCĐKT. Nguyên tắc chung: Căn cứ vào các sổ kế toán để phân tích xác định các khoản thu, chi tiền cho phù hợp với nội dung của các chỉ tiêu theo từng loại hoạt động của BCLCTT để ghi vào các chỉ tiêu tương ứng. Phương pháp lập cụ thể theo Quy định 167/BTC và một số Thông tư liên quan. 1.4.3.2. Phương pháp lập gián tiếp Cơ sở số liệu: BCKQHĐKD Mẫu số B02- DN. BCĐKT Mẫu số B01- DN. Các TK chi tiết vốn bằng tiền, sổ cái các TK. - Nguyên tắc chung: Theo phương pháp gián tiếp BCLCTT được lập bằng cách điều chỉnh số lợi tức trước thuế của hoạt động sản xuất kinh doanh khỏi ảnh hưởng của các nghiệp vụ không trực tiếp thu, chi tiền đã làm tăng, giảm lợi tức; loại trừ các khoản lãi, lỗ của hoạt động đầu tư và hoạt động TC đã tính vào lợi nhuận trước thuế, điều chỉnh các khoản mục thuộc vốn lưu động. - Phương pháp lập cụ thể theo Quy định 167/BTC. 1.5. Thuyết minh BCTC 1.5.1. Tác dụng của Thuyết minh BCTC Thuyết minh BCTC là báo cáo được lập nhằm mục đích giải trình và bổ sung, thuyết minh những thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình TC của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà chưa được trình bày đầy đủ, chi tiết trong các BCTC khác. Thuyết minh BCTC có tác dụng: - Cung cấp số liêu thông tin để phân tích đánh giá một cách cụ thể tình hình chi phí, thu nhập và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Cung cấp số liệu thông tin để phân tích đánh giá tình hình tăng giảm TSCĐ theo từng loại, nhóm, tình hình tăng giảm vốn chủ sở hữu theo từng loại nguồn và từng nguồn cung cấp, phân tích tính hợp lý trong việc phân bổ, cơ cấu vốn, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời của doanh nghiệp. 1.5.2. Nội dung và kết cấu của Thuyết minh BCTC Thuyết minh BCTC gồm các các bộ phận cấu thành sau: Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. Chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp. Chi tiết một số chỉ tiêu trong BCTC. Giải thích và Thuyết minh một số tình hình, kết quả hoạt đông kinh doanh. Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Phương hướng sản xuất kinh doanh trong kỳ tới. Các kiến nghị. 1.5.3. Cơ sở số liệu và phương pháp lập Thuyết minh BCTC 1.5.3.1. Cơ sở lập Căn cứ chủ yếu để lập Thuyết minh BCTC là: Các sổ kế toán tổng hợp, sổ kế toán chi tiết kỳ báo cáo. BCĐKT kỳ báo cáo. BCKQHĐKD kỳ báo cáo. Thuyết minh BCTC kỳ trước, năm trước. 1.5.3.2. Phương pháp chung lập Thuyết minh BCTC Để Thuyết minh BCTC phát huy được tác dụng cung cấp bổ sung, Thuyết minh thêm các tài liệu, chỉ tiêu cụ thể cho các đối tượng sử dụng thông tin khác nhau ra được những quyết định phù hợp vói mục đích sử dụng thông tin của mình đòi hỏi phải tuân thủ các quy định về phương pháp chung lập như sau: Phần trình bày bằng lời văn phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Phần trình bày bằng số liệu phải đảm bảo thống nhất với số liệu trên các BCTC khác. Các báo cáo quý, các chỉ tiêu thuộc phần hai chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp phải thống nhất trong cả niên độ kế toán. Nếu có sự thay đổi về nội dung nào đó phải có sự trình bày lý do thay đổi một cách rõ ràng. Trong các biểu cột số kế hoạch phải trình bày số liệu kế hoạch của kỳ báo cáo, còn cột số thực hiện kỳ trước phải là số liệu của kỳ ngay trước kỳ báo cáo. - Phương pháp lập cụ thể theo Quy định 167/BTC và một số Thông tư khác 1.6. Phân tích BCTC trong doanh nghiệp 1.6.1. Những công việc chuẩn bị trước khi phân tích Tài liệu phục vụ cho phân tích là hệ thống BCTC gồm BCĐKT, BCKQHĐKD, Thuyết minh BCTC. Trong đó BCĐKT và BCKQHĐKD là những bộ phận chủ yếu sử dụng khi phân tích. Phương pháp phân tích: Phương pháp so sánh: đây là phương pháp chủ yếu được dung trong phân tích BCTC. Có thể so sánh giữa số hiện thực kỳ này với kỳ trước, so sánh giữa số hiện thực với số kế hoạch, so sánh số hiện thực kỳ này với mức trung bình của ngành, so sánh theo chiều dọc, chiều ngang…Mỗi hình thức so sánh cho tác dụng khác nhau. Tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để lựa chọn. Phương pháp chi tiết: là phương pháp chia nhỏ đối tượng nghiên cứu khác nhau tạo nên đối tượng phân tích. Có thể chi tiết theo bộ phận cấu thành chỉ tiêu, theo thời gian và địa điểm để đánh giá được kết quả kinh doanh một cách chính xác. Phương pháp phân tích nhân tố: là kỹ thuật phân tích và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến chỉ tiêu phân tích dạng nhân tố. Để xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế, phân tích kinh tế có thể sử dụng một hệ thống các phương pháp khác nhau, như phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp chênh lệch, phương pháp cân đối… 1.6.2. Nội dung phân tích BCTC và kỹ thuật phân tích 1.6.2.1. Phân tích BCTC Với mục đích là đánh giá được thực trạng tình hình TC của doanh nghiệp tại thời điểm phân tích, thông qua đó cung cấp những thông tin cần thiết cho những đối tượng đang quan tâm đến tình hình TC của doanh nghiệp để họ có những quyết định cần thiết phù hợp với lợi ích kinh tế khác nhau. Do đó, phân tích CBTC thường được tiến hành theo những nội dung cơ bản sau: - Phân tích cấu thành, tình hình biến động của tài sản, nguồn vốn. - Phân tích kết quả kinh doanh. - Phân tích tình hình đầu tư và tự tài trợ. - Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán. - Phân tích rủi ro TC. - Phân tích hiệu quả của việc quản lý và sử dụng vốn. - Phân tích tình hình lưu chuyển tiền tệ. 1.6.2.2. Kỹ thuật phân tích Thường người ta sử dụng các kỹ thuật so sánh sau đây: - So sánh về số tuyệt đối: là việc xác định chênh lệch giữa trị số của chỉ tiêu kỳ phân tích với trị số của chỉ tiêu kỳ gốc. Kết quả so sánh cho thấy sự biến động về số tuyệt đối của hiện tượng kinh tế đang nghiên cứu. - So sánh bằng số tương đối: là xác định số % tăng (giảm) giữa số thực tế so với kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích. Cũng có khi tỷ trọng của một hiện tượng kinh tế trong một tổng thể quy mô chu._.ng được xác định. Kết quả tốc độ phát triển hoặc kết cấu, mức phổ biến của hiện tượng kinh tế. Khi phân tích BCTC có thể sử dụng các kỹ thuật phân tích theo chiều dọc hoặc theo chiều ngang: - Phân tích theo chiều ngang là việc so sánh cả số tuyệt đối và số tương đối trên cùng một hàng (cùng một chỉ tiêu) trên BCTC. Qua đó, thấy được sự biến động của từng chỉ tiêu. Phân tích theo chiều dọc là việc xem xét, xác định tỷ trọng của từng chỉ tiêu trong tổng thể quy mô chung. Qua đó thấy được mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu trong tổng thể.Vấn đề là xác định quy mô chung được phù hợp với từng báo cáo và mối quan hệ giữa chỉ tiêu xem xét với quy mô chung đó. 1.6.3. Tổ chức công tác phân tích BCTC ở doanh nghiệp - Lập kế hoạch phân tích: giai đoạn này được tiến hành chu đáo, chuẩn xác sẽ giúp cho các giai đoạn sau tiến hành có kết quả tốt. Vì vậy, giai đoạn này được coi là giai đoạn chuẩn bị. - Lập kế hoạch phân tích bao gồm việc xác định mục tiêu, xây dựng chương trình phân tích, kế hoạch phân tích phải xác định rõ nội dung phân tích, phạm vi, thời gian tiến hành, những thông tin cần thu thập tìm hiểu. - Giai đoạn tiến hành phân tích: đây là giai đoạn triển khai, thực hiện các công việc đã ghi trong kế hoạch. Tiến hành phân tích bao gồm các công việc cụ thể sau: Sưu tầm tài liệu, xử lý số liệu. Tính toán các chỉ tiêu phân tích. Xác định nguyên nhân và tính toán cụ thể mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến các chỉ tiêu phân tích. Xác định và dự đoán những nhân tố kinh tế xã hội tác động đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Tổng hợp kết quả, rút ra nhận xét, kết luận về tình hình TC của doanh nghiệp sau đó đưa ra lời kiến nghị. Giai đoạn kết thúc: Đây là giai đoạn cuối cùng của việc phân tích, cần phải lập báo các phân tích trong đó trình bày những đánh giá chủ yếu về TC doanh nghiệp. Những nguyên nhân cơ bản đó ảnh hưởng tích cực hoặ tiêu cực đến tình hình và kết quả đó. Những biện pháp đó có thể hạn chế loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố tiêu cực, phát huy ảnh hưởng của các nhân tố tích cực nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và cải thiện tình hình TC doanh nghiệp. Chương II Thực trạng tổ chức kế toán lập và phân tích bctc ở nhà máy thiết bị bưu điện. 2.1. đặc điểm tình hình chung về nhà máy thiết bị bưu điện. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển. 2.1.1.1. Nhà máy Thiết bị Bưu điện hiện nay có trụ sở chính ở Hà Nội tên giao dịch Quốc tế là Post And Telecomunications Equipment Factory (POSTEF) Là một doanh nghiệp Nhà nước, theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty được phê chuẩn tại Nghị định số 51/CP ngày 1/8/1995 của Chính Phủ, Nhà máy Thiết bị Bưu điện là đơn vị hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Nhà máy là một bộ phận cấu thành của hệ thống tổ chức và hoạt động thuộc Tổng công ty trong các lĩnh vực khác nhau. Nhằm tăng cường tích tụ tập trung phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất, Nhà máy thực hiện những mục tiêu kế hoạch của Nhà nước do Tổng công ty giao cho. Ngày 10/10/1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng đã mở ra một trang sử mới đối với Cơ xưởng Bưu điện (Nhà máy Thiết bị Bưu điện hiện nay). Tháng 11/1954 Tổng cục Bưu điện đã quyết định đặt lại tên cho Cơ xưởng Bưu điện thành Cơ xưởng Bưu Điện Trung ương. Lúc này Cơ xưởng Bưu Điện Trung ương đã có mặt bằng khoảng 6.500m2 với nhiệm vụ chủ yếu là sửa chữa và tận dụng nguyên vật liệu sản xuất các loại máy thông tin liên lạc hữu tuyến, vô tuyến phục vụ cho việc khôi phục, phát triển hệ thống Bưu điện ở miền Bắc mà đặc biệt là hệ thống Bưu điện ở các tỉnh, thành phố như Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng. Ngoài ra, Cơ xưởng Bưu điện còn phải góp phần phục vụ hệ thống thông tin liên lạc của Quân đội, Công an nhằm chống lại âm mưu dùng gián điệp phá hoại miền Bắc của Mỹ Diệm. Ngày 9/2/1962 Chính Phủ ra Quyết định số 12/CP giao cho tổng cục Bưu điện quản lý kỹ thuật các đài phát thanh và phát triển mạng lưới truyền thanh địa phương. Tổng cục Bưu điện đổi tên thành Tổng cục Bưu điện truyền thanh, Cơ xưởng Bưu điện đổi tên thành Nhà máy Bưu điện truyền thanh. Năm 1967, theo Quyết định số 389/QĐ ngày 16/06/1967 của Tổng cục Bưu điện đã tách rời Nhà máy Bưu điện truyền thanh ra làm 4 nhà máy trực thuộc bao gồm nhà máy I, II, III và IV. Đầu những năm 70, do yêu cầu phát triển thông tin của Tổng cục Bưu điện đã sáp nhập nhà máy I, II, IV thành một nhà máy hạch toán độc lập theo Quyết định số 157/QĐ. Đến ngày 26/3/1970 sản phẩm được cung cấp lúc đầu đa dạng hoá bao gồm: - Các loại thiết bị chuyên dùng về hữu tuyến, vô tuyến. - Thiết bị truyền thanh, thu thanh. - Một số sản phẩm chuyên dùng cho cơ sở sản xuất chuyên ngành. - Ngoài ra còn một số sản phẩm dân dụng khác. Đến tháng 12/1986 do yêu cầu của Tổng cục Bưu điện Nhà máy lại một lần nữa tách ra thành 2 nhà máy sản xuất kinh doanh ở cả 2 khu vực: - Nhà máy Thiết bị Bưu điện ở 61 Trần Phú - Ba Đình - Hà Nội. - Nhà máy vật liệu điện tử loa âm thanh 63 Nguyễn Huy Tưởng - Thanh Xuân - Hà Nội. Bước vào thập kỷ 90, do sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực thông tin nên nhu cầu thị trường ngày càng cao, nhất là các đòi hỏi về chất lượng sản phẩm. Điều đó đã đóng vai trò quyết định khối lượng sản xuất, tác động trực tiếp đến quy mô doanh nghiệp. Một số yếu tố khác không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của Nhà máy, đó chính là sự chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, đánh dấu cột mốc của sự chuyển đổi nền kinh tế đất nước nói chung và của Nhà máy nói riêng. Trước yêu cầu bức thiết của tình hình mới, để tăng cường năng lực sản xuất cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và Quốc tế, Nhà máy đã không ngừng đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất. Tháng 3 năm 1993 Tổng cục Bưu điện tiến hành sáp nhập 2 nhà máy trên thành một nhà máy tiến hành ở cả 2 khu vực: - Khu vực I: 61 Trần Phú - Ba Đình - Hà Nội. - Khu vực II: 63 Nguyễn Huy Tưởng - Thanh Xuân - Hà Nội. Sau khi có quyết định 217 – Hội đồng bộ trưởng, Nhà máy đã thực hiện hoạt động kinh doanh một cách tự chủ. Đến đầu năm 1995, Nhà máy trở thành một thành viên độc lập thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, theo Quyết định thành lập doanh nghiệp số 202/QĐ - TCBĐ ngày 15/3/1995, giấy phép kinh doanh số 105.985 ngày 20/3/1995 do Trọng tài kinh tế cấp, số hiệu tài khoản TK10A009 tại Ngân hàng Công thương Ba Đình - Hà Nội. Nhà máy được thành lập lại theo quyết định số 42 - TCKB ngày 9/9/1996 của Tổng công ty Tổng cục Bưu điện. Phương hướng sản xuất kinh doanh của Nhà máy được xây dựng trên nền tảng các chức năng và nghĩa vụ được nêu trong điều lệ tổ chức hoạt động kinh doanh của Nhà máy Thiết bị Bưu điện. Hiện nay, Nhà máy có 2 cơ sở sản xuất chính tại Hà Nội với tổng diện tích 3.000 m2. Cơ sở I đặt tại Trần Phú, cơ sở II đặt tại Thượng Đình. Đến năm 1997, tiếp nhận thêm khu kho đồi Lim A02 Bắc Ninh và từ khi tiếp nhận đến nay Nhà máy không ngừng phát huy mọi khả năng có thể. Khu kho đổi Lim A02 đã được cải tạo, tu sửa, đưa vào hoạt động và trở thành cơ sở thứ III của Nhà máy. Ngoài trụ sở chính ở Hà Nội, Nhà máy còn có 2 chi nhánh ở 2 thành phố lớn là Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là 2 thành phố chính mà lượng tiêu thụ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng DT của Nhà máy. Ngoài ra 2 chi nhánh này cũng giúp cho việc tiếp cận thị trường được dễ dàng và là tiền đề để Nhà máy mở rộng sản xuất trong tương lai. Trải qua 48 năm xây dựng phấn đấu và trưởng thành Nhà máy Thiết bị Bưu điện đã tự khẳng định mình bằng những bước đi vững vàng, tự tin và luôn luôn giữ vững được uy tín trên thị trường. Nhà máy đã phát triển về cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ sản xuất và quản lý với một đội ngũ công nhân lành nghề đáp ứng được nhu cầu sản xuất trong toàn Nhà máy. Sản phẩm của Nhà máy ngày càng phong phú đa dạng có chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, cạnh tranh được với hàng ngoại nhập. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Nhà máy Thiết bị Bưu điện trong giai đoạn này bao gồm: - Quản lý vốn hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà máy được Tổng công ty giao cho gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác nhằm phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời trả các khoản nợ mà Nhà máy trực tiếp vay hoặc các khoản tín dụng được Tổng công ty bảo lãnh vay theo quy định của pháp luật. - Đăng ký kinh doanh và kinh doanh đúng mục đích ngành nghề đã đăng ký, chịu trách nhiệm trước khách hàng và pháp luật về sản phẩm do Nhà máy thực hiện. - Thực hiện các nhiệm vụ sản xuất và cung ứng sản phẩm phục vụ an ninh quốc phòng, phòng chống thiên tai, các hoạt động công ích do Tổng công ty giao cho. - Xây dựng quy hoạch phát triển Nhà máy phù hợp với chiến lược quy hoạch Tổng công ty và phạm vi chức năng nhiệm vụ của Nhà máy được quy định tại Điều 2 Điều lệ về tổ chức hoạt động trong Nhà máy. - Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh ngắn hạn, dài hạn, phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ được giao và nhu cầu của thị trường. - Chấp hành các Điều lệ, quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn kỹ thuật, giá và chính sách giá theo quy định của Nhà máy và Tổng công ty. - Hiện đại hoá công nghệ và phương thức quản lý trong quá trình xây dựng và phát triển, thu nhập từ chuyển nhượng tài sản phải được sử dụng để tái đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ của Nhà máy. - Nhà máy chịu trách nhiệm đóng các loại thuế và nghĩa vụ tài chính khác nhau theo quy định của pháp luật và quy chế tài chính của Tổng công ty. - Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, quyền lợi đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động, đảm bảo cho người lao động tham gia quản lý Nhà máy. - Thực hiện các quy định của Nhà nước về bảo vệ tài nguyên môi trường, an ninh quốc phòng. - Thực hiện chế độ báo cáo kế toán thống kê, báo cáo định kỳ, bất thường, chế độ kế toán theo quy định của Nhà nước và Tổng công ty, chịu trách nhiệm về tính xác thực của báo cáo. - Thực sự kiểm tra, kiểm soát và tuân thủ các quy định về thanh tra, kiểm tra của Tổng công ty và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định. - Nhà máy Thiết bị Bưu điện có trách nhiệm thực hiện đầy đủ, kịp thời các khoản trích nộp về Tổng công ty theo quy định trong quy chế tài chính của Tổng công ty. Với các nhiệm vụ trên, Nhà máy đã và đang đứng trước những khó khăn và thuận lợi sau: Thuận lợi: - Sự phát triển mạnh mẽ của ngành Bưu chính Viễn thông: Ngành bưu điện là một trong những ngành phát triển nhất hiện nay mà Nhà máy là một đơn vị công nghiệp lớn nhất của ngành. Nhu cầu nắm bắt tin tức nhanh, kèm theo đó là nhu cầu sử dụng các thiết bị điện thoại ấn phím, điện thoại di động, tủ buồng đàm thoại… ngày một gia tăng. Các sản phẩm