Các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương trong quản lý vĩ mô của Nhà nước

lời nói đầu Đề tài: Các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương trong quản lý vĩ mô của Nhà nước Từ khi có pháp lệnh Ngân hàng, hệ thống Ngân hàng Việt nam được hình thành và thực hiện theo hai cấp đã cho phép Ngân nàng Nhà nước đóng vai trò Ngân hàng Trung ương và từ đây ra đời một hệ thống công cụ chính sách tiền tệ được đúc rút từ kinh nghiệm của nhiều nước trên Thế giới. Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý Nhà nước đối với Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng đã từng bư

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1598 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương trong quản lý vĩ mô của Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc tiếp cận với cơ chế mới trong việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ Quốc gia thông qua các công cụ trực tiếp hoặc gián tiếp như hạn mức tín dụng, nghiệp vụ tiêu thụ mở hoặc cạnh tranh dự trữ bắt buộc. Công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương thời gian qua đã góp phần nhất định vào sự phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ đất nước. Tuy nhiên trong việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ chúng ta còn gặp nhiều trở ngại. Trước hết là sự am hiểu về một phương pháp điều hành mới còn nhiều hạn chế trong khi nền kinh tế chuyển đổi còn thiếu những điều kiện để điều hành chính sách tiền tệ theo nghĩa gốc của mỗi công cụ. Vì vậy đối với Ngân hàng Trung ương việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ Quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là ẩn số và chắc chắn có những bắt cập là điều khó tránh khỏi. Chính vì thế, chuyên đề này tập trung phân tích nội dung các công cụ, thực hiện điều hành chính sách tiền tệ ở Việt nam, kinh nghiệm trên Thế giới và một số điều kiện để chuyển đổi công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp, góp phần nâng cao tính hiệu quả và sự linh hoạt của các công cụ chính sách tiền tệ. nội dung Chương I: Ngân Hàng Trung ương và các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. I. Ngân hàng Trung ương với vài trò điều hành chính sách tiền tệ. ở tất cả các nước Ngân hàng Trung ương được sử dụng như một công cụ quan trọng để điều chỉnh kinh tế của Nhà nước. Ngân hàng Trung ương tuy không tham gia vào thị trường tài chính nhưng nó quản lý mọi hoạt động về tiền tệ tín dụng của quốc gia. Điều hành chính sách tiền tệ là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng Trung ương. Công cụ chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà Ngân hàng Trung ương thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong một thơì kỳ nhất định. Các công cụ chính sách tiền tệ của các Quốc gia trên thế giới hiện nay đều hướng vào các mục tiêu chủ yếu là: - Tạo ra và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế: Đây là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất của chính sách tiền tệ. Vì rằng mục tiêu này là mục tiêu bao trùm để giải quyết hàng loạt các mục tiêu khác. - ổn định giá cả: Vì ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế vi mô cũng như vĩ mô. ổn định giá cả giúp cho Nhà nước hoạch định được phương hướng phát triển kinh tế một cách có hiệu quả hơn vì loại trừ được sự biến động của giá cả. ổn định giá cả giúp cho môi trường đầu tư ổn định góp phần thu hút vốn đầu tư, khai thác mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy các doanh nghiệp cũng như các cá nhân phát triển sản xuất đem lại nguồn lợi cho mình cũng như xã hội. - Cân bằng cán cân thanh toán. Tuy nhiên trong hoàn cảnh và điều kiện kinh tế ở từng nước, trình độ quản lý và các vấn đề kinh tế xã hội của nước mà chính sách tiền tệ hướng ưu tiên vào các mục tiêu khác nhau. Mặt khác cùng một lúc chính sách tiền tệ không thể đạt được tất cả các mục tiêu vì có khi các mục tiêu mâu thuẫn với nhau. Chẳng hạn: Về mặt dài hạn không có mâu thuẫn giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ nhưng trong ngắn hạn có những mục tiêu phù hợp nhưng cũng có mục tiêu mâu thuẫn, thậm chí đối nghịch. Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, giảm lạm phát để đảm bảo giá trị đồng tiền, điều đó dẫn đến lãi suất tăng lên, không khuyến khích đầu tư và thất nghiệp có xu hướng tăng trong khi muốn duy trì một tỷ lệ thất nghiệp thấp thì phải khuyến khích đầu tư, dẫn đến thực thi chính sách tiền tệ mở rộng làm tăng giá. Sự mâu thuẫn giữa mục tiêu công ăn việc làm và mục tiêu ổn định giá còn được thể hiện do mức cung tiền tệ nhằm thoả mãn mức cầu tiền thực tế dẫn đến giá cả hàng hoá tăng theo... Để đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ Ngân hàng Trung ương phải xác định mục tiêu trung gian để có thể xét đoán nhanh chóng được tình hình thực hiện các hoạt động của mình phục vụ cho các mục tiêu cuối cùng, hơn là chờ cho đến khi nhìn thấy được kết quả cuối cùng của các mục tiêu đó. Mục tiêu trung gian là điều tiết cung tiền thông qua chi phối dòng tiền chu chuyển và khối lượng tiền. Xét cho cùng Ngân hàng Trung ương có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ phù hợp với tình hình thực tiễn của nền kinh tế: - Chính sách tiền tệ mở rộng: Là chính sách tăng tiền cung ứng vào lưu thông, dẫn đến trong lưu thông thừa tiền. Trong trường hợp khi nền kinh tế có dấu hiệu của sự suy thoái, Ngân hàng Trung ương sẽ hoạch định theo hướng chính sách mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động. - Chính sách tiền tệ thắt chặt: Là chính sách thu hẹp lượng tiền cung ứng dẫn đến trong lưu thông khan hiếm tiền. Trong trường hợp nền kinh tế có nhứng dấu hiệu lạm phát gia tăng, thì Ngân hàng Trung ương sẽ hoạch định chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự tăng trưởng quá mức của nền kinh tế. Để thực hiện hai chính sách tiền tệ này Ngân hàng Trung ương có thể sử dụng nhiều loại ccông cụ tiền tệ trong tầm tay của mình, các công cụ được chia thành công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp. II. các công cụ của chính sách tiền tệ. Công cụ của chính sách tiền tệ là hệ thống các biện pháp mà Ngân hàng Trung ương có thể sử dụng để tác động vào các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Để thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương đã sử dụng hàng loạt các công cụ như công công cụ tài cấp vốn, lãi suất tín dụng dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở... Mỗi loại công cụ đều có cơ chế tác động riêng và đem lại những kết quả trên những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên các công cụ này đều nhằm ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến lượng tiền cung ứngvà lãi suất để từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. 1.Công cụ trực tiếp: Công cụ trực tiếp là công cụ có tác động về lượngvà Ngân hàng Trung ương kiểm soát công cụ bằng biện pháp hành chính. Khi Ngân hàng Trung ương sử dụng công cụ trực tiếp, nó tác động vào mục tiêu trung gian, từ mục tiêu trung gian đã tác động đến tổng cầu. 1.1. Hạn mức tín dụng: Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các tổ chức tín dụng phải tôn trọng trong khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Thực chất biện pháp này cho phép Ngân hàng Trung ương ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm con đường để đưa nó vào nền kinh tế. Việc quy định hạn mức tín dụng thường được Ngân hàng Trung ương sử dụng khi nền kinh tế có nhiều biến động để kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông đảm bảo cho sự bình ổn của tiền tệ, giá cả. Hạn mức tín dụng sé phát huy được tác dụng trong điều kiện có lạm phát. Song trong nền kinh tế thị trường, cung - cầu tín dụng biến động không ngừng, biện pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu. Khi sử dụng hạn mức tín dụng là khống chế dư nợ của các Ngân hàng thương mại, từ đó quyết định đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế vì mỗi khoản cho vay cấu thành dư nợ tín dụng của các Ngân hàng thương mại thì