Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xây dựng CTGT 874

Lời nói đầu Xây dựng cơ bản nói chung, xây dựng cầu đường nói riêng là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất. Sản phẩm của ngành bảo đảm việc mở rộng tái sản xuất tài sản cố định cho các ngành thuộc nền kinh tế quốc dân. Quản lý tốt nguồn vốn chủ sở hữu từ đó sẽ tăng được doanh thu, lợi nhuận và làm giảm được tình trạng thất thoát nguồn vốn, cũng như là sự chiếm dụng nguốn vốn của các cá nhân đối với công ty. Quản lý nguồn vốn chủ sở hữu là một trong những công cụ quan trọng để nâng ca

doc52 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1032 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xây dựng CTGT 874, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o hiệu quả sử dụng nguồn vốn của công ty. Đồng thời nó cũng cung cấp thông tin kinh tế, hay là cơ sở cho việc quyết định các chủ trương biện pháp kinh doanh, quản lý của công ty. Trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN nước ta đỏi hỏi những nhà quản lý doanh nghiệp phải năng động, nhanh nhạy, dám quyết đoán đáp ứng yêu cầu thị trường và phù hợp với luật doanh nghiệp. Để bảo đảm yêu cầu trên công tác tổ chức, quản lý nguồn vốn ở các doanh nghiệp phải được tổ chức chặt chẽ, khoa học, phản ảnh những thông tin kinh tế đầy đủ, kịp thời, góp phần to lớn vào việc thành công của doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường định hướng XHCN hiện nay, công ty xây dựng công trình giao thông 874 thuộc Tổng công ty giao thông 8 đã thiết lập một hệ thống quản lý chặt chẽ vừa đủ hợp lý để đáp ứng yêu cầu chỉ đạo của doanh nghiệp. Tuy còn có những nhược điểm nhưng nhìn chung công tác quản lý nguồn vốn của Công ty đã có sự đúng đắn nhất định và đã hoàn thành công viêc một cách xuất sắc. Dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của TS. Lê Anh Vân. Trong khoảng thời gian em đã nghiên cứu và thực tập tại công ty, em quyết định chọn đề tài: “Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xây dựng CTGT 874”. Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo, các phòng ban của Công ty, các thanh viên trong phòng tài chính kế toán và thành thật mong được sự góp ý của Cô, các Lãnh đạo trong công ty và các nhân viên của Công ty xây dựng CTGT 874. Báo cáo đề tài thực tập này gồm các phần sau: Chương I: Cơ sở lý luận về vốn và hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xây dựng công trình giao thông 874 Chương II: Phân tích thực trạng quản lý, sử dụng vốn ở công ty xây dựng công trình giao thông 874 Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở công ty xây dựng công trình giao thông 874 Chương I Cơ sở lý luận về vốn và hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xây dựng công trình giao thông 874 I. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty xây dựng công trình giao thông 874 Công trình giao thông 874 được hình thành và phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn làm nhiệm vụ quốc tế và giai đoạn làm nhiệm vụ trong nước. Giai đoạn làm nhiệm vụ quốc tế: Sau 15 năm bám trụ tại miền rừng núi hiểm trở, vượt qua nắng lửa, gió Lào, bão tố, thác lũ, đơn vị đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang. Đơn vị đã thi công bàn giao đưa vào sử dụng 120km đường ô tô vĩnh cửu với hàng trăm cầu cống trung bình và nhỏ, góp phần đắc lực thực hiện nhiệm vụ chiến lược của bạn là xây dựng và bảo vệ tổ quốc Lào anh em. Quá trình thực hiện nhiệm vụ anh chị em trong đơn vị đã vượt lên gian khổ, thiếu thốn, 25 người đã hy sinh , 21 người bị thương, hàng trăm người bị bệnh hiểm nghèo. Để ghi lại công lao của đơn vị nhà nước Lào đã tặng thưởng cho công ty Huân chương Hữu nghị, Huân chương tự do hạng nhì, hạng nhất, Huân chưong lao động hạng nhất. Giai đoạn làm nhiệm vụ chủ yếu ở trong nước: Sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế đối với nước bạn Lào anh