Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCX – KCN tại TP.HCM

MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ CÁC KHU CHẾ XUẤT KHU CÔNG NGHIỆP ......................................................................................... 1 1.1 Một số khái niệm ............................................................................................ 1 1.1.1 Khu chế xuất ..................................................................................... 1 1.1.2 Khu công nghiệp ...............................................................................

pdf108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCX – KCN tại TP.HCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 1.1.3 Khu công nghệ cao............................................................................. 2 1.1.4 Khu sản xuất hàng thay thế nhập khẩu.............................................. 2 1.1.5 Khu kinh tế tự do ............................................................................... 2 1.1.6 Khu mậu dịch tự do ............................................................................ 3 1.1.7 Đặc khu kinh tế ................................................................................. 3 1.2 Các loại hình khu công nghiệp ....................................................................... 3 1.2.1 Loại hình thứ nhất .............................................................................. 3 1.2.2 Loại hình thứ hai ............................................................................... 4 1.2.3 Loại hình thứ ba ................................................................................ 4 1.2.4 Loại hình thứ tư ................................................................................. 4 1.3 Một số điều kiện hình thành và phát triển khu chế xuất – khu công nghiệp ............. 4 1.4 Vai trò của khu chế xuất – khu công nghiệp đối với công cuộc công nghiếp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam. .......................................................... 6 1.4.1 Vài nét về tình hình phát triển khu chế xuất – khu công nghiệp ở Việt Nam.......................................................................................................... 6 1.4.2 Vai trò của khu chế xuất – khu công nghiệp .................................. 15 1.5 Lợi ích về phát triển khu chế xuất khu công nghiệp trong tương lai............. 17 1.6 Những bài học rút ra từ kinh nghiệm phát triển các khu chế xuất – khu công nghiệp của các nước Châu Á ................................................................ 20 CHƯƠNG 2 : PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC KHU CHẾ XUẤT – KHU CÔNG NGHIỆP TẠI TP. HỒ CHÍ MINH. .................................................................................. 33 2.1 Khái quát về qui hoạch tổng thể các khu chế xuất – khu công nghiệp ........ 33 2.2 Phân tích quá trình đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp tại Tp. Hồ Chí Minh........................................................................... 43 2.3 Tình hình thu hút đầu tư ................................................................................ 46 2.4 Hiện trạng hoạt động của các doanh nghiệp khu chế xuất – khu công nghiệp ....... 48 2.5 Tình hình sử dụng nguồn lao động................................................................. 54 2.6 Công tác quản lý nhà nước đối với khu chế xuất khu công nghiệp .............. 56 2.7 Đánh giá về những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động của các khu chế xuất – khu công nghiệp ở Việt Nam ................................................ 59 CHƯƠNG 3 : CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC KHU CHẾ XUẤT – KHU CÔNG NGHIỆP TẠI TP. HỒ CHÍ MINH ............................................. 68 3.1 Quan điểm về thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp................................ 68 3.2 Những giải pháp nhằm tạo thuận lợi cho công việc xây dựng khu chế xuất – khu công nghiệp.................................................................................. 70 3.2.1 Chính sách về nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực .................. 70 3.2.2 Chính sách tài chính tiền tệ ................................................................... 74 3.2.3 Cải cách hành chánh, hoàn thiện chế độ quản lý một cửa trong quản lý các khu chế xuất – khu công nghiệp........................................ 77 3.2.4 Qui hoạch và phát triển tối ưu hạ tầng khu công nghiệp ...................... 82 3.2.5 Môi trường đầu tư nội tại các khu chế xuất – khu công nghiệp ........... 88 3.2.6 Chính sách khuyến khích xuất khẩu ..................................................... 91 3.2.7 Các giải pháp khác ................................................................................ 93 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 101 PHỤ LỤC .......................................................................................................... 103 MỞ ĐẦU Xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam còn mới mẻ so với thế giới và nhiều nước trong khu vực, nhưng đã được khẳng định là mô hình sản xuất công nghiệp hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích trong giai đoạn nền kinh tế đang chuyển đổi ở nước ta. Xây dựng và phát triển các KCX – KCN ở nước ta còn có ý nghĩa lớn là phát huy nội lực và là động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước. Bởi vậy định hướng phát triển KCX – KCN ở nước ta vừa cấp thiết, vừa có tính chiến lược. Nghị quyết lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 8 ghi: “Phát triển từng bước và nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCX – KCN. Nghiên cứu xây dựng thí điểm một vài đặc khu kinh tế, khu mậu dịch tự do ở những địa bàn ven biển có đủ điều kiện”. Theo tinh thần đó, Chính phủ đã ban hành chính sách khuyến khích đầu tư với những quy định thông thoáng, tạo khung pháp lý thuận lợi hơn cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt là cho các doanh nghiệp ở KCN. Mỗi KCN ra đời đã trở thành địa điểm quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tạo động lực lớn cho quá