Báo cáo Tổng hợp về thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường mỹ tại tổng Công ty dệt may Việt Nam

lời mở đầu Việt Nam đang thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm giai đoạn 2001 - 2010. Mục tiêu phát triển đến năm 2010 là đạt mức tăng sản phẩm xã hội bình quân đầu người lên gấp đôi hiện nay. Trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra rất sôi động trên toàn thế giới, để phát triển mỗi nước không thể khép kín mình mà phải thực hiện mở cửa nền kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Để đạt được những mục tiêu này thì một trong những việc mà chúng ta cần phải làm là đẩ

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Tổng hợp về thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường mỹ tại tổng Công ty dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y mảnh xuất khẩu nhằm phát triển sản xuất hàng hoá, phục vụ cho công nghiệp xuất khẩu, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mở rộng giao lưu quốc tế nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, hoà nhập với môi trường trong khu vực và quốc tế. Chính vì vậy. Một trong những công cụ để chúng ta thực hiện được mục tiêu đó là nhờ vào Nhà nước ta đã và đang thành lập nên các Tổng công ty với mục đích tạo ra các tập đoàn kinh tế với sức cạnh tranh lớn trên thị trường trong nước và quốc tế, đồng thời đây sẽ là ngành xương sống, mũi nhọn điều tiết hoạt động của các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, nhằm tạo động lực cho ngành dệt may ngày 29/4/1995 Chính phru đã ra Quyết định thành lập Tổng công ty dệt may Việt Nam với vai trò quản lý phát triển điều tiết sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may tại thị trường trong nước và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Kể từ khi thành lập cho đến nay, Tổng công ty đã và đang chiếm lĩnh được thị trường trong nước và tường bước khẳng định được vị thế trên các thị trường lớn như: EU, Nhật Bản, và từng bước thâm nhập vào thị trường Mỹ với doanh thu ngày càng lớn hơn xứng đáng là ngành mũi nhọn của nền kinh tế nước ta. Chuyên đề này, trình bày thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ của Tổng công ty dệt may Việt Nam. Bao gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận về hoạt động xuất khẩu Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ. Chương III: Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Được thực tập tại Tổng công ty Dệt may Việt Nam, đặc biệt là tại ban kế hoạch - thị trường để được nghiên cứu tình hình thực tế vè hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty. Do thời gian và những hiểu biết về sản xuất và xuất khẩu kinh doanh trong ngành còn hạn chế, nên chuyên đề này không thể không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - PGS.TS. Lê Thị Anh Vân và tập thể các anh chị cán bộ trong Ban Kế hoạch - thị trường của Tổng công ty Dệt may Việt Nam đã hướng dẫnn nết sức nhiệt tình và tạo nhiều điều kiện giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề trong quá trình thực tập tại Tổng công ty./. Chương I Một số vấn đề lý luận về hoạt động xuất khẩu I. Lý luận chung 1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu * Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động bán và trao đổi hàng hoá (bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia phát triển, sự phân công lao động quốc tế hình thành rõ nét, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của quốc gia (hay thị trường nội địa với các khu chế xuất trong nước) Hoạt động xuất khẩu là hoạt động tất yếu của các quốc gia trong quá trình phát triển. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý , nguồn nhân lực, các nguồn tài nguyên…. dẫn đến sự khác nhau về lợi thế trong các lĩnh vực khác nhau của các quốc gia. Để khai thác tối đa lợi thế và khắc phục các hạn chế, tận dụng các cơ hội và hạn chế các thách thức tạo ra sự cân bằng các yếu tố trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi các loại hàng hoá và dịch vụ cho nhau. Tuy nhiên, xuất khẩu không phải chỉ diễn ra giữa các quốc gia có những lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Mà ngay cả khi các quốc gia không có lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên.,.. thì quốc gia đó vẫn có thể thu được những lợi ích không nhỏ khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. - Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên trường quốc tế… - Xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư mở rộng vận tải quốc tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu. - Có thể nói, xuất khẩu không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế mà còn dùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề nội bộ nền kinh tế như: vốn, kỹ thuật; lao động; nguồn tiêu thụ thị trường… - Đối với nước ta hướng mạnh mẽ về xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển quanhệ kinh tế đối ngoại, qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ ứng dụng khoa hcọ công nghệ hiện đại, rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy, bất cứ một quốc gia nào và trong thời kỳ nào đẩy mạnh được xuất khẩu thì nền kinh tế của nước đó phát triển cao. Tóm lại, thông qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, tiềm năng và cơ hội của đất nước. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu Ngày nay, xu hướng vươn ra thị trường nước nogài là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp. Việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài đã đưa lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau đây: - Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng những quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong và ngoài nước trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ những rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. - Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Qua đó, có điều kiện giữ gìn nâng cấp và phát triển trình độ kỹ thuật công nghệ, phát triển hệ thống các kênh phân phối sản phẩm. - Xuất khẩu đảm bảo cho doanh nghiệp luôn nâng cao việc sử dụng các kỹ năng quản lý chuyên môn, như: kỹ năng quản lý hoạt động xuất khẩu, bán hàng trên thị trường quốc tế, quản lý và dự đoán những xu hướng biến động của tỷ giá hối đoái. Mặt khác qua hoạt động xuất khẩu các doanh nghiệp có được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu các doanh nghiệp có được nguồn ngoại tệ đẻ nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ, kỹ thuật để tái đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh. - Ngoài ra, sản xuất hàng xuất khẩu giúp các doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật liệu tiêu dùng, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú của nhân dân, tăng khả năng quay vòng vốn nhanh, tạo điều kiện thu hút lợi nhuận cao. Như vậy, xuất khẩu không chỉ đóng vai trò là chất xúc tác hỗ trợ phát triển mà nó còn trở thành yếu tố bên trong của sự phát triển, trực tiếp tham gia vào giải quyết một loạt các vấn đề quan trọng của nền kinh tế như vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu… Do vậy, chỉ có ý thức được vai trò hiệu quả của nó mới tập trung khai thác triệt để mọi tiềm năng thế mạnh của đất nước, để nhanh chóng phát triển mở rộng hoà nhập vào nền kinh tế phát triển chung của nền kinh tế khu vực và thế giới đồng thời biến nó trở thành một mắt xích quan trọng trong quá trình phân công lao động quốc tế. ý thức rõ được tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu, Đảng và Nhà nước ta ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI đã sớm đề ra chủ trương phù hợp để đưa nước ta từng bước phát triển theo xu thế phát triển tất yếu là thay đổi