em, cuối năm 1989, đơn vị chuyển về nước, tập trung ở vùng quốc lộ 8A Hà Tĩnh và chuyển thành công trình giao thông 874. Từ năm 1990, công ty đã có mặt tại nhiều công trình trong nước thuộc các tỉnh miền Trung, Tây Bắc. Trong cơ chế thị trường, để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, đơn vị đã củng cố, sắp xếp lại tổ chức, đổi mới phương pháp quản lý kinh doanh. Công ty đã không ngừng đổi mới đầu tư thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất. Bằng mọi nguồn vốn, kể cả đi vay, liên tục nhiều năm công ty đã cơ bản thay đổi thiết bị, quy trình công nghệ. Đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đứng vững và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Về mặt tổ chức công ty đã đưa công nhân đi an dưỡng, điều trị. Trên cơ sở đó ai đủ điều kiện thì được chuyển vùng, hoặc về nghỉ theo chế độ một cách thoả đáng. Những người có triển vọng được đưa đi học tập văn hoá, chuyên môn trung cấp, đại học. Công ty mạnh dạn tuyển chọn những người có chuyên môn cao, thích ứng với kỹ thuật hiện đại. Đội hình sản xuất, lãnh đạo của công ty cũng xắp sếp lại theo chuyên môn hoá và dây chuyền công nghệ mới. Đội ngũ lãnh đạo chủ chốt từ xí nghiệp tới đội, tổ được thay thế bằng những cán bộ có trình độ chuyên môn tốt, trẻ, khỏe được rèn luyện thử thách qua thực tế. Ngày nay do yêu cầu phát triển của công ty, để tiện việc chỉ đạo sản xuất kinh doanh, công ty đã chuyển về trụ sở chính đóng tại đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Các đơn vị trực thuộc đóng tại thành phố Vinh (Nghệ An) và thị xã Hà Tĩnh. Diện hoạt động của đơn vị rất rộng. Từ các công trình thuộc miền Trung, Tây Bắc, Đông Bắc, thủ đô Hà Nội đến các công trình cấp cao như sân bay Nội Bài, đường cao tốc Thăng Long, đường 13 Lào (do ngân hàng phát triển châu á - ADB tài trợ) đường sân bay thuộc thành phố Lác- xao (Bôlikhămxay - Lào) v.v.. Có thể nói Công trình giao thông 874 là một đơn vị mạnh thuộc Tổng công ty xây dựng 8 Bộ Giao thông vận tải. Khi ở nước Bạn, đơn vị chuyên làm đường cấp 4, 5 thì ngày nay Công ty là một trong những thành viên đầu tiên của Bộ thực hiện quy trình công nghệ cầu đường tiên tiến trên thế giới. Công ty đã thắng thầu quốc tế ở nước ngoài, cũng như những công trình lớn, trọng điểm của nhà nước. Tất cả các công trình, sản phẩm của công ty 874 đều đạt chất lượng tốt, theo đúng hồ sơ thiết kế, được chủ công trình cũng như các đoàn kiểm tra các cấp, kể cả cấp nhà nước công nhận. II. Vốn sản xuất, vốn lưu động và vai trò của vốn lưu động trong Công ty Vốn là yếu tố không thể thiếu được của mọi quá trình kinh doanh. Do vậy quản lý và sử dụng vốn hay tài sản trở thành một trong những nội dung quan trọng của quản lý tài chính. Mục đích quan trọng nhất của quản lý và sử dụng vốn là đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao nhất. Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính, nó gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Vốn là tiền, nhưng tiền chưa hẳn là vốn, tiền trở thành vốn khi nó hoạt động trong lĩnh vực sản xuất lưu thông. Khái niệm vốn sản xuất trong doanh nghiệp công nghiệp là hình thái giá trị của toàn bộ tư liệu sản xuất được doanh nghiệp sử dụng một cách hợp lý và có kế hoạch vào việc sản xuất những sản phẩm theo kế hoạch của doanh nghiệp. Vốn sản xuất được chia thành hai bộ phận, là vốn cố định và vốn lưu động. Tỷ trọng của hai loại vốn này là tuỳ thuộc vào độ dài của chu kỳ sản xuất , trình độ trang thiết bị kỹ thuật, trình độ quản lý và quan hệ cung cầu hàng hoá. Nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp là phải xác định một cơ cấu vốn hợp lý, phải quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả vốn sản xuất, phải chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính của nhà nước. Nhà nước đã có chính sách bắt buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để bảo toàn và phát triển vốn. Khái