tương ứng với nó là một lượng nguồn vốn tiền gửi huy động, từ đó ảnh hưởng đến tỷ trọng vốn tín dụng so với lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàng Trung ương tăng hạn mức tín dụng dẫn đến tăng khả năng tạo tiền qua hệ thống Ngân hàng, do đó làm tăng lượng tiền cung ứng và ngược lại. Hạn mức tín dụng tác động vào hệ số mở rộng tiền tệ nên tác động vào lượng tiền cung ứng Là công cụ hành chính nên Ngân hàng Trung ương chủ động thay đổi quy định hạn mức tín dụng theo mong muốn để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Khi các công cụ khác không có điều kiện áp dụng thì công cụ này có ý nghĩa quan trong với Ngân hàng Trung ương và công cụ này có thể phát huy hiệu quả trong trường hợp lạm phát cao. Tuy nhiên đây là công cu hành chính và do con người xác định nên không thể chính xác và nó sẽ không có hiệu quả khi hạn mức tín dụng mà nhtư quy định không phù hợp với nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Đây là công cụ kém linh hạt, không thể thay đổi thường xuyên. Một khi hạn mức tín dụng không chính xác thì Ngân hàng Trung ương không thể chủ động sử dụng hạn mức để điều tiết lượng tiền cung ứng. Ngân hàng Trung ương thường chỉ sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để khống chế lượng tiền cung ứng trong điều kiện nền kinh tế không thể sử dụng được các công cụ gián tiếp. 1.2. Lãi suất tiền gửi và cho vay. Ngân hàng Trung ương có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và cho vay buộc các Ngân hàng kinh doanh phải thi hành. Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng nguồn vốn cho vay. Ngược lại sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Song biện pháp này sẽ làm cho Ngân hàng thương mại mất tính chủ động linh hoạt trong kinh doanh. Khi muốn tăng khối lượng cho vay, Ngân hàng Trung ương giảm mức lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn khi cần hạn chế đầu tư, Ngân hàng Trung ương ấn định mức lãi suất cao. Công cụ này không phù hợp với cơ chế thị trường hạn chế sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại. Đặc biệt trong trường hợp Ngân hàng Trung ương ấn định mức lãi suất không phù hợp như mức lãi suất quá thấp sẽ làm cho cầu tiền tăng nhanh hơn dự đoán, các ngân hàng sẽ gặp khó khăn về nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu này, mặt khác nếu mức lãi suất cao sẽ làm cầu tiền giảm dẫn đến đầu tư giảm, hệ thông Ngân hàng thương mại sẽ không kịp điều chỉnh theo,bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Khi Ngân hàng Trung ương ấn định lãi suất, buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành hạn chế tính linh hoạt của thị trường tiền tệ. Lãi suất do Ngân hàng Trung ương ấn định sẽ làm giảm tính chủ động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó ưu điểm của biện pháp này Ngân hàng lựa chọn những dự án kinh tế tối ưu để cho vay loại bỏ những dự án kinh tế kém hiệu quả. Tóm lại, các công cụ trực tiếp đều có điểm chung là dựa trên cơ sở thiết lập hoặc khống chế mức giá (lãi suất) hoặc khối lượng (hạn mức tín dụng) theo những quy chế ép buộc làm giảm linh hoạt của thị trường. 2. Các công cụ gián tiếp. Công cụ gián tiếp là những công cụ mà tác dụng của nó được là nhờ cơ chế thị trường (Hay công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ là công cụ tác động vào mục tiêu trung gian thông qua việc điều chỉnh các mục tiêu cuối cùng. 2.1. Dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng giử tại Ngân hàng Trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nó được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tuy theo tính chất và thời hạn mà các tổ chức tín dụng huy động được. Dự trữ bắt buộc bị tác động trực tiếp bởi tỷ lệ dự tứ bắt buộc do Ngân hàng Trung ương quy định bằng việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng làm giảm khả năng cho vay và đầu tư của Ngân hàng thương mại, từ đó giảm lượng tiền trong lưu thông, góp phần giảm cầu tiền để cân bằng với sự giảm cung xã hội. Như vậy tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng cao mức độ an toàn trong hoát động của các Ngân hàng thương mại càng cao, tuy nhiên nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá cao đến mức nào đó sẽ làm cho các Ngân hàng thương mại mất khả năng tạo tiền - một khả năng cần có của Ngân hàng. Trong trường hợp giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng mở rộng cho vay của Ngân hàng thương mại sẽ tăng lên, đẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng cung xã hội để có thể cân đối tăng cầu về tiền. Như vậy đây là công cụ kiểm soát cung tiền tệ một cách hữu hiệu. Dự trữ bắt buộc là công cụ chủ động của Ngân hàng Trung ương, Ngân hàng Trung ương có quyền quy định mà các Ngân hàng thương mại không có quyền phản đối, sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tuỳ thuộc vào ý muốn của Ngân hàng Trung ương. Thay đổi dự trữ bắt buộc sẽ gây tác động mạnh đến thay đổi lượng tiền cung ứng vì Ngân hàng Trung ương chỉ cần thay đổi một tỷ lệ phần trăm nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì sẽ dẫn đến thay đổi bội số của lượng tiền cung ứng vì nó tác động đến tất cả các tổ chức tín dụng. Tóm lại, dự trữ bắt buộc có tác dụng ngay lập tức đến cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số nhân cung ứng tiền tệ. Diểm lợi chính của việc sử dụng dự trữ bắt buộc là nó có tác dụng đầy quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên tăng, giảm dự trữ bắt buộc không thể thay đổi thường xuyên vì nếu thay đổi thường xuyên sẽ gây xáo trộn của tổ chức tín dụng, dẫn đến việc quản lý vốn khả dụng của Ngân hàng thương mại trở nên khó khăn. Tiền gửi dự trữ bắt buộc không tính lãi nên sẽ ảnh hưởng đến chi phí của các tổ chức tín dụng, nếu dự trữ bắt buộc cao dẫn đến chi phí lớn coi như một khoản thuế đánh vào các tổ chức tín dụng. Vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc là giải pháp tình thế khi cần thiết phải thắt chặt tiền tệ. Hiện nay một số nước không còn chú ý đến công cụ này nữa và có thể quy định mức dự trữ bắt buộc bắng 0 hoặc kết hợp với các công cụ khác để thực thi chính sách tiền tệ. Vì vậy công cụ dự trữ bắt buộc không được khuyến khích nắm và ít được sử dụng. 2.2. Lãi suất tái chiết khấu. Chính sách tài chiết khấu thể hiện qua việc Ngân hàng Trung ương cung ứng vốn tín dụng cho Ngân hàng thương mại. Chính sách tài chiết khấu được thực hiện thông qua các cửa sổ chiết khấu. Ngân hàng Trung ương áp dụng lãi suất chiêt khấu và qui định các điều kiện để tài chiết khấu cho các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Trung ương áp dụng chính sách tái chiết khấu: Là lãi suất mà Ngân hàng Trung ương áp dụng để chiết khấu lại các giấy tờ có giá của Ngân hàng thương mại. Đây là loại cho vay có đảm bảo. Lãi suất tái chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tái chiết khấu tăng sẽ tác động vào mặt bằng giá vốn đầu tư của Ngân hàng thương mại, gây áp lực và lãi suất nền kinh tế sẽ tăng theo, thu hẹp khả năng cho vay của Ngân hàng thương mại dẫn đến hệ số tạo tiền giảm và ngược lại. Việc tăng lãi suất tài chiết khấu cũng gây hiệu ứng thông báo, nhà kinh doanh sẽ biết tác động của Ngân hàng Trung ương thông qua chính sách chiết khấu tối thị trường. Người đầu tư giám sát sự thông báo lãi suất của Ngân hàng Trung ương để dự tính được xu hướng thay đổi lãi suất để tìm biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn làm thay đổi tiền gửi và lãi xuất cho vay đồng thời tác động giá chứng khoán. Đi kèm với lãi suất tài chiết khấu Ngân hàng Trung ương còn qui định hạn mức tái chiết khấu tức là qui định cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất đã qui định để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các tổ chức tín dụng vay của Ngân hàng Trung ương. Đồng thời Ngân hàng Trung ương còn qui định các tiêu chuẩn thể hiện tài chiết khấu như về thời hạn về thể loại giấy tờ có giá, chất lượng giấy tờ có giá, và uy tín của tổ chức tín dụng khi vay vốn của Ngân hàng Trung ương. Biện pháp này có ưu điểm là việc vay mượn