chiến lược kinh tế từ "Đóng cửa" sang "mở cửa", từ thay thế nhập khẩu hướng sang xuất khẩu. Đặc biệt, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII với chiến lược "Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng cólợi với tất cả các nước không phânb iệt chế độ chính trị xã hội trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình" thì hoạt động xuất khẩu của chúng ta ngày càng sôi động hơn bao giờ hết. Bên cạnhd dó, xét về mặt tiềm năng thì nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển xuất khẩu đó chính là nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. Đó chính là những tiềm năng vật chất hết sức to lớn và là cơ sở nguồn lực để phát triển xuất khẩu. Ngoài ra, chúng ta còn có một đội ngũ lao động tiếp thu nhanh được những thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ cao thì mới đáp ứng nhu cầu chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế. Về thực tế hiện nay, lao động xuất khẩu còn chưa cân xứng với những tiềm năng thực lực của nền kinh tế. Xuất khẩu của ta chủ yếu là nông sản hoặc dạng thô, mới sơ chế. Phương châm chiến lược là cần xuất khẩu các sản phẩm tinh, sản phẩm đã qua chế biến để có lợi nhuận cao hơn và tận dụng được lực lượng lao động dưa thừa, hoạt động xuất khẩu của ta đang đi từ xuất khẩu thành phần có hàm lượng cao. 3. Các loại hình thức xuất khẩu 3.1. Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là hình thức đơn vị ngoại thương xuất khẩu các loại hàng hoá dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra, hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới những khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Về nguyên tắc xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng rủi ro trong kinh doanh, song nó lại có những ưu điểm nổi bật sau: giảm bớt chi phí trung gian, do đó tăgn lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài, biết được nhu cầu của kháchhàng và tình hình bán hàng, do đó nên ta có thể thay đổi sản phẩm và những điều kiện bán hàng trong trường hợp cần thiết. 3.2. Xuất khẩu uỷ thác Là hình thức kinh doanh, trong đó đơn vị ngoại thương đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất, tiến hành ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu và qua đó thu được một số tiềm nhất định (thường là tỷ lệ % của giá trị lô hàng xuất khẩu). Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là mức độ rủi ro thấp, đặc biệt là không cần bỏ vốn vào kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động, đồng thời cũng thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra, trách nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại thì thuộc về người sản xuất. 3.2. Xuất khẩu gia công uỷ thác Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó đơn vị ngoại thương đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho đơn vị gia công, sau đó thu lại thành phẩm để xuất lại cho nước ngoài. Đơn vị được hưởng phí uỷ thác theo sự thoả thuận với các xí nghiệp sản xuất. Hình thức này có ưu điểm là đơn vị ngoại thương không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu được lợi nhuận, rủi ro ít hơn, việc thanh toán chắc chắn hơn. Tuy nhiên, nó đòi hỏi phải tiến hành nhiều công việc, nhiều thủ tục xuất nhập khẩ, các cán bộ kinh doanh phải có kinh nghiệm và nghiệp vụ kể cả trong quá trình giám sát và kiểm tra công việc. 3.4. Buôn bán đối lưu Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích xuất khẩu ở đây không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm mục đích có được một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với lô hàng xuất khẩu. Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối, đồng hệ thốngời còn có lợi khi các bên không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia, buôn bán đối lưu có hể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong các câu thanh toán. 3.5. Xuất khẩu theo Nghị định thủ (xuất khẩu trả nợ): Đây là hình thức nhà doanh nghiệp xuất khẩu của Nhà nước giao cho tiến hành xuất khẩu một số mặt hàng nhất định do Chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký giữa hai Chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thường không có sự rủi ro trong thanh toán (mà ở đây thanh toán là do Chính phủ thực hiện). Trên thực tế, hình thức xuất khẩu này chỉ xuất hiện rất ít, thường trong một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây và chỉ trong một số doanh nghiệp Nhà nước. 3.6. Gia công quốc tế Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh, trong đó một bên (bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (bên gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Đây cũng là một hình thức xuất khẩu đang có bước phát triển mạnh mẽ được nhiều quốc gia nhất là những quốc gia có nguồn lao động dồi dào, tài nguyên thiên nhiên phong phú, áp dụng rộng rãi vì thông qua hình thức gia công, ngoài việc tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, họ còn có điều kiện cải tiến và đổi mới máy móc thiết bị, kỹ thuật khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng lực sản xuất. Đối với nước đặt gia công, họ cũng có lợi ích vì lợi dụng được giá rẻ về nguyên phụ liệu và nhân công của nước nhiều gia công. Hình thức xuất khẩu này chủ yếu được áp dụng trong những ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu như dệt may, giầy da.. Nhiều nước đang phát triển đã nhờ vận dụng phương thức gia công quốc tế phát triển đã nhờ vận dụng phương thức gia công quốc tế mà đã có được một nền công nghiệp hiện đại chẳng hạn như: Hàn Quốc, Thái Lan… 3.7. Tái xuất khẩu Nội dung của hình thức xuất khẩu này là xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu và chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể thu được những lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng máy móc, thiết bị, khả năng thu hồi vốn cũng nhanh hơn. Chủ thể tham gia hoạt động tái xuất khẩu nhất thiết phải có sự tham gia của quốc gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất khẩu. Hàng hoá là đối tượng xuất khẩu có thể đi thẳng từ nước xuất khẩu tới nước nhập khẩu, hoặc từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất khẩu và sau đó mới tới được nước nhập khẩu. Sở dĩ, có hoạt động tái xuất khẩu là do sự thuận lợi và khó khăn trong quan hệ thương mại giữa các nước xuất khẩu và nước nhập khẩu , chẳng hạn như bị cấm vận hay trừng phạt về kinh tế… Tóm lại, các hình thức xuất khẩu có thể nhiều là rất đa dạng. Trong thực tế, hoạt động xuất khẩu đối với một doanh nghiệp có thể được thực hiện cùng một lúc một hay vài hình thức xuất khẩu khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện và khả năng thực tế của từng doanh nghiệp cụ thể. 4. Một số mô hình lý thuyết về thương mại 4.1. Quan điểm trọng thương về thương mại quốc tế Lý thuyết về thương mại quốc tế được coi là bắt đầu bằng các tác phẩm của trường phái trọng thương vào các thế kỷ 16 đến 18. Các tác giả trọng thương lập luận rằng: Xuất khẩu đối với một quốc gia là rất có ích vì nó kích thích sản phẩm trong nước, đồng thời làm gia tăng lượng của cải của quốc gia. Ngược lại, nhập khẩu là gánh nặng vì nó làm giảm nhu cầu đối với hàng hoá sản xuất trong nước, và hơn nữa dẫn tới sự thất thoát của cải của quốc gia. Như vậy, sức mạnh và sự giàu có của một quốc gia sẽ tăng lên quốc gia đó xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. 4.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của ADAMSMITH Aduin Smith là người đều tiêu đưa ra sự phân tích có tính hệ thống về nguồn gốc thương mại quốc tế. Trong tác phẩm nổi tiếng của "cải cách các dân tộc" xuất bản lần đầu tiên vào năm 1776, A.S mith đã đưa ra ý tưởng về lợi thế tuyệt đối giải thích nguồn gốc và lợi ích thương mại quốc tế. Nước A, xét trong tương quan với nước B, có thể tỏ ra hiệu quả hơn (có lợi thế tuyệt đối) trong việc sản xuất mặt hàng X, và kém hiệu quả hơn (có mức bất lợi tuyệt đối) trong việc sản xuất mặt hàng Y, và bất lợi tuyệt đối trong sản xuất mặt hàng X. Theo A.Smith, nếu mỗi nước tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối và xuất khẩu mặt hàng này sang nước kia để đổi lấy mặt hàng mà mình có mức bất lợi tuyệt đối thì sản lượng của cả hai mặt hàng sẽ tăng lên, và cả hai quốc gia đều trở nên sung túc hơn. 4.3. Lý thuyết lợi thế so sánh của DAVID RICARDO Nếu như khái niệm lợi thế tuyệt đối được xây dựng trên cơ sở sự khác biệt về số lượng lao động thực tế được sử dụng ở các quốc gia khác nhau (hay nói cách khác sự khác biệt về hiệu quả sản xuất tuyệt đối) thì lợi thế so sánh lại xuất phát từ hiệu quả sản xuất tương đối. Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu thương mại tự do có đem lại lợi ích cho tất cả các bên hay không khai một quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất tất cả các mặt hàng? Câu trả lời do Ricardo đưa ra là "Có". Điều này được thể hiện qua nội dung của quy luật lợi thế so sánh sau: "Khi mỗi quốc gia thực hiện chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng mà quốc gia đó có lợi thế so sánh thì tổng sản lượng tất cả các mặt hàng của toàn thế giới sẽ tăng lên, và tất cả các quốc gia sẽ trở nên sung túc hơn". II. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 1. Cơ chế chính sách Thực chất của chính sách thương mại quốc tế của Nhà nước bao gồm một hệ thống các nguyên tắc và biện pháp thích hợp được áp dụng để điều chỉnh các hoạt động ngoại thương cho phù hợp với lợi ích chung của Nhà nước trong từng giai đoạn. Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống chính sách của Nhà nước, nó phục vụ đắc lực cho đường lối phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Nó ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất của xã hội và sự tham gia vào nền kinh tế quốc dân vào quá trình phân công lao động quốc tế. Chính sách thương mại quốc tế có quan hệ mật thiết với chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Nó là công cụ có hiệu lực để thực hiện chính sách đối ngoại mở mang quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời chính sách đối ngoại tạo điều kiện giúp các tổ chức kinh tế tiếp cận với thị trường khách hàng để mở rộng hoạt động thương mại quốc tế. Đồng thời để thực hiện nhiệm vụ, chính sách thương mại quốc tế của Nhà nước ta là tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh tham gia vào phân công lao động quốc tế, mở mang hoạt động xuất nhập khẩu và bảo vệ thị trường nội địa nhằm đạt được mục tiêu, yêu cầu kinh tế, chính trị, xã hội trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Ngoài ra, sự ổn định hay bất ổn về chính trị - xã hội cũng là nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Hệ thống chính trị và các quan điểm về chính trị xã hội suy đến cùng tác động trực tiếp đến phạm vi, lĩnh vực, mặt hàng, đối tác kinh doanh. 2. Năng lực của Tổng công ty Công nghiệp dệt may được đánh giá là một ngành kinh tế có tiềm năng của Việt Nam. Trong những năm gần đây, ngành này đã phát triển khá nhanh cả về số lượng cơ sở vật chất và giá trị sản lượng đặc biệt là xuất khẩu. Hiện nay, ngành này đang giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế, hàng năm đóng góp khoảng 31% tổng sản lượng ngành công nghiệp chế tạo. Đứng thứ hai sau ngành dầu khí, ngành dệt may là một trong ngành công nghiệp chủ lực góp thúc đẩy tăng trưởng GDP. Kể từ khi mới thành lập Tổng công ty đã xác định hướng đi chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đó là hướng vào xuất khẩu. Vì vậy, các sản phẩm chủ yếu của Tổng Công ty đều hướng vào xuất khẩu, trong đó sản phẩm chính để xuất khẩu là sản phẩm may và sản phẩm dệt kim. Còn sản phẩm tiêu thụ trong nước chủ yếu là những sản phẩm sợi (khoảng 99% số lượng sợi sản xuất ra). Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty trong những năm qua diễn ra khá sôi động và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, do còn nhiều sai sót và gặp phải những mặt hạn chế cho nên về năng lực hướng ra xuất khẩu của toàn ngành cũng bị hạn chế nhiều, và đó cũng là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu của Công ty. Chương II Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ I. Tổng quan chung về Tổng công ty dệt may Việt Nam 1. Lịch sử hình thành và phát triển Trong những năm qua, khi đất nước ta tiến hành đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đã đem lại cho nền kinh tế nước ta những thay đổi về nhiều mặt, tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm, và đã dần khắc phục được tình trạng khủng hoang kinh tế, xã hội. Để phát huy vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước, một vấn đề rất quan trọng là sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước trên thị trường trong nước và quốc tế. Một trong các biện pháp được Chính phủ thực hiện đó là thành lập nên các Tổng công ty Nhà nước với mục tiêu hình thành các tập đoàn kinh doanh mạnh để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước trên thị trường trong nước và quốc tế. Ngành Dệt - May Việt Nam đã có lịch sử phát triển hơn 110 năm, từ những công cụ sản xuất thủ công với công nghệ truyền thống đã làm ra được những sản phẩm mang bản sắc văn hoá Việt Nam và từng bước làm hài lòng thị hiếu nhu cầu của những khách hàng nước ngoài. Do đó, ngành Dệt may Việt Nam đã được Nhà nước ta đánh giá là một trong những ngành xương sống, mũi nhọn để có thể giúp đất nước ta từng bước hội nhập được với nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy, để tạo động lực cho sự phát triển của ngành Dệt may, Chính phủ đã quyết định thành lập nên Tổng công ty Dệt may Việt Nam theo Quyết định số 253/TTg ngày 29/4/1995. Tổng công ty có tên gọi giao dịch quốc tế là Vietnam National Textile - Garment Coporation, viết tắt là Vinatex. Có trụ sở chính đặt tại: 25 Bà Triệu - quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Ngoài ra, Tổng công ty còn có cơ sở 2 tại thành phố Hồ Chí Minh. - Chủ tịch Hội đồng quản trị: ông Lê Quốc Ân. - Tổng Giám đốc: ông Vũ Đức Thịnh Là Tổng công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình Tổng công ty 91 nhằm đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao hiệu quả và khả năng xuất khẩu sang thị trường các nước. Vinatex là sự kế thừa nhiệm vụ và đội ngũ cán bộ, công nhân của Tổng công ty dệt Việt Nam và Liên hiệp các xí nghiệp may Việt Nam với toàn bộ các công ty, xí nghiệp nhà máy Dệt, May quốc doanh Trung ương và một số địa phương. 2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn 2.1. Chức năng của Tổng công ty Dệt may Việt Nam - Tổng Công ty thực hiện chức năng kinh doanh hàng dệt, may mặc, từ đầu tư, sản xuất, cung ứng đến tiêu thụ sản phẩm; xuất nhập khẩu nguyên liệu, phụ liệu, thiết bị, phụ tùng, các sản phẩm dệt may và các hàng hoá có liên quan đến ngành dệt may; liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoàinước. - Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý công nhân kỹ thuật. - Tiến hành các hoạt động kinh doanh ngành nghề khác theo quy định của pháp luật và các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật và các nhiệm vụ khác do Nhà nước giao. 2.2. Nhiệm vụ chính - Đầu tư, sản xuất, cung cấp, phân phối, nhập khẩu xuất khẩu trên các lĩnh vực dệt may; thành lập liên doanh và hợp đồng thương mại với các công ty trong và ngoài nước. - Phát triển và mở rộng thị trường trong và ngoài nước cũng như phân công các công ty thành viên thâm nhập vào các thị trường tiềm năng. - Nghiên cứu, chỉ đạo và áp dụng công nghệ phát triển mới nhất, cải tiến thiết bị theo chiến lược phát triển. - Đào tạo và mở các lớp chuyên sâu cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, nâng cao cũng như đào tạo tay nghề cho đội ngũ công nhân. 2.3. Quyền hạn của Tổng Công ty - Tổng công ty có quyền tổ chức quản lý, tổ chức kinh doanh theo quy định của pháp luật như: Tổ chức bộ máy quản lý, tổ chức kinh doanh phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ của Nhà nước giao, đổi mới trang thiết bị theo chiến lược phát triển của Tổng Công ty… - Tổng công ty có quyền đầu tư, liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, mua một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp khác theo quy định của pháp luật. - Tổng công ty có quyền chuyển nhượng, thay thế, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của Tổng công ty, trừ những thiết bị, nhà xưởng quan trọng theo quy định của Chính phủ được Bộ Tài chính cho phép. - Tổng công ty có quyền quản lý tài chính theo quy định: Được sử dụng vốn và các quỹ của Tổng công ty để phục vụ kịp thời các nhu cầu kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn, có hiệu quả; tự huy động vốn để hoạt động kinh doanh; được phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật. 3. Cơ cấu tổ chức của Tổng Công ty Dệt may Việt Nam Cơ cấu tổ chức chính của Tổng Công ty Dệt may Việt Nam được minh hoạ theo sơ đồ sau: Hội đồng quản trị Cơ quan Tổng giám đốc Khối cơ quan chức năng tham mưu, giúp việc Ban kiểm soát Khối phụ thuộc Khối sự nghiệp Khối Cổ phần Khối Độc lập Khối Liên doanh Theo quyết định của Tổng giám đốc Tổng Công ty Dệt may Việt Nam đã ban hành các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác với các Ban chức năng, các trung tâm thuộc cơ quan Tổng công ty như: Ban Tổ chức - hành chính; Ban Kế hoạch - thị trường; Ban Tài chính - Kế toán; Ban Kỹ thuật - Công nghệ và môi trường; Trung tâm xúc tiến xuất khẩu; Trung tâm đào tạo cán bộ quản trị doanh nghiệp. 3.1. Ban Kế hoạch - thị trường a) Chức năng: Ban Kế hoạch thị trường là bộ phận chuyên môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp cơ quan Tổng Giám đốc và Hội đồng quản trị trong các lĩnh vực như: qui hoạch, lập kế hoạch dài hạn; kế hoạch được chia ra từng năm; thông tin quản trị; thông tin năng lực sản xuất; máy móc thiết bị; danh mục sản phẩm… ở các đơn vị thành viên, các đơn vị phụ thuộc trong toàn Tổng Công ty cũng như việc sử dụng chúng trong sản xuất kinh doanh; các hoạt động tư vấn; xúc tiến liên quan đến thị trường nội bộ và thị trường nội địa. b) Nhiệm vụ: - Tổng hợp và xây dựng kế hoạch dài hạn, kế hoạch được chia ra từng năm của toàn Tổng công ty trên cơ sở năng lực thực tế và kế hoạch đầu tư phát triển của các đơn vị thành viên kết hợp với mục tiêu chiến lược của toàn Tổng công ty. - Kiểm tra các đơn vị thành viên trong quá trình hoạt động kinh doanh. - Thường xuyên cập nhật, các thông tin số liệu phản ánh hoạt động kinh doanh của các đơn vị thành viên. - Tổ chức, thực hiện việc nghiên cứu thị trường tại một số khu vực, thu thập thông tin liên quan đến thị trường, xác định thị trường tiềm năng đối với danh mục những sản phẩm chủ yếu của Tổng Công ty. - Thực hiện các hoạt động xúc tiến thị trường nội bộ và thị trường ngoài nước. c) Mối quan hệ với các phòng ban: - Với các phòng ban nói chung: + Ban Kế hoạch - thị trường là đầu mối về kế hoạch thị trường trong nước. Các ban liên quan có trách nhiệm cung cấp các thông tin cần thiết và phối hợp chặt chẽ với Ban Kế hoạch thị trường cùng thực hiện nhiệm vụ mà lãnh đạo Tổng Công ty giao cho. - Với các đơn vị thành viên: + Các đơn vị thành viên báo cáo về Ban Kế hoạch - thị trường theo các lĩnh vực hoạt động của ban. + Phối hợp với các đơn vị thành viên thực hiện nhiệm vụ quảng cáo, xúc tiến, tiếp thị đối với thị trường trong nước. - Với các cơ quan quản lý Nhà nước: + Thừa lệnh Tổng giám đốc tiếp nhận, triển khai những thông tin quản lý Nhà nước liên quan đến những lĩnh vực hoạt động của ban. + Trình lãnh đạo Tổng công ty báo cáo, kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước về những mặt hoạt động liên quan đến ban. 3.2. Ban Tổ chức hành chính a) Chức năng Ban Tổ chức hành chính là bộ phận chuyên môn nghiệp vụ, thực hiện hai chức năng. Thứ nhất: là bộ phận tham mưu giúp cho hội đồng quản trị, tổng giám đốc Tổng công ty về các lĩnh vực tổ chức, cán bộ, lao động tiền lương, công tác thanh tra… Thứ hai, là chức năng phục vụ hỗ trợ và tạo điều kiện cho bộ máy văn phòng Tổng Công ty hoạt động b) Nhiệm vụ - Nghiên cứu, dự thảo nội dung sửa đổi, bổ sung điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên. - Hướng dẫn các đơn vị thành viên của Tổng công ty, xây dựng sửa đổi, bổ sung điều lệ tổ chức và hoạt động. - Giúp Tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong việc quản lý đội ngũ cán bộ thuộc diện Tổng công ty quản lý. - Đề xuất các biện pháp, giải pháp đối với công tác cán bộ nhân sự. Thực hiện các thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, nâng lương đối với cán bộ viên chức. - Cùng với các bộ phận chức năng có liên quan đề xuất và làm thủ tục gửi cán bộ đi học tập nghiên cứu, khảo sát,… hoặc làm chi nhánh hay văn phòng đại diện ở các nước. - Tổ chức tiếp nhận, phân loại, theo dõi việc xử lý văn thư. Thực hiện tốt chế độ bảo mật tài liệu theo quy định của Nhà nước và của Tổng công ty. c) Mối quan hệ với các ban trung tâm nói chung - Hướng dẫn, thông báo cho các ban, trung tâm về các chế độ chính sách đối với cán bộ công nhân viên trong cơ quan. - Cùng các ban bàn bạc, xây dựng chức năng nhiệm vụ của từng ban, từng trung tâm, chi nhánh… * Mối quan hệ với các đơn vị thành viên: Các đơn vị thành viên báo cáo về ban tổ chức hành chính - Công tác quy hoạch cán bộ - Đánh giá cán bộ hàng năm - Đề nghị nâng lương, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật… đối với cán bộ do Tổng công ty quản lý. - Những vấn đề có liên quan đến thanh tra, khiếu tố, khiếu nại. * Mối quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước: - Thực hiện các báo cáo định kỳ theo quy định. - Chịu sự kiểm tra về việc thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động trong Tổng công ty. - Đề nghị việc xế hạng doanh nghiệp 3.3. Ban Tài chính - kế toán a) Chức năng Ban Tài chính - kế toán là bộ phận chuyên môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp việc cho Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị về các lĩnh vực tài chính, tín dụng, kiểm toán, giá cả trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản, hành chính sự nghiệp tại các đơn vị thành viên, các đơn vị phụ thuộc và các cơ quan văn phòng của Tổng Công ty. b) Nhiệm vụ - Nghiên cứu, hướng dẫn chế độ tài chính, kế toán, giá cả và tín dụng. - Phối hợp với các ban chức năng trong Tổng Công ty, xây dựng và thực hiện công tác kế hoạch hoá trong toàn Tổng công ty. - Xây dựng dự án nhận vốn và các nguồn lực khác của Nhà nước, phương án giao vốn và các nguồn lực cho các đơn vị thành viên, phương án điều hoà vốn và nguồn lực cho các đơn vị thành viên. - Tổ chức, theo dõi việc thực hiện công tác kế toán ở các đơn vị thành viên. c) Mối quan hệ vớ các phòng ban * Với các phòng ban - Hướng dẫn chế độ tài chính cho các phòng ban. - Tham gia và xây dựng quy chế tài chính. * Với các đơn vị thành viên: - Hàng năm các đơn vị thành viên báo cáo kế hoạch tài chính của đơn vị mình về tổng Công ty để tổng hợp báo cáo Nhà nước * Với cơ quan quản lý Nhà nước - Kế toán trưởng cùng Tổng._. Giám đốc đưa ra kế hoạch về vốn, tài chính của tổng công ty trình Tổng giám đốc và Tổng giám đốc trình thủ trưởng Chính phủ phê duyệt. 