do Nhà máy sản xuất ra thường tốn ít chi phí hơn so với sản phẩm ngoại nhập cùng loại, mặt khác lại không phải chịu thuế nhập khẩu. Vì vậy, điều đó làm tăng lợi thế đối với việc tiêu thụ sản phẩm của Nhà máy. - Thị trường tiêu thụ chủ yếu của Nhà máy là trong nước với 3 trung tâm chuyên làm công tác tiếp thị và bán hàng ở 3 thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Do vậy, sản phẩm của Nhà máy có mặt ở khắp mọi miền của đất nước và được tín nhiệm do sản phẩm được sản xuất bằng máy móc, thiết bị hiện đại. - Khả năng huy động vốn dễ dàng do uy tín của Nhà máy cùng với sự đảm bảo của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. - Khả năng thanh toán của khách hàng là chắc chắn do khách hàng của Nhà máy là các bưu điện hoặc các công ty trực thuộc bưu điện. Các đơn vị hoạt động có hiệu quả, khả năng tài chính lành mạnh, tiềm năng về thị trường bưu chính viễn thông rất lớn. Đặc biệt là tiềm năng về thị trường xuất khẩu các thiết bị bưu chính viễn thông sang các nước Châu á, nhất là thị trường các nước Đông Nam á. - Với bề dày gần 50 năm xây dựng, phấn đấu và trưởng thành trong thời gian qua, toàn thể cán bộ công nhân viên trong Nhà máy đã tự mình đạt được một thành tích đáng khích lệ. Nhờ đó, Nhà máy đã hoà nhập tốt trong cơ chế thị trường, từng bước nắm bắt được nhu cầu thị hiếu, cải tiến máy móc thiết bị, đào tạo tay nghề cho công nhân và trình độ lãnh đạo của đội ngũ quản lý năng động sáng tạo. Phần lớn đội ngũ cán bộ của Nhà máy là các kỹ sư về điện tử, tin học, vô tuyến điện, các cử nhân kinh tế và hầu như không có lao động giản đơn. Tồn tại: Bên cạnh những thành tựu đã đạt được Nhà máy còn bộc lộ những khiếm khuyết ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh sau: - Chi phí mua sắm máy móc thiết bị của Nhà máy rất lớn. Nhiều loại vật tư và các thiết bị linh kiện điện tử của Nhà máy phải nhập khẩu. Do đó, giá cả phụ thuộc chung vào thị trường thế giới. Việc nhập khẩu làm tăng thêm chi phí vận chuyển từ nước ngoài về Việt Nam. Mặt khác, Nhà máy còn phải nộp thuế GTGT hàng nhập khẩu đối với những thiết bị ngoại nhập này. - Nguy cơ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế: Trong điều kiện kinh tế thị trường việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là rất quyết liệt. Nhu cầu của thị trường đòi hỏi các sản phẩm làm ra phải có chất lượng cao và giá cả phải hợp lý. Ngành Bưu điện chưa có biện pháp quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu các chủng loại máy điện thoại. Do vậy, điện thoại từ các nguồn có xuất xứ khác nhau do nhiều đơn vị nhập về theo đường nhập khẩu chính ngạch hoặc tiểu ngạch (đặc biệt là điện thoại Trung Quốc). Điều này gây khó khăn trong việc tiêu thụ điện thoại Việt Nam do Nhà máy sản xuất. - Do sự phát triển nhanh của khoa học kỹ thuật đã làm sản phẩm bưu chính viễn thông luôn thay đổi và để theo kịp với sản phẩm ngoại nhập. Nhà máy phải đầu tư liên tục và khấu hao nhanh khiến sản phẩm phải bán với giá cao mới có lãi hoặc chịu giảm lợi nhuận, tăng tiêu thụ. Điều này gây áp lực cho Nhà máy trong quản lý chặt chẽ chi phí. Hơn nữa, Nhà máy nhập một số vật tư từ nước ngoài nên chi phí nguyên vật liệu lớn, từ đó cũng đội chi phí sản xuất lên cao hơn... Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng Nhà máy cũng đã và đang cố gắng hết sức vô hiệu hoá chúng và phát huy lợi thế của mình trong những năm tới. 2.1.1.2. Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu về lao động, tài sản, vốn hoạt động của Nhà máy: Về lao động, năm 2001 gồm có 601 người, năm 2002 là 586 người. Về cơ cấu tài sản vốn của Nhà máy được biểu hiện qua bảng sau: Đơn vị tính: đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Tài sản cố định Tài sản lưu động 21.060.771 97.208.689 45.695.911.738 114.055.610.161 Tổng tài sản 118.269.460 159.751.601.899 Tổng nguồn vốn 118.269.460 159.751.601.899 Trong 2 năm 2001 - 2002 tình hình hoạt động của Nhà máy vẫn còn gặp nhiều khó khăn do bỡ ngỡ và còn lúng túng trong cơ chế thị trường, sản phẩm trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, thêm vào đó sản phẩm nội địa lại bị cạnh tranh khốc liệt với hàng Trung Quốc, Thái Lan,… sản phẩm làm ra chưa đáp ứng được yêu cầu. Tuy vậy, với sự nỗ lực của Ban giám đốc và toàn thể cán bộ công nhân viên nên mọi người đều có việc làm ổn định, thu nhập cao, doanh thu tăng đều qua các năm. Trên thực tế, Nhà máy đã không ngừng đào tạo nguồn lực, có các biện pháp khuyến khích người lao động cả về vật chất lẫn tinh thần nên trình độ lao động ngày càng cao. Nhà máy đã đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, cải tiến sản phẩm, đóng góp một phần vào Ngân sách Nhà nước. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong các năm qua thể hiện ở một số chỉ tiêu sau: Đơn vị tính: 1.000 đ STT Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 1 Tổng doanh thu 149.714.552 213.222.590 2 Lợi nhuận trước thuế 8.846.971 13.016.200 3 Thuế thu nhập doanh nghiệp 3.053.605 3.970.222 4 Lợi nhuận sau thuế 5.793.366 9.406.097 5 Số lao động (người) 601 586 6 Thu nhập bình quân 1.368 1.642 Qua những chỉ tiêu trên ta thấy tình hình hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy trong 2 năm qua ổn định. Trên thực tế, Nhà máy đã không ngừng đề ra biện pháp tăng lợi nhuận, giảm chi phí. 2.1.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của Nhà máy Thiết bị Bưu điện Trong các doanh nghiệp sản xuất, công nghệ sản xuất là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến quy trình sản xuất hoạt động kinh doanh nói chung và tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức công tác kế toán nói riêng. Vì vậy, trước hết chúng ta cần tìm hiểu đặc điểm quy trình công nghệ. Sản phẩm của Nhà máy có nhiều loại khác nhau, quy trình công nghệ phức tạp và qua nhiều giai đoạn sản xuất- từ khi đưa nguyên vật liệu vào chế biến đến khi nhập kho thành phẩm là một quá trình liên tục- khép kín được phác hoạ bằng sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1: Quy trình sản xuất khép kín của Nhà máy Vật tư Sản xuất Bán thành phẩm Bán thành phẩm mua ngoài Lắp ráp Thành phẩm Vật liệu từ kho chuyển đến phân xưởng sản xuất: phân xưởng sản xuất ép nhựa, đúc, dập, chế tạo (sơn hàn), sản xuất các sản phẩm cơ khí… Sau đó chuyển tiếp sang kho bán thành phẩm để chuyển đến phân xưởng lắp ráp (đối với những sản phẩm đơn giản thì sau khâu sản xuất trở thành sản phẩm hoàn chỉnh nhập tới kho thành phẩm). Cuối cùng là nhập kho thành phẩm. Suốt quá trình đó có kiểm tra chất lượng, loại bỏ sản phẩm hỏng, sản phẩm không đạt chất lượng. Do quy trình công nghệ khép kín nên Nhà máy có thể tiết kiệm thời gian luân chuyển nguyên vật liệu để nhanh chóng chuyển thành bán thành phẩm ở các tổ sản xuất, tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, có nhược điểm là công nghệ khép kín nên không thể tiến hành sản xuất đồng loạt, không tận dụng hết năng lực sản xuất của TSCĐ. Mặt khác, Nhà máy sản xuất nhiều loại sản phẩm nhưng sản lượng của mỗi loại thì ít. Vì vậy, quy trình sản xuất phức tạp, vốn đầu tư lớn. Sơ đồ 2.2: Quy trình công nghệ sản xuất của Nhà máy Thiết bị Bưu điện Kho bán thành phẩm Phân xưởng lắp ráp Các phân xưởng sản xuất Từ các bản vẽ kỹ thuật chi tiết Tiêu thụ Kho thành phẩm Nguyên vật liệu Làm sạch bóng bề mặt Kiểm tra chất lượng Gia công chi tiết Tạo khuôn mẫu Qua sơ đồ trên có thể thấy rằng: khi có ý đồ về sản phẩm nào đó, các nhà kỹ thuật phải thiết kế bản vẽ chi tiết sản phẩm. Từ đó, Nhà máy mua nguyên vật liệu cung cấp cho các phân xưởng sản xuất. Tại đây, lần lượt qua các khâu, tạo khuân mẫu theo thiết kế. Sau đó, gia công chi tiết tại các phân xưởng, kiểm tra chất lượng nếu đạt thì chuyển sang làm sạch bóng bề mặt, một số được chuyển vào kho bán thành phẩm, số còn lại được chuyển sang phân xưởng lắp ráp (phân xưởng lắp ráp còn nhận thêm bán thành phẩm ở kho bán thành phẩm) để lắp ráp hoàn thiện sản phẩm. Sản phẩm hoàn thiện được chuyển vào kho thành phẩm để đưa đi tiêu thụ hoặc giao luôn cho người đặt hàng. Vì vậy, quy trình công nghệ sản xuất của Nhà máy là một quá trình khép kín nên Nhà máy có thể tiết kiệm thời gian, đẩy nhanh chu trình sản xuất, tạo điều kiện thúc đẩy tăng doanh thu, tăng lợi nhuận từ đó tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên Nhà máy. Để thấy rõ hơn về quy trình công nghệ sản xuất ở Nhà máy Thiết bị Bưu điện, xem xét quy trình công nghệ sản xuất tủ đấu dây – sản phẩm chủ yếu của Nhà máy. Sơ đồ2.3: Quy trình công nghệ sản xuất trẻ tủ đấu dây Phân xưởng 6 ép Phân xưởng 9 cài lam Phiến Nhựa Tủ đấu dây Phân xưởng bưu chính lắp Vỏ tủ PX 2 đột dập, sơn hàn Tôn … PX 1 chế tạo khuôn Nhà máy nhập sắt, tôn, inox, nhựa, lam…để sản xuất tủ đấu dây. Sau khi nhập kho nguyên vật liệu đó vào kho vật tư sẽ làm phiếu xuất cho các phân xưởng. Cụ thể: - Nhựa được đưa xuống phân xưởng 6 ép thành vỏ phiến đấu dây. Sau khi đó được đưa xuống phân xưởng 9 cài lam chống sét hoàn chỉnh thành phiến đấu nối. - Tôn, inox…xuất xuống phân xưởng 1 để tạo khuôn và được đưa xuống phân xưởng 2 để đột dập, sơn, hàn, chế tạo thành vỏ tủ. - Phiến đấu nối và vỏ tủ đấu dây được nhập vào kho bán thành phẩm, từ kho bán thành phẩm phiến xuất cho phân xưởng bưu chính lắp ráp thành tủ đấu dây hoàn chỉnh. 