được thực hiện trên nền của các giấy tờ có giá nên thời hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền vận động phù hợp với sự vận động của quy luất cung cầu thị trường. Một ưu điểm quan trọng khác nữa là nó giúp Ngân hàng Trung ương thực hiện vai trò ngươi cho vay cuối cùng nhằm tránh khỏi những cơn suy sụp tài chính. Chiết khấu là một cách có hiệu quả đặc biệt để cung cấp dự trữ cho hệ thông Ngân hàng trong quá trình xảy ra một cuộc khủng hoảng bởi vì dữ trữ lập tức được điều đến các Ngân hàng. Chính sách chiết khấu còn có tác dụng thông báo quyết định của Ngân hàng Trung ương về chính sách tiền tệ trong tương lai. Tuy nhiên công cụ này cũng có nhiều hạnh chế, nó không phát huy hiệu quả khi các điều kiện tài chiết khấu không đảm bảo. Nhiều khi Ngân hàng Trung ương không thể chủ động chi phối được số tiền tài chiết khấu vì nó phụ thuộc vào nhu cầu vốn của tổ chức tín dụng. Sự cân bằng tài sản nợ và tài sản có của Ngân hàng thương mại sẽ dẫn đến Ngân hàng thương mại sẽ không có nhu cầu vay của Ngân hàng Trung ương. Khi đó lãi suất sẽ không có ý nghĩa tác động điều chỉnh lượng tiền vay. Mặt khác công cụ này có ý nghĩa tác động một chiều. Khi cần tăng tiền cung ứng thì Ngân hàng Trung ương sẽ điều chỉnh lãi suất thấp để các Ngân hàng thương mại có nhu cầu vay và sẽ gặp khó khăn khi cần thu tiền về, vì bị ràng buộc bởi thời gian. Khi thay đổi chính sách lãi suất chiết khấu mà không có tác dụng thì không phát huy được hiệu ứng thông báo của công cụ lãi suất. Vì thế để khắc phục phải biết kết hợp công cụ này với các công cụ khác như công cụ dự trữ bắt buộc. 2.3. Nghiệp vụ thị trường mở. Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đố người ta thực hiện việc mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn. Nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác động vào các mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá và lượng. Về mặt lượng: Là ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở vào dự trữ của Ngân hàng thương mại. Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện việc mua chứng từ có giá trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của Ngân hàng thương mại tăng lên và khi Ngân hàng Trung ương bán các chứng từ có giá trên thị trường mở dẫn đến dự trữ của Ngân hàng thương mại giảm đi. Như vậy khi Ngân hàng Trung ương thực hiện nghiệp vụ thị trường mở nó sẽ tác động vào dự trữ của Ngân hàng thương mại làm ảnh hưởng đến khối lượng tiền cung ứng. Về mặt giá: Khi Ngân hàng Trung ương mua các giấy tờ có giá sẽ làm tăng dự trữ của Ngân hàng thương mại , cung vốn tín dụng cũng tăng lên. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn làm lãi suất ngắn hạncó xu hướng giảm xuống và tác đôngj vào lãi suất có kỳ hạn giảm xuống. Bên cạnh đó Ngân hàng Trung ương thực hiện mua chứng từ có giá trị trên thị trường mở sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các chứng từ có giá, đẫn đến có sự chuyển dịch vốn đầu tư làm ảnh hưởng đến lãi suất thị trường, tác động vào cung cầu vốn trên nền kinh tế, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện mua, bán các chứng từ có giá trên thị trường mở sẽ tác động vào giá cả của chứng từ cá giá và khi Ngân hàng Trung ương thực hiện can thiệp vào giá cả của các chứng từ có khối lượng chiếm tỷ trọng lớn thì vai trò can thiệp của Ngân hàng Trung ương càng có ý nghĩa quan trọng tác động vào lượng tiền cung ứng. Đây được coi là công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ vì nó có những ưu điểm hơn hẳn so với những công cụ khác. - Phát huy theo ý tưởng chủ đạo của Ngân hàng Trung ương trong đó, Ngân hàng Trung ương hoàn toàn kiểm soát được khối lượng giao dịch việc kiểm soát này là không thể có được, chẳng hạn như nghiệp vụ tài chiết khấu. - Nghiệp vụ này vừa linh hoạt, vừa chính xác, có thể sử dụng được ở bất cứ mức độ nào khi có yêu cầu. - Nghiệp vụ này dễ dàng đảo chiều tức là khi có một sai lầm trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường tự do Ngân hàng Trung ương