trình tiếp thu công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, hạn chế tình trạng ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Việc phát triển KCX – KCN thu hút đầu tư cũng thúc đẩy việc hình thành và phát triển các đô thị mới, phát triển các ngành phụ trợ và dịch vụ, tạo việc làm cho người lao động, góp phần đào tạo phát triển nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật. Tuy nhiên, sau hơn 15 năm phát triển KCX – KCN, bên cạnh những thành tựu quan trọng, việc phát triển tại TP.HCM cũng đã bộc lộ một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu nhằm đúc kết các bài học kinh nghiệm, tìm giải pháp khắc phục hạn chế, nâng cao hiệu quả hoạt động và phát triển của các KCX – KCN, đưa ra mô hình phát triển KCX – KCN bền vững, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đề tài : “Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCX – KCN tại TP. Hồ Chí Minh” được hình thành từ những lý do trên. - Phạm vi nghiên cứu: Các KCX – KCN trên địa bàn TP.HCM được thành lập từ năm 1991 đến nay. - Phương pháp nghiên cứu: phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, so sánh tổng hợp, … - Bố cục Luận án : Luận án được trình bày theo 3 chương, bao gồm : • Chương 1 : Tổng quan về các khu chế xuất – khu công nghiệp • Chương 2 : Phân tích tình hình hoạt động của các KCX – KCN tại TP. Hồ Chí Minh. • Chương 3 : Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCX – KCN tại TP. Hồ Chí Minh. Do phạm vi đề tài khá rộng, giới hạn về kinh nghiệm thực tiễn và thời gian nghiên cứu, nên chắc rằng trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự chỉ bảo, đóng góp của Quý Thầy Cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn. CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ CÁC KHU CHẾ XUẤT – KHU CÔNG NGHIỆP 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM: 1.1.1- KHU CHẾ XUẤT (EXPORT PROCESSING ZONE. EPZ) : − Là loại hình đặc khu kinh tế có diện tích tương đối nhỏ, có hàng rào phân cách về địa lý trong một quốc gia, không có dân cư sinh sống, nhằm thu hút các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. − Khu chế xuất được hưởng nhiều ưu đãi, nhất là ưu đãi về thuế và thủ tục hải quan, song đòi hỏi phải xuất khẩu gần như toàn bộ sản phẩm. Khu chế xuất do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. 1.1.2- KHU CÔNG NGHIỆP (INDUSTRIAL PROCESSING ZONE) : − Là hình thức tổng hợp của khu chế xuất (EPZ) và khu sản xuất hàng thay thế nhập khẩu (IPZ). Các khu công nghiệp này có vị trí quan trọng đặc biệt trong sự phát triển kinh tế, vì nó vừa kích thích xu hướng sản xuất hướng ra xuất khẩu vừa động viên phát triển sản xuất thay thế nhập khẩu và chế biến nguyên liệu thô trong nước. − Thu hút các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất. − Theo quy chế Khu công nghiệp (KCN) của Chính phủ Việt Nam thì Khu chế xuất (KCX) và Khu công nghiệp (KCN) có những điểm giống và khác biệt như sau: − Khu chế xuất và khu công nghiệp đều sản xuất hàng công nghiệp, phần lớn là hàng tiêu dùng áp dụng cơ chế quản lý đơn giản, thuận tiện, trong khu không có dân cư sinh sống. 1 − Khu chế xuất có đặc điểm khác với khu công nghiệp là khu chế xuất xuất khẩu 100% sản phẩm, trong khi khu công nghiệp được sử dụng một phần thị trường trong nước. − Quan hệ giữa KCX với thị trường nội địa là quan hệ ngoại thương, do đó không tranh chấp với sản xuất trong nước, không ảnh hưởng đến quỹ ngoại tệ của Nhà nước. Trong quan hệ này không coi KCX là một thị trường khép kín, chỉ dành xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài mà KCX còn có mối quan hệ hữu cơ với thị trường trong nước, thúc đẩy sản xuất trong nước cùng phát triển thông qua việc mua nguyên vật liệu, bán thành phẩm từ thị trường nội địa vào KCX nhằm tăng hàm lượng quốc gia của sản phẩm sản xuất tại Việt Nam. 1.1.3- KHU CÔNG NGHỆ CAO (HIGH – TECH INDUSTRIAL ZONE) : − Là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu – triển khai, khoa học – công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh giới địa lý xác định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế xuất. 1.1.4- KHU SẢN XUẤT HÀNG THAY THẾ NHẬP KHẨU (IMPORT– PROCESSING ZONE. IPZ) : − Là hình thức được áp dụng chủ yếu ở các nước Đông Á và Đông Nam Á phục vụ cho chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Tại khu vực này thu hút các ngành công nghiệp chế tạo, sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khậu và chế biến các nguyên liệu thô trong nước. 1.1.5- KHU KINH TẾ TỰ DO (FREE ECONOMIC ZONE. FEZ) : − Khu vực kinh tế tự do thường có không gian địa lý rộng hơn EPZ hay IPZ, đồng thời các loại hình kinh tế cũng bao gồm nhiều loại hình phong phú hơn. Bên cạnh công nghiệp chế tạo, FEZ còn có hoạt động tài chính, thương mại, vận 2 tải, … khu vực kinh tế tự do đã được Trung Quốc áp dụng để thử nghiệm mô hình kinh tế thị trường mở ở nước này. − Khác với KCN, KCX là những khu vực không có dân cư sinh sống, còn khu kinh tế tự do có diện tích lên đến hàng chục, hàng trăm km2 với dân số hàng triệu người, tức là ngang với quy mô của một huyện hoặc một tỉnh. 1.1.6- KHU MẬU DỊCH TỰ DO (FREE TRADE ZONE. FTZ) : − Loại hình này thường được áp dụng cho các thành phố có diện tích tương đối nhỏ nhưng có vị trí địa lý đặc biệt. Trước đây FTZ thường chỉ có chức năng phát triển quan hệ thương mại tự do với các nước khác nhưng hiện nay các hoạt động khác như tài chính, bảo hiểm, vận tải, nghiên cứu và phát triển (R&D) cũng đã trở thành các chức năng quan trọng của nó. 1.1.7- ĐẶC KHU KINH TẾ: − Là một khu vực địa lý nhất định, có dân cư sinh sống, được Chính phủ dành cho những quy chế đặc biệt so với các vùng khác của đất nước – Quy chế này bao gồm các điều khoản ưu đãi về thuế, về chế độ hải quan, về giá thuê đất, về sử dụng cơ sở hạ tầng và ngoại tệ, về cung cấp lao động …. − Khác với các mô hình khác, đặc điểm của đặc khu kinh tế là mặc dù vẫn có một ranh giới hành chính, nhưng sự phát triển của khu vực không bị giới hạn bởi ranh giời này. Việc phát triển đặc khu tạo điều kiện cho việc tăng cường mối quan hệ kinh tế với các vùng khác của quốc gia và đồng thời phát huy tối đa các tác động tích cực về đầu tư, chuyển giao