2.1.3. Đặc điểm tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy Hiện nay, Nhà máy có trên 595 cán bộ công nhân viên trong đó có hơn 400 người là cán bộ trực tiếp sản xuất và nhân viên quản lý phân xưởng. Lao động của Nhà máy hầu hết được đào tạo qua trường vô tuyến viễn thông và các trường dạy nghề khác, lao động giản đơn rất ít và hầu như không có, đội ngũ cán bộ quản lý là kỹ sư vô tuyến điện tin học. Nhà máy có nhiều dây chuyền sản xuất với nhiều máy móc thiết bị hiện đại lại càng đòi hỏi trình độ tay nghề của người lao động phải được nâng cao qua đào tạo tuyển dụng. Để đáp ứng yêu cầu chuyên môn hoá trong sản xuất kinh doanh, Nhà máy tổ chức bộ máy quản lý theo chế độ một thủ trưởng. Đứng đầu Nhà máy là Giám đốc. Toàn bộ cơ cấu quản lý và sản xuất của Nhà máy được sắp xếp bố trí thành các phòng ban, phân xưởng, giữa các phòng ban phân xưởng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Ban Giám đốc đưa ra quyết định thực hiện quản lý vĩ mô chỉ đạo chung toàn bộ hoạt động của Nhà máy, các phân xưởng là các bộ phận trực tiếp tham gia sản xuất sản phẩm. 2.1.3.1. Ban Giám đốc Giám đốc là người lãnh đạo cao nhất, chịu trách nhiệm cao nhất về hoạt động của Nhà máy, có nhiệm vụ tổ chức duy trì xem xét, hỗ trợ toàn bộ nguồn lực cần thiết để áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng cho Nhà máy, chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh trước pháp luật, có nghĩa vụ đối với Nhà nước trong quản lý tài sản, tránh để thất thoát tài sản. Phó giám đốc gồm có Phó giám đốc kỹ thuật và Phó giám đốc sản xuất, là người đại diện lãnh đạo về chất lượng sản phẩm, là người trợ giúp cho Giám đốc về mặt kỹ thuật, chỉ đạo trực tiếp các đơn vị thực hiện ISO trong Nhà máy. Các Phó giám đốc là người trợ lý cho Giám đốc và theo dõi điều hành các công việc dựa trên quyền quyết định của Giám đốc. 2.1.3.2. Các phòng ban Nhà máy có 12 phòng ban, đây là hệ thống quản lý theo chức năng, thông qua trưởng phòng đến từng nhân viên. - Phòng đầu tư - phát triển: xây dựng các phương hướng kế hoạch chiến lược ngắn hạn, dài hạn, lập và theo dõi việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng tháng lập các kế hoạch đầu tư bổ sung, đầu tư nâng cấp, nghiên cứu cải tiến bổ sung dây chuyền công nghệ. - Phòng vật tư: có nhiệm vụ bổ sung mua sắm, tiếp nhận vật tư, chuyển giao đối với sản xuất, tiếp nhận sản phẩm; quản lý bảo quản hàng hoá, giao hàng lựa chọn nhà cung cấp, mua các trang thiết bị thay thế, sửa chữa làm việc với các nhà thầu phụ về chất lượng sản phẩm do họ cung cấp, cung cấp sản phẩm cho các chi nhánh; viết các phiếu nhập kho, xuất kho. - Phòng công nghệ kỹ thuật: cùng với phòng đầu tư phát triển nghiên cứu cải tiến quy trình công nghệ và ứng dụng công nghệ hiện đại. Xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật, tiền cung cấp chất lượng sản phẩm, cung cấp các bản vẽ thiết kế. - Phòng tổ chức lao động tiền lương: tổ chức bộ máy điều động tiến độ sản xuất, quản lý nhân sự, bố trí, bổ sung nhân sự phù hợp với yêu cầu để đảm bảo hiệu quả của hệ thống sản xuất kinh doanh và hệ thống quản lý chất lượng. Tổ chức các khoá đào tạo về kỹ thuật và quản lý; quản lý hồ sơ nhân sự, giải quyết các vấn đề về lương, bảo hiểm xã hội, thực hiện các biện pháp quản lý theo dõi tăng cường sức khoẻ và cung cấp thiết bị bảo hộ lao động cho người lao động. - Phòng kế toán tài chính: có chức năng về TC theo dõi mọi hoạt động sản xuất kinh doanh dưới hình thái tiền tệ, hệ thống kế toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, cung cấp các thông tin theo yêu cầu quản lý về tình hình tài chính của nhà máy. - Phòng điều động sản xuất: là trung gian cho cấp trên, cấp dưới trao đổi thông tin qua lại với nhau, điều động sản xuất đôn đốc sản xuất, thực hiện kế hoạch. - Ban nguồn: là ban chuyên nghiên cứu, chế tạo những loại nguồn (ổn áp) một chiều có công suất lớn, hoạt động liên tục có tác dụng nuôi mạng bưu điện. - Phòng marketing (trọng tâm tiếp thị): tổ chức tiêu thụ sản phẩm, tiếp xúc với khách hàng, cung cấp thông tin cho khách hàng về sản phẩm của Nhà máy, thăm dò thị trường, tiếp nhận thông tin về chất lượng sản phẩm từ khách hàng, lập sổ theo dõi về chất lượng sản phẩm định kỳ báo cáo về Nhà máy, định kỳ đề ra kế hoạch sản xuất để đáp ứng yêu cầu của thị trường. - Phòng KCS: chuyên kiểm tra, theo dõi chất lượng sản phẩm. - Phòng kế hoạch kinh doanh: theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kế hoạch cho các phân xưởng, theo dõi, đôn đốc tiến độ cung cấp vật tư, nguyên vật liệu, bán thành phẩm phụ tùng thay thế, sửa chữa đáp ứng yêu cầu kế hoạch, xác định các mất cân đối và phát sinh trong sản xuất để có những đề xuất khôi phục kịp thời. - Trung tâm bảo hành sản phẩm: tổ chức việc thực hiện bảo hành sản phẩm, tổ chức việc bán lẻ và giải quyết những thắc mắc của khách hàng về cách lắp đặt và sử dụng sản phẩm. Tổ chức thống kê tình hình sản phẩm hỏng trên thị trường, đánh giá nguyên nhân hỏng định kỳ báo cáo về phòng kỹ thuật sửa chữa và phó giám đốc, đề xuất thực hiện các giải pháp kỹ thuật để duy trì và củng cố chất lượng sản phẩm. - Phòng hành chính, bảo vệ: 2.1.3.3. Các phân xưởng Nhà máy gồm 12 phân xưởng có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một dây chuyền khép kín, sản xuất hàng loạt hoặc đơn chiếc tuỳ theo yêu cầu của thị trường. - Phân xưởng sản xuất số 1: là phân xưởng cơ khí có nhiệm vụ chính là tạo khuôn mẫu cho các phân xưởng khác. - Phân xưởng sản xuất số 2: nhiệm vụ chính là lắp ráp sản phẩm, ngoài ra còn có nhiệm vụ đột dập, chế tạo (sơn hàn) cung cấp cho các phân xưởng khác. - Phân xưởng sản xuất số 5: là phân xưởng chính, sản xuất các sản phẩm bưu chính như dấu ấn, kim niêm phong… - Phân xưởng sản xuất số 6: là phân xưởng sản xuất các sản phẩm ép nhựa đúc và sản phẩm lắp ráp điện dân dụng. - Phân xưởng sản xuất số 7: phân xưởng chuyên sản xuất và lắp ráp các thiết bị điện tử hiện đại do toàn bộ các lao động trẻ có kỹ thuật điều hành. - Phân xưởng sản xuất số 8: lắp ráp loa - Phân xưởng 3, 4: đây là 2 phân xưởng cơ khí ở khu vực Thượng Đình, chuyên sản xuất loa, ngoài ra có tổ biến áp; tổ cơ điện. - Phân xưởng PVC (cứng) và PVC (mềm) là 2 phân xưởng chuyên sản xuất ống nhựa dẫn cáp. Để có cái nhìn tổng thể về cơ cấu tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh của Nhà máy ta có thể phác hoạ sơ đồ sau: (sơ đồ 2.4) Sơ đồ 2.4 : Tổ chức bộ máy quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy Giám đốc Phó giám đốc sản xuất Phó giám đốc kỹ thuật Trung tâm bảo hành sản phẩm Phòng công nghệ Phòng hành chính bảo vệ Phòng kế toán Phòng tài chính Phòng đầu tư phát triển Ban nguồn Phòng KCS Phòng vật tư Phòng điều động sản xuất Phòng kế hoạch Trung tâm tiêu thụ 1, 2, 3 PX KM PX 7 PX 2 PX 1 PX PVC 2 PX BC PX 6 PX 5 PX PVC 1 PX 8 PX 4 PX 3 Qua cơ cấu tổ chức bộ máy của Nhà máy ta thấy công tác tổ chức quản lý tương đối hợp lý nhằm chuyên môn hoá trong sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Nhà máy có tới 3 trung tâm tiếp thị Bắc, Trung, Nam được chia theo khu vực và theo ngành hàng. Theo khu vực có ưu điểm là giải quyết kịp thời cho mạng lưới bưu chính viễn thông toàn quốc; chia theo ngành có ưu điểm là nắm bắt kỹ thuật, hướng dẫn khách hàng chuyên sâu. Nhà máy có nhiều phòng ban chức năng chuyên sâu về một hoặc một số lĩnh vực tạo cho chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao, khách hàng tin cậy, tạo chỗ đứng vững trên thị trường. Tuy nhiên, bộ máy tổ chức của Nhà máy chưa gọn nhẹ, tinh giản; vẫn có sự trùng lắp, chồng chéo nhiệm vụ giữa các phòng ban như phòng đầu tư phát triển và phòng kế hoạch kinh doanh cùng nghiên cứu, xây dựng kế hoạch ngắn hạn và dài hạn. 2.1.4. Tổ chức công tác kế toán của Nhà máy Thiết bị Bưu điện Cùng với thành tựu đổi mới kinh tế của đất nước là sự tăng tốc của ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam và sự phát triển của Nhà máy Thiết bị Bưu điện. Phòng kế toán thống kê là một bộ phận của Nhà máy. Ngay từ khi mới thành lập, Nhà máy đã tiến hành hạch toán độc lập. Bộ máy kế toán của Nhà máy có nhiệm vụ thực hiện và kiểm tra toàn bộ công tác kế toán của Nhà máy, giúp ban lãnh đạo có căn cứ tin cậy để phân tích đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Phòng kế toán đảm nhận những công việc về kế toán, thống kê và TC ngoài ra còn có các công việc khác nữa. 2.1.4.