có thể sửa chữa ngay lại bằng cách tiến hành mua bán trên thị trường tự do. - Nghiệp vụ thị trường tự do có thể tiến hành một cách nhanh chóng không gây những chậm trễ về mặt hành chinh. Từ những ưu điểm trên mà nghiệp vụ thị trường mở được nhiều nước sử dụng là công cụ chính sách tiền tệ. Tuy nhiên nghiệp vụ thị trường mở còn có một số hạn chế. Hạn chế lớn nhất của nghiệp vụ này là để công cụ này phát huy hiệu quả thì quốc gia đó phải có thị trường tài chính phát triển, hàng hoá của thị trường là các giấy tờ có giá ngắn hạn phải phong phú, đa dạng. Ngân hàng Trung ương phải có khả năng dự báo được vốn khả dụng của toàn hệ thống để can thiệp mua bán, có như vậy việc can thiệp mới có ý nghĩa lớn trong việc tác động vào lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàng Trung ương mua, bán làm tác động đến lượng tiền Trung ương từ đó ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng, vì vậy để tránh ảnh hưởng này thì Ngân hàng Trung ương phải có các giải pháp xử lý thích hợp. III. sự cần thiết phải chuyển đổi từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp. ở những nước có nền tài chính sơ khai, không có tính canh tranh, các công cụ trực tiếp được lựa chọn tạm thời khi khung thể chế cho các công cụ gián tiếp chưa phát triển. Các công cu trực tiếp được thừa nhận là đáng tin cậy trong việc kiểm soát tổng khối lượng tín dụng, chúng tương đối dễ áp dụng và lý giải đồng thời chi phí thực hiện tương đối thấp. Song bên cạnh đó các công cụ này lại có nhiều nhược điểm nên không cho phép Ngân hàng Trung ương điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng, từ đó có thể dẫn đến những thiệt hại do phân bổ lãng phí các nguồn lực, ngoài ra các công cu trực tiếp này càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng và do đó làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ. Việc sử dụng các công cụ trực tiếp chỉ cho phép chính sách tiền tệ tác động đến các mục vĩ mô thông qua các kênh truyền dẫn trực tiếp, không thực hiện được các kênh dẫn truyền đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và thị trường tài chính với những ảnh hưởng thông qua giá trái phiếu, cổ phiếu và giá ngoại tệ. Với các công cụ gián tiếp, đặc biết là nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng trung ương có thể đa phương tác động để đạt được các mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ qua các kênh truyền trực tiếp và cả gián tiếp. Việc phân tích những hạn chế của công cụ trực tiếp, cũng như những lợi thế của công cụ gián tiếp, đặc biệt là công cụ thị trường mở ở những phần trên đã cho thấy lợi ích của việc chuyển sang sử dụng công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt và hiệu quả hơn. Đặc biệt là trước xu thế hội nhập kinh tế toàn diện trên thế giới thì một chính sách tiền tệ cứng nhắc kém linh hoạt sé không đảm bảo cho nền kinh tế thích ứng được với những thay đổi mạnh mẽ từ bên ngoài do đó đòi hỏi chuyển các công cụ trực tiếp sang gián tiếp trở nên cần thiết hơn. IV. kinh nghiệm của một số nước trong quá trình chuyển đổi từ công cụ trực tiếp sang gián tiếp. Chúng ta sẽ xem xét những nước đại diện rộng rãi cho kinh nghiệmchuyển đổi này là các nước công nghiệp phát triển và 19 nước không thuộc nhóm công nghiệp phát triển là ACHENTINA, DRUDI, ASRAEL, JAMAICA, KENGA, MALAISIA, MEHICO, PHILLIPINES, BALAN, SRILANCA, THAILAND, JUNISIA, VENEZUELA. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển cho thấy quá trình chuyển đổi (diễn ra trong nhứng năm 70, 80 ở những nước này) là một bộ phận của quá trình tự do hoá tài chính rộng rãi. Phần lớn quá trình chuyển đổi được tiến hành từng bước và không gặp phải những khó khăn hay đảo lộn lớn, chủ yếu là nhờ vào những điều kiện thuận lợi quan trọng ban đầu đặc biệt là không có những mất cân đối vĩ mô trầm trọng. Tuy vậy hai nước Anh và Pháp đã vấp phải trong những lỗ lực đầu tiên nhằm hoàn toàn dựa vào công cụ gián tiếp. Với các nước không thuộc khối công nghiệp phát triển thì thời gian cần thiết để hoàn thành quá trình chuyển đổi thường khá dài và thường gặp phải những khó khăn và đảo lộn tạm thời, ở những nước này việc đưa và sử dụng những công cụ gián tiếp là một bộ phận của quá trình cải cách sâu rộng bao gồm không chỉ tự do hoá khu vực tài chính mà còn ổn định vĩ mô và tự do hoá nền kinh tế nói chung. Kinh nghiệm chung của các quốc gia cho thấy cần phải mở rộng hơn nữa khu vực tài chính cho những “ứng cử viên” mới và nâng cao quyền tự chủ trong kinh doanh của các Ngân hàng. Ngoài ra thị trường liên Ngân hàng, thị trường tiền tệ yếu kém và bị phân đoạn, tính độc lập thấp và sự kém hiệu quả trong quản lý của Ngân hàng Trung ương là yếu tố gây cản trở cho quá trình chuyển đổi. Các nước có khả năng thực hiện kiểm soát trực tiếp có hiệu quả và đạt được những mục tiêu tiêng tệ của mình chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 2/3. Hầu hết các hệ thồng Ngân hàng có dự trữ vượt quá, hậu quả của bành trướng dự trữ vượt quá này được chế ngự bằng các biện pháp kiểm soát trực tiếp. Trong số những nước bị khủng hoảng tài chính có nước buộc phải đưa vào sử sụng loại công cụ kiểm soát lãi suất để giảm gánh nặng lãi suất thực cao cho người vay và Ngân hàng, còn có những nước chỉ coi việc sử dụng trở lại các công cụ trực tiếp chỉ là phương pháp đối phó tức thời với những mất cân đối quá ư trầm trọng. Kinh nghiệm sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ rất khác nhau ở mỗi nước. Sự khác biệt này đặc trưng cho nhịp độ phát triển của quá trình chuyển đổi. Song chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm chung sau: - Để ngăn chặn những đảo lộn trong quá trình chuyển đổi, các nước đã thực hiện một số biện pháp hữu hiệu: hoàn thiện cơ chế giám sát Ngân hàng, chỉnh sửa khung pháp lý và cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng. Các nỗ lực nhằm kiềm chế những mất cân đối tài chính nghiêm trọng đã được thực hiện mà nét tiêu biểu là các khoản tài trợ của Ngân hàng Trung ương đã bị cát gảm. - Thường có một giai đoạn trong đó Ngân hàng Trung ương đồng thời sử dụng cả hai chuyển đổi trực tiếp và gián tiếp. Chẳng hạn chỉ có 25% trong số các nước đã phân tích, đã huỷ bỏ công cụ hạn mức tín dụng tại thời điểm khởi đầu quá trình tự do hoá. - Chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay được sử dụng như một tiêu thức đánh giá hiêụ quả các hoạt động tín dụng của các tổ chức trung gian tài chính. Khi hiệu quả và cạnh tranh trong hệ thống tài chính tăng lên thì chênh lệch lãi suất đã được thu hẹp. Trong hầu hết các nước trên, chênh lễch lãi suất đã thu hẹp đáng kể mặc dù ở một số nước chúng tạm thời mở rộng trong quá trình chuyển đổi. Trong toàn bộ các nước đã phân tích, sự biến động của hệ số nhân tiền đã gia tăng nghiêm trọng trong các thời kỳ trước và trong chuyển đổi làm suy yếu khả năng kiểm soát tiền tệ của Ngân Hàng Trung ương. Nhưng trong giai đoạn sau chuyển đổi, ở hầu hết các nước sự biến động của hệ số nhân tiền đã giảm đáng kể và khả năng kiểm soát tiền tệ đã được củng cố. Chương II. Thực trạng về công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam. I. Bối cảnh chung. Đảng Cộng Sản Việt nam lần thứ 6 đã đánh dấu sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Bước ngoặt này là tiền đề khách quan, là điều kiện mới cho cải cách tổ chức hoạt động hệ thống Ngân hàng và định hướng chính sách tiền tệ ở Việt nam. Từ năm 1990, sau khi 2 pháp lệnh Ngân hàng được ban hành (pháp lệch về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệch Ngân hàng - Hợp tác xã tín dụng - Công ty tài chính), hệ thống Ngân hàng Việt nam chuyển đổi từ một cấp sang 2 cấp, phân định ró chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần với hệ thống Ngân hàng của nền kinh tế tiền tệ. Công cụ chính sách tiền tệ được xác định thông qua xây dựng các chính sách cụ thể: chính sách tín dụng tạo ra nhiều công cụ huy động vốn và đồng thời mở rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế; chính sách lãi suất (xoá bỏ bao cấp qua lãi suất cho