công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực. Mô hình đặc khu kinh tế có một cơ cấu kinh tế đa ngành dựa vào một cấu trúc đô thị hiện đại với các dịch vụ cơ sở hạ tầng phát triển. Các nước phát triển tận dụng các điều kiện thuận lợi của đặc khu kinh tế để thực hiện chuyển giao công nghiệp, tăng hiệu quả đầu tư, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa. 1.2. CÁC LOẠI HÌNH KHU CÔNG NGHIỆP : 1.2.1- LOẠI HÌNH THỨ NHẤT : − Các khu công nghiệp được thành lập trên khuôn viên đã có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển khu 3 công nghiệp theo đúng quy hoạch mới, đồng thời tạo hạ tầng kỹ thuật phục vụ tốt việc phát triển khu công nghiệp, có điều kiện xử lý chất thải với những thiết bị hiện đại. 1.2.2- LOẠI HÌNH THỨ HAI : − Các KCN được hình thành nhằm đáp ứng cho việc di dời các nhà máy, xí nghiệp đang ở trong nội thành các đô thị lớn, do nhu cầu chỉnh trang đô thị và bảo vệ môi trường, môi sinh phải di chuyển vào KCN. Việc hình thành các KCN phục vụ nhu cầu di dời là yêu cầu khách quan của quá trình đô thị hóa – kết quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. 1.2.3- LOẠI HÌNH THỨ BA: − Các KCN có quy mô nhỏ gắn liền với nguồn nguyên liệu nông lâm, thủy sản được hình thành ở một số tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long, Đồng Bằng, Trung Du Bắc Bộ và Duyên Hải Miền Trung là nơi có nguồn nguyên liệu, nông sản hàng hóa nhưng công nghiệp chế biến chưa phát triển. 1.2.4- LOẠI HÌNH THỨ TƯ: − KCN hiện đại xây dựng hoàn toàn mới nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp Việt Nam có thế mạnh phát triển công nghiệp. − Ngoài bốn loại hình xây dựng các KCN nói trên, còn có công nghiệp kỹ thuật cao với trình độ tự động hóa cao, với yêu cầu sử dụng trí tuệ cao và nhiều phát minh sáng chế mới nhằm tạo ra những sản phẩm kỹ thuật cao tiêu thụ trên thị trường thế giới. 1.3. MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KHU CHẾ XUẤT – KHU CÔNG NGHIỆP : − Có hai điều kiện chung và bốn điều kiện căn bản để xây dựng KCX – KCN: a) Điều kiện chung : 2 điều kiện chung để hình thành KCX – KCN trên một Quốc gia đó là: − Chính trị ổn định. 4 − Luật pháp cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm. b) Điều kiện cơ bản: ngoài 2 điều kiện chung nêu trên, khi xây dựng KCX – KCN phải có những điều kiện cơ bản sau: − Hạ tầng cơ sở phải đảm bảo sẵn sàng tiện lợi và thông suốt, nếu chưa đáp ứng trước mắt thì phải có khả năng hoàn thiện trong thời gian phù hợp. − Môi trường không bị ô nhiễm hoặc có nơi chấp nhận ô nhiễm nhưng trong mức độ luật pháp cho phép. − Lao động phải đủ sức cung ứng. − Phải có cơ chế quản lý và chính sách năng động, phù hợp. Ngoài ra các cấp chính quyền địa phương phải có 3 khả năng cơ bản sau đây mới có thể xây dựng phát triển KCX – KCN có ích cho Quốc gia: − Về di dời đền bù: Công ty phát triển hạ tầng KCX – KCN không những có khả năng chỉ di dời đền bù mà còn phải có khả năng xây dựng cuộc sống mới cho người di dời ngày càng tốt hơn cuộc sống trước đó. − Có khả năng huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng … bằng nhiều nguồn khác nhau ở các thành phần kinh tế, cả trong nước và ngoài nước. − Tổ chức bộ máy của Ban Quản lý các bộ phải đủ năng lực thực hiện tốt cơ chế “một cửa – một chỗ” và phải có đội ngũ cán bộ đầu tư kinh doanh năng động có khả năng đối tác với nước ngoài và trong nước. Vị trí KCX – KCN mang ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động KCX – KCN. Việc quy hoạch phát triển KCX – KCN là cần thiết trong tổng thể các biện pháp về KCX – KCN. Việc lựa chọn KCX – KCN phải xuất phát từ những đặc điểm phát triển & phân bố các lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay và điều kiện địa lý từng vùng. Các vị trí thích hợp nhất được lựa chọn để xây dựng KCX – KCN phải là vị trí nằm gần các hải cảng lớn, có hậu phương rộng, có cơ sở hạ tầng bên ngoài KCX – KCN tương đối phát triển. Mối liên hệ giữa KCX – KCN với các vùng kế cận trong và ngoài nước phải thuận tiện, gồm các trục giao thông 5 quốc tế, đặc biệt là đường biển, gồm các khu vực kinh tế sầm uất của thế giới và trong nước. Quy mô KCX – KCN (diện tích khu) là vấn đề quan trọng, đảm bảo tính khả thi và phát huy hiệu quả KCX – KCN. Việc xác định quy mô KCX – KCN được xuất phát từ những yếu tố sau: − Khả năng thu hút đầu tư để lấp đầy KCX – KCN bởi các xí nghiệp trong thời gian ngắn. − Khả năng hoàn thiện hệ thống cấu trúc hạ tầng trong và ngoài KCX – KCN: điện, nước, thông tin liên lạc, giao thông vận tải … − Khả năng quản lý tổ thức lãnh thổ. KCX – KCN là một trong những hình thức thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước đang được Chính phủ quan tâm nhất hiện nay. Nó không những nâng cao giá trị tổng sản phẩm xã hội, mà còn tạo tiền đề cho việc phát triển nền kinh tế mang tính chất lâu dài và bền vững. Hãy tưởng tượng nếu trong thời gian qua chúng ta không thành lập KCX – KCN thì chắc chắn trong tương lai chúng ta phải giải quyết những hậu quả nặng nề về xã hội, môi trường, do đó đầu tư xây dựng các KCX – KCN là yêu cầu bức thiết hiện nay. 1.4. VAI TRÒ CỦA KHU CHẾ XUẤT – KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM : 1.4.1. VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KHU CHẾ XUẤT - KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM : − Khu chế xuất (KCX) Khu công nghiệp (KCN) hình thành và phát triển gắn liền với công việc đổi mới được khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI (năm 1986) với những đổi mới cơ bản về nhận thức và tư duy về kinh tế mà trọng tâm là chủ trương chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung sang cơ chế kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Theo đó, việc hình thành hệ thống KCX – KCN hiện nay đã thay thế mô hình KCN kiểu cũ 6 từ chỗ chỉ là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh thành nơi thu hút các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ công nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Hàng lọat các chương trình phát triển kinh tế – xã hội được triển khai để thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, trong đó có chính sách phát triển KCX – KCN với sự ra đời KCX Tân Thuận