niệm vốn lưu động Để sản xuất kinh doanh, ngoài vốn cố định các doanh nghiệp còn phải dùng vốn tiền tệ để mua sắm các đối tượng lao động dùng vào sản xuất. Ngoài số vốn dùng trong phạm vi sản xuất, doanh nghiệp còn cần một số vốn trong phạm vi lưu thông. Đó là vốn nằm ở khâu sản phẩm chưa tiêu thụ, tiền để chuẩn bị mua sắm các đối tượng lao động mới và trả lương cho công nhân viên trong doanh nghiệp… Như vậy, vốn lưu động của doanh nghiệp là toàn bộ giá trị tài sản lưu động và vốn trong lưu thông. Vốn lưu động thể hiện dưới hai hình thức: + Hiện vật gồm: nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm. + Giá trị: là biểu hiện bằng tiền, giá trị của nguyên vật liệu bán thành phẩm, thành phẩm và giá trị tăng thêm của việc sử dụng lao động trong quá trình sản xuất, những chi phí bằng tiền trong quá trình lưu thông. Trong qúa trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên thay đổi từ hình thái vật chất này sang hình thái vật chất khác : Tiền - Dự trữ sản xuất - Vốn trong sản xuất - Thành phẩm - Tiền Do hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, xen kẽ nhau, chu kỳ này chưa kết thúc, đã bắt đầu chu kỳ sau, nên vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên tồn tại trong tất cả các hình thức vật chất để thực hiện mục đích cuối cùng của quá trình sản xuất trong doanh nghiệp là sản phẩm phảI được nghiệm thu và đưa vào sử dụng. Quá trình tiêu thụ gồm quá trình xuất hàng và thu tiền. Hai quá trình này không phải lúc nào cũng tiến hành cùng một lúc… Thêm nữa, các chứng từ thành toán giữa hai bên còn phải thông qua ngân hàng, cơ quan bưu điện… và chỉ khi nào bên bán thu được tiền hay có giấy báo đã thu được tiền của ngân hàng thì quá trình sản xuất và tiêu thụ đó mới được hoàn thành. Đến đây, vốn lưu động mới thực hiện được một vòng chu chuyển của mình. 2. Vai trò và tác dụng của vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải có vốn để thực hiện mục đích kinh doanh của mình, khi đã có vốn doanh nghiệp phải biết quản lý và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh, căn cứ vào tính chất sử dụng và hình thái biểu hiện, người ta chia vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh thành hai loại: Vốn cố định và vốn lưu động. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực lưu thông phân phối, vốn lưu động chiếm tỷ trọng rất lớn trong toàn bộ nguồn vốn của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động được vận động theo chu kỳ khép kín. Đơn vị nào kinh doanh có hiệu quả là phải luôn luôn tìm ra các biện pháp làm giảm ngắn thời gian vận động của một chu kỳ và tạo ra T > T' . Tức là nguồn vốn của đơn vị đó luôn được tăng trưởng, kinh doanh có hiệu quả và thu được lợi nhuận tối đa. Vốn đối với mỗi doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng nhưng không phải bất cứ doanh nghiệp nào có đủ vốn là hoạt động có hiệu quả. Có những doanh nghiệp đi đến phá sản, có những doanh nghiệp đi lên từ những đồng vốn ít ỏi… Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là các doanh nghiệp quản lý sử dụng vốn như thế nào cho hợp lý, có hiệu quả. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay nhu cầu về vốn là cần thiết phải có đối với các doanh nghiệp, đó là số vốn tối thiểu nhằm dự trữ các tài sản lưu động phục vụ cho sản xuất lưu thông, trên cơ sở đó nguồn cung cấp vốn lưu động các doanh nghiệp thường là : - Nguồn vốn lưu động từ ngân sách. - Nguồn vốn vay ngân hàng - Nguồn vốn lưu động từ bổ sung - Nguồn vốn lưu động từ liên doanh, liên kết. - Nguồn vốn lưu động từ tín dụng ngắn hạn. Phân loại vốn lưu động Như khái niệm đã nêu, vốn lưu động là hình thái giá trị của nhiều yếu tố tạo thành, mỗi yếu tố có tính năng tác dụng riêng. Để lập kế hoạch quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, người ta tiến hành phân loại vốn lưu động. Có nhiều cách phân loại vốn lưu động: 3.1. Căn cứ vào nguồn hình thành