vay, thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay phù hợp với sự biến động của chỉ số lạm phát...); chính sách quản lý ngoại hối và một số các công cụ hỡ trợ khác. Đến tháng 10 năm 1998, luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng bắt đầu được thực thi, thay thế hai pháp lệnh năm 1990 nhằm giúp hoạt động của hệ thống Ngân hàng tự do hơn, thông thoáng hơn phù hợp với thay đổi lớn lao trong hệ thống Ngân hàng. II. công cụ chính sách tiền tệ của Việt nam qua các giai đoạn. Công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương là tổng hoà các giải pháp đảm bảo ổn định đồng tiền và thị trường tiền tệ , góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Đứng trên phương diện này, thời kỳ 1986 đến nay có thể chia làm 4 giai đoạn. 1. Giai đợan 1986 - 1988. Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổng cầu luôn vượt tổng cung. Nền kinh tế đang ở giai đoạn khủng hoảng do thiếu hụt ngân sách. Như vậy Nhà nước đã bành trướng tăng tiền làm cho lạm phát đạt kỷ lục 3 con số. Nhiệm vụ trung tâm lúc này là chống lạm phát. Do vậy đã có 2 thay đổi lớn trong lĩnh vực tiền tệ: Đưa tỷ giá hối đoái nên ngang mức giá thị trường và thi hành lãi suất thực dương nhằm tạo nên xung lực mạnh mẽ làm đảo lộn tình hình trên thực tế, hai biện pháp này đã đẩy lùi được lạm phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin của người dân vào đồng tiền tạo động lực để thực hiện đổi mới. 2. Giai đoạn 1989 -1991. Đây là giai đoạn nền kinh tế đong trong quá trình chuyển đổi, tuy các chính sách kinh tế mới đã cắt được lạm phát cao nhưng lạm phát năm 1990 - 1991 vẫn lên tới 60%. Nhà nước đã thực hiện những biện pháp thắt chặt chi tiêu tài chính, tiết kiệm chi, giảm bội chi, tăng cường hoạt động của các Ngân hàng nhằm đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho tăng trưởng. Đặc biệt việc cải cách hệ thống thuế đã tăng cường các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. 3. Giai doạn 1992 - 1995. Công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam được coi là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ do Ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm soạn thảo và thực thi nhằm ổn định giá trị đồng tiền, ổn định tăng trưởng kinh tế. Thời kỳ này mục tiêu của công cụ chính sách tiền tệ đặt ra là: ổn định tiền tệ bao gồm ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đông tiền, tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm cao. Nhận thức nội dung chủ yếu của thời kỳ này thông qua các chính sách: Chính sách cung ứng và điều tiết khối lượng tiền, chính sách ngoại hối, chính sách tạm ứng cho ngân sách, chính sách cung ứng và điều tiết tiền lúc này đã nhận thức được khối tiền tệ: M1: Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thông Ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại Ngân Hàng. M2: Gồn M1 và tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn. M3: Gồn M2 và các loại tiền gửi các định chế tổ chức khác. L: Gồm M3 và các giấy tờ có giá Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, do đó trong quá trình xác định chi tiêu này Ngân hàng Nhà nước quán triệt các nguyên tắc: - Căn cứ vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Khối lượng tiền tệ tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. - Khối lượng tiền cung ứng có tính đến phạm vi tỷ lệ lạm phát. - Khối lượng tiền cung ứng dựa vào ngoại hối trong tay người cư trú. - Tiền cung ứng chịu ảnh hưởng bởi tốc đọ lưu thông tiền tệ theo công thức: GNP V= M P x Q V= M Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm hàng năm bao gồm tiền mặt, các loại tiền gửi ở Ngân hàng nhằm dành cho nhu cầu đầu tư tín dụng cho nền kinh tế, tăng dự trữ ngoại hối và tạm ứng cho ngân sách. Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm chỉ là một chỉ tiêu định hướng, điều quan trọng là Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, giá cả và tỷ giá hối đoái để điều chỉnh kịp thời v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35282.doc
Tài liệu liên quan