TP.HCM (1991) và việc ban hành Quy chế KCX (Nghị định 322/HĐBT của Hội đồng Bộ Trưởng ngày 18/10/1991) và Quy chế KCN (Nghị định 192/CP của Chính phủ ngày 28/12/1994). Các Nghị quyết của Đảng tại Đại hội từ năm 1986 đến nay đã hình thành hệ thống các quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển KCX – KCN, khẳng định vai trò của KCX – KCN trong việc “tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” như Nghị quyết Đại hội X đã nêu rõ; là cơ sở để triển khai xây dựng quy hoạch, cơ chế, chính sách phát triển KCX – KCN trong 15 năm qua và trong giai đoạn tới. Việc xây dựng và phát triển KCX – KCN giai đoạn 1991 – 2006 đã được những kết quả sau: − Hình thành hệ thống KCX – KCN trên cơ sở chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội cả nước. Đến cuối tháng 12/2005 cả nước đã có 131 KCN, KCX được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên là 26.986 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 18.044ha. Các KCX – KCN được phân bố theo hướng vừa tập trung đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở các vùng có lợi thế và tiềm năng, vừa tạo điều kiện để các địa phương có ít lợi thế hơn có động lực để thúc đẩy chuyển dịch vơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 131 KCX – KCN được Thủ tướng Chính phủ thành lập đến tháng 12/2005 phân bố trên 47 tỉnh, thành phố trên cả nước. Trừ vùng Tây Bắc kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, tất cả các vùng còn lại đều đã thành lập KCX – KCN. 7 − Phát triển các KCX – KCN trong thời gian qua có những chuyển động tích cực cả từ phía Chính phủ, các địa phương, các ngành và doanh nghiệp, nhưng vẫn còn những khiếm khuyết cần nhanh chóng khắc phục. Đó là cơ chế quản lý đối với KCX – KCN có những tiến bộ nhưng chưa thật đơn giản, sự phối hợp giữa các ngành của Trung ương và các địa phương chưa chặt chẽ, việc giải tỏa mặt bằng để xây dựng hạ tầng KCN còn chậm, công tác tiếp tục vận động đầu tư vào lúc KCN còn yếu, việc đào tạo để cung cấp lao động có tay nghề cho KCN chưa đáp ứng được nhu cầu… Việc quan trọng hàng đầu có tính chiến lược và ảnh hưởng lâu dài đến phát triển kinh tế – xã hội là công tác quy hoạch phát triển KCN ở một số địa phương còn chậm và chưa sát với điều kiện thực tế. Ngoài những điều kiện cần thiết để xây dựng KCN, vốn đầu tư cho xây dựng hạ tầng mỗi KCN đều rất lớn đòi hỏi các địa phương phải tính kỹ đến khả năng chỉ định doanh nghiệp trong nước hoặc mỗi doanh nghiệp nước ngoài hợp tác đầu tư. Trước tình hình trên Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan liên quan rà soát việc quy hoạch phát triển KCX – KCN ở các địa phương. Trước hết là xem xét để thành lập các KCX – KCN đã được quy hoạch phát triển đến năm 2000 với quy mô vừa và nhỏ ở các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên – Huế, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Tây Ninh, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Đắc Lắc, An Giang … Một số tỉnh có nhiều KCN như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương thì ưu tiên cho việc mở rộng xem xét thành lập các KCN mới khi các KCN hiện có được doanh nghiệp đăng ký đầu tư chiếm ít nhất 50% diện tích KCN. 8 Biểu phân bố KCX – KCN theo vùng đến tháng 12/2005 Vùng Số lượng KCX – KCN Diện tích KCX – KCN (ha) Đồng Bằng Sông Hồng 26 4.515 Đồng Bằng Bắc Bộ 6 867 Bắc Trung Bộ 8 791 Duyên Hải Nam Trung Bộ 12 2.596 Tây Nguyên 4 463 Đông Nam Bộ 58 14.694 Đồng Bằng Sông Cửu Long 17 3.060 Cả nước 131 26.986 Nguồn : Vụ quản lý KCX và KCN – Bộ KH & ĐT Trên cơ sở tương quan về điều kiện và tiềm năng phát triển công nghiệp của các vùng kinh tế, các địa phương, KCX – KCN được phân bố tập trung ở các vùng có tiềm năng và lợi thế như Đồng Bằng Sông Hồng, Đông Nam Bộ, Duyên Hải Miền Trung, các Tỉnh, Thành phố thuộc chiến lược phát triển công nghiệp các vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, miền Trung và phía Nam. Riêng 3 vùng kinh tế trọng điểm đã chiếm tới 73% số lượng KCX – KCN cả nước (96 KCN, KCX); vùng Đồng bằng Sông Hồng, Đông Nam Bộ & Duyên Hải Nam Trung Bộ chiếm 73% (96 KCN). Quy mô các KCX – KCN đa dạng và phù hợp với từng điều kiện và trình độ phát triển cụ thể của mỗi địa phương. Quy mô trung bình của các KCX – KCN đến 12/2005 là 206 ha. Các vùng có điều kiện tương đối khó khăn, ít có lợi thế phát triển công nghiệp được bố trí các KCX – KCN có quy mô trung bình các KCX – KCN thấp hơn, như vùng Tây Nguyên (115,75ha), vùng Đông Bắc Bắc Bộ (144,5ha). Các vùng có điều kiện phát triển công nghiệp được bố trí các KCX – KCN có quy mô bình quân cao hơn, như Đông Nam Bộ (253,3 ha), Đồng Bằng Sông Hồng (173,7 ha). 9 Các KCX – KCN được thành lập và phát triển phù hợp với mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm. Kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 là giai đoạn đầu và thí điểm phát triển KCX – KCN, số lượng KCX – KCN được thành lập trong giai đoạn này là 12 KCX – KCN với tổng diện tích tự nhiên 2.360 ha. Sau giai đoạn này việc thành lập các KCX – KCN được đẩy nhanh, cụ thể trong kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 thành lập 53 KCX – KCN với tổng diện tích tự nhiên 9.706,12 ha, tăng 4,4 lần về số lượng và 4,1 lần về diện tích so với kế hoạch 5 năm 1991 – 1995; kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 thành lập thêm 66 KCX – KCN với tổng diện tích 13.140,4 ha, tăng 24,5% về số lượng và 35,4% diện tích về kế hoạch 5 năm 1996 – 2000. Số dự án đầu tư nước ngoài và tổng vốn đăng ký vào KCX – KCN dần được mở rộng trong giai đoạn đầu (1991 – 1995) và đặc biệt tăng trưởng với tốc độ cao trong các kỳ kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 và 2001 – 2005. Nếu trong kế hoạch 5 năm 1991 – 1995, khi các KCX – KCN đang trong quá trình triển khai xây dựng, số dự án có vốn đầu tư nước ngoài thu hút được mới đạt 155 dự án với tổng vốn 1.550 triệu USD, thì trong kế hoạch 5 năm 1996 – 2000, số dự án tăng thêm đạt 588 dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 7.213 triệu USD, tăng gấp 3,8 lần về số dự án và 4,65 lần về tổng vốn đầu tư đăng ký so với kế hoạch 5 năm 1991 – 1996. Số dự án tăng thêm trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 