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, bộ máy kế toán của doanh nghiệp sắp xếp gọn nhẹ, phù hợp với tình hình chung hiện nay. Phòng kế toán thống kê của Nhà máy gồm 9 người đảm nhiệm các phần hành kế toán khác nhau bao gồm 1 kế toán trưởng và 8 kế toán nghiệp vụ. Kế toán trưởng. Kế toán tổng hợp. Kế toán TSCĐ kiêm kế toán thu chi. Kế toán tiền lương, thanh toán tạm ứng, kế toán nguyên vật liệu và tổng hợp vật tư. Kế toán thành phẩm và tiêu thụ. Kế toán ngân hàng. Kế toán vật tư và thống kê tài sản. Kế toán vật tư và lương tại cơ sở 2. Kế toán kho bán thành phẩm, thu và chi tổng hợp tại cơ sở 2. Cơ cấu bộ máy kế toán tại Nhà máy được biểu hiện qua sơ đồ sau: (sơ đồ 2.5). Kế toán trưởng Kế toán tổng hợp K. toán T.Hợp BTP cơ sở 2 K.toán VT, lương cơ sở 2 K.toán vật tư và thống kê TS K.toán thành phẩm và tiêu thụ Kế toán T.Hợp VT, Lương, T.ứng Kế toán thu chi, TSCĐ, BHXH, BHYT Kế toán thanh toán với NH Quan hệ chỉ đạo Quan hệ thông tin Phòng kế toán của Nhà máy đã đóng góp không nhỏ vào sự thành công và kết quả thu được trong những năm qua. Phòng được trang bị một hệ thống máy tính để phục vụ cho việc ghi chép và cập nhật tổng hợp thông tin một cách chính xác của Tổ thông tin kế toán TC. 2.1.4.2. Hình thức tổ chức công tác kế toán Nhà máy Thiết bị Bưu điện tổ chức hạch toán kế toán theo hình thức tập trung tạo điều kiện để kiểm tra chỉ đạo nghiệp vụ và đảm bảo sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Kế toán trưởng cũng như sự chỉ đạo lãnh đạo của lãnh đạo Nhà máy. Theo hình thức này, toàn bộ công tác kế toán được tập trung tại phòng kế toán của Nhà máy, ở các bộ phận đơn vị trực thuộc không có bộ phận kế toán riêng mà chỉ có các nhân viên kế toán làm nhiệm vụ hạch toán ban đầu, thu thập, kiểm tra chứng từ và gửi chứng từ về phòng kế toán của Nhà máy. Nghĩa là các đơn vị trực thuộc sẽ hạch toán báo sổ, còn tại Nhà máy thì hạch toán tổng hợp. 2.1.4.3. Hệ thống tài khoản nhà máy sử dụng Sau khi thực hiện hệ thống kế toán mới, Nhà máy đã sử dụng hầu hết các tài khoản kế toán doanh nghiệp ban hành theo Quyết định 1141/T C/QĐCĐKT ngày 1/11._.phần III- Thuế GTGT được khấu trừ, được miễn giảm, được hoàn lại và đã đưa ra mẫu sổ hạch toán chi tiết thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm của BCKQHĐKD. Nếu căn cứ vào mẫu sổ này ta sẽ nhận thấy được dễ dàng thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm phát sinh tăng, giảm khi nào, vì sao lại phát sinh và đồng thời đây cũng là căn cứ để lập BCKQHĐKD- phần III. Do vậy, việc áp dụng mẫu sổ kế toán chi tiết thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm là cần thiết (Mẫu sổ xem Phụ lục 3.2). Mặt khác, Nhà máy nên lập thêm cột “Kỳ này” và cột “Kỳ trước” ở BCKQHĐKD. Thứ tư: Về thuyết minh BCTC. Trong phần thuyết minh BCTC chi tiết phần các khoản phải thu và nợ phải trả, số đầu năm và số cuối kỳ Nhà máy nên ghi rõ tổng số và trong đó số quá hạn, số tiền tranh chấp mất khả năng thanh toán. Theo cách như vậy thì sẽ giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC nhất là các nhà đầu tư và các chủ nợ có cách nhìn cụ thể có hướng đi đúng (Xem Phụ lục 3.3). Và Nhà máy nên lập Bảng tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá tình hình kết quả SXKD (Xem Phụ lục 3.4). Thứ năm: Về BCLCTT. Năm 2002 Nhà máy chưa lập BCLCTT, năm 2001 lập theo mẫu chỉ có cột năm 2001 không có cột kỳ trước (2000). Do vậy có thể lập theo Phụ lục 3.5. Thứ sáu: Phân tích BCTC Nếu nhìn vào những con số trên BCTC cũng như các con số mà kế toán Nhà máy tính toán trên nội dung phần năm của Thuyết minh BCTC chưa nói lên được nhiều. Vì vậy, các đối tượng cần thông tin phải mất nhiều thời gian để tính toán và phân tích; hơn nữa, không phải ai cũng đều có khả năng phân tích được BCTC. Do đó, để phát huy hiệu quả cao nhất của thông tin trên BCTC một cách cụ thể hơn và công việc này cần giao cho người có năng lực, am hiểu về các vấn đề tài chính, tiến hành phân tích BCTC một cách nghiêm túc, cụ thể, chi tiết, diễn giải bằng lời các chỉ tiêu trên thuyết minh BCTC và phân tích thêm một số chỉ tiêu cần thiết như đã được trình bày ở chương II. Kết quả phân tích phải được công khai trên tập thể cán bộ công nhân viên, chỉ rõ thực trạng tài chính của Nhà máy, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh, triển vọng trong tương lai…Để từ đó Ban lãnh đạo cũng như những người nhiệt huyết gắn bó với Nhà máy kịp thời đưa ra những giải pháp nhằm khai thác được những tiềm tàng và nhanh chóng nắm bắt được cơ hội cũng như có biện pháp tháo gỡ những khó khăn để không ngừng đưa Nhà máy phát triển, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, khi tiến hành phân tích khả năng thanh toán, kế toán có thể sử dụng các hệ số phân tích sau: Thứ bảy: Về thời hạn gửi BCTC Bộ tài chính quy định thời hạn gửi BCTC quý chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày kết thúc quý, BCTC năm chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Như vậy, Nhà máy có thể kiến nghị để có thêm thời gian, nếu theo quy định đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng BCTC do hạn chế cố hữu của việc lập BCTC của Nhà máy. Một số giải pháp nhằm ổn định tình hình TC và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Nhà máy thiết bị bưu điện Qua một số nét về những thuận lợi và khó khăn của Nhà máy đã nêu ở chương II phần “Đặc điểm tình hình chung của Nhà máy” có thể khái quát lại như sau: Về thuận lợi chung: Nhà máy đang tiến hành sản xuất kinh doanh sản phẩm phục vụ cho ngành Bưu chính viễn thông- là lĩnh vực quan trọng, phát triển nhất hiện nay và đang được Đảng và Nhà nước tiếp tục cho mở rộng quy mô để hoạt động, bộ máy quản lý và trình độ tay nghề của công nhân ngày càng được nâng cao. Nhưng bên cạnh đó, Nhà máy cũng đang phải đối diện với những khó khăn nhất định đó là: Sự phát triển của khoa học công nghệ rất mạnh mẽ, lĩnh vực sản xuất của Nhà máy đòi hỏi phải bắt kịp tiến bộ khoa học, phải thường xuyên đổi mới khoa học công nghệ, tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhu cầu xã hội ngày càng cao, chuẩn bị gia nhập AFTA vào năm 2006 cho nên mọi vấn đề về phát triển sản xuất kinh doanh của Nhà máy là rất khó khăn. Cùng với việc phân tích tình hình TC của Nhà máy (ở chương II) nếu đứng trên các khía cạnh khác nhau thì Nhà máy cũng có những xu hướng tốt, góp phần làm tình hình TC khả quan hơn như: các khoản nợ phải thu có xu hướng giảm, tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu có xu hướng tăng và nguồn vốn chủ sở hữu không những để trang trải các khoản đầu tư dài hạn mà còn một phần để bổ sung TSLĐ. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng không ít những khó khăn, tồn tại làm tình hình TC của Nhà máy không tốt lắm, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều vấn đề. Các khoản nợ phải trả có xu hướng tăng lên từ năm 2001 đến năm 2002. Cụ thể, năm 2001 là 94.741.722.373đ đến năm 2002 tăng lên đến 106.608.083.123đ. Như vậy, cho thấy Nhà máy đã đi chiếm dụng vốn cho nên khả năng tự chủ về mặt TC bị giảm xuống, rủi ro TC tăng lên. Nhà máy dùng nguồn vốn chủ sở hữu đầu tư cho tài sản không nhiều, khả năng thanh toán còn chưa linh động, HTK và các khoản phải trả, phải thu còn chiếm tỷ trọng lớn, hiệu quả sử dụng TSLĐ và TSCĐ có chiều hướng giảm sút, lượng tiền mặt tồn quỹ quá ít, nợ phải trả tăng lên, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao… Như vậy, để phát huy những lợi thế, khắc phục những tồn tại, góp phần cải thiện tình hình TC, nâng cao hiệu quả sản xuất của Nhà máy có thể có một số kiến nghị như sau: Thứ nhất: Tăng tỷ trọng TSCĐ Nhà máy nên tăng tỷ trọng TSCĐ lên để tăng năng lực sản xuất, tăng hiệu quả sử dụng vốn; cần chủ trọng vào việc mua sắm máy móc thiết bị, nhà cửa, phương tiện vận tải… nhằm phục vụ tốt cho quá trình sản xuất, cho quá trình chuyên chở và bảo quản sản phẩm. TSCĐ là một phần không thể thiếu được trong doanh nghiệp sản xuất. Nếu có cơ cấu hợp lý, tận dụng triệt để năng lực sản xuất, sử dụng tối đa công suất thì có thể tạo khả năng tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Đối với Nhà máy qua xem xét thực tiễn cho thấy số máy móc thiết bị cũ rất nhiều, hơn nữa Nhà máy đang trong quá trình thực hiện chủ trương “ Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước”. Do vậy, việc mua sắm, đổi mới tăng số lượng và chất lượng TSCĐ là cần thiết nhất là trong giai đoạn này. Sản phẩm của Nhà máy mang tính đặc thù, rất dễ bị lạc hậu, lỗi thời nhất là trong giai đoạn Khoa học công nghệ đang phát triển nhanh. Cho nên, việc chú trọng đầu tư đổi mới máy móc thiết bị là rất quan trọng và thiết yếu. Việc đầu tư mua sắm nhằm tăng năng lực sản xuất, tạo điều kiện để bắt kịp với thị trường Quốc tế. Trong mấy năm vừa qua, giá trị còn lại của TSCĐ ngày càng giảm. Tuy Nhà máy có đầu tư mua sắm nhưng chưa chú trọng đến việc bù đắp những TSCĐ đã khấu hao nay đã giảm năng lực sản xuất, nếu cứ tiếp tục xu hướng này thì Nhà máy sẽ gặp khó khăn trong việc giữ vị thế của mình hiện tại và trong tương lai. Thứ hai: Tăng khả năng thanh toán. Nhà máy cần tăng khả năng thanh toán nhất là khả năng thanh toán nhanh. Với khả năng thanh toán nợ ngắn hạn ngày càng giảm thể hiện ít có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong năm mặc dù năm 2001 là 1,51 và năm 2002 là 1,37; chúng đều lớn hơn 1 nhưng năm 2002 có sự giảm sút so với năm 2001. Mặt khác, HTK và các khoản nợ phải thu quá nhiều nên mức độ linh động của khả năng thanh toán kém. Khả năng thanh toán nhanh năm 2001 là 0,05 và năm 2002 là 0,03. Cả hai năm đều không đủ khả năng thanh toán, nhưng khả năng thanh toán nhanh của Nhà máy cho thấy tình hình TC của Nhà máy là không tốt. Hệ số khả năng thanh toán nhanh quá thấp có nghĩa là lượng tiền rất ít. Tiền mặt là tài sản có tính thanh khoản cao nhất có thể dùng để thanh toán nhanh các khoản nợ, trang trải các khoản chi phí, giúp Nhà máy chủ động trong hoạt động của mình, từ đó có thể chớp lấy những thời cơ có lợi nhất, tạo điều kiện và triển vọng tốt cho sau này. Như vậy, việc tăng khả năng thanh toán có thể theo con đường tăng lượng tiền hiện có. Muốn vậy, Nhà máy phải nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu, giải phóng HTK, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm thu tiền ngay. Thứ ba: Tăng tỷ suất tự tài trợ Qua tìm hiểu tình hình thực tế những năm gần đây, với nguồn vốn chủ sở hữu của mình, Nhà máy đã dùng để trang trải các khoản đầu tư dài hạn là một phần dùng để bổ sung TSLĐ. Đây là biểu hiện khả quan. Nếu xét về tỷ trọng thì nguồn vốn chủ sở hữu chiếm trong tổng tài sản không lớn lắm. Năm 2001 chiếm 32,8%. Năm 2002 tăng lên 33,27%, đây là xu hướng tốt nên phát huy để không ngừng nâng cao tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu, chủ động độc lập trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm chi phí lãi vay, tăng lợi nhuận, tránh những rủi ro trong kinh doanh khi Nhà máy làm ăn không có hiệu quả, giảm nhanh tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (khi tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư nhỏ hơn lãi suất tiền vay). Tuy nhiên, để tăng được nguồn vốn chủ sở hữu thì Nhà máy phải hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. (Còn vốn ngân sách cấp sẽ không có vì Nhà nước chỉ cấp một lần khi Nhà máy mới thành lập, nếu không bổ sung nhiệm vụ mới sẽ không được cấp thêm). Ngoài ra, Nhà máy có thể tăng nguồn vốn chủ sở hữu bằng cách xin Tổng công ty Bưu chính Viễn thông trợ cấp thêm vốn hoặc nhận vốn góp liên doanh… Thứ tư: Tăng vòng quay các khoản phải thu Đây là một vấn đề rất cần thiết và quan trọng đối với Nhà máy, khoản phải thu của khách hàng hiện nay rất lớn, năm 2002 là 43.349.094.737đ, DT bán chịu nhiều. Đây cũng là một đặc trưng, sản phẩm của Nhà máy có giá trị lớn, cung cấp cho mạng Bưu chính Viễn thông và có ưu điểm là ít mất khả năng thanh toán, ít có khoản nợ khó đòi. Nhưng việc bán chịu này sẽ làm cho vốn của Nhà máy bị chiếm dụng gây thiếu vốn giả tạo, ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường. Mặt khác, khi thiếu vốn Nhà máy phải đi vay và phải trả một khoản lãi suất nhất định. Như vậy, chi phí sẽ tăng lên và lợi nhuận sẽ giảm đi. Bên cạnh đó, các khoản phải thu lớn, nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán, gây nghi ngờ đối với các nhà đầu tư, gây tác động tới tình hình sản xuất kinh doanh của Nhà máy. Để giải quyết được vấn đề này, Nhà máy nên yêu cầu Tông công ty Bưu chính Viễn thông giúp đỡ. Mặt khác, các hợp đồng mua bán phải rõ ràng, minh bạch, ghi thời hạn thanh toán ngắn hơn; nếu quá thời hạn ghi trong hợp đồng có thể yêu cầu khách hàng trả lãi theo lãi suất quá hạn. Qua tìm hiểu chi tiết tình hình của Nhà máy thấy rằng ở đây có những khoản phải thu của khách hàng kéo dài nhiều năm, điều này gây bất lợi đối với Nhà máy. Các nhà Quản trị cần tìm biện pháp giảm thiểu tình trạng này. Thứ năm: Tăng nhanh vòng quay HTK Để cải thiện tình hình thanh toán, giảm rủi ro TC thì tăng nhanh HTK là một vấn đề quan trọng. Thực tế ở Nhà máy cho thấy năm 2000, 2001 và 2002 càng ngày càng chậm. Cụ thể năm 2000 là 7,93, năm 2001 là 6,10 và năm 2002 là 3,71, mà xu hướng thành phẩm và hàng gửi bán lại ngày càng tăng. Đây là biểu hiện rất xấu cho tình TC của Nhà máy. Sản phẩm sản xuất bán ra ngày càng chậm, tồn kho ngày càng nhiều. Đây là vấn đề rất cấp bách và khó khăn, cần phải có giải pháp khắc phục ngay, nếu không hàng sẽ ứ đọng, dẫn tới “vốn chết” và cuối cùng giảm DT, kéo theo giảm lợi nhuận, gây nguy hiểm cho sự tồn tại của Nhà máy. Bên cạnh đó, sản phẩm lạc hậu rất nhanh, nếu thời gian ở trong kho nhiều nó sẽ bị giảm giá trị do sự tiến bộ của Khoa học công nghệ, do nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Nếu Nhà máy không có giải pháp để giải phóng lượng HTK này thì sau một thời gian sản phẩm sẽ bị giảm giá, nhiều khi sự giảm giá đó cũng không có người mua. Đây là một rủi ro rất lớn có thể gây mất uy tín của Nhà máy, mất vị thế trong thương trường dẫn đến tình trạng rất xấu đối với tương lai. Hiện nay, theo nhận định thực tế và kiến thức đã được học thấy rằng: cần có một số giải pháp nhằm giải toả khó khăn này như sau: Một là: Cuối kỳ kế toán năm, khi giá trị thuần có thể thực hiện được của HTK nhỏ hơn giá gốc thì phải lập dự phòng giảm giá HTK. Số dự phòng giảm giá HTK được lập là số chênh lệch giữa giá gốc của HTK lớn hơn gia trị thuần có thể thực hiện được của chúng. Trường hợp khoản dự phòng giảm giá HTK phải lập ở cuối kỳ kế toán năm nay lớn hơn số đã lập cùng kỳ năm trước thì số chênh lệch được lập thêm, ghi: Nợ TK632-Giá vốn hàng bán (chi tiết dự phòng giảm giá HTK). Có TK159-Dự phòng giảm giá HTK. Ngược lại trường hợp trên thi số chênh lệch nhỏ hơn được hoàn nhập, ghi: Nợ TK159- Dự phòng giảm giá HTK. Có TK632- Giá vốn hàng bán Hai là: Nhà máy phải có giải pháp để xúc tiến quá trình bán hàng nhanh chóng, có thể: Đào tạo, tuyển dụng độ ngũ bán hàng, tiếp thị có năng lực, trình độ, có tâm huyết với nghề. Thêm vào đó là tổ chức bán hàng theo chiều dọc (nghĩa là một nhóm nhân viên bán hàng đảm nhiệm một số sản phẩm mà họ am hiểu tính năng, tác dụng của nó. Từ đó, họ có thể tiếp cận với khách hàng, giới thiệu sản phẩm, xúc tiến quá trình bán hàng nhanh hơn). Hiện nay, Nhà máy đang tổ chức bán hàng theo chiều ngang (có nghĩa là mỗi độ ngũ nhân viên bán hàng phụ trách một khu vực, đảm nhiệm tất cả các loại sản phẩm mà Nhà máy có). Như vậy, sẽ hạn chế năng lực, trình độ của người bán hàng, vì không được chuyên môn hoá, những người bán hàng này không thể hiểu hết tính năng, tác dụng của tất các sản phẩm trong Nhà máy; thậm chí nhiều khi họ không nhớ hết tên mặt hàng, điều này làm cho quá trình bán hàng không có hiệu quả, dẫn đến ứ đọng hàng, gây ảnh hưởng tới lợi nhuận của Nhà máy. áp dụng các hình thức chiết khấu thương mại, chiết khấu thanh toán, giảm giá hàng bán…Hiện nay, Nhà máy cũng áp dụng các biện pháp này nhưng còn ở mức độ hạn hữu. Để đẩy nhanh quá trình bán hàng, Nhà máy có thể thực hiện niêm yết giảm giá cho khách hàng mua với khối lượng lớn (chiết khấu thương mại). Hoặc giảm trừ tiền mua hàng cho người mua, do họ thanh toán tiền mua trước thời hạn theo hợp đồng (chiết khấu thanh toán). Ngày nay, Nhà máy đã có Trung tâm bảo hành, bộ phận này nên phát huy hơn nữa để gây niềm tin cho khách hàng vào sản phẩm. Trong thời gian bảo hành, nếu sản phẩm bị hư hỏng thì cần được sửa chữa nhanh chóng, kịp thời với thái độ sẵn lòng; điều này càng tạo tâm lý thoải mái, tin cây cho khách hàng khi mua sản phẩm của Nhà máy. Mặt khác, hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp đã áp hình thức “dịch vụ giao sau” tức là khi khách hàng mua xong sẽ được người bán chở về tận nhà và bảo hành trong một thời gian nhất định. Nhà máy cũng nên áp dụng hình thức này. Nhà máy nên tăng cường nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu thị hiếu của khách hàng để có kế hoạch sản xuất những mặt hàng cần chứ không phải sản xuất và bán những mặt hàng mình có, mở rộng thị phần, tăng tiêu thụ sản phẩm. Tìm hiểu và thu thập các thông tin để đưa ra các chiến lược Marketing dài hạn và ngắn hạn. Tăng chất lượng sản phẩm, tạo nhiều mẫu, kiểu phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng…Đặc biệt là nắm bắt được sự phát triển của Khoa học công nghệ trong khu vực và trên thế giới để không những tăng thị phần trong nước mà cả Quốc tế. Ba là: Định giá bán sản phẩm trong Nhà máy. Giá bán sản phẩm là nhân tố ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến DT và lợi nhuận. Giám đốc Nhà máy biết rằng, giá bán sản phẩm cho lợi nhuận tối đa khi mà số chênh lệch dương giữa tổng doanh thu và tổng chi phí là lớn nhất. Hơn nữa, tổng DT lớn nhất khi khối lượng tiêu thụ lớn nhất và giá bán đơn vị cao nhất. Còn tổng chi phí ảnh hưởng bởi khối lượng sản phẩm tiêu thụ và chi phí tính cho một đơn vị sản phẩm tiêu thụ. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, những quyết định quan trọng mà các nhà quản trị doanh nghiệp phải luôn luôn xem xét và cố gắng thực hiện sao cho phù hợp với những quy luật khách quan vốn có của nền kinh tế, đó là quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị… Chính vì sự nhận thức không đầy đủ những quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường mà một số không ít các nhà Quản trị doanh nghiệp cho rằng: việc định giá bán của sản phẩm là không cần thiết vì theo họ quan niệm đó là do thị trường điều tiết bởi cung- cầu do sự thoả thuận giữa người mua- người bán. Nếu chỉ đơn thuần suy nghĩ theo quan điểm đó thì doanh nghiệp khó có thể tồn tại được chứ chưa nói đến khả năng phát triển để cạnh tranh đứng vững trên thị trường. Có thể định giá bán sản phẩm dựa vào lý thuyết kinh tế vi mô để định giá bán sản phẩm theo những phương pháp thông thường nhằm mục đích trang trải bù đắp chi phí liên quan đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ và đạt được mức lợi nhuận mong muốn. Các phương pháp đó có thể là: Phương pháp định giá bán sản phẩm thông thường: Nội dung chủ yếu của phương pháp này là việc xác định giá bán sản phẩm trên cơ sở các bộ phận chi phí gồm: Chi phí gốc là chi phí cơ sở gồm chi phí để sản xuất, chế tạo sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (CPNVLTT), chi phí nhân công trực tiếp (CPNCTT), chi phí sản xuất chung (CPSXC) và toàn bộ biến phí về sản xuất, tiêu thụ và biến phí quản lý. Phần chi phí cộng thêm vào chi phí gốc: Đó là một tỷ lệ để đảm bảo cho Nhà máy có thể bù đắp tất cả chi phí và thoã mãn mức hoàn vốn mong muốn. Mức hoàn vốn mong muốn được tính như sau: Mức hoàn vốn mong muốn = Tỷ lệ hoàn vốn mong muốn ´ Vốn hoạt động bình quân. Phương pháp này có thể chia là thành hai phương pháp nhỏ: - Định giá bán dựa vào giá thành sản xuất sản phẩm: Tức là giá bán gồm (CP gốc): Và căn cứ vào chính sách định giá sản phẩm của Nhà máy để xác định tỷ lệ phần trăm chi phí cộng thêm vào chi phí gốc ở trên sao cho bù đắp được phần chi phí bán hàng (CPBH), chi phí quản lý doanh nghiệp (CPQLDN) tính cho sản phẩm tiêu thụ và đạt được mức lãi mong muốn. - Định giá bán sản phẩm dựa vào biến phí trong giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ: Chi phí gốc gồm: CPNVLTT CPNCTT Biến phí SXC Biến phí CPBH Biến phí QLDN Và cũng tương tự trên xác định chi phí cộng thêm theo một tỷ lệ hợp lý so với chi phí gốc để bù đắp đủ phần định phí về CPSXC, CPBH và CPQLDN, đồng thời có lãi. - Phương pháp định giá bán sản phẩm hàng hoá theo CPNVL và CPNC: Bao gồm định giá CPNVL và định giá CPNC. Phương pháp này áp dụng thích hợp với các doanh nghiệp dịch vụ cho nên Nhà máy có thể không cần theo phương pháp này. - Phương pháp xác định giá bán sản phẩm mới: Sản phẩm mới hiểu theo nghĩa rộng bao gồm những sản phẩm chưa có trên thị trường hoặc những sản phẩm tương tự như sản phẩm đã có nhưng khác về mẫu mã, thay đổi về chất lượng,… loại này Nhà máy cũng có. Đối với mặt hàng này, việc định giá là rất khó khăn, có tính chất thách thức và không chắc chắn; nhưng không phải là không làm được. Nếu biết vận dụng mọi khả năng của mình thì vẫn có thể xác định được giá bán, đảm bảo được lợi nhuận và chống tồn kho hàng hoá quá lâu. Trên thực tế cho thấy, việc định giá bán sản phẩm mới thường định trên cơ sở tiếp thị, giới thiệu, quảng cáo sản phẩm. Điều này cần được tiến hành ở những nơi đã xác định, lựa chọn mà có khả năng tiêu thụ được nhiều nhất ở những vùng khác nhau. Căn cứ vào khối lượng sản phẩm tiêu thụ và giá bán sản phẩm mới ở những vùng, khu vực khác nhau đó mà tiến hành phân tích, đánh giá, để đưa ra một mức giá hợp lý nhất cho việc sản xuất tiêu thụ sản phẩm mới trong các kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo. Và Nhà máy có thể áp dụng một số phương pháp khác trong các trường hợp đặc biệt như ở thị trường tiêu thụ mới, khách hàng nước ngoài, khối lượng đơn đặt hàng nhiều, định giá chuyển giao nội bộ… Trong các trường hợp trên, Nhà máy phải nghiên cứu đánh giá đúng được năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh và những khó khăn cuả mình để có thể dành được những hợp đồng, thị trường tiêu thụ mới với khối lượng lớn. Từ đó, có chính sách định giá sản phẩm hợp lý và làm giảm sự ứ đọng của HTK. Với cách định giá bán sản phẩm trong các trường hợp trên thì: Song Nhà máy cũng cần phải chú ý: Nếu khả năng, năng lực sản xuất chưa tận dụng hết nhưng doanh số hàng bán không thể tăng thêm với giá bán hiện tại thì Nhà máy có thể phải chấp nhận sản xuất sản phẩm theo đơn đặt hàng và bán với giá thấp hơn với giá mong muốn nhưng cao hơn giá gốc (tức biến phí tiêu thụ sản xuất sản phẩm). Nếu Nhà máy gặp khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nên chấp nhận giảm giá chứ không nên đình chỉ sản xuất kinh doanh. Nếu Nhà máy phải cạnh tranh để thầu các đơn đặt hàng mới hoặc để có thị trường tiêu thụ mới thì việc định giá theo “giá linh hoạt” nêu trên để Nhà máy đưa ra giá trúng thầu. Thứ sáu: Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Thực tế cho thấy, hiệu quả sử dụng vốn của Nhà máy nói chung, hiệu quả sử dụng VCĐ của Nhà máy nói riêng ngày càng tốt lên. Đối với TSCĐ hiệu quả sử dụng và khả năng sinh lời của nguyên giá và giá trị còn lại ngày càng có hiệu quả. Qua tìm hiểu thì Nhà máy sản xuất theo quy trình công nghệ khép kín chứ không phải sản xuất hàng loạt. Vì vậy, TSCĐ không được sử dụng hết công suất (chỉ đạt 60-70%). Thế mà hiệu quả sử dụng VCĐ năm 2001 giảm trầm trọng so với năm 2000, còn năm 2002 lại tăng khá nhiều so với năm 2001. Đây là điều không bình thường, nên điều tra nghiên cứu và áp dụng một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Việc tăng giảm bất thường như thế này không có lợi, có thể ảnh hưởng đến uy tín trong kinh doanh. Nhà máy có thể áp dụng một số giải pháp sau: Xem xét những TSCĐ, nếu còn phù hợp với kế hoạch sản xuất thì có kế hoạch tu bổ, sửa chữa. Kịp thời và mạnh dạn thanh lý, nhượng bán những tài sản không có nhu cầu sử dụng, những TSCĐ cũ, lạc hậu, năng suất thấp để thu hồi vốn, đầu tư và những máy móc thiết bị có năng suất cao hơn. Tính toán lựa chọn các dự án đầu tư đổi mới TSCĐ một cách tối ưu để tăng năng lực sản xuất, giảm chi phí, tăng chất lượng sản phẩm. Thực hiện liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài để thu hút trình độ công nghệ, trình độ quản lý của các đối tác. Huy động tối đa năng lực của máy móc thiết bị hiện có vào sản xuất… Hiện nay, Nhà máy đã áp dụng phương thức thuê TC. Đây là một phương thức tín dụng trung và dài hạn, đó cũng là một giải pháp hữu ích với Nhà máy trong giai đoạn trước mắt cũng như về lâu dài. Việc sử dụng phương thức này mang lại cho Nhà máy những lợi ích: giúp cho Nhà máy không phải huy động tập trung tức thời một lượng vốn để mua TSCĐ. Với số vốn hiện có vẫn có khả năng mở rộng quy mô kinh doanh. Đồng thời giúp nhanh chóng thực