3.4. Ban kỹ thuật đầu tư a) Chức năng: Ban kỹ thuật đầu tư là bộ môn giúp việc, có chức năng tham mưu cho tổng giám đốc về kế hoạch đầu tư, về thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản và công tác thống kê kế hoạch của tổng công ty. Bên cạnh đó, còn tham mưu cho Tổng giám đốc về quản lý dự án, về khoa học kỹ thuật của Tổng công ty. b) Nhiệm vụ - Tư vấn, đề xuất với lãnh đạo về các dự án đầu tư xây dựng cơ bản của Tổng Công ty, các giải pháp và hình thức đầu tư. - Tổ chức thẩm định, quản lý hoạt động đầu tư, dự toán thanh quyết toán của dự án đầu tư trình lãnh đạo phê duyệt. - Nghiên cứu, đề xuất các đề tài, giải pháp khoa học kỹ thuật ngành để phổ biến, áp dụng rộng rãi trong toàn tổng công ty. c) Mối quan hệ với phòng ban - Báo cáo cho Bộ công nghiệp định kỳ tình hình thực hiện kế hoạch thuộc lĩnh vực kỹ thuật đầu tư và báo cáo dự án đầu tư theo sự phân cấp để xin phê duyệt. - Tiếp nhận văn bản, chính sách có liên quan đến lĩnh vực quản lý của ban kỹ thuật đầu tư. - Báo cáo cho Bộ kế hoạch - Đầu tư về tình hình kỹ thuật - Đầu tư của Tổng Công ty theo yêu cầu của Bộ. 3.5. Trung tâm xúc tiến xuất khẩu a) Chức năng Trung tâm xúc tiến xuất khẩu là bộ phận chức năng giúp việc cho Tổng giám đốc về các lĩnh vực hoạt động quan hệ quốc tế, thị trường ngoài nước, các chính sách thương mại đối với thị trường ngoài nước. Bên cạnh, thực hiện nhiệm vụ xúc tiến xuất khẩu cho toàn Tổng Công ty. b) Nhiệm vụ - Tham mưu cho lãnh đạo Tổng Công ty xây dựng quy chế, chính sách thương mại đối với thị trường ngoài nước trong toàn tổng Công ty. - Thu nhập, tổng hợp, xử lý thông tin liên quan đến thị trường ngoài nước. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu, nhập khẩu dệt may nguyên liệu phục vụ sản xuất ngành dệt may. - Đề xuất thành lập văn phòng đại diện Tổng Công ty tại nước ngoài. Xúc tiến hình thành các tổ chức tiếp thị đối với thị trường ngoài nước và các liên doanh liên kết về thương mại với nước ngoài. - Tham gia, tổ chức hội chợ, triển lãm ở nước nogài. c) Mối quan hệ với các phòng ban * Với các phòng ban - Trung tâm xúc tiến xuất khẩu thực hiện nhiệm vụ làm đầu mối trên các lĩnh vực thị trường ngoài nước, chính sách thương mại đối với thị trường ngoài nước, các hoạt động yểm trợ xuất khẩu, quản lý văn phòng đại diện tại nước nogài. * Với các đơn vị thành viên - Các đơn vị thành viên báo cáo về trung tâm xúc tiến xuất khẩu theo các lĩnh vực hoạt động của trung tâm. * Với cơ quan quản lý Nhà nước - Thừa lệnh Tổng giám đốc tiếp nhận, triển khai những thông tin quản lý Nhà nước liên quan đến những lĩnh vực hoạt động của trung tâm. 3.6. Trung tâm đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp a) Chức năng: Trung tâm đào tạo cán bộ quản trị doanh nghiệp Dệt may là bộ phận có chức năng tham mưu, giúp việc Tổng giám đốc và hội đồng quản trị về các liĩnh vực hoạt động, đào tạo, nâng cao, bồi dưỡng cập nhật những kiến thức quản trị doanh nghiệp, kỹ thuật, công nghệ cho cán bộ ngành dệt may. b) Nhiệm vụ - Giúp lãnh đạo tổng Công ty nghiên cứu, dự báo, nắm bắt nhu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cho chiến lược phát triển của tổng Công ty. - Hỗ trợ với các trường và các đơn vị thành viên để quyết định chuyển số học sinh tốt nghiệp vào các đơn vị có nhu cầu sử dụng. - Tổ chức đào tạo để phát triển nguồn nhân lực trong toàn tổng Công ty theo chương trình và nội dung đã được lãnh đạo phê duyệt. c) Mối quan hệ với các phòng ban * Với các phòng ban: - Trung tâm đào tạo cán bộ quản trị doanh nghiệp dệt may thực hiện nhiệm vụ làm đầu mối trên các lĩnh vực liên quan đến đào tạo cán bộ quản trị nd. * Với các đơn vị thành viên - Các đơn vị thành viên báo cáo về trung tâm đào tạo cán bộ quản trị doanh nghiệp dệt may theo lĩnh vực hoạt động đào tạo của trugn tâ. - Phối hợp tổ chức đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao, cập nhật kiến thức cho cán bộ quản trị doanh nghiệp tại các đơn vị thành viên. * Với các cơ quan quản lý Nhà nước - Thừa lệnh Tổng giám đốc tiếp nhận, triển khai những thông tin quản lý Nhà nước liên quan đến nhữgn lĩnh vực hoạt động của trung tâm. II. Hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty dệt may Việt Nam 1. Những đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty 1.1. Về năng lực sản xuất Tổng Công ty Dệt may Việt Nam hoạt động theo mô hình Tổng Công ty 91 (Có HĐQT và TGĐ) là một hình thái tổ chức hoàn thành mới so với nước ta, lại được thành lập theo quyết định hành chính nên có không tít những vướng mắc cần giải quyết cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Tuy nhiên, từ khi thành lập cho đến nay Tổng Công ty đã không ngừng phát triển, cải tiến khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng sản xuất trong đó về năng lực sản xuất đã được cụ thể như sau: 15 tấn bông xơ 100 ngàn tấn sợi 200triệu mét vải 150 triệu sản phẩm may dệt thoi 50 tỉệu sản phẩm may dệt kim 50 triệu chiếc khăn bông Không chỉ từ phía các doanh nghiệp, mà công tác chuẩn bị cho tiến trình hội nhập saua hơn vào sân chơi quốc tế cũng như được triển khai từ phía các Bộ, ngành. Kế hoạch dài hạn về đầu tư cho việc sản xuất cũng như nâng cao năng lực sản xuất vải thoi và vải dệt kim, nhất là vải dệt kim. Sắp tới, tổng Công ty dệt may Việt Nam sẽ tập trung đầu tư bổ sung để đưa năng lực xử lý vải dệt thoi đạt 404,8 triệu m2 và 30.446 tấn vải dệt kim vào năm 2010. Hiện tại đạt 183,6 triệu m2/năm và vải dệt kim gần 20.000 tấn/ năm chính vì vậy vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu cho ngành may xuất khẩu. Theo quy hoạch chi tiết mặt hàng vải dệt thoi thành phẩm của Tổng Công ty, sản phẩm vải nhuộm màu là mặt hàng chủ lực cung cấp vai đạt chất lượng cho may áo sơ mi và quần âu sẽ được tập trung sản xuất tại các Công ty dệt: Nam Định, Việt Thắng, nhuộm Yên Mỹ, nhuộm Thủ Đức, dệt nhuộm Sơn Trà và dệt may Đông á. Hiện tại năng lực nhuộm sợi của tổng Công ty mới chỉ đạt 4.120 tấn/năm, nên trong giai đoạn tới chỉ tập trung đầu tư sản phẩm này tại các Công ty dệt 8/3, Nam Định dệt may Thắng Lợi, đưa năng lực nhuộm sợi màu đạt 5.000 tấn/ năm. Năng lực thiết bị sản phẩm vải in hoa hiện mới đạt gần 10 triệu m2 nên sẽ được đầu tư mới tại các Công ty dệt may Thắng Lợi, dệt 8/3 để thành thành hai trung tâm in hoa vải và sản xuất vải ga, gối, Tổng Công ty đang đầu tư các nhà mày nhuộm hoàn tất tại Yên Mỹ (Hưng Yên); Sơn Trà (Đà Nẵng) và Thủ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh) với cống suất 70,5 triệu m/năm. Do vải dệt kim ngày càng được ưa chuộng và sử dụng nhiều, nhất là thị trường Mỹ nên các doanh nghiệp như: dệt may Hà Nội, Thành công, Đông á, dệt kim Đông Xuân và Đông phương, đẩy mạnh đầu tư sản xuất mặt hàng này với năng lực sản xuất từ 1.900 tấn đến 6.620 tấn/ năm. Hiện nay, Tổng Công ty đã đầu tư ở phía Bắc nhà máy hoàn tất vải dệt kim đồng bộ với dự án vải dệt kim co giãn và vải cào lông công suất 1.500 tấn/năm, dự kiến tăng năng suất lên gấp đôi trong 5 năm tới và chuẩn bị đầu tư một nhà máy dệt kim ở phía Nam, với công suất 3000 tấn/ năm. 1.2. Về nguyên vật liệu Hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty (Vinatex) cũng bị ảnh hưởng bởi nguyên vật liệu. Hiện tại, Tổng Công ty cũng có một số lượng lớn nhà cung ứng các yếu tố đầu vào. Vải là nguyên liệu chính cho sản xuất và thường được nhập khẩu từ các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lna, Hồng Kông, Trung Quốc. Trong nước, hầu như không cung cấp đủ mặt hàng vải các nguyên liệu cũng chủ yếu nhập từ nước ngài về, trong nước cũng có nhưng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số nguyên phụ liệu dùng trong sản xuất những sản phẩm xuất khẩu. Chính vì, nguyên phụ liệu sản xuất chủ yếu là nhập khẩu cho nên chất lượng sản phẩm thường dễ được các khách hàng chấp nhận, nhưng cũng chính vì thế mà dẫn đến ngành may của nước ta có một sự lệ thuộc lớn vào thị trường nguyên liệu bên ngoài. Mà trong khid dó, thị trường nguyên liệu bên ngoài thường không ổn định và có thể gây ra những thay đổi lớn, bất ngờ trong hoạt động sản xuất, gây khó khăn trong việc đáp ứng kịp thời những yêu cầu của khách hàng. Việc xuất khẩu vào các nước có tính cạnh tranh cao thì việc chấp nhận nguyên phụ liệu của nhà nhập khẩu, có nghĩa là nhà nhập khẩu kiêm luôn là nhà cung cấp nguyên phụ liệu thường có cơ hội thâm nhập vào thị trường lớn hơn. Đó là một xu hướng đang hình thành đối với thị trường Mỹ, EU. Điều đó cũng cho thấy sự mâu thuẫn giữa việc tăng khả năng cạnh tranh, khả năng thâm nhập thị trường với việc sử dụng các yếu tố đầu vào từ thị trường nội địa, giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp nguyên phụ liệu của nước ngoài. Mà bên cạnh đó một điểm đáng chú ý là ngành may lại sử dụng nhiều nguyên phụ liệu khác nhau, điều này làm cho công tác chuẩn bị đầu vào cho sản xuất gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Cho nên việc đưa ra những giải pháp để dự trữ nguyên vật liệu luôn luôn được đặt ra cấp bách. Công tác chuẩn bị nguyên phụ liệu để sản xuất hàng xuất khẩu trong năm 2006 đang được triển khai mạnh mẽ ngay từ cuối tháng năm nay. Nhập khẩu nguyên phụ liệu tăng khá mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, đặc biệt là mặt hàng vải.Kim ngạch nhập khẩu vải của Việt Nam trong tháng 10 đạt 23,2 triệu USD, tăng 12% so với tháng trước và so với cùng kỳ năm ngoái tăng tới 30%. Do xuất khẩu nên chính phủ đã phê duyệt ngành Dệt may là một trong những lĩnh vực đựơc ưu tiên phát triển công nghiệp bổ trợ trong thời gian tới. Biểu 1: Nhu cầu nguyên vật liệu cho ngành Dệt may đến năm 2010 Hạng mục Đơn vị tính Nhu cầu toàn ngành Sản xuất trong nước % nội địa cung cấp 2000 2005 2010 2000 2005 2010 2000 2005 2010 1. Bông xơ 1.000 tấn 60 97 130 6,8 30 95 11 31 73 2. Xơ sợi tổng hợp 1.000 tấn 40 60 90 0 30 60 0 50 65 - Viscơ 1.000 tấn 1 5 7 0 0 0 0 0 0 - Len 1.000 tấn 1 6,5 8,5 0 0 0 0 0 0 - Loại khác 1.000 tấn 3 3,5 4,5 2,5 3 4 83 85 88 3. Sợi 1.000 tấn 180 300 500 85 150 300 47 50 60 4. Vải các loại Triệu m2 800 1.560 2.400 304 1.000 1.600 38 64 67 5. Phụ liệu may chính - Các các loại Tr. chiếc - 7.200 12.000 - 3000 5000 - 42 42 - Chỉ may 1.000 tấn - 12 20 - 4000 8000 - 33 40 - Mex Triệu m2 - 109 181 - 60 100 - 55 55 - Khoá kéo Tr. mét - 150 250 - 60 100 - 40 40 …. 1.3. Về máy móc thiết bị Máy móc thiết bị có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty cũng vì máy móc thiết bị là yếu tố quyết định trực tiếp chất lượng sản phẩm, năng suất lao động. Từ đầu những năm 90 trở lại đây, ngành may Việt Nam đã liên tục đầu tư mở rộng sản xuất và đổi mới các thiết bị máy móc nhằm đáp ứng những yêu cầu cảu thị trường xuất khẩu. Toàn Tổng Công ty đã được trang bị them 20.000 máy may hiện đại các loại để sản xuất các mặt hàng may mặc như áo sơ mi; Zackét; hàng dệt kim các loại… Các thiết bị nhập từ các nước Đông Âu đến nay đã cũ, lạc hậu cho nên hầu hết các thiết bị mới được nhập thêm là ở Trung Quốc. Và kể từ năm 1996, thì các doanh nghiệp sản xuất lại nhập thêm thiết bị từ các nước: Nhật; Hàn Quốc dây truyền hiện đại từ các nước Bỉ, Thuỵ sĩ… Vì các dây chuyền này là những công nghệ mới, có tính năng sử dụng cao. Việc đổi mới, mua sắm thêm máymóc thiết bị cũng đã giúp cho Tổng Công ty có thể hoàn thành tốt các đơn đặt hàng của khách, cải thiện hơn về năng suất, chất lượng cũng như giảm giá thàn sản phẩm may mặc xuất khẩu. Các máy may được sử dụng hiện nay, có tốc độ cao 4000 - 5000 vòng/ phút có bơm dầu tự động đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Một số doanh nghiệp đã sử dụng loại máy trang bị điện tử lại mũi, cắt chỉ tự động nhanh hơn nưh May 10, May Việt Tiến… Về công đoạn hoàn tất sản phẩm thì hầu hết các doanh nghiệp dùng hệ thống là hơi tự động, dùng các loại bàn là hơi nước, đảm bảo cho sản phẩm không bị nhăn, nhàu. Tuy nhiên vẫn còn nhiều doanh nghiệp bán chưa đủ những máy may chuyên dùng hiện đại, hệ thống trang bị thiết bị còn rất lạc hậu, cũ kỹ, không đồng bộ có ảnh hưởng rất lớn đối với chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Chính vì vậy, đó cũng là những yếu tố có ảnh hưởng đáng kể vào hoạt động sản xuất các doanh nghiệp may, gây trở ngại lớn trong việc cạnh tranh xuất khẩu trên một số thị trường. 1.4. Chiến lược hướng ra xuất khẩu của Tổng Công ty Từ khi thành lập cho đến nay, mục tiêu chính của toàn Tổng Công ty là sản xuất những sản phẩm may mặc để xuất khẩu. Vì vậy, lượng ra xuất khẩu luôn là chiến lược lâu dài của Tổng Công ty. Chiến lược hướng ra xuất khẩu giúp cho Tổng Công ty tập trung vào các thị trường xuất khẩu là chủ yếu, từ đó đầu tư nhiều vào máy móc thiết bị, phát triển các công trình kết cấu hạ tầng đều nhằm phục vụ cho việc xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty. Theo số liệu thống kê sơ bộ, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam tuần từ 7 - 11/11/2005 ước đạt khoảng 60 tỉẹu USD. Trong khi đó, số liệu thống kê chính thức 10 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đạt 3,899 tỷ USD tăng 6,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Với kết quả xuất khẩu trong 10 tháng đầu năm nay cùng với tiến độ xuất khẩu trung bình/ ngàyd dạt khá trong những ngày đầu tháng 11 là điều kiện cho ngành dệt may đạt được kết quả xuất khẩu tốt nhất trong hai tháng cuối năm 2005 khoảng 800 triệu USD. Như vậy, kim ngạch xuất khẩu của cả năm chỉ đạt 4,699 tỷ USD bằng 94% kế hoạch năm. Việc kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta không thực hiện được như chỉ tiêu đặt ra trong năm nay chưa phải là "quá buồn". Mà nhìn vào thực tế thì ngành dệt may của Việt Nam đã làm được hơn những gì mình có. Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế, tất cả nước nhà xuất khẩu đều phải tính đến phương án giảm mạnh giá để cạnh tranh với hàng giá rẻ của Trung Quốc, thì giá sản phẩm dệt may của Việt Nam chỉ giảm rất nhẹ (theo thống kê của Bộ Thương mại, giá xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang mỹ chỉ giảm chưa đến 4%). Giá xuất khẩu giảm nhẹ, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhẹ, chứng tỏ khối lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam tăng hơn so với năm 2004. Năm 2005, khi chế độ hạn ngạch được dỡ bỏ cho thành viên của WTO, sản phẩm dệt may của Việt Nam được thị trường thế giới chấp nhận và kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng. Biểu 2: Mục tiêu chiến lược "tăng tốc" phát triển ngành dệtmay đến năm 2005 và 2010 Chỉ tiêu Đơn vị tính Ước T.H 2000 Mục tiêu toàn ngành Trong đó Vinatex Tỷ trọng Vinatex 2005 %bq 2010 %bq 2005 %bq 2010 %bq 2000 2005 2010 1. GT SXCN (giá cố định năm 1994) Tỷ đồng 16.000 26.200 11,0 50.000 11,0 12000 16,8 19.000 9,0 30,6 42,6 38,0 2. Sản phẩm chính 95,5 - Bông xơ 1000 tấn 6,7 30 25,3 95 21,0 25 23,7 23,7 80 - 83,3 84,2 - Xơ sọi tổng hợp 1000 tấn 0 30 - 60 13,3 30 - - 30 88,2 100,0 50,0 - Sợi 1000 tấn 85 150 11,0 300 13,3 123 9,7 9,7 166 45,7 82,0 55,3 - Vải lụa triệu m2 304 1.000 21,3 1.600 9,2 455 21,3 21,3 555 27,8 45,5 34,7 -SP dệt may triệu sp 90 150 10,0 230 8,4 65 17,8 17,8 80 27,5 43,3 34,8 - SP may triệu sp 400 780 10,0 1200 10,0 190 10,6 10,6 250 - 24,3 20,8 3. Doanh thu tỷ đồng - - - - - 16.200 15,4 15,4 26000 28,0 - - 4. KNXK: tr. USD 2.000 4000 13,3 7.000 11,0 1200 14,5 14,5 2000 30,0 28,6 Sử dụng lao động : 103 ng 16.00 3000 12,0 4000 5,7 150 8,0 8,0 200 6,3 5,0 5,0 2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ 2.1. Tổng quan về thị trường Mỹ Nước Mỹ, với dân số đông vào khoảng 285,822 triệu người chiếm 5% dân số thế giới, mật độ dân số khoảng 30 người/km. Đây là nước đông dân thứ ba trên thế giới, có nền kinh tế, văn hoá đa dạng và phong phú, đại đa số là dân da trắng (chiếm 80% dân số) số còn lại là dân da màu.Tỷ lệ dân sống ở thành thị cao (Chiếm khoảng 75%) thu nhập quốc dân tính theo đầu người cao, trên 36 ngàn USD/ người trong một năm. Mỹ trở thành một trong những quốc gia nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Đây là thị trường không chỉ hấp dẫn với ngành dệt may Việt Nam mà hầu hết các doanh nghiệp dệt may trên thế giới đều có mong muốn trở thành bạn hàng với Mỹ. Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng ổn định trong thập niên 90 của thế kỷ 20 càng làm tăng niềm tin của người tiêu dùng, duy trì tiêu dùng ở mức độ cao. Trong thời gian từ năm 1989 - 1993, mức tiêu thụ hàng dệt may ở Mỹ tăng 15%. Đến năm 1993, tổng mức tiêu dùng khoảng 86 tỷ USD. Năm 1994, mức tiêu thụ tăng 10% so với năm trước đó. Đến nay, mức tiêu thụ của Mỹ ước tính khoảng 115 tỷ USD. Mỗi năm Mỹ nhập khoảng 60 tỷ USD bằng cả lượng hàng dệt may của Nhật và EU cộng lại, Mỹ nhập khẩu hàng dệt may chủ yếu tà Mêhicô, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc. Các nước này chiếm đến 60% hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ và là những đối thủ cạnh tranh đáng kể đốiv ới các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Hiện nay, Mỹ chưa cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc và chế độ ưu đãi phổ cập nên hàng xuất khẩu của ta sang Mỹ phải chịu nhiều loại thuế cao làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam vốn đã yếu lại càng yếu hơn. Trong nhưng năm tới đây, Mỹ vẫn luôn được coi là thị trường tiềm năng lớn của Việt Nam đặc biệt là hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết và Mỹ đã tiến hành bình thường hoá thương mại với Việt Nam. Việt Nam đã trở thành nhà xuất khẩu hàng may mặc lớn thứ 7 trên thị trường Mỹ, với tổng giá trị xuất khẩu năm 2003 đạt đến 2,48 tỷ USD, tăng 161,4% về giá trị và 131,07% về sản lượng so với năm 2002. Việt Nam đã được đánh giá là một thị trường ưa thích của các nhà nhập khẩu Mỹ vì giá cả các sản phẩm phải chăng và có chất lượng ổn định. 2.2. Vài nét về quan hệ thương mại Việt Nam và Mỹ Trong một thời gian dài, Chính phủ Mỹ đã thực hiện lệnh cấm vận giao lưu kinh tế với Việt Nam, tạo ra một tấm rào chắc chắn kiên cố và dày đặc ngăn trở quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước. Quan hệ thương mại Việt Nam và Mỹ đã bắt đầu cách đây 150 năm với những thương vụ nhỏ lẻ. Tháng 4/1975, Mỹ cũng chỉ quan hệ kinh tế với chính quyền Sài Gòn thông qua các khoản viện trợ chiến tranh. Khối lượng giao dịch kinh tế không đủ lớn, chủ yếu là các hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ như gỗ, cao su, gốm, hải sản... Và tuy nhiên, nhưng điều đó là không phù hợp lắm với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới và gây cản trở, thiệt hại cho lợi ích mỗi quốc gia khi mà vấn đề tồn tại lệnh cấm vận. Bởi vậy, từ đầu thập kể 90, chính phủ Mỹ dần dần nới lỏng và đi tới chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận vào ngày 3/2/1994. Từ đó, quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ bắt đầu có điều kiện hình thành và phát triển. Tiếp theo sau đó, Bộ Thương mại Mỹ chuyển Việt Nam từ nhóm Z (gồm các nước: Bắc Triều Tiên, Cu Ba, Việt nam) lên nhóm Y ít bị hạn chế về thương mại hơn (gồm Liên Xô cũ; các nhóm thuộc khối Vacsava cũ, Anbani, Mông cổ, Lào, Campuchia, Việt Nam). Bộ vận tải và bộ thương mại Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng sang Việt Nam, cho phép tàu mang cờ của Việt Nam vào được cảng của Mỹ (nhưng còn phải hạn chế xin phép trước 3 ngày). Ngay từ khi chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc (MEN); quy chế thuế quan ưu đãi phổ cập mà các nước phát triển cam kết dành cho các nước đang phát triển (GSP) các doanh nghiệp Việt Nam đã dần bắt đầu tiếp cận được với thị trường Mỹ. Quyết định huỷ bỏ lệnh cấm vận này chính là tiền đề, là cơ sở cho sự khai thông quan hệ thương mại Việt - Mỹ. Hàng dệt may Việt Nam với ưu thế giá rẻ, chất lượng được đánh giá cao và thời gian giao hàng được xếp vào loại tốt nhất Châu á, đã từng bước thâm nhập vào thị trường Mỹ đầy rẫy những khó khăn và thử thách này. 2.3. Những chính sách thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may của Việt Nam. Chỉ sau khi lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam được xoá bỏ thì hàng hóa xuất khẩu Việt Nam nói chung, và hàng dệt may nói riêng mới có cơ hội và điều kiện để xâm nhập vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên chính sách thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam còn phụ thuộc vào các bước tiến trong quan hệ thương mại song phương giữa hai nước. Bên cạnh hàng dệt may Việt Nam chưa được hưởng chế độ ưu đãi từ phía Mỹ thì hàng dệt may còn phải chịu sự chi phối bởi các quy định trong chính sách thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Theo các chuyên gia vấn đề dệt may sẽ được phía Mỹ đề cập trong khuôn khổ đàm phán song phương về vấn đề Việt Nam gia nhập WTO như họ đã làm với Trung Quốc. Từ năm 2003 Mỹ đã áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Mặc dù đã áp dụng hạn ngạch nhưng phía Mỹ vẫn tiếp tục dùng các biện pháp hạn chế khác như: điều tra chống phá giá, đánh thuế đối kháng. Mà đôi khi các biện pháp này được cố tình sử dụng nhằm hạn chế thương mại. Đối với mặt hàng dệt may, thị trường Mỹ có nhiều đẳng cấp, yêu cầu pbhong phú về chủng loại mặt hàng không khó tính lắm như thị trường EU và Nhật nhưng đòi hỏi phải phong phú và luôn đổi mới mẫu mã chất lượng. * Chính sách thuế quan. Mỹ đã áp dụng thuế quan trên cơ sở giá FOB thấp hơn giá CIF nên mức độ bảo hộ bằng thuế quan của Mỹ cũng thấp hơn so với các nước khác. - Thuế suất: Mặc dù mức thuế suất MFN trung bình của Mỹ là 5,7% năm 1993, nhưng mức thuế áp dụng đối với các sản phẩm dệt là 10,3% và sản phẩm may là 11,3%. Một số nhóm sản phẩm còn phải chịu thuế cao hơn như quần áo 13,7%, sợi Filament nhân tạo 13,3%. Riêng với các loại sản phẩm dệt, mức độ bảo hộ thực tế còn cao hơn vì thuế suất áp dụng cho sản phẩm đầu vào chỉ là 3% nhưng đối với sản phẩm gia công đã gia công chế biến thì thuế suất có thể cao hơn gấp 3 lần. Đối với hàng dệt may Việt Nam do vẫn chưa được hưởng chế độ ưu đãi về thuế nên mức thuế suất vẫn rất cao, thường từ 40 - 90%, đây cũng là một cản trở lớn đối với khả năng cạnh tranh và xâm nhập vào thị trường Mỹ. Biểu 3: Các mức thuế suất của Mỹ đối với hàng dệt may xuất khẩu của Mỹ. TT Mặt hàng Thuế suất MFN (%) Thuế suất phổ thông (%) Mức chênh lệch (%) 1 Sản phẩm dệt 10,3 51,1 44,8 2 Sản phẩm may mặc 13,4 68,9 55,5 Nguồn: Vietnam - USTrade. * Chế độ visa xuất khẩu: Mỹ buộc một số nước phải ký thoả thuận về việc áp dụng chế độ visa xuất khẩu đối với hàng dệt may. Nước đối tác xác nhận dưới dạng đóng dấu vào hóa đơn hay giấy phép trước mỗi chuyến hàng đối với các sản phẩm dệt nhập khẩu vào Mỹ phải ghi rõ tem, mác theo qui định: các thành phần sợi được sử dụng có tỷ trọng trên 50% sản phẩm ghi rõ tên, các loại nhỏ hơn 5% phải ghi là "các loại sợi khác" phải ghi tên hãng sản xuất, số đăng ký do Federal Trade Commission (FTC) của Mỹ cấp. Biện pháp này được thực hiện để quản lý hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Quy định về visa này được áp dụng cho sản phẩm chịu hạn ngạch và không chịu hạn ngạch, mặc dù các sản phẩm chịu quota đã phải chứng minh xuất xứ của mình khi muốn xuất xứ vào thị trường Mỹ. Sau khi các nước ấn Độ, Pakistan và Hồng Kông kiện Mỹ tại cơ quan quản lý hàng dệt may của WTO (TMB), đầu năm 1999 Mỹ đã phải bỏ áp dụng chế độ trên đối với các sản phẩm đã hoà nhập theo hiệp định. Còn đối với các nước chưa phải là thành viên của WTO, trong đó có Việt Nam thì Mỹ vẫn đơn phương áp dụng mà không chịu bất kỳ áp lực nào cả. 3. Những mặt thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ 3.1. Những mặt thuận lợi: Thị trường Mỹ được đánh giá là thị trường hàng dệt may có tiềm năng lớn của Việt Nam. Như đã phân tích về đặc điểm thị trường hàng dệt may của Mỹ ở trên, Mỹ là một thị trường tiêu thụ hàng dệt may hết sức khổng lồ (hàng năm Mỹ phải nhập khẩu khoảng 60 tỷ USD). Đây thực sự là điều hấp dẫn các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam, mà cụ thể ở đây đại diện cho ngành dệt may Việt Nam là Tổng công ty dệt may Việt Nam (vinatex) thực sự có lợi khi xuất khẩu các sản phẩm của mình sang Mỹ. Với dân số đông thu nhập cao, và chi phí của dân cư Mỹ đầu tư vào việc mua sắm hàng may mặc thuộc loại cao trên thế giới, đây cũng là nơi thị trường mốt cũng khá phát triển. Trải qua nhiều năm xuất khẩu vào thị trường Mỹ, hiểu biết luật pháp, lối sống của người Mỹ. Đó cũng là thuận lợi rất lớn khi tiến hành xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Với đường lối đúng đắn của Đảng và chính phủ tạo mọi cơ hội thuận lợi nhất cho mọi doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường thế giới. Đặc biệt đáng chú ý là chính phủ đang thông qua cơ chế điều hành xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005. Với cơ chế mới này mọi doanh nghiệp đều có thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu, tiến tới xoá bỏ những rào cản pháp lý, thủ tục gây trở ngại cho hoạt động xuất khẩu. Khả năng tiếp cận với thị trường quốc tế trong đó có thị trường Mỹ của doanh nghiệp Việt Nam sẽ thuận lợi hơn. * Việt Nam lại là một trong những nước có môi trường pháp lý; môi trường hành chính, môi trường tài chính ngân hàng; cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực... ngày càng hoàn thiện. * Hàng dệt may của Việt Nam đã có nhiều cải tiến về mẫu mã lại được các khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng, giá lại rẻ, cho nên đó cũng là một trong những yếu tố thuận lợi cho việc xuất khẩu. * Việt Nam đi sau trong việc hội nhập kinh tế nên có điều kiện tiếp thu, các công nghệ kỹ thuật mới và tiên tiến cũng như tiếp thu những kinh nghiệm của các nước đi trước. * Phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường có qui mô vừa và nhỏ nên có những lợi thế mà các doanh nghiệp lớn không có được như: + Linh hoạt và thích nghi dễ dàng với sự biến động của thị trường. + Có khả năng tận dụng mọi nguồn lao động khắp các miền của đất nước, từ thành thị đến nông thôn. + Không cần vốn lớn, có điều kiện tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận trong hoạt động sản xuất và kinh doanh. + Dễ đổi mới trang thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ, mẫu mã để mở rộng thị trường. + Có điều kiện trợ lực tốt cho các doanh nghiệp có qui mô lớn, chẳng hạn như hoạt động dưới dạng chân rết cho các tổng công ty trong sản xuất kinh doanh. 3.2. Những mặt khó khăn: * Thị trường Mỹ quá rộng và lớn lại là thị trường áp dụng hạn ngạch, hệ thống luật pháp của Mỹ quá phức tạp, do đó đã gây trở ngại không ít trong hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty. * Tính cạnh tranh trên thị trường Mỹ lại rất cao. Nhiều nước trên thế giới có lợi thế tương tự như Việt Nam đều coi thị trường Mỹ là thị trường chiến lược trong hoạt động xuất khẩu, cho nên chính phủ và các doanh nghiệp của các nước này đều quan tâm đề xuất các giải pháp hỗ trợ thâm nhập giành thị phần trên thị trường Mỹ. Đây cũng được xem là khó khănkhách quan tác động đến khả năng thâm nhập sản phẩm của Việt Nam trên thị trường này. * Hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ hiện nay đều phải chịu thuế suất ở mức cao từ 30% đến 90%, nên cũng khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước khác được ưu đãi về thuế. * Tổng công ty dệt may Việt Nam cũng bị hạn chế trong việc thiết kế mẫu mã sản phẩm, nghiên cứu thị trường, hình thành ý tưởng sản phẩm. Đây cũng là một khó khăn lớn. Bên cạnh đó nguyên phụ liệu cho ngành may chủ yếu lại nhập từ nước ngoài. * Do hạn chế về vốn cho nên tổng công ty vẫn chưa đủ sức để thực hiện được những hợp đồng lớn, nhất là có những lúc đơn đặt hàng nhiều. Nói tóm lại, việc xuất khẩu vào thị trường Mỹ có nhiều thuận lợi nhưng bên cạnh đó còn gặp nhiều khó khăn. Để tăng doanh thu cho hoạt động xuất khẩu thì đòi hỏi trong thời gian tới Tổng công ty phải có những giải pháp tận dụng những lợi thế, khắc phục những khó khăn. 4. Tầm quan trọng và khả năng xuất khẩu vào thị trường Mỹ Như đã phân tích về vai trò của hoạt động xuất khẩu nói chung ở trên (chương I) thì ta đã thấy rõ, tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường. Có thể nói, đẩy mạnh xuất khẩu là yêu cầu tất yếu khách quan không chỉ của các nước đang phát triển mà còn đối với tất cả các quốc gia khác trên thế giới nếu họ muốn có một sự phát triển thật sự hoàn chỉnh. Còn khi ta nói tới hoạt động xuất khẩu hàng may mặc nói riêng thì ta thấy rằng công nghiệp may mặc thường được gắn với giai đoạn phát triển ban đầu của nền kinh tế và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước. Ngành công nghiệp may có khả năng tạo nhiều công việc làm cho người lao động, tăng theo lợi nhuận để tích lũy làm tiền đề phát triển cho các ngành công nghiệp khác góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội. Xét một cách tổng thể thì công nghiệp may có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp khác. Khi ngành may là ngành công nghiệp hàng đầu của nền kinh tế, nó sẽ cần một khối lượng lớn nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì thế tạo điều kiện để đầu tư và phát triển các ngành kinh tế này. Tầm quan trọng của ngành may mặc đặc biệt to lớn đối với nền kinh tế của nhiều quốc gia trong điều kiện buôn bán hàng hóa quốc tế. Xuất khẩu hàng may mặc đã đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn để mua máy móc thiết bị, hiện đại hóa sản xuất, làm cơ sở cho nền kinh tế phát triển. Thị trường Mỹ được đánh giá là thị trường hàng dệt may có tiềm năng lớn của Việt Nam. Như đã phân tích về đặc điểm về thị trường hàng dệt may của Mỹ ở trên, Mỹ là một thị trường tiêu thụ hàng dệt may hết sức khổng lồ (hàng năm Mỹ phải nhập khẩu khoảng 60 tỷ USD). Đây thực sự là điều hấp dẫn các doanh nghiệp may của Việt Nam nói chung và của Tổng công ty dệt may nói riêng trong hoạt động xuất khẩu các sản phẩm của mình sang Mỹ. Mặc dù sản phẩm may mặc của Việt Nam vẫn chưa được hưởng ưu đãi từ phía Mỹ, như phải chịu thuế cao cũng như bị áp dụng nhiều biện pháp hạn chế thương mại khác nhưng các mặt hàng xuất khẩu của Tổng công ty vẫn được nhiều khách hàng Mỹ vẫn ký kết đặt hàng. Cho đến nay thị trường Mỹ vẫn chiếm vào hơn 80% kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty. Đó cũng là một thành công lớn của Tổng công ty trong việc phát triển thị trường Mỹ. Biểu 4: Tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Mỹ (Trị giá FOB) Năm Tổng kim ngạch xuất khẩu (USD) Kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ (USD) Tỷ trọng % 2003 2484.260.000 1382.120.000 55,64 2004 2505.640.000 2005.620.000 80,05 2005 3066.920.000 2965.190.000 96,68 Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam - Báo cáo xuất khẩu năm 2003 - 2005. Qua bảng trên cho ta thấy kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Tổng công ty năm 2003 là 1382.120.000 USD, chiếm 55,64% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty. Đến năm 2004 đã tăng lên là 2005._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC708.doc
Tài liệu liên quan