là 1.377 dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 8.080 triệu USD, tăng gấp 2,34 lần về số dự án và 12% về tổng vốn đầu tư so với kế hoạch 5 năm 1996 – 2001. Tốc độ tăng bình quân về số dự án và tổng vốn đầu tư lũy kế giai đoạn 1996 -2000 tương ứng là 37% và 46%, kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 là 23%, và 14%. Tính đến cuối tháng 12/2005, các KCX – KCN đã thu hút được 2.120 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 16.843 triệu USD. Tỷ trọng tổng vốn đăng ký của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài 10 trong KCX – KCN trong tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trên cả nước tăng dần qua các năm và đạt mức 45% năm 2005. Nhìn lại chặng đường 15 năm xây dựng và phát triển cho thấy KCX – KCN đóng góp ngày càng quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra KCX – KCN còn là một trong những giải pháp để thực hiện chủ trương phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước. Nếu như kế hoạch 5 năm 1991 – 1995, chỉ có gần 50 dự án đầu tư trong nước đầu tư vào KCX – KCN, thì đến kế hoạch 5 năm 1996 -2000 số dự án trong nước tăng thêm đạt 450 dự án, tăng 9 lần so với kế hoạch 5 năm 1991 – 1995, kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 thu hút được 1870 dự án, tăng gấp 4,16 lần so với kế hoạch 5 năm trước. Tổng vốn đầu tư trong nước tăng thêm tương ứng trong các thời kỳ kế hoạch là 200 tỷ VNĐ, 35.000 tỷ VNĐ và trên 80.000 tỷ VNĐ. Trong hai năm kế hoạch 5 năm 1996 – 200 và 2001 – 2005, xu hướng gia tăng đầu tư trong nước vào KCX – KCN ngày càng rõ rệt, đặc biệt trong hai năm 2004 và 2005, số dự án trong nước còn hiệu lực đầu tư vào các KCX – KCN đã vượt số dự án đầu tư nước ngoài. Đến cuối tháng 12/2005, tổng số có 2.367 dự án trong nước còn hiệu lực trong KCX – KCN với tổng số vốn đầu tư trên 113 nghìn tỷ đồng. SỐ DỰ ÁN VÀ ĐẦU TƯ ĐĂNG KÝ CỦA CÁC KCN TỪ 1995 – 2005 Nguồn : Vụ quản lý KCN và KCX – Bộ KH & ĐT 11 Các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trong KCX – KCN đa dạng về hình thức đầu tư. Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu đầu tư dưới hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (khoảng 1.820 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 13.600 triệu USD, chiếm 85% về số dự án và hơn 80% về tổng vốn đầu tư đăng ký, hình thức liên doanh có khoảng 200 dự án (gần 3.000 triệu USD), còn lại là hình thức doanh nghiệp cổ phần (6 dự án) và hợp đồng hợp tác kinh doanh (12 dự án). Các dự án trong nước cũng bao gồm đa dạng các loại hình doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là Công ty TNHH (trên 80% số dự án và gần 60% vốn đầu tư). Thực tế 15 năm xây dựng và phát triển cho thấy các KCX – KCN đã có những đóng góp ngày càng lớn vào việc nâng cao tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp trong GDP của cả nước. Giá trị xuất khẩu công nghiệp của các KCX – KCN đều tăng dần qua các năm, đặc biệt trong kế hoạch 5 năm 1996 -2000 và 2001 – 2006, tốc độ gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp trong KCX-KCN đều vượt so với tốc độ gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCX – KCN thời kỳ 1996 – 2000 đạt 9,5 tỷ USD, bình quân khoảng 20%/năm, trong khi đó tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân trên cả nước chỉ đạt 12%. Trong thời kỳ 2001 -2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp KCX – KCN đạt được khoảng 44,4 tỷ USD, gấp gần 5 lần so với kế hoạch 5 năm trước và tăng bình quân khoảng 32%/năm, trong khi đó tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân cả nước chỉ đạt 16%. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCX – KCN trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng đáng kể từ mức 8% năm 1996 lên 14% năm 2000 và từ 17% năm 2001 lên khoảng 28% năm 2005. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp KCX – KCN trên thị trường thế giới được nâng cao đáng kể trong thời gian qua, thể hiện ở giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCX – KCN tăng đều qua các năm từ 1996 trở lại đây (từ năm 12 1991 -1996, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCX – KCN không đáng kể do các KCX – KCN và doanh nghiệp mới hình thành và đi vào hoạt động). Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCX – KCN thời kỳ kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 đạt 6,2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 18%/năm, trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2006 giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp KCX – KCN đạt trên 22,3 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị xuất khẩu công nghiệp của cả nước (đạt bình quân khoảng 17%/năm). Tỷ trọng giá trị xuất khẩu các doanh nghiệp KCX – KCN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng từ mức khoảng 15% năm 2000 lên khoảng 20% năm 2005. Tổng trị giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp KCX – KCN thời kỳ 2001 – 2005 đạt được khoảng 27,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm và tăng 3,4 lần so với tổng giá trị nhập khẩu trong kế hoạch 5 năm 1996 -2000. Các doanh nghiệp KCX – KCN bước đầu có đóng góp tích cực vào ngân sách Nhà nước, trong thời kỳ 2001 -2005, tổng giá trị nộp ngân sách của các doanh nghiệp KCX – KCN tăng mạnh và đạt khoảng 2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 45%/năm và gấp 6 lần so với kế hoạch năm 1996 – 2000. Đến cuối tháng 12/2005, 131 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng trên cả nước bao gồm 19 dự án có vốn đầu tư nước ngoài và 112 dự án trong nước với tổng số vốn đầu tư đạt hơn 1 tỷ USD và 33 nghìn tỷ đồng. Trong đó các KCX – KCN do doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm chủ đầu tư chiếm số lượng lớn nhất: 45 KCX – KCN với tổng vốn đầu tư 15.673 tỷ đồ._.ng; 33 KCX – KCN được đầu tư theo cơ chế đơn vị sự nghiệp có thu vốn tổng số vốn đầu tư hạ tầng đạt trên 7.424 tỷ đồng, các KCX – KCN còn lại do doanh nghiệp Nhà nước làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư hơn 9.835 tỷ đồng (34 KCN). Nhìn vào hình thức đầu tư cơ sở hạ tầng KCX – KCN cho thấy nhìn chung KCX – KCN được đầu tư theo hướng phát huy nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, trong đó khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là chủ yếu. 13 TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC KCN TỪ 1995 -2005 Nguồn : Vụ quản lý KCN và KCX – Bộ KH & ĐT − Phát triển KCX – KCN mở ra một không gian kinh tế rộng lớn, một kênh mới có tiềm năng để thu hút lao động, giải quyết việc làm cho lao động xã hội. Lực lượng lao động trong KCX – KCN gia tăng cùng với sự gia tăng các KCX – KCN thành lập mới và mở rộng – Trong thời kỳ 2001 – 2005 các KCX – KCN đã thu hút thêm được 656.000 lao động trực tiếp, gấp 4 lần so với thời kỳ trước (1991 – 2000), hiện đến 6/2006 các KCX – KCN đã thu hút được khoảng 865.000 lao động trực tiếp, nếu tính cả số lao động gián tiếp thì số lao động thu hút được còn lớn hơn nhiều (ước tính lượng lao động gián tiếp khoảng 1,5 triệu người). CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO (12-2005) 60% 31% 4.50%4.50% Đại học và trên ĐH Nhân viên kỹ thuật Công nhân kỹ thuật Lao động căn bản Nguồn : Vụ quản lý KCN và KCX – Bộ KH & ĐT − Phát triển KCX – KCN đồng nghĩa với hình thành và phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, nhất là thị trường lao động trình độ cao ở nước ta. Hiện nay, lao động làm công ăn lương ở nước ra khoảng 25,6% (khoảng 11 triệu lao 14 động) thì 80% tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, KCX – KCN. Đây là một sự tác động rất lớn của KCX – KCN đến phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế hội nhập ở nước ta. 1.4.2. VAI TRÒ CỦA KHU CHẾ XUẤT - KHU CÔNG NGHIỆP: Qua quá trình phát triển ở các quốc gia trên thế giới, KCX – KCN nói chung đã chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu và thể hiện vai trò đầu tàu đối với quá trình phát triển của mỗi quốc gia cụ thể: − Là công cụ thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó thu hút vốn đầu tư nước ngoài là chủ yếu. − Tạo công ăn việc làm cho người lao động , đây là một trong những mục tiêu quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển trong quá trình xây dựng và phát triển các KCX – KCN. Các nhà đầu tư có thể sử dụng nguồn nhân công rẻ và khá dồi dào để tăng khả năng cạnh tranh trên thương trường. Thông qua việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, các KCX-KCN sẽ tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động tại chỗ và các địa phương lân cận. Người lao động tại các xí nghiệp có điều kiện phát triển chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng lao động, sẽ là nguồn lực quý giá trong quá trình phát triển kinh tế quốc gia. − Giúp kiểm soát và xử lý chất thải công nghiệp có hiệu quả, đảm bảo vệ sinh môi trường. Với qui mô thích hợp và tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tách biệt với khu dân cư thêm vào đó các KCX - KCN được đầu tư xây dựng các hệ thống xử lý chất thải hoàn chỉnh và hệ thống cây xanh, thảm cỏ nên sẽ đảm bảo cảnh quan và vệ sinh môi trường. − Là công cụ thúc đẩy mậu dịch quốc tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia. Thông thường các KCX – KCN được qui hoạch nhằm các mục tiêu chủ yếu sau : di đời các nhà máy ra khỏi khu vực thành thị, tránh ô nhiễm, đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước, thu hút đầu tư, tập trung sản 15 xuất hướng về xuất khẩu ( các KCX, ĐKKT). Hoạt động xuất nhập khẩu quốc tế của các doanh nghiệp sẽ làm gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu. Thông qua quá trình sản xuất, gia công chế biến, các doanh nghiệp sẽ tạo ra phần giá trị tăng, là nguồn thu ngoại tệ ròng của mỗi quốc gia sở tại. Ngoài ra các quốc gia còn có nguồn thu ngoại tệ khác thông qua việc xuất khẩu lao động tại chỗ, hoạt động gia công chế biến cho các doanh nghiệp đang KCX – KCN, ĐKKT … − Là công cụ công nghiệp hoá và qui hoạch tổng thể quốc gia. Các KCX – KCN với hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh và được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước, có thể nói đây là nơi lý tưởng để tiến hành các hoạt động sản xuất công nghiệp. Một số quốc gia phát triển các KCX – KCN tại các khu vực xa các thành phố nhằm thu hút các doanh nghiệp và lao động di dời ra khỏi các đô thị đông đúc, tránh ô nhiễm đến các khu vực dân cư, từ đó hình thành các đô thị vệ tinh. − Tạo động lực thúc đẩy phát triển khu vực, quá trình phát triển các KCX – KCN sẽ thúc các địa phương chuyển dịch mạnh mẽ từ địa phương lạc hậu trở thành thành phố phát triển nhanh. Hệ thống cơ sở hạ tầng : hệ thống đường giao thông, viễn thông … được xây dựng tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng. − Tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, thúc đẩy sản xuất nội địa phát triển. Thông qua các hoạt động gia công và mua bán thành phẩm, nguyên vật liệu từ nội địa của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại các KCX – KCN, đã giúp doanh nghiệp bên ngoài nằm bắt được trình độ khoa học kỹ thuật và trình độ quản lý, tay nghề của công nhân được nâng cao để từ đó công nghệ sản xuất của họ được cải tiến và đồng thời chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp bên ngoài cũng được cải tiến, nâng cao … − Giúp chính phủ của các quốc gia có thể chuyển đổi phương thức quản lý theo tập hợp và thực hiện cung cấp các nhóm dịch vụ thay vì theo cơ sở riêng rẽ như hiện nay. Theo khái niệm KCX – KCN là khu vực xác định và tập trung nhiều doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, nên đây là khu 16 vực rất thuận lợi để các quốc gia thực hiện quản lý theo đầu mối, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí, và điều quan trọng là nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tránh được tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu bên ngoài, thường phổ biến ở các quốc gia đang phát triển. Bên cạnh những lợi ích nêu trên, việc hình thành KCX – KCN tại Việt Nam còn góp phần giúp Việt Nam trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Cùng với xu thế khu vực hoá và toàn cầu hóa thương mại, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), APEC và trong tương lai sẽ gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), việc phát triển công nghiệp, sử dụng công nghệ cao sẽ hạn chế được thua thiệt cho