hiện được dự án đầu tư, chớp được thời cơ kinh doanh. Phương thức này rất phù hợp trong tình hình thiếu vốn hiện nay. Do đó, Nhà máy nên phát huy hơn nữa hình thức này. Thứ bảy: Nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động Trong Nhà máy, TSLĐ chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số tài sản. Vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ góp phần rất lớn vào việc tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Để nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ, vấn đề đầu tiên là tăng tốc độ luân chuyển VLĐ. Điều này có nghĩa là việc giải phóng HTK và đôn đốc thu hồi các khoản phải thu vẫn là vấn đề hàng đầu. Thực tế cho thấy, TSLĐ của Nhà máy trong mấy năm vừa qua là rất lãng phí. Do đó, cần chú trọng hơn nữa việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trên đây là những giải pháp được rút ra từ thực trạng tình hình TC của Nhà máy. Những giải pháp này không mong muốn cùng một lúc Nhà máy sẽ áp dụng mà Ban lãnh đạo Nhà máy nên xác định được mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài để áp dụng những giải pháp này phù hợp với điều kiện thực tế của Nhà máy hiện nay. Điều kiện hoàn thiện các nội dung trên Với các giải pháp đã nêu, nếu Nhà máy cân nhắc xem xét để áp dụng, tin chắc rằng hoàn toàn có thể thực hiện được. Nó phù hợp với các yêu cầu đã đặt ra và điều kiện hiện tại của Nhà máy vì: - Về phía Nhà nước: Xây dựng và hoàn chỉnh luật kế toán. Xây dựng và hoàn chỉnh chuẩn mực kế toán. Xây dựng và hoàn chỉnh chế độ kế toán doanh nghiệp . Đây là hành lang pháp lý đối với các doanh nghiệp. Một chế độ kế toán thông thoáng, chuẩn mực kế toán và luật kế toán phù hợp với tất cả các loại hình doanh nghiệp hiện nay không phải là vấn đề dễ làm. Do vậy, tuỳ vào từng hình thức kinh doanh của các doanh nghiệp, Nhà nước cần có những Thông tư hướng dẫn cụ thể để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đứng vững trong nền kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế Quốc tế. Đối với chuẩn mực kế toán đã có chín chuẩn mực ra đời, nhưng hiện nay chưa thực sự đi vào thực tiễn; chế độ kế toán hiện hành cũng thực sự vẫn còn một số giới hạn. Cụ thể: Hệ thống các chỉ tiêu trên BCĐKT do Bộ tài chính ban hành theo Quyết định 1121TC/QĐ/CĐKT ngày 1-11-1995 và Quyết định 1199TC/QĐ/CĐKT ngày 23-12-1996 chưa thật sự đáp ứng được đầy đủ thông tin phục vụ cho công tác phân tích BCTC. Trong phần này, khoản phải thu của khách hàng dùng để tính khả năng thanh toán nợ ngắn hạn kể cả trong trường hợp doanh nghiệp có phát sinh nghiệp vụ bán trả chậm hoặc bán trả góp là không hợp lý.Vì vậy, để làm rõ chỉ tiêu phải thu của khách hàng đã được phản ánh trên BCĐKT và để giúp cho đối tượng sử dụng thông tin ở đây nhằm phân tích khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được chính xác, nên công bố phần công nợ phát sinh từ nghiệp vụ bán hàng trả chậm hoặc bán trả góp (có thời hạn tín dụng trên 1 năm) trên Thuyết minh BCTC của doanh nghiệp phần III mục 3.6: Các khoản phải thu và nợ phải trả. Chỉ tiêu người mua trả tiền trước trong BCĐKT cũng có bất cập: Thông tư số 10TC/CĐKT do Bộ tài chính ban hành ngày 20-3-1997 và sau đó là Quyết định 167/2000 QĐ-BTC ngày 25-10-2000 có quy định TK3387-“Doanh thu nhận trước” khi lên BCĐKT, sẽ được tổng hợp cộng với số dư Có chi tiết TK131 “ Phải thu của khách hàng” để lên trên cùng chỉ tiêu “ Người mua trả tiền trước” ở mục Nợ ngắn hạn”. Cũng theo Thông tư này, quy định chỉ hạch toán vào TK3387 số tiền của khách hàng đã trả trước cho một hoặc nhiều kỳ kế toán về lao vụ, dịch vụ…đơn vị đã cung cấp cho khách hàng, như số tiền đã nhận của khách hàng trả một lần cho một hoặc nhiều niên độ kế toán về việc đơn vị đã cho thuê nhà ở, văn phòng làm việc, kho hàng…Như vây, khoản DT nhận trước khi phát sinh có thể là khoản phải trả ngắn hạn hoặc dài hạn. Do đó, nếu sử dụng thông tin ở mục: “ Nợ ngắn hạn” làm căn cứ để phân tích khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, khi doanh nghiệp có phát sinh DT nhận trước cho nhiều niên độ là không chính xác. Để khắc phục nhược điểm này, nên công bố chỉ tiêu DT nhận trước mà khách hàng trả trước cho nhiều năm trên Thuyết minh BCTC phần 3; mục 3.6- khoản phải thu và nợ phải trả và chỉ tiêu này sẽ được loại ra khỏi Nợ ngắn hạn khi phân tích khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp …. - Về phía Nhà máy: Đội ngũ kế toán viên của Nhà máy đều có trình độ chuyên môn nhất định.Tất cả đều đã được đào tạo qua các trường Đại học, cao đẳng… cho nên việc phân công trách nhiệm từng phần BCTC cho từng bộ phận kế toán thực hiện là có thể tin cậy được. Cũng chính điều này tạo điều kiện cho Nhà máy có thể thực hiện việc công việc phân tích BCTC như đã kiến nghị ở trên. Để lên được phần chi tiết các khoản phải thu và các khoản nợ phải trả trên Thuyết minh BCTC; trong đó “Số đầu kỳ” và “Số cuối kỳ”được chi tiết cho số nợ quá hạn, tổng số tiền tranh chấp mất khả năng thanh toán là công việc tương đối khó và phức tạp. Vì Nhà máy có nhiều bộ phận hạch toán phụ thuộc, do vậy để lên được phần này trên Thuyết minh BCTC, yêu cầu kế toán phải tập hợp được số liệu từ các đơn vị hạch toán phụ thuộc. Tuy có phức tạp nhưng không có nghĩa là không làm được. Bởi vì, đây là một bút toán tổng hợp số liệu như những bút toán khác. Do đó, nên xem xét và đưa kiến nghị này áp dung vào thực tiễn.Việc phản ánh này sẽ cho đối tượng sử dụng thông tin biết được chính xác khả năng thanh toán mà Nhà máy cũng không bị ảnh hưởng gì cả. Hiện nay, Nhà máy đã được trang bị một hệ thống máy tính đầy đủ, cần thiết cho các bộ phận kế toán tạo điều kiện cho kế toán Nhà máy hạch toán đúng, đủ, kịp thời, sử dụng thống nhất các loại sổ sách theo hình thức kế toán Nhật ký chứng từ. Nhà máy có thể chuyển từ kế toán thủ công sang kế toán máy và chuyển sang hình thức Nhật ký chung để phù hợp với việc sử dụng phần mềm kế toán. Nhà máy là một trong những doanh nghiệp hàng đầu cung cấp thiết bị viễn thông cho thị trường trong nước và cả nước ngoài. Mặt khác, Nhà máy được Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đảm bảo khả năng thanh toán, hội nhập kinh tế Quốc tế, chuẩn bị gia nhập AFTA vào năm 2006, khoa học công nghệ phát triển nhanh, Bưu chính viễn thông lại là ngành độc quyền…Đó là điều kiện tiên quyết mở ra con đường thành công, vững bước tiến vào thế kỷ XXI, thế kỷ Khoa học và công nghệ của Nhà máy. Kết luận Một lần nữa ta khẳng định rằng: tổ chức công tác kế toán lập và phân tích BCTC có tác dụng to lớn trong việc cung cấp thông tin và quản lý kinh tế. Thông qua lập và phân tích BCTC cho các nhà Quản trị doanh nghiệp cũng như các đối tượng sử dụng thông tin khác đưa ra được những quyết định đúng đắn, kịp thời và phù hợp. Tính khoa học của kế toán lập và phân tích BCTC thực sự đã phát huy tác dụng như một công cụ sắc bén, có hiệu lực phục vụ yêu cầu quản lý kinh tế trong điều kiện hạch toán độc lập hiện nay. Sau hơn 2 tháng thực tập tại Nhà máy giúp em rất nhiều trong việc củng cố lại kiến thức về lý thuyết lập, phân tích BCTC và việc vận dụng lý luận vào thực tiễn. Qua đó, để thấy được một kế toán giỏi toàn diện, một người làm được việc không chỉ cần đến sự hiểu biết cặn kẽ về lý thuyết mà còn phải biết vận dụng linh hoạt lý luận đã học vào thực tiễn công việc. Thời gian ấy em đã được giúp đỡ tận tình của các cô, các chú, các anh chị trong phòng Kế toán thống kê của Nhà máy, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình, cụ thể của kế toán tổng hợp. Thêm vào đó là sự truyền đạt kiến thức và sự góp ý quý báu của các thầy giáo, cô giáo trong bộ môn Phân tích hoạt động kinh tế, bộ môn Kế toán doanh nghiệp cùng các bộ môn khác đã giúp em nghiên cứu một cách khoa học hơn, đầy đủ hơn về đề tài đã chọn. Vì thời gian thực tập ngắn, trình độ hiểu biết còn có hạn lại chưa có kinh nghiệm thực tế bản luận văn này không thể không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của thầy giáo, cô giáo và bạn đọc để bản luận văn này hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, tập thể phòng Kế toán thống kê Nhà máy Thiết bị Bưu điện và đặc biệt là thầy giáo Trần Văn Dung đã giúp em hoàn thành bản luận văn này. Ký hiệu viết tắt BCTC : Báo cáo tài chính BCĐKT : Bảng cân đối kế toán BCKQKD : Báo cáo kết quả kinh doanh BCLCTT : Báo cáo lưu chuyển tiền tệ TSCĐ : Tài sản cố định TSLĐ : Tài sản lưu động TK : Tài khoản DT : Doanh thu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0477.doc
Tài liệu liên quan