ta có a. Vốn lưu động tự có: là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: vốn ngân sách nhà nước cấp cho doanh nghiệp nhà nước, vốn tự hình thành, vốn cổ phần, vốn chủ sở hữu… b. Nợ tích luỹ ngắn hạn( vốn lưu động coi như tự có ): là vốn tuy không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, nhưng do chế độ thành toán, doanh nghiệp có thể và được phép sử dụng hợp pháp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình( Tiền lương, BHXH chưa tính đến kỳ trả, nợ thuế, tiền điện, tiền nước chưa đến hạn thanh toán, các khoản phí tổn tính trước …) c. Vốn lưu động đi vay : * Vay các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác. * Vay các đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội và các các nhân… Như vậy việc phân chia vốn lưu động theo nguồn hình thành sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh của mình. Từ góc độ quản lý tài chính, mọi nguồn tài trợ đều có chi phí sử dụng của nó, doanh nghiệp cần xem xét nguồn tài trợ tối ưu để giảm chi phí sử dụng vốn của mình. 3.2. Căn cứ vào biện pháp quản lý Vốn lưu động được chia ra thành: Vốn lưu động định mức: Gồm vốn lưu động trong sản xuất, vốn thành phẩm, cần tiến hành định mức kế hoạch để có cơ sở quản lý vốn; đảm bảo bố trí hợp lý vốn lưu động trong từng giai đoạn sản xuất - kinh doanh, tạo cơ sở xác định nhu cầu vốn trong năm kế hoạch. Định mức vốn lưu động là xác định số vốn tối thiểu, cần thiết, thường xuyên để hoàn thành kế hoạch sản xuất - kinh doanh một cách tiết kiệm nhất. Những phần vốn phải tiến hành định mức gọi là vốn lưu động định mức( ví dụ vốn trong dự trữ sản xuất, vốn trong sản phẩm ) b. Vốn lưu động không định mức: là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình kinh doanh nhưng không có căn cứ tính toán định mức và cũng không cần thiết để định mức. 3.3. Căn cứ vào các giai đoạn luân chuyển của vốn lưu động Người ta chia vốn lưu động ra thành : - Vốn trong dự trữ sản xuất. - Vốn trong sản xuất. Vốn trong lĩnh vực lưu thông : như vốn trong thành phẩm, vốn trong thanh toán, các vốn bằng tiền. Vốn lưu động Vốn lưu động trong sản xuất Vốn lưu động trong lưu thông Vốn trong dự trữ sản xuất Vốn trong sản xuất Vốn trong thành phẩm Vốn tiền tệ Vốn trong thanh toán Vốn lưu động định mức Vốn lưu động không định mức 4. Kết cấu vốn lưu động và các nhân tố hợp thành a. Kết cấu vốn lưu động: Kết cấu vốn lưu động phản ánh các thành phần và mối quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần trong tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp. Kết cấu vốn lưu động của các doanh nghiệp khác nhau thì khác nhau. Vì vậy việc phân tích kết cấu vốn lưu động cũng không giống nhau. Theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp cho các doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng các trọng điểm và biện pháp quản lý có hiệu quả phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Mặt khác thông qua việc thay đổi kết cấu vốn lưu động của mỗi doanh nghiệp trong những thời kỳ khác nhau có thể thấy được những biến đổi tích cực hoặc những hạn chế về mặt chất lượng trong công tác quản lý, sử dụng vốn lưu động của từng doanh nghiệp. Kết cấu của vốn lưu động có thể chia ra thành 4 loại chính : Vốn bằng tiền: gồm tiền gửi ngân hàng, tiền mặt tại quỹ, tiền đang chuyển. ở các nước phát triển thị trường chứng khoán thì chứng khoán ngắn hạn cũng được xếp vào khoản mục này. Vốn bằng tiền được sử dụng để trả lương cho công nhân, mua sắm nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả tiền thuấ, trả nợ… Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không lãi. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp việc giữ tiền mặt là cần thiết. Khi doanh nghiệp giữ đủ lượng tiền mặt cần thiết thì doanh nghiệp không bị lãng phí vốn tiền mặt. Vừa có được lợi thế trong kinh doanh như: - Được hưởng lợi thế chiết khấu nếu có đủ tiền thanh toán ngay các khoản chi mua hàng, dịch vụ, nguyên vật liệu. - Giúp doanh nghiệp duy trì tốt các chỉ số ngắn hạn, nhờ đó doanh nghiệp có thể mua hàng hoá với điều kiện thuận lợi và được hưởng hạn mức tín dụng rộng rãi. - Giúp doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội thuận lợi trong kinh doanh do chủ động trong các hoạt động thanh toán, chi trả. - Giúp doanh nghiệp có tiền mặt để đáp ứng kịp thời nhu cầu chỉ tiêu khẩn cấp như đình công, hoả hoạn, chiến dịch Marketing của đối thủ cạnh tranh, khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh. Đầu tư ngắn hạn: doanh nghiệp có thể sử dụng một phần vốn của mình để đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn, đầu tư ngắn hạn như góp vốn liên doanh ngắn hạn…nhằm mục tiêu sinh lợi. Đặc biệt các khoản đầu ta chứng khoán ngắn hạn của doanh nghiệp còn có ý nghĩa là bước đệm quan trọng trong việc chuyển hoá giữa tiền mặt và các tài sản có tính lợi kém hơn. Điều này giúp doanh nghiệp sinh lợi tốt hơn và huy động được một lượng tiền đủ lớn, kịp thời đảm bảo nhu cầu thanh khoản. Các khoản phải thu: : Cạnh tranh là cơ chế của nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp muốn đứng vững trong cơ chế cạnh tranh cần phải nỗ lực vận dụng các chiến lược cạnh tranh đa dạng, từ cạnh tranh giá đến cạnh tranh phi giá cả như hình thức quảng cáo, các dịch vụ trước, trong và sau khâu bán hàng. Mua bán chịu cũng là hình thức cạnh tranh khá phổ biến và có ý nghĩa quan trọng với các doanh nghiệp. Nó đem lại những lợi thế sau: - Tăng doanh thu bán hàng. - Giảm chi phí tồn kho hàng hoá. - Tận dụng tối đa công suất thiết bị và tài sản cố định, hạn chế hao mòn vô hình. - Tạo công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên. - Bán được hàng hoá với giá cao hơn do trong giá bán bao hàm cả lãi suất bán chịu. Tuy nhiên hình thức này cũng tạo ra những bất lợi sau: - Tăng chi phí sản xuất kinh doanh do tăng chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân quỹ. - Rủi ro không đòi được. Nói chung các khoản phải thu quá lớn hay quá nhỏ đều không có lợi cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có biện pháp kịp thời điều chỉnh. Hàng tồn kho: Trong quá trình sản xuất, việc tiêu hao đối tượng lao động diễn ra thường xuyên liên tục, nhưng việc cung ứng nguyên vật liệu thì đòi hỏi phải cách quãng, mỗi lần chỉ mua vào một lượng nhất định. Do đó, doanh nghiệp phải thường xuyên có một lượng lớn nguyên vật liệu, nhiên liệu… nằm trong quá trình dự trữ, hình thành nên khoản mục vốn dự trữ. Vốn dự trữ là biểu hiện bằng tiền của nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, nửa thành phẩm, bao bì, vật liệu bao bì… Loại vốn này thường xuyên chiếm tỷ trọng tương đối trong vốn lưu động. III. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp 1. Hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng Mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường là cung cấp sản phẩm, lao động dịch vụ cho xã hội nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Để đạt được mục đích đó các doanh nghiệp phải phối hợp tổ chức thực hiện đồng bộ mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong đó, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng trong sản xuất kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong cơ chế cũ, các doanh nghiệp nhà nước coi nguồn cấp phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với "cho không" nên tìm mọi cách để xin được nhiều vốn, vì tiền không phải mua mà được phát nên khi sử dụng vốn doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, nếu kinh doanh thua lỗ đã có nhà nước chịu và trang trải mọi thiếu hụt. Trong cơ chế thị trường hiện nay, các khoản bao cấp về vốn từ ngân sách nhà nước không còn nữa, doanh nghiệp phải tự trang trải mọi chi phí và phải tìm mọi cách kinh doanh sao cho có lãi, phải tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Do đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý, sử dụng đồng vốn một cách chặt chẽ hơn. Mặt khác việc quản lý và sử dụng đồng vốn của doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn khác trước là doanh nghiệp phải bảo toàn vốn, đầu tư mở rộng quy mô phát triển sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty xây dựng công trình giao thông nói riêng và mọi doanh nghiệp nói chung đều phải có mục tiêu đem lại lợi nhuận cao nhất. Đó chính là kết quả bằng tiền do các hoạt động đầu tư và kinh doanh đem lại. Nhưng kết quả trên chỉ được coi là có hiệu quả khi giá trị thu được phải lớn hơn số vốn đầu tư bỏ ra sau khi đã quy chuẩn vốn về cùng một thời điểm. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn thu được của năm sau cao hơn năm trước. Hiệu quả trong các ngành kinh tế nói chung và ngành xây dựng cơ bản nói riêng được thể hiện ở hai mặt, hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp. Hiệu quả trực tiếp là mang lại lợi ích trực tiếp cho người kinh doanh. Hiệu quả gián tiếp là xét trên phạm vi chung của nền kinh tế hoặc một vùng, một lãnh thổ. Hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp của vốn nhìn chung là thống nhất, song cũng có trường hợp mâu thuẫn, đối lập nhau. Thường là khi sử dụng vốn vào những dự án, mục đích cụ thể đem lại hiệu quả kinh tế cao nhưng hiệu quả kinh doanh lai không đạt được. Hiệu quả trực tiếp có sức hút mạnh hơn, bỏ một đồng vốn ra kinh doanh thì người ta đã dự tính rằng họ sẽ thu được bao nhiêu lợi nhuận. Còn với lợi ích gián tiếp có sức hút kém hơn chưa thấy được lợi ích của nó, còn lợi ích cho nền kinh tế thì khó nhận biết. Ngành xây lắp là ngành có kết cấu hạ tầng lớn, các hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao trong vài năm gần đây, luôn mở rộng quy mô sản xuât, duy trì năng lực về vốn, trên thực tế không phải lúc nào cũng làm ăn có lãi. Những công trình thi công ở vùng sâu, vùng xa… việc triển khai thi công rất phức tạp và tốn kém, giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn nên không tránh khỏi thất thoát về vốn thi công. Tuy nhiên, không chỉ có Công ty xây dựng công trình giao thông 874 tham gia sản xuất kinh doanh mà còn có nhiều công ty xây dựng khác có tầm cỡ đang cạnh tranh giành giật lấy từng công trình. Do vậy, việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là phải gắn kết hiệu quả trực tiếp với hiệu quả gián tiếp. Chính vì lý do này mà Công ty cần tính toán sử dụng vốn để lựa chọn công trình, hạng mục công trình có khả năng sinh lời cao, để ưu tiên đầu tư có trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng Vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luân chuyển liên tục, không ngừng từ hình thái này sang hình thái khác. Trong quá trình vận động đó vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng chịu nhiều ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng: Xét về mặt khách quan, hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau: - Do tác động của nền kinh tế có lạm phát, sức mua của đồng tiền bị giảm sút dẫn đến sự tăng giá các loại vật tư hàng hoá. Vì vậy nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của các loại tài sản đó thì sẽ làm cho vốn của doanh nghiệp mất dần theo tốc độ trượt giá của tiền tệ. - Do những rủi ro bất thường trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp thường gặp phải. Trong cơ chế thịi trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia vào hoạt động, cùng cạnh tranh, khi thị trường tiêu thụ không ổn định, sức mua của thị trường có hạn càng làm tăng thêm khả năng rủi ro của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp còn gặp phải rủi ro do thiên nhiên gây nên như: hoả hoạn, lũ lụt… mà doanh nghiệp khó có thể lường trước được. Ngoài các nhân tố khách quan trên còn có rất nhiều các nhân tố chủ quan do chính bản thân doanh nghiệp tạo nên, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng như: - Do xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn sản xuất kinh doanh, đều ảnh hưởng không tốt đến quá trình sản xuất kinh doanh, cũng như hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng của doanh nghiệp. - Lựa chọn phương án đầu tư là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng vốn ứ đọng, hiệu quả sử dụng vốn thấp. - Do cơ cấu vốn đầu tư không hợp lý cũng như nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Bởi vì vốn đầu tư vào các tài sản không cần sử dụng chiếm tỷ trọng lớn thì không những nó không phát huy tác dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh mà còn bị hao hụt, mất mát và khấu hao dần làm hiệu quả sử dụng vốn giảm. - Do việc sử dụng lãng phí vốn, nhất là vốn lưu động trong quá trình mua sắm, dự trữ: Mua các loại vật tư không phù hợp với quy trình sản xuất, không đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng quy định, không tận dụng hết được các loại phế liệu, phế phẩm cũng như tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. - Do trình độ quản lý của doanh nghiệp còn yếu kém, hoạt động sản xuất kinh doanh thu lỗ kéo dài làm cho vốn bị thâm hụt sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng bị suy giảm. 3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động Khi nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn lưu động chủ yếu ta đánh giá trên góc độ: hiệu suất sử dụng đồng vốn, nghĩa là trong kế hoạch một đồng vốn tạo ra bao nhiêu đồng giá trị hàng hoá, bao nhiêu đồng lợi nhuận và hiệu suất sử dụng cảu nó. a. Chỉ tiêu trực tiếp: là những chỉ tiêu phản ánh khă năng sản xuất của vốn lưu động. Một đồng vốn có khả năng đem lại nhiều đồng lợi nhuận thì việc quản lý và sử dụng vốn đó được coi là có hiệu quả. Sức sản xuất của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động bỏ ra thu được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Sức sinh lợi của vốn lưu động, cho một đồng vốn lưu động bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hai chỉ tiêu này càng cao càng tốt và chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. b. Chỉ tiêu gián tiếp : là những chỉ tiêu góp phần tăng khả năng sinh lợi của vốn lưu động một cách gián tiếp. * Chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn lưu động trong kỳ ( thường là 1 năm ) : VN công thức được tính như sau: ( vòng/kỳ) Số vòng quay vốn lưu động trong kỳ càng lớn, trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao. * Kỳ luân chuyển bình quân NV ( số ngày trung bình của một vòng luân chuyển ) (ngày/vòng) Nếu kỳ tính toán là một năm thì: ( ngày/vòng ) Số dư bình quân vốn lưu động ( Vlđ) được xác định theo công thức: ở đây : số dư bình quân vốn lưu động trong năm ( đ) V1, V2,…V12 tổng số vốn lưu động ở đầu mỗi tháng ( đ) VK vốn lưu động ở mỗi năm. Thời điểm 31/12. Như vậy : ( đ) Tổng mức luân chuyển của toàn bộ doanh nghiệp là tổng giá trị sản phẩm tiêu thụ trong năm. Tổng mức luân chuyển của toàn Công ty cũng có thể chia thành ba bộ phận: - Mức luân chuyển riêng của giai đoạn cung cấp, là tổng lượng tiền đã bỏ vào sản xuất kinh doanh ( giá trị nguyên vật liệu … ) - Mức luân chuyển riêng của giai đoạn sản xuất. Đó là lượng giá trị thành phẩm ( cả nửa thành phẩm đã bán ra ) đã nhập kho tiêu thụ, tính theo giá thành sản phẩm. - Mức luân chuyển của giai đoạn tiêu thụ : đó là tổng giá trị sản phẩm đã tiêu thụ, giống như mức luân chuyển toàn doanh nghiệp. Hai chỉ tiêu VN và NV có thể tính chung cho toàn bộ Công ty hoặc có thể cho từng khâu cung cấp sản xuất và tiêu thụ, nhằm qui định nhiệm vụ và đánh giá kết quả sử dụng vốn riêng của từng khâu và toàn bộ Công ty. Điều đó cũng giúp cho việc hạch toán kinh tế nội bộ Công ty. * Chỉ tiêu doanh lợi vốn lưu động DVLĐ Chỉ tiêu này thể hiện: cứ sử dụng 100đ vốn lưu động, doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. * Chỉ tiêu mức độ đảm nhận của vốn lưu động ( Mđ): Chỉ tiêu "mức đảm nhận của vốn lưu động" chỉ rõ để có 100đ doanh thu thuần phải sử dụng bao nhiêu đồng vốn lưu động. Ngoài ra để đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động trong kinh doanh không thể không nói đến hệ số khả năng thanh toán ( lần ) Hệ số này càng cao càng chứng tỏ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng lớn. Tuy nhiên nếu hệ số này quá cao thì điều này lại không tốt vì nó phản ánh sự việc là doanh nghiệp đầu tư quá mức vào tài sản lưu động so với nhu cầu của doanh nghiệp và tài sản lưu động dư thừa không tạo nên doanh thu. Do vậy nếu doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vốn của mình vào tài sản lưu động, số vốn đó sẽ không được sử dụng có hiệu quả. Hệ số thanh toán ngắn hạn chấp nhận được với hệ số k = 2. Nhưng để đánh giá hệ số thanh toán ngắn hạn của một doanh nghiệp tốt hay xấu thì ngoài việc đưa vào hệ số k còn phải xem xét 3 yếu tố sau: + Bản chất ngành kinh doanh + Cơ cấu tài sản lưu động + Hệ số quay vòng của một số loại tài sản lưu động như: hệ số quay vòng các khoản phải thu, hệ số quay vòng hàng tồn kho và hệ só quay vòng vốn lưu động. ( lần ) Hệ số thanh toán nhanh thể hiện giữa các loại tài sản lưu động có khả năng chuyển nhanh thành tiền để thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn. Các loại tài sản được sếp vào loại chuyển nhanh thành tiền gồm : các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu của khách hàng. Còn hàng tồn kho và các khoản ứng trước không được xếp vào loại tài sản lưu động có khả năng thành tiền. Hệ số thanh toán nhanh là một tiêu chuẩn đánh giá khắt khe hơn đối với khả năng chi trả các khoản nợ ngắn hạn so với hệ số thanh toán ngắn hạn. 4. Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động Phương pháp so sánh: so sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu thế thay đổi, đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động sản xuất kinh doanh. So sánh giữa số thực hiện và số kế hoạch để thấy được mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu trong doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp so với toàn ngành. So sánh theo chiều dọc hay chiều ngang các báo cáo tài chính. Phương pháp phân tích tỷ lệ: phương pháp này dựa vào ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc cần phải xác định được các ngưỡng, các định mức để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu. Ngoài ra, có thể kết hợp hai phương pháp trên cùng một lúc để đánh giá các chỉ tiêu nhằm nâng cao tính chính xác và hợp lý. IV. Các phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong Công ty Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp có nghĩa là sử dụng các biện pháp tổ chức kỹ thuật làm tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động, giảm số ngày của kỳ luân chuyển bình quân, tiết kiệm tương đối vốn lưu động và nâng cao doanh lợi của vốn lưu động. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, việc tách riêng phần vốn lưu động để đánh giá hiệu quả sử dụng của nó chưa thể xem như là việc làm hoàn hảo. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có một số phương pháp: Quản lý vốn lưu động khoa học và hiệu quả. Nếu quản lý vốn lưu động không tốt, hoạch định và kiểm soát vốn lưu động không chặt chẽ thì sẽ dẫn đến nguy cơ làm ăn thu lỗ, thâm chí doanh nghiệp sẽ bị phá sản, ngược lại nếu quản lý vốn lưu động tốt thì các doanh nghiệp sẽ nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn lưu động, tạo đà phát triển mạnh mẽ. Để quản lý vốn lưu động khoa học và hiệu quả thì doanh nghiệp cần phải áp dụng các phương pháp quản lý vốn lưu động phù hợp nhất với đặc điểm của từng khoản mục cấu thành vốn lưu động và hoạt động quản lý gồm các bội dung chính sau: + Lập kế hoạch xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh huy đ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0090.doc
Tài liệu liên quan