Việt Nam do tăng hàm lượng quốc gia của sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam, đảm bảo sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên trường quốc tế và trước hết là các nước trong khu vực. 1.5. LỢI ÍCH VỀ PHÁT TRIỂN KHU CHẾ XUẤT – KHU CÔNG NGHIỆP TRONG TƯƠNG LAI : Trong chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam năm 2010, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đầu tư phát triển những vùng, ngành kinh tế trọng điểm. Chủ trương của Đảng và Nhà nước là phấn đấu hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước vào năm 2020. Lúc đó, sản phẩm nông nghiệp sẽ chỉ chiếm 10%, GDP và các KCX – KCN được xây dựng ở các miền đất nước sẽ trở thành xương sống của nền kinh tế quốc dân. Chính phủ đã ban hành qui chế KCX – KCN nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và trong nước để xây dựng cơ sở hạ tầng các KCX – KCN tạo điều kiện đầu tư dễ dàng và hấp dẫn, giảm nhẹ các thủ tục hành chánh do thực hiện chế độ “ một cửa, một dấu” … thu hút các công ty nước ngoài và công ty trong nước thiết lập các xí nghiệp công nghiệp ở đây. Các nhà kinh tế thế giới trong diễn đàn kinh tế Việt Nam vừa qua đã đánh giá rằng việc cho ra đời các KCX – KCN là bước tiến lớn của Việt Nam trong quá trình theo đuổi cơ chế thị trường. Nền kinh tế Việt Nam cũng không phải chỉ hướng 17 vào các xí nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Một thị trường với 83 triệu dân với mức độ tăng trưởng GDP hàng năm có sức thuyết phục rất lớn. Việc hình thành KCX – KCN làm tăng trưởng nhanh và vững chắc tổng sản phẩm quốc nội , tạo việc làm. Việc tập trung các doanh nghiệp trong các KCX – KCN sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc kiểm soát và xử lý chất thải công nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả vốn đầu tư. Vì rằng trong KCX – KCN các doanh nghiệp dùng chung các công trình hạ tầng nên giảm được chi phí trên một đơn vị điện tích và đơn vị sản phẩm. − Các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi liên kết, hợp tác với nhau, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu qủa và sức cạnh tranh tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hội nhập với thế giới và khu vực. − KCX – KCN phát huy vai trò lan tỏa dẫn dắt, tác động đến việc hình thành các vùng nguyên liệu, các vùng công nghiệp vệ tinh, góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn. − Lao động công nghiệp được nâng lên về cả số lượng và chất lượng, đồng thời mở rộng việc chuyển giao công nghệ tiên tiến trong công nghiệp. − Ngoài ra việc xây dựng các KCX – KCN ở các địa phương trong cả nước sẽ góp phần hình thành nhanh chóng các thành phố mới, giảm bớt áp lực di dân vào thành phố và rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. − Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các doanh nghiệp, cũng như phát triển các doanh nghiệp theo qui hoạch thống nhất, ổn định lâu dài. − Doanh nghiệp đầu tư vào KCX – KCN không mất thời gian và chi phí cho việc đền bù, giải phóng mặt bằng và chi phí phát triển các công trình hạ tầng. Cung cấp các công trình hạ tầng, các dịch vụ hỗ trợ tương đối đồng bộ. − Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thấp hơn so với ngoài KCX – KCN. 18 − Được sự hổ trợ của Chính phủ phát triển hạ tầng ngoài hàng rào KCX – KCN Phương hướng phát triển KCN trong thời kỳ mới sẽ được triển khai theo hướng “đa dạng hoá các loại hình KCN” không chỉ quan tâm đến các KCN lớn và tương đối lớn ở các vùng đô thị mà Chính phủ sẽ chú trọng đến các KCN qui mô nhỏ ở nông thôn để thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Hướng phát triển những năm tới là định hình thành khoảng 100 KCN trong cả nước, dưới các dạng KCX – KCN, khu công nghệ cao, KCN hạt nhân của đặc khu kinh tế hoặc mậu dịch tự do với những qui mô hợp lý, hợp với khả năng thực tế. Việc hình thành các KCX – KCN mới cần được đảm bảo tính khả thi, đáp ứng các điều kiện : Phù hợp với qui hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh , thành phố, của vùng, xác định rõ ngành nghề kêu gọi đầu tư vào KCX – KCN, có giải pháp khả thi về huy động vốn xây dựng hạ tầng kỹ thuật, có phương án thu hút đầu tư, nguồn nhân lực, khả năng hoàn vốn đầu tư xây dựng hạ tầng. Phát triển các KCX – KCN là giải pháp quan trọng nhằm tạo thuận lợi cho đầu tư sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái thông qua kiểm soát chất thải và nước thải công nghiệp, giải quyết việc làm cho nhiều lao động, tiếp thu công nghệ mới ở số lĩnh vực, sử dụng đất có hiệu quả cao, thực nghiệm cơ chế quản lý tiếp cận với thông lệ quốc tế, góp phần hình thành các đô thị mới. Mô hình phát triển KCN là đúng đắn, đáp ứng việc phát triển công nghiệp nói riêng và về kinh tế xã hội nói chung theo qui hoạch lâu dài và bền vững. KCN là sự nghiệp của toàn Đảng toàn dân. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự hổ trợ của các cấp, các ngành, hoạt động của KCX – KCN Việt Nam sẽ phát triển lên tầm cao hơn trong thời gian tới. Theo đề án điều chỉnh qui hoạch phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam thời kỳ 2005 – 2020 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (tờ trình 3678/TTr- BKH ngày 2/6/2005) từ năm 2005 đến 2010 dự kiến thành lập mới (có chọn lọc) 19 trên cả nước 132 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 25.229 ha. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có 24 KCN, vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ có 9 KCN và vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ có 34 KCN nằm trong danh mục qui hoạch đến 2010 . Tóm lại, các thành tựu đã đạt được trong hơn 15 năm xây dựng và phát triển trước hết thể hiện chủ trương đúng đắn của việc phát triển mô hình KCX – KCN của Đảng và Nhà nước ta, sau nữa thể hiện vai trò lợi ích không thể thiếu của KCX – KCN trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cuối cùng đặt ra cho các cơ quan quản lý nhà Nhà nước trung ương và địa phương mục tiêu khắc phục yếu kém đang tồn tại, nâng cao hơn nữa hiệu quả và vai trò của KCX – KCN trong thời gian tới. 1.6. NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ KINH NGHIỆM PHÁP TRIỂN CÁC KHU CHẾ XUẤT – KHU CÔNG NGHIỆP CỦA CÁC NƯỚC CHÂU Á: * Các đặc khu kinh tế Trung Quốc : − Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn nằm sát Việt Nam, giữa Trung Quốc và Việt Nam có 1 số điểm chung : + Cùng phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. + Cả 2 quốc gia đều chú trọng vào việc thu hút đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu nhằm gia tăng sự phát triển kinh tế mỗi nước. − Trung Quốc những năm gần đây phát triển nhanh và khá vững chắc (tốc độ tăng GDP hàng năm vào khoảng hơn 10%), trong đó có phần đóng góp to lớn từ những thành quả đạt được của mô hình kinh tế được thành lập từ những năm 80 mô hình đặc khu kinh tế. Vì thế nghiêm cứu những kinh nghiệm thành công của các đặc khu kinh tế Trung Quốc sẽ phần nào giúp Việt Nam có những bài học quí báu trên bước đường xây dựng các KCX – KCN tại Việt Nam, đặc biệt và kế hoạch xây dựng đặc khu kinh tế tại Việt Nam trong tương lai. 20 − Các đặc khu kinh tế của Trung Quốc nằm ở vùng ven biển thuộc tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến và Tỉnh Đảo Hải Nam, các đặc khu kinh tế là cửa sổ của Trung Quốc mở ra bên ngoài, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), nơi tiếp nhận kinh nghiệm quản lý hiện đại tiên tiến của các nước phát triển và cũng là nơi thực nghiệm những chính sách cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc. Nếu thành công sẽ áp dụng thực hiện tiếp cho các khu vực khác, nếu không sẽ chỉ đóng khung trong đặc khu. − Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến và Chu Hải thành lập năm 1980, Sán Đầu và Hạ môn thành lập năm 1981, Hải Nam ra đời năm 1988. Năm 1980 xuất phát điểm của 5 đặc khu rất kém. Nhưng đến cuối năm 1996, năm đặc khu kinh tế có diện tích 35.000 km2 và dân số 10,2 triệu người, chiếm 0,36% diện tích cả nước và 0,78% dân số cả nước. Ngoài ra 5 đặc khu kinh tế của Trung Quốc đã đạt được giá trị xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài xấp xỉ 1/3 cả nước. − Các đặc khu kinh tế của Trung Quốc đã khai thác các lợi thế vị trí địa lý và các chính sách ưu đãi dành cho đặc khu kinh tế nhằm thu hút FDI và cầu nối hợp tác kinh tế với các khu vực khác trong nội địa. Đây là những khu vực phát triển rất nhanh cả về kinh tế và xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế thị trường và công nghiệp hướng theo xuất khẩu hoạt động một cách tốt nhất. Hiện nay 5 đặc khu kinh tế là khu vực phát triển nhất của đất nước. Từ sự thành công của đặc khu kinh tế Trung Quốc có thể rút ra được 1 số bài học sau : − Bài học 1 : Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã đánh giá đúng tình hình và kiên trì thực hiện một chính sách lớn. Những năm đầu, do đặc khu còn trong thời kỳ khó khăn, thu hút đầu tư nước ngoài còn tự phát, chưa có quy hoạch, lối sống thực dụng phát triển, nên có không ít ý kiến đòi xóa bỏ. Nhưng với quyết tâm cao, kiên trì theo đuổi, từ năm 1992 thì đặc khu kinh tế mới thực sự bước vào thời kỳ phát triển hướng ngoại, hội nhập quốc tế và sự thống nhất nhận thức được nâng lên từ đây. 21 − Bài học 2 : Trung ương mạnh dạn giao quyền cho chính quyền các cấp tỉnh, thành phố. Trong điều kiện khung pháp lý chưa hoàn thiện trong thời gian đầu, Trung ương chỉ quy định một số nguyên tắc cho hoạt động của đặc khu kinh tế đó là Nghị quyết của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc kỳ họp thứ 15 khóa IX tháng 8/1980 thông qua quy định thành lập và tổ chức hoạt động đặc khu kinh tế ở tỉnh Quảng Đông với 26 Điều, các điều ngắn gọn, rõ ràng và dễ thực hiện. Nhưng để tổ chức thực hiện được các nguyên tắc của Trung ương đề ra và để đáp ứng nhu cầu thực tế của từng đặc khu trong quá trình phát triển, Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc kỳ họp thứ 21 đã có nghị quyết ủy quyền cho Đại hội đại biểu Nhân dân hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến được “lập quy” áp dụng cho đặc khu theo phương châm “một nới và một hạn chế”. “Một nới” là tỉnh được lập những quy định có nội dung khác với quy định hiện hành hoặc chưa có quy định; “Một hạn chế” là chỉ áp dụng cho đặc khu. Năm 1992, Trung ương có quyết định cho chính quyền thành phố Thẩm Quyến thuộc tỉnh Quảng Đông có quyền lập quy và báo cáo trực tiếp lên Trung ương. Khi ban hành các văn bản pháp quy đều phải trao đổi với cơ quan Trung ương liên quan. − Chính quyền đặc khu kinh tế có quyền hạn quản lý kinh tế rất lớn. Chính quyền đặc khu được phép phê chuẩn các dự án nhỏ hơn 30 triệu USD nếu các dự án này không nằm trong danh mục kiểm soát của Nhà nước. Đối với những dự án trên 30 triệu USD và nằm trong danh mục kiểm soát của Nhà nước thì chính quyền đặc khu phải xin ý kiến của cơ quan Trung ương và địa phương liên quan. − Bài học 3 : Trung Quốc thực hiện nhất quán chính sách đầu tư nước ngoài. Trong thu hút FDI, họ lấy lợi ích cơ bản và lâu dài làm trọng. Chính vì vậy, các chính sách ưu đãi về thuế và tài chính rất rộng rãi cho đặc khu. − Bài học 4 : Trung Quốc đa dạng hóa các hình thức đầu tư nước ngoài. 22 Ngoài các hình thức đầu tư trực tiếp như ở Việt Nam: hợp doanh, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, Trung Quốc còn có thêm các hình thức liên doanh cùng khai thác, thương mại bù trừ, gia công lắp ráp, thuê mua, chuyển giao kỹ thuật, mua bán trái phiếu – cổ phiếu, vay vốn … Qua các tài liệu chính thức của Trung Quốc thì đầu tư nước ngoài tại các đặc khu chiếm tới 90% tổng vốn đầu tư của toàn bộ doanh nghiệp hoạt động tại đặc khu. Trung Quốc tiến hành cơ chế quản lý “một cửa, một đầu mối”, đơn giản hóa thủ tục hành chính, bộ máy quản lý gọn nhẹ, đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong đặc khu trên tất cả các mặt: thuế, thương mại, ngoại hối, xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh … Sau hơn 18 năm phát triển, hầu hết các yếu tố thị trường đã hình thành và phát triển như: thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường đất đai. Doanh nghiệp trong đặc khu hoàn toàn tự chủ trong sản xuất kinh doanh, các cơ quan không nhận bất cứ mệnh lệnh hành chính nào can thiệp đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nhân nước ngoài và khách du lịch nước ngoài được hưởng quy chế xuất nhập cảnh đơn giản và thuận tiện. