Bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm bảo hiểm an sinh giáo dục

Chương I: Khái quát về bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục I. Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ (BHNT) và sản phẩm bảo hiểm An sinh gíao dục (ASGD) 1. Khái niệm Về BHNT, có rất nhiều khái niệm khác nhau, thực tế, BHNT là sự cam kết giữa công ty bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm về việc công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả cho người tham gia bảo hiểm (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được b

doc113 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm bảo hiểm an sinh giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảo hiểm bị chết hay sống đến một thời điểm được xác định trong hợp đồng) còn người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người. Tuy nhiên, đứng trên góc độ pháp lý, kỹ thuật tồn tại những khái niệm khác về BHNT đó là: *Về mặt pháp lý: BHNT là bản hợp đồng trong đó để nhận được phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm (người ký kết hợp đồng) thì người bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một người hay nhiều người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền nhất định (đó là số tiền bảo hiểm hay một khoản trợ cấp) trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay người được bảo hiểm sống đến một thời điểm được xác định trong hợp đồng. *Về mặt kỹ thuật: BHNT là nghiệp vụ bao hàm những cam kết mà sự thi hành những cam kết này phụ thuộc chủ yếu vào tuổi thọ của con người. 1 Như vậy BHNT giải quyết nỗi lo âu về mặt an toàn trong đời sống nhưng nó chỉ gắn với các biến cố liên quan đến bản thân con người như: tử vong, tai nạn, sống sót v.v. Đôi khi các sự cố không phải luôn tương ứng với các thiệt hại. 2. Lịch sử ra đời 2.1. Trên thế giới Cũng giống như các loại hình bảo hiểm khác, BHNT tuân theo quy luật “lấy số đông bù số ít” tức là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông và một vài người trong số họ phải gánh chịu. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử là năm 1583 ở London của Vương Quốc Anh và hợp đồng BHNT đầu tiên được ký kết với ông William Gibbons. Trong hợp đồng thoả thuận rằng một nhóm người góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong vòng 1 năm. Lúc đó, ông William Gibbons tham gia và phí bảo hiểm ông phải đóng lúc đó là 32 bảng Anh, khi ông chết trong năm đó người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh. Như vậy, BHNT có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật, và vì nó giống như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con người, nên BHNT phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Đến năm 1759 công ty BHNT đầu tiên mới ra đời, Công ty Bảo hiểm Philadenphia của Mỹ. Công ty đó đến nay vẫn còn hoạt động nhưng ban đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở Anh được thành lập và bán BHNT cho mọi người dân. ở Châu á, công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến nay. Năm 1860 bắt đầu xuất hiện mạng lưới đại lý BHNT. Trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985 doanh thu phí BHNT mới chỉ đạt 630,5 tỷ USD, năm 1989 đã lên tới 1210,2 tỷ USD và năm 1993 con số này là 1647 tỷ USD chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm. Bảng 1: Phí BHNT của một số nước trên thế giới năm 1993 Tên nước Phí BHNT (tr. USD) Cơ cấu phí BHNT (%) Phí BHNT trên đầu người (USD/nghìn người) Tỷ lệ phí BHNT trên GDP (%) Hàn Quốc 28717,43 79,66 651201 8,68 Nhật Bản 236458,62 73,86 1909870 5,61 Đài loan 6799,60 68,77 325311 3,14 Singapore 1039,92 62,42 358620 1,89 Philipine 736,74 59,43 11294 1,38 Thái lan 1141,21 43,64 19470 0,92 Malaisia 924,9 46,54 48125 1,43 Indonesia 373,98 30,25 1974 0,26 Mỹ 216510,74 41,44 838223 3,41 Đức 42689,00 39,38 524138 2,25 Pháp 47673,24 56,55 826320 3,80 Anh 66094,84 64,57 1141450 7,00 (Nguồn: Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam tháng 8/1996) Qua số liệu ở bảng trên ta nhận thấy hầu hết phí bảo hiểm nhân thọ ở các nước có nền kinh tế phát triển là tương đối cao, cao nhất là Nhật Bản với tổng số phí là 236,458 tỷ USD. Đối với các nước ở khu vực Đông Nam á, những nước mà có nền kinh tế có những nét tương đồng như chúng ta, nhìn chung phí BHNT còn thấp, so với các nước trong khu vực thì Thái Lan là nước đứng đầu về doanh thu phí BHNT, tỷ lệ phí BHNT và phi nhân thọ của nước này là tương đối gần bằng nhau. Bảng 1: Phí BHNT một số nước trên thế giới năm 2000 Đơn vị: Triệu USD Mỹ Anh Nhật Bản Hàn Quốc Singa-pore Malays-ia Thailan Indones-ia 344267 99023 305313 58337 3482 2853 1859,5 916 (Nguồn: Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, tháng 2 năm 2001) Từ bảng 1 và bảng 1’, so sánh số liệu năm 2000 với năm 1993 ta thấy doanh thu phí BHNT ở tất cả các nước này đều tăng, đặc biệt tại thị trường Mỹ tăng doanh thu phí năm 2000 tăng 127,756 tỷ USD tức tăng 59% so với doanh thu năm 1993 và tại Nhật Bản năm 2000 tăng 68,854 tỷ USD tức tăng 29% so với năm 1993. Từ đây chúng ta tin tưởng rằng BHNT ở nước ta chắc chắn sẽ không nằm ngoài xu thế chung của thế giới. 2.2.Tại Việt Nam Trước năm 1954, ở miền Bắc nước ta, những người làm việc cho Pháp đã mua BHNT và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi từ các hợp đồng bảo hiểm này. Các hợp đồng bảo hiểm trên đều do các công ty bảo hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện. Sau năm 1954, ở miền Bắc, Công ty Bảo hiểm Việt Nam trước đây hay Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam hiện nay (gọi tắt là BAOVIET) là doanh nghiệp bảo hiểm đầu tiên của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã ra đời ngày 17/12/1964 và bắt đầu hoạt động chính thức từ ngày 15/01/1965. Cùng trong khoảng thời gian đó (những năm 1970, 1971), ở Miền Nam công ty bảo hiểm Hưng Việt thuộc Ngụy quyền Sài Gòn đã triển khai một số loại hình BHNT như : An sinh giáo dục, bảo hiểm Trường sinh (BHNT cả đời), bảo hiểm có thời hạn 5 năm, 10 năm hay 20 năm. Nhưng công ty này hoạt động trong thời gian rất ngắn chỉ 1-2 năm nên hầu hết người dân chưa biết nhiều về loại hình bảo hiểm này. Kể từ đó cho tới trước năm 1993, ở nước ta chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) trực thuộc Bộ Tài chính. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới về kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế mới, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ : “Khuyến khích phát triển, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh bảo hiểm cuả các thành phần kinh tế và mở cửa hợp tác với nước ngoài...”. Đường lối đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa đã thể hiện trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại, cụ thể là ngày 18/12/1993 Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ban hành Nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Đây là văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên đặt nền móng cho pháp luật về bảo hiểm trong điều kiện kinh tế thị trường. Nghị định này là bước ngoặt quan trọng tuyên bố chấm dứt sự độc quyền Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Theo Nghị định này các doanh nghiệp bảo hiểm có thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần, hội bảo hiểm tương hỗ, công ty liên doanh với nước ngoài, chi nhánh hay công ty 100% vốn nước ngoài. Và có thể nói đây là thời kỳ bắt đầu của việc “tự do hoá” và mở cửa thị trường Việt Nam. Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của BHNT, trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm này. Ngày 22/6/1996, sự ra đời của công ty BHNT chính thức đầu tiên ở Việt Nam đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô.Tiếp đến, năm 1999 với sự tham gia của một số công ty BHNT có vốn nước ngoài thị trường BHNT Việt Nam đã trở lên sôi động hơn và phong phú hơn, giúp cho người dân có thể lựa chọn cho mình sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Cho đến nay thì đã có 5 công ty BHNT hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đó là: Bảo Việt là công ty BHNT duy nhất ở Việt Nam có 100% vốn trong nước, đồng thời có số vốn kinh doanh và thời gian hoạt động lâu nhất: vốn kinh doanh là 55 triệu USD, phát hành hợp đồng đầu tiên ngày 01/8/1996, thời gian hoạt động là không kỳ hạn. Manulife là công ty 100% vốn nước ngoài của Canada khai trương hoạt động 12/6/1999, vốn đăng ký kinh doanh là 10 triệu USD, thời gian hoạt động 50 năm. Prudential là công ty 100% vốn nước ngoài của Anh quốc đây là công ty BHNT đầu tư vào Việt Nam có số vốn lớn sau Bảo Việt (40 triệu USD), khai trương hoạt động ngày 29/10/1999 và có thời gian hoạt động là 50 năm. Bảo Minh - CMG liên doanh giữa tập đoàn CMG (Australia) và Công ty bảo hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh) khai trương hoạt động ngày 12/10/1999, vốn đăng ký kinh doanh 6 triệu USD, thời gian hoạt động 30 năm. AIA công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Mỹ khai trương hoạt động 22/2/2000, vốn đăng ký kinh doanh 10 triệu USD, thời gian hoạt động là 50 năm. Ngày 27/8/2002, công ty ACE INA International holdings Ltd., đã chính thức nộp đơn xin cấp giấy phép kinh doanh bảo hiểm nhân thọ lên Bộ Tài Chính sau 6 năm có mặt tại Việt nam. Kể từ 1/4/2001 Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức phát huy hiệu lực tạo ra hành lang pháp lý đồng thời góp phần khẳng định vị trí của ngành kinh doanh bảo hiểm trong xã hội Việt Nam. 3.Sự cần thiết của BHNT Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro xảy ra do nhiều nguyên nhân, ví dụ như: - Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán... Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn ôtô, hàng không, tai nạn lao động... Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro cho con người, bởi khi xã hội càng phát triển thì con người càng có nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát... Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài chính gia đình... làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với những rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro. + Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp: né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Mặc dù, biện pháp này đã giúp chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống nhưng khi rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn ngừa hết được hậu quả. + Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp nhận rủi ro thì con người phải đối phó với những khó khăn không những cho bản thân mà còn về mặt tài chính của gia đình nữa và bảo hiểm là phương pháp tốt để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự di chuyển rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội, bảo hiểm không chỉ chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro về số lượng cũng như mức độ. Do việc tập trung vào tay người bảo hiểm một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra nên người bảo hiểm với kinh nghiệm và phương tiện của mình sẽ có những biện pháp để giảm thiểu số lượng và mức độ xảy ra rủi ro.Vì vậy, bảo hiểm là công cụ đối phó hiệu quả nhất với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra. Như vậy, bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con người. Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. ở châu á, những năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. BHNT giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn. ở Việt Nam BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho người dân một cách thức tiết kiệm mới đồng thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu tư cho đất nước. Theo số liệu của Kinh tế 2000-2001 Việt Nam & Thế giới thì tổng doanh thu phí BHNT năm 2000 đạt 1117 tỷ đồng còn trong năm 2001 theo số liệu của công ty Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội 1/2002 doanh thu phí BHNT trên toàn thị trường đạt 2377,499 tỷ đồng (chiếm khoảng 0,55% GDP). Như vậy số vốn nhàn rỗi trong dân cư thông qua nghiệp vụ BHNT đã được “hút” lại để đầu tư phát triển kinh tế. 4. Vai trò và vị trí của BHNT 4.1. Vai trò của BHNT Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Nhắc đến BHNT là phải nhắc đến vai trò đầu tiên này, rủi ro là cái không thể lường trước trong cuộc sống mỗi con người, xã hội càng phát triển càng có nhiều cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với có nhiều rủi ro đe doạ cuộc sống con người dẫn đến những bất ổn về tài chính cho cá nhân gia đình cũng như xã hội. Khi rủi ro chẳng may xảy ra, nếu tham gia BHNT thì bản thân hoặc người thân, gia đình của bạn sẽ được đảm bảo về mặt tài chính bù đắp phần nào những tổn thất do rủi ro gây ra. Còn khi rủi ro không xảy ra, thông qua một số loại hình sản phẩm khác như bảo hiểm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm hỗn hợp.. người tham gia vẫn nhận được số tiền bảo hiểm cùng với lãi. Thứ hai: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và tăng thêm quyền lợi cho người lao động. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nước phải chi ra một lượng tiền khá lớn để chi trả cho các cá nhân và các công ty gặp rủi ro dưới hình thức trợ cấp (trợ cấp ốm dau trợ cấp mất việc làm..). Các khoản chi này vừa làm thâm hụt ngân sách Nhà nước, đôi khi lại còn gây tâm lý ỷ lại không cố gắng đối với cá nhân cũng như tổ chức vì đã có người khác chịu trách nhiệm giúp mình. Ngày nay khi BHNT ra đời, người tham gia đã có thể tự bảo vệ cho mình, chủ động đối phó với các rủi ro đồng thời tạo ra một khoản tiết kiệm. Bên cạnh đó, tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyện người lao động còn được hưởng khoản trợ cấp hưu trí, tự lo được cho bản thân giảm gánh nặng cho gia đình cũng như xã hội. Thứ ba: BHNT là công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu. Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trưng cũng như quyền lợi to lớn khi tham gia BHNT mà ngày nay người ta ngày càng quan tâm đến BHNT, nhờ đó lượng vốn được huy động từ dân chúng được tăng lên. Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới “Công nghiệp hoá - hiện đại hoá” đất nước để phục vụ cho sự phát triển kinh tế phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của BHNT nên tuy mới ra đời được 5 năm nhưng Nhà nước ta đã liên tục có những chính sách để tạo điều kiện cho BHNT ngày một phát triển mà bước tiến quan trọng là sự cho phép các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BHNT Việt Nam và sự ra đời của Luật Bảo hiểm ngày 7/12/2000. Với chủ trương là chủ yếu dựa vào nguồn nội lực và tranh thủ nguồn ngoại lực, chúng ta có quyền hy vọng thông qua BHNT có thể trong thời gian tới thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư nhiều hơn nữa. Ngoài ra, khi các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BH Việt Nam nguồn vốn do họ đầu tư vào cũng sẽ rất lớn. Thêm vào đó, do đặc điểm của BHNT là mang tính dài hạn, nguồn vốn huy động được có thể đem đầu tư trong một thời gian dài và đây là nguồn vốn tuyệt vời nhất cho các dự án kinh tế lớn. Thứ tư: BHNT tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động. Với dân số gần 80 triệu (theo Niên gíam thống kê 2000) lại là dân số trẻ, việc làm luôn là vấn đề nóng bỏng khi mà lượng người không có việc làm ngày càng nhiều trong đó ngoài những người không có trình độ thì cũng có rất nhiều người có trình độ không được sử dụng đúng mục đích. Hoạt động BHNT cần một mạng lưới rất lớn các đại lý khai thác bảo hiểm, đội ngũ nhân viên tin học, tài chính, kế toán, quản lý kinh tế... Vì vậy, phát triển BHNT đã góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm bớt số lượng người thất nghiệp, bớt đi gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Cứ nói riêng ở công ty BHNT Hà Nội, với số lượng cán bộ khai thác ở mỗi phòng lên đến trên dưới 50 người, riêng nội thành đã có 18 phòng khai thác, đa số đều là các cán bộ chuyên nghiệp chưa kể đến các đại lý bán chuyên nghiệp rải rác ở từng quận huyện. Thứ năm: BHNT là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp phần tạo nên một tập quán, một phong cách sống mới. Đối với những nước đang phát triển, đầu tư cho giáo dục là rất quan trọng và phải coi là nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho giáo dục ngày một tăng thì nguồn lực của các nước này lại rất hạn hẹp, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ giáo dục như kêu gọi đóng góp, viện trợ của các cơ quan trong và ngoài nước, cho sinh viên vay vốn tín dụng đều mang tính nhất thời, không ổn định, tham gia BH An sinh giáo dục là một biện pháp hợp lý để đầu tư cho việc học hành của con em nhờ tiết kiệm thường xuyên của gia đình. Đây cũng là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội vì đầu tư cho tương lai con em mình không chỉ là trách nhiệm của xã hội mà còn là trách nhiệm của từng gia đình. Ngoài ra, tham gia BHNT còn thể hiện một nếp sống đẹp thông qua việc tạo cho mỗi người thói quen biết tiết kiệm, biết lo lắng cho tương lai của người thân, đồng thời giáo dục con em mình cũng biết tiết kiệm và sống có trách nhiệm đối với người khác. Có thể nói, BHNT đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết một số vấn đề xã hội như giáo dục, xoá đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp bù đắp tổn thất, bất hạnh trong cuộc sống, góp phần giảm gánh nặng trách nhiệm xã hội đối với người lao động, người cao tuổi.... 4.2 Vị trí của BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm 4.2.1 BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất Bảo hiểm thương mại trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 500 năm. Bảo hiểm hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít” đó là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông và một vài người trong số họ chẳng may gặp phải rủi ro. Bảo hiểm ra đời là một biện pháp hữu hiệu để xử lý các rủi ro tồn tại khách quan. Tham gia bảo hiểm đang ngày càng trở thành một tác nghiệp không thể thiếu được đối với các chủ doanh nghiệp, một thói quen tốt trong dân chúng. Ban đầu bảo hiểm chỉ dừng lại ở một số hình thức như bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm hàng hải… Đến nay, bảo hiểm đã phát triển rất mạnh mẽ với những loại hình bảo hiểm hết sức phong phú và đa dạng. Một trong các loại hình bảo hiểm ra đời khá lâu là BHNT với lịch sử phát triển 400 năm, nó đang ngày càng chứng tỏ vị thế của mình trong thị trường bảo hiểm nói chung. 4.2.2 BHNT ngày càng lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trên thị trường bảo hiểm. Thực tế cho thấy tốc độ phát triển của nghiệp vụ BHNT trên thế giới không ngừng tăng và chiếm tỉ lệ lớn trong tổng doanh thu của các nghiệp vụ BH (xem bảng 1). Tuy nhiên tốc độ phát triển của BHNT rất không đồng đều. Nếu như ở châu Mỹ Latinh phí BH từ hoạt động kinh doanh BHNT rất thấp, chỉ chiếm khoảng 21,4% thì ở châu Âu phí BHNT đạt tỉ lệ cân đối trong khoảng từ 41,8% - 49,3% còn tỉ lệ phí BHNT ở châu Đại đương chiếm 52,3% trong toàn bộ doanh thu phí nghiệp vụ BH. Tóm lại, dù đứng trên giác độ khách quan hay chủ quan chúng ta cũng phải thừa nhận rằng BHNT vẫn ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng của mình trong thị trường BH nói riêng và trong nền kinh tế của các quốc gia, nền kinh tế thế giới nói chung. 5. Những đặc điểm cơ bản của BHNT 5.1. BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BH phi nhân thọ, tham gia BHNT người mua có trách nhiệm nộp một khoản tiền nhất định (gọi là phí BH) cho người BH theo định kỳ đồng thời người bảo hiểm cũng có trách nhiệm trả một số tiền (gọi là số tiền bảo hiểm, STBH) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm này được trả khi người được bảo hiểm sống đến một độ tuổi nhất định, hoặc trả cho người thừa hưởng khi người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn được bảo hiểm.. Số tiền này không thể bù đắp về mặt tình cảm nhưng bù đắp phần nào những tổn thất về mặt tài chính. Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân, gia đình một cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng cách mua bảo hiểm khác với các loại hình tiết kiệm khác ở chỗ người bảo hiểm đảm bảo trả cho người tham gia bảo hiểm hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm ngay cả khi người tham gia bảo hiểm mới tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ qua việc đóng phí. Có nghĩa là khi người được bảo hiểm không may gặp rủi ro, trong thời hạn bảo hiểm đã định trước, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm sẽ nhận được những khoản trợ cấp hay số tiền bảo hiểm từ công ty bảo hiểm theo như thoả thuận từ trước. Điều này giải thích tại sao nói bảo hiểm vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ. 5.2. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm. Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp rủi ro, BHNT do vừa mang tính bảo vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của con người, mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng sản phẩm bảo hiểm. Chẳng hạn như Bảo hiểm An hưỏng hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của người được bảo hiểm là có một khoản tiền góp phần ổn định cuộc sống khi họ về hưu, bảo hiểm An gia thịnh vượng đáp ứng yêu cầu của người tham gia là có được một khoản tiền lớn sau một thời gian ấn định trước... Ngoài ra, hợp đồng BHNT đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp để vay vốn khi người tham gia bảo hiểm gặp những khó khăn về mặt tài chính, thủ tục cho vay được công ty bảo hiểm giải quyết rất nhanh gọn không như đi vay vốn ngân hàng hơn nữa số tiền cho vay này có thể trả hay không trả lại cho công ty BH (tất nhiên số tiền cho vay được giới hạn theo quy định trong hợp đồng bảo hiểm). Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau mà BHNT đang có thị trường ngày càng rộng rãi và được nhiều người quan tâm. 5.3. Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng Tính đa dạng của các hợp đồng BHNT xuất phát từ mục đích của người tham gia và từ các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Mỗi sản phẩm của công ty thiết kế ra là để phù hợp với từng đối tượng tham gia khác nhau, cho nên bất cứ ai cũng có thể tham gia bảo hiểm và có được sản phẩm phù hợp với mục đích của bản thân khi tham gia bảo hiểm. 5.4. Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình định phí khá phức tạp. Để đưa được sản phẩm BHNT đến với người tiêu dùng, người BH đã phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao gồm: chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp đồng... Tuy nhiên những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên phí BHNT, còn phần chủ yếu là phụ thuộc vào: + Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm + Tuổi thọ bình quân của con người + Số tiền bảo hiểm + Thời hạn tham gia bảo hiểm + Phương thức thanh toán + Lãi suất đầu tư + Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền ...... Đối với sản phẩm BHNT, để định giá phí BHNT thì phải dựa trên từng vùng địa lý, từng quốc gia, từng chế độ xã hội và tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước. Hơn nữa, còn phải nắm vững đặc trưng cơ bản của từng loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích chiều hướng phát triển chung của mỗi loại sản phẩm trên thị trường... 5.5 BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định Trên thế giới, BHNT đã ra đời hàng trăm năm nay nhưng cũng có những quốc gia chưa triển khai được BHNT mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. Nguyên nhân của hiện tượng này được các nhà kinh tế giải thích rằng cơ sở chủ yếu để BHNT ra đời và phát triển là phải có những điều kiện kinh tế xã hội nhất định: - Những điều kiện về kinh tế: + Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) phải đạt đến một mức độ nhất định, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế đất nước. + Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người phải đạt mức trung bình trở lên. + Mức thu nhập của dân cư phải phát triển đến một mức độ nhất định để không những đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người mà còn đáp ứng được những nhu cầu cao hơn. + Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền phải tương đối ổn định + Tỷ giá hối đoái phải ổn định ở mức hợp lý thì người dân mới tin tưởng mà đầu tư vào BHNT ....... - Những điều kiện xã hội bao gồm: Tình hình xã hội tương đối ổn định, không xảy ra nội chiến, bạo động. Một xã hội phát triển ổn định thì người dân mới tin tưởng đầu tư cho những kế hoạch trung và dài hạn. Ngoài ra, môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của BHNT. ở Việt Nam trong thời gian gần đây, khi tình hình đất nước ngày càng phát triển thì luật pháp cũng được sửa đổi sao cho phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành phát triển đặc biệt là những ngành mới như bảo hiểm. II. Các loại hình BHNT Như trên đã nêu, BHNT là loại hình bảo hiểm mang ý nghĩa kinh tế - xã hội sâu sắc. Trong đó, người tham gia bảo hiểm sẽ định kì đóng những khoản phí trong một thời gian thoả thuận trước vào một quỹ lớn do công ty bảo hiểm quản lí và công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một khoản tiền như đã thoả thuận trong hợp đồng khi kết thúc thời hạn bảo hiểm hoặc khi có sự kiện rủi ro được bảo hiểm xảy ra cho người được bảo hiểm. Do đó BHNT được hiểu như một sự đảm bảo, một hình thức tiết kiệm và mang tính chất tương hỗ. BHNT trên một phương diện nào đó còn mang tính chất bổ sung cho bảo hiểm xã hội (BHXH) khi đời sống của nhân dân đưọc nâng cao mà chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) chưa đáp ứng hết được. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của con người tuỳ theo mục đích của người tham gia là gì. Trong thực tế để phân loại bảo hiểm người ta chia ra các hình thức cơ bản sau: 1. Phân loại theo rủi ro bảo hiểm Có 3 loại hình BHNT cơ bản, sản phẩm của các công ty bảo hiểm đều xuất phát từ 3 loại này. 1.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia làm 2 nhóm: a.Bảo hiểm tử kỳ Còn gọi là BH tạm thời hay BH sinh mạng có thời hạn. Đây là loại hình BH được kí kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được BH không nhận được bất kỳ một khoản tiền nào. Điều đó cũng có nghĩa là người BH không phải thanh toán số tiền BH cho người được BH. Ngược lại, nếu có cái chết xảy ra trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, người BH có trách nhiệm thanh toán số tiền BH cho người thụ hưởng quyền lợi BH được chỉ định. Loại hình BH này được đa dạng hoá thành các loại hình sau: +Bảo hiểm tử kỳ cố định + Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục + Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi + Bảo hiểm tử kỳ giảm dần + Bảo hiểm tử kỳ tăng dần + Bảo hiểm thu nhập gia đình + Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên + Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện Đặc điểm - Thời hạn BH xác định - Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời - Mức phí BH thấp vì không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được BH. Mục đích - Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất - Bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn Thanh toán các khoản nợ nần (như khoản vay hoặc thế chấp) của người được BH b. Bảo hiểm trọn đời (hay còn gọi là bảo hiểm trường sinh) Bảo hiểm trọn đời là loại hình BHNT mà thời gian bảo hiểm không xác định và số tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế khi người được bảo hiểm chết. Ngoài ra trong một số trường hợp, loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay khi họ sống đến một độ tuổi nhất định(chẳng hạn 99 tuổi theo quy định của Prudential). Loại hình này thường có các loại hợp đồng sau: + Bảo hiểm nhân thọ trọn đời phi lợi nhuận + BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhận + BHNT trọn đời đóng phí liên tục + BHNT trọn đời đóng phí một lần + BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí Đặc điểm: STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết Thời hạn BH không xác định Phí BH có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm Phí BH cao hơn so với sinh mạng có thời hạn vì rủi ro chết chắc chắn xảy ra nên STBH chắc chắn phải chi trả Mục đích: Đảm bảo thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau 1.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (sinh kỳ) Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nhưng nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào. Đặc điểm: Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định hoặc cho đến khi chết. Phí bảo hiểm đóng một lần Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xá._.c định. Mục đích: Đảm bảo thu nhập cố định khi về hưu hay khi tuổi cao sức yếu. Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi già. Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời. 1.3 BHNT hỗn hợp BHNT hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm, số tiền bảo hiểm sẽ được trả khi người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến đáo hạn hợp đồng và thời hạn bảo hiểm được xác định trước, trong đó bảo tức trả khi đáo hạn hợp đồng và phụ thuộc vào hiệu quả mang lại do đầu tư phí bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn. Tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính khác nhau của bản thân, mỗi người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm BHNT sao cho phù hợp với mục đích của mình. Trong BHNT hỗn hợp này yếu tố rủi ro và tiết kiệm đan xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi hầu hết ở các nước trên thế giới. Đặc điểm: STBH được trả khi: Hết hạn hợp đồng hoặc người được BH bị tử vong trong thời hạn bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm xác định (thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm...) Phí BH thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm. Có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia. Mục đích: Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân. Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hóa loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi nhuận và các hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế. 2. Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm 2.1 Bảo hiểm cá nhân Là loại bảo hiểm con người thực hiện dưới hình thức người tham gia bảo hiểm là cá nhân. Thông thường loại bảo hiểm tự nguyện đều do cá nhân tham gia bảo hiểm 2.2. Bảo hiểm nhóm Là loại bảo hiểm con người theo hình thức tập thể có kèm theo danh sách cá nhân được bảo hiểm. Ví dụ tập thể cán bộ, công nhân viên của một doanh nghiệp đều được mua bảo hiểm con người có kèm theo danh sách các cá nhân được bảo hiểm rủi ro chết hoặc bảo hiểm tai nạn bất ngờ nhằm đảm bảo an toàn sản xuất, lao động. 3. Phân loại theo thời hạn hợp đồng. Trong bảo hiểm con người thì BHNT được sử dụng để chỉ loại hình bảo hiểm con người có tính chất dài hạn (trên 1 năm), trong BHNT có 3 loại hình cơ bản như đã nêu ở phần 1. Bên cạnh đó còn có những sản phẩm đi kèm cho sản phẩm chính đó là sản phẩm bổ sung, có những sản phẩm có thời hạn chỉ 1 năm, hết 1 năm lại tái tục hợp đồng ví dụ như: Trợ cấp nằm viện, chi phí phẫu thuật, bảo hiểm thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn... III.Sản phẩm bảo hiểm An sinh gíao dục trong hệ thống BHNT 1.Bảo hiểm cho trẻ em trên thế giới Trên thế giới bảo hiểm cho trẻ em xuất phát từ những nhu cầu thực tế là cha mẹ muốn đảm bảo cho con cái về mặt tài chính khi có rủi ro về thu nhập xảy ra với bản thân họ. Việc thanh toán học phí có thể thực hiện trong khi bố mẹ đang có thu nhập đủ để trả cho các chi phí này. Khó khăn phát sinh nếu khoản thu nhập chính bị đánh mất hoặc bị giảm do cha hoặc mẹ bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc chết. Có nhiều cách để cha mẹ có thể đảm bảo thanh toán học phí cho con em trong các trường hợp khó khăn đó, chẳng hạn mua bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. Và nếu mua bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp thì hợp đồng bảo hiểm này có thể có hai dạng: +1) Hợp đồng bảo hiểm được kí dựa trên sinh mạng của đứa trẻ tức người được bảo hiểm là đứa trẻ +2) Hợp đồng được kí dựa trên sinh mạng của đứa trẻ và cha mẹ chúng tức người được bảo hiểm là đứa trẻ và cha hoặc mẹ chúng nhưng tất nhiên cha mẹ chúng vẫn là người chủ hợp đồng. Ta cấn lưu ý rằng trong hợp đồng bảo hiểm trẻ em người cha, người mẹ là chủ hợp đồng (người kí hợp đồng) nhưng cha mẹ không có quyền lợi bảo hiểm đối với sinh mạng con cái họ. Bất cứ bảo hiểm nhân thọ nào vì lợi ích trẻ em đều hoàn phí trong trường hợp chết sớm xảy ra. Điều này là phù hợp bởi khả năng tự bảo vệ của trẻ em hầu như không có và nếu vẫn thanh toán số tiền bảo hiểm khi trẻ còn nhỏ sẽ có hiện tượng tránh trục lợi từ bảo hiểm. Nếu cha mẹ chết trước khi con cái đến tuổi trưởng thành, hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục mà không phải đóng thêm phí cho đến ngày hợp đồng đáo hạn. Vào ngày kỷ niệm hợp đồng trước ngày sinh nhật lần thứ 18 sẽ có nhiều sự lựa chọn khác nhau cho đứa trẻ. Những sự lựa chọn này bao gồm việc thanh toán ngay toàn bộ số tiền hoặc đơn bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực trên cơ sở các loại bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp và không cần bằng chứng về sức khoẻ. Nếu đứa trẻ là nữ thì có quyền lựa chọn việc chuyển hợp đồng cho người chồng trước khi kết hôn. 2. Bảo hiểm cho trẻ em tại Việt Nam (sản phẩm bảo hiểm ASGD hay Phú tích luỹ, Phú tương lai) Theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài chính, khi bước vào triển khai loại hình BHNT Bảo Việt đã tiến hành triển khai 2 loại hình BH đó là BHNT có thời hạn 5, 10 năm và chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành. Sản phẩm “Chương trình bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành” là tên ban đầu, sau đó, theo quyết định số 362/1998/QĐ-BTC ngày 27/3/1998 sản phẩm bảo hiểm dành cho trẻ em của Bảo Việt được đổi thành sản phẩm An Sinh Giáo Dục. Ngoài ra, ngay sau khi thành lập, các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng đưa ra loại sản phẩm này nhưng có thể dưới tên khác (chẳng hạn sản phẩm Phú- Tích luỹ gíao dục hoặc Phú tương lai của công ty Prudential, An sinh gíao dục và An sinh gíao dục đặc biệt của công ty AIA). Về bản chất sản phẩm này thuộc nhóm bảo hiểm hỗn hợp, nghĩa là loại hình được bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống, yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen lẫn nhau. Vì thế nó rất phù hợp với đối tượng trẻ em, bởi lẽ khi mua sản phẩm bảo hiểm này các bậc phụ huynh hoàn toàn không mong muốn rủi ro xảy ra đối với con em mình mà chỉ mong muốn đó là một khoản tiết kiệm dành cho những kế hoạch trung hay dài hạn cho con cái sau này. Đối tượng được bảo hiểm ở đây là trẻ em cho nên tính tiết kiệm được đề cao hơn tính rủi ro. Trong sản phẩm bảo hiểm này có một số đặc tính sau: - Khi trẻ em được bảo hiểm đến tuổi trưởng thành năm 18 tuổi tức khi hợp đồng đáo hạn công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng. - Nếu trẻ em không may bị chết thì thông thường công ty BHNT sẽ hoàn phí. Đây là nguyên tắc quan trọng để tránh trục lợi từ tham gia bảo hiểm. - Nếu người chủ hợp đồng bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, thì hợp đồng bảo hiểm vẫn có thể có hiệu lực. - Ngoài số tiền bảo hiểm, tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo hiểm sẽ trả cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh phí của nghiệp vụ này gọi là bảo tức. -Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên người tham gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là giá trị giải ước. 3. Nội dung cơ bản của sản phẩm An sinh giáo dục 3.1.Một số khái niệm *Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm (giấy yêu cầu bảo hiểm): là mẫu đăng ký bảo hiểm do công ty bảo hiểm phát hành, người yêu cầu bảo hiểm phải điền đầy đủ và chính xác những thông tin liệt kê sẵn trên mẫu. Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm được xem là một phần của hợp đồng bảo hiểm. Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, điều khoản và các phụ lục là những bộ phận cơ bản của hợp đồng bảo hiểm. * Người tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm): là cá nhân cư trú tại Việt Nam trong độ tuổi từ 18 trở lên, là người kê khai hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, đồng thời là người kí hợp đồng và nộp phí bảo hiểm. *Người được bảo hiểm: Trẻ em cư trú tại Việt Nam thường trong độ tuổi từ 1 đến 13 có thể rộng hơn tuỳ công ty, là người mà công ty chấp nhận bảo hiểm sinh mạng theo hợp đồng bảo hiểm. Tên người được bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm *Người thụ hưởng: Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được chủ hợp đồng (bên mua bảo hiểm) chỉ định để nhận quyền lợi bảo hiểm theo quy định của hợp đồng bảo hiểm. *Tuổi bảo hiểm (tuổi bắt đầu bảo hiểm): tuổi dùng để tính phí bảo hiểm là tuổi của kỳ sinh nhật vừa qua. *Ngày kỷ niệm hợp đồng (ngày đáo niên): Là ngày kỷ niệm hàng năm của ngày hợp đồng bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực trong thời hạn bảo hiểm. *Năm hợp đồng: là một năm tính từ ngày hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực hoặc các năm tiếp theo tính từ ngày đáo niên của hợp đồng. *Tai nạn: trong BHNT quy ước “Tai nạn là bất cứ thiệt hại thân thể nào do hậu quả duy nhất và trực tiếp của một lực mạnh, bất ngờ từ bên ngoài tác động lên thân thể người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm, loại trừ ốm đau hoặc bệnh tật hoặc bất kì trạng thái nào xảy ra tự nhiên hoặc quá trình thoái hoá”. Như vậy những thương tật xảy ra do ngộ độc thức ăn, cảm, trúng gió bất ngờ đối với người bảo hiểm nhưng không được coi là tai nạn bảo hiểm. *Thương tật toàn bộ vĩnh viễn: là khi người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị mất hoàn toàn hoặc không thể phục hồi được chức năng của: - Hai tay hoặc hai chân hoặc . . . - Một tay, một chân hoặc hai mắt hoặc . . . - Một tay, một mắt hoặc . . . - Một chân, một mắt. Hay có một cách định nghĩa khác:TTTBVV xảy ra vì lý do bệnh tật hay tổn thương cơ thể, người thanh toán phí bảo hiểm không thể tham gia vào bất cứ nghề nào hoặc bất cứ việc gì để có thu nhập. Từ đây cho * Giá trị giải ước (hay giá trị hoàn lại): Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm có thể nhận lại khi yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực. Hợp đồng bảo hiểm có giá trị giải ước khi có hiệu lực từ 2 năm trở lên. Giá trị giải ước ứng với mỗi năm hợp đồng vào ngày kỷ niệm của hợp đồng bảo hiểm (ngày sinh nhật, ngày hợp đồng có hiệu lực).Giá trị giải ước luôn nhỏ hơn tổng số phí mà người tham gia bảo hiểm đã đóng góp với công ty bảo hiểm, nó thường chiếm khoảng 70 đến 80 % số phí bảo hiểm đã đóng, vì người tham gia bảo hiểm phải thanh toán cho công ty những khoản chi phí đã thực hiện hợp đồng như chi phí phát hành và quản lí hợp đồng, chi phí khai thác... Tỷ lệ giải ước trên số phí đã đóng càng cao thì càng thu hút, hấp dẫn đối với khách hàng và do đó cũng là nhân tố tác động đến quyết định tham gia BHNT hay không. *Số tiền bảo hiểm giảm (duy trì hợp đồng với số tiền bảo hiểm giảm): Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên, người tham gia bảo hiểm có thể ngừng đóng phí và tiếp tục duy trì hợp đồng bảo hiểm này với số tiền bảo hiểm mới gọi là số tiền bảo hiểm giảm. Điều này giúp người tham gia bảo hiểm vẫn tiếp tục tham gia BHNT trong những lúc gặp khó khăn, đây là sự linh động của BHNT ứng với mỗi điều kiện khác nhau. *Bảo tức: Là lợi tức (khoản lãi chia) được thông báo hàng năm và khách hàng sẽ được nhận vào ngày kỷ niệm hợp đồng hoặc khi xảy ra sự kiện bảo hiểm hoặc khi đáo hạn hợp đồng. *Ngày cấp giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ: Là ngày công ty bảo hiểm nhân thọ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ, được ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ và sau khi đã nộp phí bảo hiểm đầu tiện. *Phạm vi bảo hiểm: Hiện nay ở Việt Nam chưa có một quy tắc chung thống nhất áp dụng cho sản phẩm ASGD mà từng công ty soạn thảo ra quy tắc của riêng của công ty đó rồi trình lên Bộ tài chính duyệt và nếu được Bộ tài chính duyệt công ty đó mới được phép sử dụng. Chẳng hạn, quy tắc và điều khoản bảo hiểm an sinh gíao dục của Bảo Việt được sử dụng theo bản “quy tắc và điều khoản” được Bộ Tài Chính phê duyệt kèm quyết định số 362/1998/QĐ-BTC ngày 27/3/1998 và kèm công văn số 2755 TC/TCNH ngày 28/3/201, còn Prudential theo “quy tắc và điều khoản” được Bộ Tài Chính phê chuẩn theo quyết định số 6359TC/TCNH ngày 16/12/1999, theo quyết định phê chuẩn sửa đổi bổ sung số 5319TC/TCNH ngày 20/12/2000 và quyết định phê chuẩn sửa đổi bổ sung số 2421 TC/TCNH ngày 20/3/2002 và Manulife theo “quy tắc và điều khoản” được Bộ tài chính phê duyệt kèm công văn số 4720TC/TCNH ngày 20/9/1999… Tuy nhiên phạm vi bảo hiểm của các công ty này cũng có những nét tương đồng sau: + Trẻ em được bảo hiểm sống đến đáo hạn hợp đồng bảo hiểm. + Trẻ em được bảo hiểm chết trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng thì các công ty sẽ hoàn phí. Ngoại lệ trên là Bảo Minh- CMG và Prudential, và AIA. Prudential, AIA quy định nếu trẻ em chết trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng vẫn được bảo hiểm, còn Bảo Minh thì quy định nếu mua sản phẩm An sinh thanh toán 1 lần và nếu trẻ chết khi đã hơn 10 tuổi thì vẫn bảo hiểm điều này được coi là cá biệt, đặc biệt ở Prudential, AIA nó tạo nên sức hấp dẫn hơn so với các công ty khác. Cũng riêng đối với Bảo Việt và Prudential, phạm vi bảo hiểm đối với đứa trẻ còn được mở rộng bao gồm cả bảo hiểm đối với rủi ro thương tật toàn bộ vĩnh viễn do bị tai nạn và mất 2 trong 6 bộ phận quy định ở phần trên. Như mục 1.III ở trên đã trình bày, hợp đồng bảo hiểm trẻ em có thể được kí dựa trên sinh mạng của đứa trẻ hoặc được kí dựa trên sinh mạng cuả đứa trẻ và cha mẹ chúng. ở Bảo Việt, Manulife hợp đồng bảo hiểm được kí dựa trên sinh mạng của cả đứa trẻ và cha hoặc mẹ chúng. Vì vậy phạm vi bảo hiểm còn mở rộng đối với người được bảo hiểm là chủ hợp đồng hay còn gọi là người thanh toán phí bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm. Cụ thể, nếu người chủ hợp đồng bị TTTBVV hoặc bị chết thì hợp đồng vẫn có hiệu lực mà không phải đóng phí. Tuy nhiên quy định về TTTBVV do tai nạn và chết ở 2 công ty này khác nhau. Cụ thể quy định về TTTBVV do tai nạn của Bảo Việt giồng ở phần trên còn của Manulife TTTBVV do tai nạn ở công ty này được quy định là vì lý do bệnh tật hay tổn thương cơ thể, người thanh toán phí bảo hiểm không thể tham gia vào bất cứ nghề nào hoặc bất cứ việc gì để có thu nhập. Từ đây cho thấy, quy định về TTTBVV của Manulife khắt khe hơn Bảo Việt. Nói cách khác phạm vi bảo hiểm của Manulife hẹp hơn Bảo Việt về TTTBVV, nhưng quy đối với phạm vi bảo hiểm chết thì ở Bảo Việt Phải do tai nạn hoặc sau khi hợp đồng có hiệu lực 12 tháng nhưng ở Manulife không có quy định cụ thể gì. Đối với AIA, Prudential, Bảo Minh-CMG, chủ hợp đồng chỉ được hưởng phạm vi bảo hiểm trên nếu họ mua thêm sản phẩm bổ sung. Và cách quy định của họ về phạm vi được bảo hiểm cũng gần tương tự Bảo Việt, duy AIA quy định TTTBVV ngoài các trường hợp trên còn gồm tình trạng mất khả năng hoàn toàn và liên tục của người được baỏ hiểm do bị thương tổn hay đau ốm nên không thể thực hiện hoặc tham gia vào bất kỳ một công việc có ích, nghề nghiệp hay hoạt động kinh doanh nào mà người đó có trình độ hoặc phù hợp một cách hợp lý do có kiến thức, được đào tạo hay có kinh nghiệm nhưng tàn tật này phải liên tục trong thời gian ít nhất 06 tháng kể từ ngày bắt đầu bị tàn tật trước khi công ty đánh gía. Bên cạnh những rủi ro được bảo hiểm, trong ASGD mọi công ty đều quy định riêng về rủi ro loại trừ. Việc đưa ra các rủi ro loại trừ nhằm hạn chế phạm vi trách nhiệm của nhà bảo hiểm, mặt khác gián tiếp giáo dục mọi người về ý thức tổ chức kỉ luật, tôn trọng pháp luật, có ý thức đề phòng và hạn chế rủi ro. Sau đây là những nét chung về rủi ro loại trừ đối với người được bảo hiểm: Rủi ro loại trừ đối với người được bảo hiểm là trẻ em: * Prudential, AIA, Bảo Minh –CMG đều loại trừ bảo hiểm đối với trường hợp trẻ bị chết do hậu quả trực tiếp hay gían tiếp của: Hành động tự tử trong vòng 24 tháng kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực; Nhiễm AIDS; Các hành vi phạm tội của người sẽ nhận quyền lợi bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm. * Prudential, Bảo Việt đều không bảo hiểm nếu người được bảo hiểm bị TTTBVV do : - Hành động cố ý của người được bảo hiểm và/hoặc người tham gia bảo hiểm và/hoặc người thụ hưởng. - Hành động vi phạm phạm tội của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm - Người được bảo hiểm tham gia các hoạt động hàng không trừ khi với tư cách là hành khách. Mọi công ty không bảo hiểm đối với chủ hợp đồng bị TTTBVV hoặc bị chết trong các trường hợp sau: Hành động tự tử trong vòng 24 tháng kể tư khi hợp đồng có hiệu lực Nhiễm HIV Hành vi phạm tội của chủ hợp đồng Ngoài ra tuỳ từng công ty cụ thể có thể có thêm các điều khoản rủi ro loại trừ khác đối với chủ hợp đồng. Chẳng hạn Bảo Việt, Manulife không bảo hiểm trong trường hợp có chiến tranh, bạo động. 3.2. Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm a. Trách nhiệm của các bên. * Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm Kể từ khi kí hợp đồng bảo hiểm, các công ty bảo hiểm đều yêu cầu chủ hợp đồng thực hiện các trách nhiệm sau: -Thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng. - Khai báo đúng và đầy đủ các rủi ro khi kí hợp đồng: như kê khai trung thực về tình trạng sức khoẻ, về khả khả năng tài chính... - Đóng phí bảo hiểm: đây là số tiền mà họ phải đóng cho công ty bảo hiểm, theo quy định nộp phí của các công ty khoản phí đóng đầu tiên và ngày công ty chấp nhận yêu cầu bảo hiểm ngày nào xảy ra sau sẽ là cơ sở thời điểm bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng. - Trách nhiệm khai báo, thông báo tổn thất: khi có sự cố rủi ro xảy ra, người tham gia bảo hiểm phải khai báo cụ thể tình hình xảy ra sự cố tổn thất, tình trạng sức khoẻ của người được bảo hiểm cho công ty bảo hiểm biết. Bên cạnh đó phải cung cấp đầy đủ hồ sơ gồm có các bằng chứng cho công ty một cách trung thực, chính xác để các công ty căn cứ trả tiền bảo hiểm. * Trách nhiệm chung của các công ty bảo hiểm - Thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng bảo hiểm. - Đề phòng, hạn chế tổn thất xảy ra trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực. - Thu phí và có trách nhiệm nộp cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền gọi là thuế như đối với các doanh nghiệp khác. - Bảo toàn đồng vốn và chấp hành đúng pháp luật. b . Quyền lợi bảo hiểm *Đối với người được bảo hiểm b1) Nếu người được bảo hiểm sống đến khi hợp đồng bảo hiểm đáo hạn, các công ty BHNT sẽ trả cho người thụ hưởng số tiền bảo hiểm đã cam kết và được ghi trong hợp đồng bảo hiểm. b2) Trường hợp ngưòi được bảo hiểm bị chết trước ngày hợp đồng bảo hiểm đáo hạn, các công ty Bảo Việt, Manulife sẽ hoàn trả số phí đã nộp cộng với lãi tới thời điểm đó vì khi người tham gia BHNT kí kết hợp đồng với mục đích là đảm bảo cho con em mình tới tuổi trưởng thành. Mà khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bị chết thì ý nghĩa của sản phẩm này không còn nữa mặt khác để tránh trục lợi từ bảo hiểm thì việc các công ty chỉ hoàn trả số phí đã nộp là hoàn toàn hợp lý. Nhưng quy định về lãi của các công ty này là khác nhau: Manulife: lãi kép 5%, Bảo Việt: tuỳ theo hoạt động kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, cá biệt và ngoại lệ so với thông lệ thế giới, trong trường hợp này để thu hút khách hàng, công ty Prudential vẫn cam kết sẽ trả số tiền bảo hiểm quy định trong giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ nhưng với điều kiện là rủi ro chết phải nằm trong phạm vi được bảohiểm và để hạn chế trục lợi công ty này chỉ thanh toán số tiền bảo hiểm theo tỷ lệ sau: Tuổi vào thời điểm bị chết Quyền lợi bảo hiểm được trả Dưới 1 tuổi Hoàn lại toàn bộ phí bảo hiểm đã nộp Dưới 2 tuổi 25% (STBH+Bảo tức tích luỹ) Dưới 3 tuổi 50% (STBH+Bảo tức tích luỹ) Dưới 4 tuổi 75% (STBH+Bảo tức tích luỹ) Từ 4 tuổi trở lên 100% (STBH+Bảo tức tích luỹ) AIA cũng đưa ra điều khoản hấp dẫn này. Đó là nếu người được bảo hiểm tử vong trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, công ty sẽ bồi thường số tiền bảo hiểm năm hiện tại, nếu là trẻ em dưới 4 tuổi thì bồi thường theo tỷ lệ sau: Tuổi người được BH lúc tử vong Tỷ lệ % của số tiền bảo hiểm năm hiện tại của hợp đồng 0 tuổi 20 1 tuổi 40% (STBH+Bảo tức tích luỹ) 2 tuổi 60% (STBH+Bảo tức tích luỹ) 3 tuổi 80% (STBH+Bảo tức tích luỹ) Từ 4 tuổi trở lên 100% (STBH+Bảo tức tích luỹ) Còn Bảo Minh – CMG quy định nếu người tham gia bảo hiểm chọn loại hình thanh toán 1 lần và nếu trẻ chết khi đã trên 10 tuổi thì công ty này thanh toán toàn bộ số tiền bảo hiểm nếu rủi ro chết thuộc phạm vi được bảohiểm. Quy định này có phần khắt khe hơn Prudential. b3) Như phần phạm vi bảo hiểm đã đề cập các công ty khác không bảo hiểm nếu người được bảo hiểm bị TTTBVV có nghĩa là hợp đồng bảo hiểm trẻ em vẫn duy trì bình thường nêu đứa trẻ bị TTTBVV mà không có yêu cầu chấm dứt hay thay đổi hợp đồng từ phía cha mẹ đứa trẻ còn Bảo Việt và Prudential quy định sẽ thanh toán khi TTTBVV xảy ra đối với trẻ. Nhưng Bảo Việt cam kết trợ cấp 1/4 STBH hàng năm cho người được bảo hiểm cho đến khi hợp đồng đáo hạn. Còn Prudential lại thanh toán STBH theo tỷ lệ sau: Tuổi vào thời điểm bị TTTBVV Quyền lợi bảo hiểm được trả Dưới 1 tuổi Hoàn lại toàn bộ phí bảo hiểm đã nộp Dưới 2 tuổi 25% (STBH+Bảo tức tích luỹ) Dưới 3 tuổi 50% (STBH+Bảo tức tích luỹ) Dưới 4 tuổi 75% (STBH+Bảo tức tích luỹ) Từ 4 tuổi trở lên 100% (STBH+Bảo tức tích luỹ) Và (STBH+Bảo tức tích luỹ) được chi trả theo tỷ lệ trên sẽ được Prudential thanh toán làm 10 lần bằng nhau trong 10 năm. Về quy định này, rõ ràng là của Bảo Việt có lợi cho người tham gia bảo hiểm hơn. *Đối với người tham gia bảo hiểm Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị chết hoặc bị TTTBVV trong phạm vi được bảo hiểm thì tại Bảo Việt, Manulife hợp đồng sẽ tự động có hiệu lực mà không phải đóng phí, mọi quyền lợi của người được bảo hiểm vẫn được duy trì. Còn tại các công ty còn lại hợp đồng chỉ tự động có hiệu lực khi người tham gia bảo hiểm mua sản phẩm bổ xung cho phép miễn thu phí ở tại công ty đó. 3.3.Bảo tức Ngoài các quyền lợi bảo hiểm nói trên mục 3.2.b và khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên, các công ty bảo hiểm còn có thể trả một khoản tiền lãi từ kết quả đầu tư phí BHNT của công ty cho người tham gia bảo hiểm. Nhưng quy định về trả lãi của mỗi công ty là khác nhau. AIA cam kết số tiền bảo hiểm tăng 2% sau 2 năm, còn các công ty còn lại trả lãi theo hoạt động kinh doanh của công ty 3.4. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm a. Phí bảo hiểm Cũng như tất cả các loại hình bảo hiểm, phí bảo hiểm là cơ sở để xây dựng quĩ bảo hiểm để chi trả cho người được bảo hiểm và các khoản phụ phí. *Khái niệm Phí bảo hiểm là số tiền cần phải thu của công ty bảo hiểm để công ty bảo hiểm đảm bảo trách nhiệm của mình khi có các sự kiện bảo hiểm được xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm (chủ hợp đồng, người được bảo hiểm) như: chết, hết hạn hợp đồng, thương tật và đảm bảo cho việc hoạt động của công ty. Đây cũng là sự thể hiện trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm với công ty bảo hiểm nhằm nhận được sự bảo đảm trước những rủi ro đã được nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm. Hay nói cách khác, phí bảo hiểm là cái gía của việc chuyển giao rủi ro từ người tham gia bảo hiểm sang công ty bảo hiểm. *Các yếu tố ảnh hưởng Có rất nhiều yếu tố tác động lên phí nhưng cơ bản vẫn là: Tuổi thọ của người được bảo hiểm, cụ thể là dựa vào bảng tỉ lệ tử vong (bảng dưới) có thể tính được các hàm nhân thọ ở các độ tuổi vào các khoảng thời gian khác nhau. Cũng cần phải chú ý rằng tuổi thọ của người được bảo hiểm ở các nước khác nhau là khác nhau do chịu tác động của môi trường tự nhiên và môi trường kinh tế xã hội là khác nhau. Bảng tỉ lệ tử vong Tuổi (x) Số người sống (lx) Số người chết (dx) Tỷ lệ chết (qx) 0 10 20 . . . 100000 98509 96650 708 119 173 0,00708 0,0012 0,0018 Nguồn: Chương trình huấn luyện BHNT–Bộ phận huấn luyện đại lý 12/2000 của Manulife - Lãi suất kỹ thuật: là lãi suất tiền gửi tính trong cơ sở tính phí. Công ty bảo hiểm có trách nhiệm đầu tư các khoản phí thu về để làm giảm phí thu từ người tham gia bảo hiểm nhằm kích thích số người tham gia bảo hiểm. Lãi suất tiền gửi tính trong cơ sở tính phí thường được xác định dựa vào lãi suất thực tế và thường nhỏ hơn lãi suất thực tế.Trong điều kiện đầu tư kém hiệu quả và không chắc chắn, không thể định phí với lãi suất quá cao vì công ty bảo hiểm khó có thể thực hiện được trên thị trường bảo hiểm. Như vậy một lần nữa, môi trường kinh tế nói chung và môi trường kinh doanh nói riêng của nơi tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm này lại có tác động quan trọng lên cách xác định phí của nghiệp vụ bảo hiểm này. - Chi phí khai thác chi cho tuyên truyền, quảng cáo, môi giới, chi cho đại lý… - Chi phí quản lý hợp đồng trong thời hạn hợp đồng đang thu phí, kể cả chi phí thu phí BH ... - Chi phí quản lý liên quan đến các khoản chi trả bồi thường. Ngoài ra, còn có các nhân tố khác tác động như thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, cách thức nộp phí, tỉ lệ huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn cộng với các yếu tố tác động gían tiếp khác rất khó lượng hoá trong quá trình tính phí chẳng hạn như tình hình kinh tế chính trị xã hội, tình hình thị trường hiện tại và tương lai của công ty , thuế và một số vấn đề liên quan đến hệ thống quản lý vĩ mô của chính phủ…Đối với sản phẩm trọn gói như của Bảo Việt sinh mạng của người mua bảo hiểm cũng rất có tác động khi tính phí. *Nguyên tắc tính phí Mỗi công ty đều có cách tính phí bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp khác nhau chẳng hạn như có cách thống kê về tỷ lệ tử vong tại khu vực tiến hành kinh doanh bảo hiểm khác nhau, hoặc biểu thức tính tác động của các yếu tố khác nhau nhưng dù tính bằng cách nào thì các công ty đều phải đảm bảo nguyên tắc dựa trên biểu thức cân bằng giữa trách nhiệm của công ty bảo hiểm và trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm tính theo giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng. Hay phí bảo hiểm phải được xác định sao cho tất cả các khoản thu trong tương lai phải đủ để trang trải các khoản chi phí và các khoản tiền bảo hiểm, đồng thời mang lại lợi nhuận hợp lý cho công ty để công ty có thể tồn tại. Vì vậy phí bảo hiểm ở mọi công ty đều được tính toán dựa trên những cơ sở khoa học nhất định mà công ty đó chọn thường là phải dựa trên luật số lớn, bảng tỷ lệ tử vong trong thống kê, quy luật về lạm phát của đồng tiền trong các nền kinh tế … và dựa vào một số giả định thống nhất và hợp lý (giả định về tỷ lệ tử vong giữa các ngành nghề, cácvùng địa lý, địa phương; giả định về tỷ lệ lãi suất giữa các loại hình đầu tư, tỷ trọng lãi suất trong từng loại hình đầu tư; giả định về chi phí, về tỷ lệ hợp đồng bị huỷ bỏ, về thời hạn thanh toán…). Ngoài ra khi tính phí bảo hiểm các công ty chú ý sao cho bảo đảm yếu tố cạnh tranh, yếu tố này phụ thuộc vào thị trường hiện tại cũng như thị trường tương lai của công ty, thuế và một số vấn đề liên quan đến hệ thống quản lý vĩ mô của chính phủ. Như trên đã đề cập, mỗi công ty có những cách xác định phí riêng và đó bí mật của từng công ty, người mua bảo hiểm khó có thể so sánh được gía phí của công ty nào rẻ hơn, công ty nào đắt hơn, vì ngoài việc phạm vi bảo hiểm của các công ty bảo hiểm khác nhau các công ty bảo hiểm chỉ xác định phí mà khách hàng phải nộp khi khách hàng đã quyết định mua bảo hiểm rồi và viết yêu cầu bảo hiểm với STBH là cụ thể cùng với phương thức thanh toán phí cụ thể. Sau đây là cách tính phí của một số công ty: +1) AIA: Nhưng AIA chỉ đưa ra bảng hệ số phí bảo hiểm. Bảng hệ số phí bảo hiểm là bảng trong đó xác định rõ tương ứng với tuổi của người được bảo hiểm là hệ số phí bảo hiểm. Và từ đó, xác định phí nộp theo kỳ của khách hàng là bao nhiêu bằng cách lấy hệ số phí bảo hiểm nhân với số tiền bảo hiểm. Fnăm = (Mệnh gía gốc x Hệ số tuổi người được bảo hiểm)/1000 F6tháng = Fnăm x 0,51 Fquý = Fnăm x 0,26 Với mệnh gía gốc là số tiền bảo hiểm và hệ số tuổi người được bảo hiểm được xác định từ bảng hệ số phí bảo hiểm và F là số phí mà khách hàng phải nộp cho công ty theo kỳ. +2) Prudential: Cách xác định phí của Prudential dựa theo loại sản phẩm, thời hạn hợp đồng, giới tính, tuổi của người được bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và định kỳ đóng phí bảo hiểm. Với phí bảo hiểm được tính như sau: Fnăm = (Số tiền bảo hiểm * hệ số phí bảo hiểm)/1000 Fnửa năm = Fnăm *0,522 Fquý = Fnăm * 0,268 Ftháng = Fnăm * 0,092 Với: hệ số phí bảo hiểm = phí bảo hiểm cho 1000 đồng số tiền bảo hiểm ( được xác định trong biểu phí) F là số phí phải nộp theo kỳ +3) Bảo Việt: Ftháng = (Số tiền bảo hiểm * Hệ số phí bảo hiểm *Tỷ lệ chiết khấu)/1000000 Với: - Hệ số phí bảo hiểm = phí bảo hiểm cho 1000000 đồng số tiền bảo hiểm - Tỷ lệ chiết khấu được xác định như sau: >) Với số tiền bảo hiểm trong khoảng từ [1000000, 3000000] thì tỷ lệ chiết khấu = 1 >)Với STBH trong khoảng từ [31000000, 40000000] thì tỷ lệ chiết khấu = 0,98 >) Với STBH trong khoảng từ 41 triệu trở lên thì tỷ lệ chiết khấu = 0,98 Fquý = Ftháng *2,97 Fnửa năm = Ftháng * 5,88 Fnăm = Ftháng * 11,32 +)Manulife: F = (STBH * Hệ số tính phí)/năm *Quy định nộp phí Các công ty đều quy định phí bảo hiểm có thể nộp định kỳ theo tháng, quý, nửa năm hoặc một năm. Nhưng đối với từng hợp đồng thì chỉ được chọn hoặc theo kỳ tháng hoặc quý hoặc nửa năm hoặc 1 năm và hợp đồng sẽ ghi cụ thể lựa chọn này, người tham gia phải chấp hành theo. Ngày định kỳ nộp phí và số phí nộp mỗi kỳ được quy định trong từng hợp đồng cụ thể của các công ty và đối với các công ty nó chính là ngày thu phí bảo hiểm đầu tiên và ngày công ty chấp nhận hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Các công ty đều quy định trong hợp đồng rằng người tham gia bảo hiểm phải nộp phí đầy đủ và đúng hạn. Các công ty đều quy định lần đóng đầu tiên là căn cứ xác định hiệu lực của hợp đồng, trừ AIA đó là ngày người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm đầu tiên và hoàn tất hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Nếu các lần đóng phí sau đó người tham gia không tuân theo quy định về thời hạn nộp phí thì người tham gia bảo hiểm vẫn được phép gia hạn các lần nộp phí bảo hiểm tiếp theo trong thời hạn không quá 60 ngày kể từ ngày đến kỳ nộp phí đối với AIA ,Prudential, Bảo Việt, Bảo Minh-CMG còn Manulife quy định là 30 ngày. Nếu quá thời hạn nói trên nếu không có thông báo yêu cầu huỷ hợp đồng các công ty BHNT đều sẽ tự động điều chỉnh giảm số tiền bảo hiểm nếu hợp đồng đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên hoặc các các công ty sẽ đơn phương huỷ bỏ hợp đồng nếu hợp đồng chưa có hiệu lực đủ 2 năm. b. Số tiền bảo hiểm Đây là hạn mức trách nhiệm của nhà bảo hiểm đối với người mua bảo hiểm . Trong BHNT (cụ thể là bảo hiểm ASGD) mọi công ty đều đưa ra phí bảo hiểm tối thiểu hoặc số tiền bảo hiểm tối thiểu (Prudential STBH tối thiểu: 1 triệu đồng; Bảo Việt STBH tối thiểu: 5 triệu đồng, AIA phí BH tối thiểu theo năm: 695000 đồng, theo nửa năm: 355000đ, theo quý: 181000đ; Bảo Minh CMG: Phí BH tối thiểu theo năm: 1 triệu đ, nửa năm: 600000đ, hàng quý: 350000đ, hàng tháng: 150000đ; Manulife phí BH tối thiểu 1400000đ, cho mỗi năm, 700000 đ cho mỗi quý và mỗi nửa năm, 350000đ cho mỗi tháng. Bảo Minh-CMG, Ma._.đảm bảo tài chính chắc chắn cho con em khi người chủ hợp đồng gặp rủi ro và để có món tiền lớn đáp ứng nhu cầu trong tương lai của con em. d. Đưa ra một số biện pháp khuyến khích Bảo hiểm nhân thọ và ASGD có vai trò to lớn trong việc khắc phục rủi ro, ổn định cuộc sống, tạo công ăn việc làm cho nhiều người và là kênh huy động vốn lớn cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Vì vậy, nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ thúc đẩy ngành BHNT nói chung & ASGD nói riêng phát triển. Trước hết, đầu tư là một lĩnh vực hoạt động có tầm quan trọng sống còn đối với việc duy trì khả năng thanh toán theo hợp đồng ASGD của công ty bảo hiểm, bởi vì chắc chắn rằng dù người được bảo hiểm chết trước khi hợp đồng đáo hạn hay sống cho tới khi hợp đồng đáo hạn công ty bảo hiểm đều phải thanh toán một số tiền nhất định cho người thụ hưởng. Cho nên trong chính sách về đầu tư của nhà nước cần ưu tiên các doanh nghiệp BHNT chẳng hạn, đầu tư vào các công trình dự án an toàn vốn , lợi tức đầu tư cao để doanh nghiệp bảo hiểm có thể bảo toàn vốn và có lãi khi kinh doanh BHNT. Ngoài ra, để tạo cho các DNBH một công cụ nữa trong việc thu hút khách hàng, nhà nước nên có chính sách ưu đãi thuế thu nhập đối với những người tham gia BHNT (giống như ở các nước khác). Với chính sách ưu đãi về thuế đối với người tham gia BHNT, nhà nước có thể thực hiện chính sách khấu trừ phần phí BHNT nói chung và phần phí ASGD nói riêng mà các cá nhân đóng ra khỏi thu nhập chịu thuế, miễn thuế (một phần hoặc toàn bộ) đối với số tiền BH mà người tham gia BH được nhận, cho phép tính (một phần hoặc toàn bộ) số phí BH mà doanh nghiệp đóng BHNT vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Bằng cách này sẽ thu hút được rất nhiều người tham gia BH, đặc biệt là khách hàng có thu nhập cao bởi vì thuế thu nhập mà khách hàng phải đóng có thể sẽ rất cao nếu thu nhập của họ quá cao so với mức bình thường. Với ưu tiên này mà người bảo hiểm sẽ quyết định tham gia BHNT thay cho hình thức tiết kiệm, như vậy đã tạo được lợi thế cho DNBH khi cạnh tranh liên ngành xảy ra. Thêm vào đó, để có thể phát triển nghề đại lý như một nghề chuyên nghiệp khi xác định thuế thu nhập cho đại lý cũng cần có cách tính phù hợp bởi để đạt được hợp đồng đại lý BHNT phải bỏ ra khá nhiều chi phí như chi phí đi lại, tiếp thị...(mỗi đại lý có thể coi là một “doanh nghiệp”). 2. Các giải pháp về phía các công ty BHNT Tăng cường tuyên truyền quảng cáo Trong nền kinh tế thị trường, quảng cáo là hoạt động không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp. Quảng cáo nhằm tạo lập và củng cố sự thiện cảm, lòng tin, uy tín, sự gắn bó của khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm năng đối với doanh nghịêp, phân biệt doanh nghiệp với các doanh nghiệp cạnh tranh, giúp thông tin cho công chúng về sản phẩm, so sánh và phân biệt sản0 phẩm của doanh nghiệp với các sản phẩm cạnh tranh, xây dựng nhãn hiệu hàng hoá cũng như hỗ trợ khách hàng. Do vậy, quảng cáo có vai trò hết sức quan trọng trong việc xúc tiến thương mại. Điều dễ thấy là, một sản phẩm dù được thiết kế hoàn hảo đến mấy nhưng nếu khách hàng không biết đến sự tồn tại của nó thì mãi mãi chỉ là sản phẩm tồn kho, không thể trở thành thương phẩm. ASGD là một sản phẩm khá phức tạp và có tính trừu tượng cao, người mua không thể hình dung hết về sản phẩm. Thêm vào đó, nhu cầu về sản phẩm này là nhu cầu thụ động, khách hàng ít khi chủ động tìm doanh nghiệp để mua ASGD mà thường chỉ mua sau khi được người bảo hiểm thuyết phục, vận động. Vì vậy, DNBH càng cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo. Có rất nhiều cách để quảngcáo ASGD. Trước hết phải phổ biến đối với mọi ngành, DNBH có thể quảng cáo về sản phẩm ASGD trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, tivi đặc biệt là Internet. Thứ hai, các công ty có thể tìm sự thừa nhận của công chúng bằng cách tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, nhất là các hoạt động có khả năng thu hút sự quan tâm lớn của công chúng, dễ chinh phục lòng người như tài trợ thể thao, tham gia giữ gìn môi trường. Tham gia các hoạt động từ thiện.. tài trợ các chương trình hoạt động của trẻ em như vẽ, cắm trại, hỗ trợ quỹ học bổng cho trẻ em nghèo vượt khó.. là những biện pháp có ảnh hưởng lớn đến việc quảng bá sản phẩm ASGD. Thứ ba, để khách hàng đặt trọn niềm tin vào công ty, công ty cần gửi thư trực tiếp cho khách hàng cảm ơn khách hàng đã tham gia sản phẩm ASGD để từ đó mối quan hệ giữa công ty và khách hàng ngày một gần gũi. Bên cạnh đó, ngoài việc tư vấn trực tiếp công ty có thể ghi âm, ghi hình về sản phẩm ASGD cũng như lợi ích của ASGD gửi cho khách hàng tiềm năng của mình để khách hàng có thời gian xem xét, cân nhắc. Cuối cùng, các công ty có thể tổ chức các buổi họp giới thiệu về sản phẩm của ASGD nhằm giúp người dân hiểu được sâu sắc hơn tác dụng của nó, giải đáp các thắc mắc của khách hàng. Ngoài các biện pháp trên, công ty có thể có rất nhiều biện pháp khác như in các tờ rơi quảng cáo dưới nhiều hình thức, tổ chức các buổi trả tiền bảo hiểm hàng loạt...để xúc tiến sản phẩm ASGD. b. Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác Hiện nay, sản phẩm ASGD được phân phối qua 2 kênh: kênh trực tiếp và kênh gián tiếp. Tuy nhiên, số hợp đồng được ký kết thông qua kênh trực tiếp chiếm tỷ lệ nhỏ mà chủ yếu là qua kênh trung gian gồm: đại lý BHNT, môi giới bảo hiểm... Trong đó, hình thức có hiệu quả nhất hiện nay là đại lý BHNT. Bởi ASGD đối với khách hàng không phải là mối quan tâm thường trực, do vậy để thông tin đến được với khách hàng và để nắm bắt được nhu cầu thì cần thiết phải có sự tiếp cận và tư vấn mà lượng khách hàng cần tiếp cận là rất đông nên đại lý BHNT tỏ ra có ưu thế trong việc giải quyết tư vấn, trao đổi thông tin. Vì đại lý BHNT có nhiều thế mạnh như vậy, các công ty cần mở rộng mạng lưới đại lý thông qua tăng số lượng cán bộ đại lý khai thác và phân bố đều các phòng khai thác ra các tỉnh thành trong cả nước. Nhờ đó có thể đi sâu được vào các thị trường tiềm năng như ở các tỉnh thành phố có số lượng lớn dân cư làm nghề buôn bán và lao động tự do còn chưa biết về ASGD nếu mở rộng vào thị trường này sẽ đem lại kết quả khai thác khả quan. c.Đa dạng hoá các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác Biện pháp để khai thác ASGD hiện nay là qua các đại lý BHNT nhưng còn một kênh mà hiện nay các nước phát triển trên thế giới đang áp dụng để hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh BHNT& ASGD đem lại kết quả cao mà ở Việt Nam chưa khai thác mạnh đó là thiết lập hệ thống ngân hàng bảo hiểm (chẳng hạn ở Tây Ban Nha trong năn 2000, hoạt động ngân hàng bảo hiểm chiếm khoảng 60% phí BHNT).Theo kênh phân phối này thì các công ty bảo hiểm ký hợp đồng thoả thuận với các ngân hàng trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, các ngân hàng có nhiệm vụ tìm kiếm khách hàng tiềm năng và ký hợp đồng bảo hiểm, còn các công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả hoa hồng trên tổng doanh thu phí bảo hiểm khai thác được. Kênh phân phối này có lợi thế ở chỗ tận dụng được đội ngũ nhân viên của ngân hàng, trụ sở giao dịch khang trang to lớn, chi phí hoạt động thấp, tận dụng được các nguồn thông tin và khách hàng sẵn có, các khách hàng ở đây thường là người có thu nhập cao trong xã hội, có khả năng tài chính để ký kết hợp đồng có giá trị lớn. Hiện nay, một số công ty bắt đầu thiết lập quan hệ đại lý với một số ngân hàng nhưng số lượng NH còn ít, các công ty cần đẩy mạnh hơn nữa trong việc khai thác kênh này. Bên cạnh đó, một biện pháp khai thác tương đối phổ biến đối với các loại sản phẩm thông thường mà chưa được áp dụng rộng rãi trong nghiệp vụ ASGD đó là các hình thức khuyến mãi, tặng quà cho khách hàng. Hiện nay mới chỉ có Manulife tặng món quà tốt nghiệp cho khách hàng còn các công ty khác thì chưa. Khuyến mại có thể được tổ chức dưới nhiều hình thức như tặng quà cho người tham gia bảo hiểm, giảm phí cho người tham gia hợp đồng có số tiền bảo hiểm lớn, tặng quà cho khách hàng giới thiệu được nhiều khách hàng mới tham gia bảo hiểm...Đây là những hoạt động cần thiết và trong thực tế đã làm nên thành công cho nhiều doanh nghiệp ngoài ngành. Để xúc tiến thương mại đối với ASGD, bên cạnh việc đa dạng hoá các biện pháp khai thác, các doanh nghiệp cần ngày càng nâng cao chất lượng khai thác, giảm đến mức tối đa tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng. Để nâng cao chất lượng khai thác sản phẩm ASGD cần rút kinh nghiệm giữa các cán bộ khai thác, giữa các phòng khai thác. Những cán bộ khai thác có hợp đồng đã ký rồi mà khách hàng yêu cầu huỷ bỏ thì nên tìm hiểu rõ nguyên nhân và thuyết phục khách hàng tiếp tục duy trì hợp đồng. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng khai thác thì các công ty cần phải hoàn thiện sản phẩm ASGD của mình sao cho phù hợp với nhu cầu của người dân, đảm bảo phân biệt sản phẩm của công ty mình với đối thủ, đảm bảo sản phẩm của mình cung cấp nhiều quyền lợi cho khách hàng mà vẫn có lợi nhuận. Để làm được điều này các công ty phải tiến hành điều tra nghiên cứu nhu cầu của thị trường thông qua các biện pháp nghiên cứu thị trường như điều tra trực tiếp, nghiên cứu sản phẩm của đối thủ cạnh tranh về cả mặt thiết kế lẫn triển khai, nghiên cứu sản phẩm của các nước có nét tương đồng về trình độ phát triển, về văn hoá truyền thống. Thêm vào đó phải không ngừng học hỏi kinh nghiệm tính phí hợp lý, phí phải có tính cạnh tranh cao mà công ty vẫn có lãi. Hiện nay, có một số quyền lợi bảo hiểm ở một số công ty BHNT cung cấp sản phẩm ASGD mà tác giả thấy là các công ty khác cần học hỏi khi đưa ra sản phẩm ASGD mới trong tương lai. Đó là: Cho phép người tham gia bảo hiểm ASGD có quyền chuyển nhượng hợp đồng BH ASGD của Prudential. Điều này làm tăng tính thanh khoản của hợp đồng ASGD. Tặng một “món quà tốt nghiệp” trị giá 20% số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm vào ngày kỉ niệm hợp đồng bảo hiểm khi trẻ 22 tuổi dù không vào đại học của Manulife. Điều này giúp mở rộng quyền lợi người tham gia bảo hiểm. Cung cấp sản phẩm bổ sung: “quyền lựa chọn đảm bảo thời giá” cho khách hàng khi mua ASGD của Manulife. Điều này rất có ý nghĩa khi người dân VN luôn có tâm lý e ngại lạm phát và mất giá đồng tiền. Cho phép “bảo hiểm tạm thời” của AIA Cho vay theo hợp đồng ASGD của Bảo Việt Tặng thẻ ưu đãi, thẻ giảm giá của Bảo Việt, Prudential Bảo hiểm thương tật toàn bộ vĩnh viễn do rủi ro được bảo hiểm của Prudential, Bảo Việt. Tức các doanh nghiệp nên hoàn thiện theo hướng “cung cấp sản phẩm dịch vụ tổng hợp” cho khách hàng. d. Xây dựng phương pháp khai thác thích hợp với từng phần thị trường Thời gian tới các công ty cần có kế hoạch tập trung vào phân loại, đánh giá từng khu vực thị trường để có phương pháp khai thác thích hợp. Việc phân loại đánh giá này nhằm giúp nhận biết được đặc điểm, đặc trưng riêng của từng khu vực về thu nhập, về nhu cầu bảo hiểm, về nhận thức của người lao động, từ đó đưa ra các phương pháp khai thác khác nhau. Ví dụ, đối với thị trường các tổ chức tại cơ quan, công ty, trụ sở làm việc...cán bộ khai thác nên sử dụng phương pháp “vết dầu loang”. Phương pháp này thực hiện bằng cách tiếp xúc và kích thích nhu cầu tham gia bảo hiểm của các lãnh đạo tổ chức đó. Từ đó tiếp tục khai thác các cán bộ trong tổ chức bằng cách lấy các vị lãnh đạo đó là những tấm gương để khuyến khích, giải thích với nhân viên của họ về nghiệp vụ An sinh giáo dục này. Nghiệp vụ An sinh giáo dục là một nghiệp vụ rất thích hợp với các cán bộ, nhân viên công tác trong các tổ chức, cơ quan Nhà nước vì nó mang tính tiết kiệm, dành dụm, lo lắng cho tương lai. Một khi các vị lãnh đạo tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này tức là họ thấy được lợi ích và ưu việt của nó, điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc triển khai tiếp theo trong tổ chức này. Nhiều khi phương pháp này cũng cần áp dụng linh hoạt. Giả sử trước khi thực hiện kế hoạch khai thác ở một tổ chức, cán bộ khai thác tìm hiểu về lãnh đạo ở tổ chức này và biết được đó là một người rất bận rộn, hay phải đi công tác và rất khó gặp được. Lúc này, người cán bộ khai thác lại phải tìm cách tiếp cận với thu ký, trợ lý hay cán bộ cấp dưới của vị lãnh đạo đó, thuyết phục họ tham gia bảo hiểm. Sau khi đã thuyết phục được họ tham gia bảo hiểm, cán bộ khai thác sẽ có cơ hội để nắm rõ về vị lãnh đạo, về lịch công tác, có cơ hội để gặp gỡ và trò chuyện, từ đó mời tham gia bảo hiểm. Ngoài ra do tính chất của sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình, vào thời điểm bán sản phẩm mà nhà bảo hiểm cung cấp ra thị trường chỉ là lời hứa, lời cam kết, người bán không chỉ ra được kích thước, màu sắc.. người mua không cảm nhận được bằng các giác quan của mình. Điều này gây trở ngại cho hoạt động khai thác sản phẩm. Để khắc phục, cán bộ khai thác cần có các biện pháp để củng cố lòng tin với khách hàng, tăng tính hữu hình cuả sản phẩm. Nên mời những người nổi tiếng có uy tín giới thiệu về sản phẩm hoặc những người này mới nhận được tiền trả bảo hiểm để tuyên truyền về sản phẩm. Từ đó để thấy phương pháp khai thác phù hợi với thị trường, công tác phân loại, đánh giá từng khu vực thị trường cần chính xác, cụ thể, kịp thời để nâng cao hiệu quả khai thác đối với nghiệp vụ “An sinh giáo dục”. e. Công tác tuyển dụng, đào tạo, quản lý cán bộ Các doanh nghiệp cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ bảo hiểm. Trước hết, công tác tuyển chọn cán bộ khai thác cần được tiến hành khoa học, nghiêm túc và đảm bảo chất lượng ngay từ ban đầu. Chất lượng nội dung đào tạo phải luôn được nâng cao. Đồng thời công tác sát hạch kiểm tra cần được duy trì thường xuyên. Từ đó tránh tình trạng cán bộ khai thác đi tư vấn mà không biết tư vấn gì, tư vấn như thế nào. Đồng thời phải nâng cao phong cách phục vụ của cán bộ bảo hiểm như cán bộ bảo hiểm phải luôn kiên nhẫn và coi “khách hàng luôn luôn đúng”, “khách hàng là thượng đế”, cần phải nâng cao đạo đức nghề nghiệp nhằm xoá bỏ hoàn toàn các hiện tượng tiêu cực như ăn chặn tiền bảo hiểm của khách hàng, đồng loã với khách hàng để trục lợi bảo hiểm, vì lợi ích bản thân mà tư vấn bất lợi cho khách hàng, tranh giành khách hàng với đại lý cùng công ty hoặc tranh với đối thủ bằng cách sử dụng biện pháp cạnh tranh không lành mạnh như tung tin gây thất thiệt cho đối thủ, chỉ chạy theo số lượng của hợp đồng... f.Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm Công tác giám định - Các công ty nên tổ chức các khoá đào tạo giám định về các kiến thức y học, kiến thức luật để các cán bộ giám định hiểu sâu hơn về lĩnh vực này, tạo điều kiện hoàn thành tốt công việc. -Điều kiện cho các cán bộ giám định được đi học ở các công ty BHNT nước ngoài, gặp gỡ các chuyên gia về giám định trong công ty BHNT Đề nghị Bộ Tài chính cùng các cơ quan hữu quan quan tâm giúp đỡ tạo. Công tác trả tiền BH Khách hàng tham gia BH ASGD mong đợi gì ở doanh nghiệp bảo hiểm? Câu trả lời là: giải quyết quyền lợi bảo hiểm nhanh chóng, thoả đáng, giữ đúng cam kết với khách hàng. Vì vậy, khi tiến hành chi trả cho khách hàng theo hợp đồng các doanh nghiệp nên đáp ứng yêu cầu trên. Chỉ có như vậy thì niềm tin của khách hàng đối với công ty mới tăng, uy tín của công ty được củng cố. Từ đó một hình ảnh tốt về công ty được quảng bá, “tiếng lành đồn xa” sẽ giúp thu hút được khách hàng. Để đạt được điều đó các công ty nên quy định cụ thể về trách nhiệm của các cán bộ khai thác trong việc hướng dẫn khách hàng làm thủ tục yêu cầu trả tiền bảo hiểm. Nếu có bất cứ khiếu kiện nào của khách hàng về thủ tục yêu cầu trả tiền bảo hiểm, cán bộ khai thác thu phí của khách hàng đó sẽ phải chịu trách nhiệm. 3. Các biện pháp khác a. ứng dụng thành tựu mới của khoa học công nghệ Các doanh nghiệp cần nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin vào qúa trình khai thác và quản lý hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí quản lý, hạ thấp phí bảo hiểm, tăng cường khả năng cạnh tranh, chuẩn bị tốt các điều kiện để thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh mới, hội nhập vào tiến trình toàn cầu hoá và nền kinh tế tri thức. b. Tăng cường hợp tác Các doanh nghiệp cũng nên tăng cường hợp tác với nước ngoài nhằm học hỏi kinh nghiệm và tăng cường hợp tác với nhau để cùng phát triển và khai thác thị trường. Sự hợp tác nội bộ này có thể thực hiện trên các mặt như: đào tạo thị trường, phòng chống trục lợi BH, tạo nguồn cán bộ, đại lý, xây dựng và tăng cường uy tín, hình ảnh tốt đẹp của ngành, tạo lập và duy trì sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, thu thập và sử dụng số liệu liên quan. đồng thời, tăng cườngvai trò của hiệp hội bảo hiểm trong các lĩnh vực hợp tác nêu trên. c. Mở rộng đầu tư phí Đối với một doanh nghiệp BHNT thì đầu tư phí có vai trò vô cùng quan trọng nó quyết định đến sức cạnh tranh và lợi nhuận của từng doanh nghiệp, tức sự sống còn của doanh nghiệp. Bởi thứ nhất, trong rất nhiều nghiệp vụ BHNT, đặc biệt là trong sản phẩm ASGD việc chi trả là chắc chắn chỉ có điều là không biết chính xác tại thời điểm nào trong tương lai thôi. Vậy thì doanh nghiệp BHNT phải làm thế nào để bảo toàn vốn và có lãi để chi trả cho người được bảo hiểm. Thứ hai, nếu đầu tư có lãi sẽ giúp bù đắp lãi suất kỹ thuật đã giả định và có cơ hội giảm phí để tăng cạnh tranh trong tương lai. Vậy thì về phía chủ quan, các doanh nghiệp BHNT phải chủ động trong việc mở rộng tìm kiếm các cơ hội đầu tư, một trong những kênh đầu tư hợp lý hiện nay là tham gia góp vốn vào các dự án phát triển cơ sở hạ tầng của nhà nước, kênh này độ an toàn cao. Ngoài ra nếu công ty BHNT có đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi thì có thể đầu tư vào những kênh có độ rủi ro cao hơn. Còn về phía Nhà nước cũng cần tạo ra nhiều cơ hội đầu tư phí BH cho các doanh nghiệp BHNT hơn bởi ngành này có rất nhiều tác động tích cực đến đời sống kinh tế xã hội. Chẳng hạn như mở rộng kênh đầu tư phí vào thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp BHNT thông qua những biện pháp phát triển thị trường chứng khoán, đó là đa dạng hoá các công ty niêm yêt và hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Thực tế cho thấy chứng khoán là công cụ đầu tư quan trọng thứ hai của các công ty BHNT nhưng hiện nay tỷ trọng của đầu tư vào thị trường chứng khoán trong tổng đầu tư của các doanh nghiệp BHNT VN còn nhỏ hơn nhiều so với các nước trên thế giới (hầu hết các nước coi đó là công cụ quan trọng số một). Lời nói đầu Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò con người. Không ngừng cải thiện nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục tiêu hàng đầu của chế độ xã hội chủ nghĩa ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước khẳng định trong các kì đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8, 9 đã và đang có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế nước ta. Kể từ Đại hội VI, Đại hội của Đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Nhân dân ta đã gặt hái được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế xã hội. Vì thế, nền kinh tế nước ta đang dần khởi sắc và phát triển một cách vững chắc, về cơ bản chúng ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài, nền kinh tế có những bước tăng trưởng nhảy vọt qua các năm, điều kiện sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đất nước đang trong thời kỳ Đổi mới nên cùng với sự biến chuyển không ngừng về mọi mặt, từ kinh tế xã hội đến chính trị ngoại giao, nền kinh tế mở theo hướng “đa phương hoá - đa dạng hoá” đã và đang tạo điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói riêng phát triển về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày càng có nhiều ngành và nghiệp vụ mới ra đời. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ (BHNT) thuộc ngành bảo hiểm là một ví dụ điển hình. Nghiệp vụ BHNT mang tính đặc thù cao, có sức hấp dẫn riêng và có sự khác biệt so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nghiệp vụ BHNT bao gồm nhiều loại hình khác nhau như: BHNT có thời hạn 5-10 năm, An sinh giáo dục... Sau một thời gian lựa chọn đề tài viết khoá luận, mặc dù đề tài còn nhiều khúc mắc và số liệu thực tế chưa nhiều nhưng cùng với sự động viên của thầy giáo hướng dẫn và sự giúp đỡ nhiệt tình của các công ty BHNT em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài với nội dung: “Bảo hiểm An sinh giáo dục tại Việt Nam - Một số biện pháp nhằm hoàn thiện và phát triển”. Sở dĩ em chọn đề tài trên cho khoá luận tốt nghiệp của mình là vì những lý do sau: - Mặc dù BHNT ra đời rất sớm trên thế giới (năm 1583, ở Anh) và không ngừng phát triển ở khắp nơi, nhưng lại được triển khai rất muộn ở Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới để áp dụng vào thực tế triển khai ở nước ta là một đòi hỏi cấp bách có ý nghĩa kinh tế lớn. - Do nghiệp vụ “An sinh giáo dục“ mới được triển khai ở nước ta, nên khó tránh khỏi những hạn chế, những điều bất hợp lý trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách khoa học, tìm ra giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Nghiệp vụ bảo hiểm này có tính chất khác biệt rõ nét so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác ở chỗ nó không chỉ mang tính chất bảo hiểm các rủi ro mà còn mang tính chất tiết kiệm. Điều này có nghĩa là công ty BHNT phải trả một khoản tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù không có rủi ro xảy ra với khách hàng. Do vậy công ty BHNT cần có một chính sách đầu tư vốn hợp lý để đảm bảo tài chính của công ty. - Nghiệp vụ này còn thu hút được nhiều người nghiên cứu vì nó có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Với các khẩu hiệu “ Tất cả vì tương lai con em chúng ta”, “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai“ thì chương trình “An sinh giáo dục“ là một biện pháp hữu hiệu để các thế hệ đi trước thể hiện sự quan tâm đối với các thế hệ đi sau. Khi nghiên cứu đề tài, em đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp luận như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp kết hợp giữa logic và lịch sử, phương pháp tổng hợp thống kê… nhằm phân tích tình hình triển khai, thị trường khách hàng tiềm năng, những tồn tại…từ đó đưa ra một số biện pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh trên thị trường bảo hiểm này trong thời gian tới. Xuất phát từ những nội dung trên đề tài được kết cấu gồm ba phần: - ChươngI: Khái quát về bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục - ChươngII: Thực trạng triển khai sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục trong hệ thống BHNT tại Việt Nam - Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển sản phẩm bảo hiểm ASGD Mặc dù bản thân em đã rất cố gắng nhưng do còn thiếu kinh nghiệm nên trong khoá luận tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của thầy gíao hướng dẫn TS. Vũ Sỹ Tuấn nói riêng và của các thầy cô giáo trong khoa nói chung để khóa luận hoàn chỉnh hơn về mặt lý luận và mang tính khả thi hơn trong thực tiễn hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy gíao hướng dẫn TS. Vũ Sỹ Tuấn, sự tận tình của người thân trong gia đình và bạn bè giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp. Nhân dịp này em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong trường Đại học Ngoại Thương đã truyền thụ và trang bị cho em những hành trang cần thiết để em vào đời. Chú giải (1), (3), (4) theo Tạp chí Tài chính số 5 năm 2000, T4 (2), (5) theo Thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2000 – 2001 Việt Nam & Thế giới, T38, T39 (6), (7) theo Tạp chí Tài chính số 1+2, năm 2002, T89 (8), (9) theo Thời báo kinh tế Việt Nam số 96, T2, ngày 12/8/2002 (a), (b) theo Thời báo kinh tế Việt Nam số 99, T9, ngày 19/8/2002 (10), (11) theo Tạp chí Tài chính số 1 năm 2001, T68 (12) theo Thời báo kinh tế Việt Nam số 57, T2, ngày 13/5/2002 (13) theo Thời báo kinh tế Việt Nam số 99, T9, ngày 19/8/2002 (14) theo Tạp chí Tài chính số 9 năm 2002, T42 (15) theo Tạp chí Tài chính số 4 năm 2002, T41 (c) theo Tạp chí bảo hiểm số 2, T17, năm 2002 (20), (21), (22), (25) (26) (27) theo Báo cáo năm 2000, 2001, và Báo cáo sơ kết nửa năm 2002, Báo cáo Quý 3 năm 2002 của các công ty BHNT gửi lên Hiệp hội bảo hiểm (23) theo Báo cáo sơ kết nửa năm, Báo cáo quý 3 và Tài liệu kinh doanh của Tổng công ty Bảo Việt (24) theo Báo cáo sơ kết nửa năm của Prudetial năm 2002 (d), (e) theo Tạp chí Tài chính số 9/2002, T43 (16) theo Asia Insurance Review 9/2001 (17), (18) Insurance Finacial Service Review 8/2001 Tài liệu tham khảo 1. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng 1996 2. Giáo trình kinh tế Bảo hiểm - Nhà xuất bản thống kê năm 2000 3. Một số điều cần biết về pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm - Nhà xuất bản Thống kê năm 2000 4. Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành - Tiến sỹ: David Bland – Học viện bảo hiểm Hoàng gia Anh, 1993 - Nhà xuất bản tài chính 5. Tài liệu giới thiệu sản phẩm của Bảo Việt, AIA, Prudential, Bảo Minh – CMG, Manulife, tài liệu giảng dạy và đào tạo đại lý của AIA, Manulife năm 2002 6. Các số liệu thống kê của Bảo Việt, Prudential trong báo cáo tổng kết năm và sơ kết nửa năm của năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001 và 2002 7. Bản tin Thị trường bảo hiểm của Bảo Việt tháng 7, 8,9, 10/2002 8. Thời báo kinh tế Sài gòn số 15 tháng 11/2001 9. Thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2000- 2001 Việt Nam & Thế giới 10. Thời báo kinh tế Việt Nam số 19 tháng 11/2001 11. Thời báo kinh tế Việt Nam các số 15, 17, 36, 42, 57, 96, 99, 105, 117 năm 2002 12. Tạp chí bảo hiểm và tái bảo hiểm số 3 tháng 8/2001 13. Tạp chí Bảo hiểm số 1, 2, 3 năm 2002 14. Tạp chí Tài chính số 1, số 2, số 4, số 5, số 6 năm 2000 15. Tạp chí Tài chính số 1, số 2, số 5, số 6 năm 2001 16. Tạp chí tài chính số 1+2, số 3, số 4, số 7, số 9 năm 2002 17. Công báo số 33, ngày 8 - 9 - 2001 Asia 18. Insurance Review 9/2001 19. Insurance Finacial Service Review 8/2001 21. Kết quả điều tra của Bộ Tài chính phối hợp với New York Life International Việt nam năm 2001 Kết quả nghiên cứu của ACE INA International Holdings Ltd., năm 2002 Dự báo kinh doanh bảo hiểm của Vinare 2001 Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh - NXB Khoa học và kỹ thuật năm 2002 - Tác giả: Hoàng Văn Châu, TS. Vũ Sĩ Tuấn, NGƯT-PTS. Nguyễn Như Tiến mục lục Lời nói đầu Chương I: Khái quát về bảo hiểm nhân thọ và sản phẩm bảo hiểm an sinh giáo dục 1 I. Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ (BHNT) và sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục (ASGD) 1 1. Khái niệm 1 2. Lịch sử ra đời 2 2.1. Trên thế giới 2 2.2. Tại Việt Nam 4 3. Sự cần thiết của BHNT 6 4. Vai trò và vị trí của BHNT 8 4.1. Vai trò của BHNT 8 4.2. Vị trí của BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm 11 5. Những đặc điểm cơ bản của BHNT 12 5.1. BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro 12 5.2. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm 12 5.3. Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng 13 5.4. Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình định phí khá phức tạp 13 5.5. BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kế toán xã hội nhất định 14 II. Các loại hình BHNT 15 1. Phân loại theo rủi ro bảo hiểm 15 1.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong 15 1.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (sinh kỳ) 17 2. Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm 18 2.1. Bảo hiểm cá nhân 18 2.2. Bảo hiểm nhón 18 3. Phân loại theo thời hạn hợp đồng 19 III. Sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục trong hệ thống BHNT 19 1. Bảo hiểm cho trẻ em trên thế giới 19 2. Bảo hiểm cho trẻ em tại Việt Nam (sản phẩm bảo hiểm ASGD hay Phú tích luỹ, Phú tương lai...) 20 3. Nội dung cơ bản của An sinh giáo dục 21 3.1. Một số khái niệm 21 3.2. Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm 26 3.3. Bảo tức 29 3.4. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm 30 3.5. Thủ tục bảo hiểm 3.6. Thời điểm pháp sinh hiệu lực, thời hạn, huỷ bỏ, thay đổi chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm 35 3.7. Chi trả bảo hiểm 37 3.8. Giải quyết tranh chấp 38 Chương II: Thực trạng triển khai sản phẩm bảo hiểm an sinh giáo dục trong hệ thống BHNT tại Việt Nam I. Sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục tại Việt Nam 39 1. ý nghĩa của sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục 39 2. So sánh sản phẩm bảo hiểm ASGD của các Công ty bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam 41 a. So sánh ASGD của Bảo Việt với Phú tích luỹ Giáo dục của Prudential. 42 b. So sánh ASGD của Bảo Việt với ASGD của Công ty Bảo hiểm nhân thọ AIA 44 c. So sánh ASGD của Bảo Việt với ASGD của Công ty Bảo hiểm Bảo Minh CMG 46 d. So sánh ASGD của Bảo Việt với Giáo dục hỗn hợp của Công ty Manulife 47 II. Tình hình triển khai sản phẩm bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 49 1. Tình hình phát triển của thị trường BHNT Việt Nam 49 a. Tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm thương mại Việt Nam 49 b. Tình hình phát triển của thị trường bảo hiểm Nhân thọ Việt Nam 54 2. Tình hình triển khai sản phẩm ASGD tại Việt Nam 63 2.1. Công tác khai thác 63 2.2. Công tác đánh giá rủi ro 66 3. Nhận xét và đánh giá về bảo hiểm ASGD của Việt Nam trong thời gian qua 67 a. Đánh giá chung về nghiệp vụ 67 b. Hiệu quả kinh tế xã hội của bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 68 c. Đánh giá chung về kết quả triển khai sản phẩm bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 71 Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển sản phẩm bảo hiểm asgd 77 I. Định hướng và dự báo về bảo hiểm ASGD tại Việt Nam 77 II. Kinh nghiệm về bảo hiểm nhân thọ của một số nước trên thế giới 79 1. Châu âu 79 2. Mỹ 85 III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển sản phẩm bảo hiểm ASGD 87 1. Các giải pháp vĩ mô 87 a. Hoàn thiện khung pháp lý cho ngành BHNT 87 b. Xây dựng các biện pháp quản lý cho ngành kinh doanh bảo hiểm nhân thọ 91 c. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 93 d. Đưa ra một số biện pháp khuyến khích 94 2. Các giải pháp về phía các Công ty BHNT 95 a. Tăng cường tuyên truyền quảng cáo 95 b. Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác 97 c. Đa dạng hoá các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác 97 d. Xây dựng phương pháp khai thác thích hợp với từng phần thị trường 99 e. Công tác tuyển dụng, đào tạo, quản lý cán bộ 101 f. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm 101 3. Các biện pháp khác 102 a. ứng dụng thành tựu mới của khoa học công nghệ 102 b. Tăng cường hợp tác 102 c. Mở rộng đầu tư phí 102 Kết luận Chú thích Tài liệu tham khảo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3853.doc
Tài liệu liên quan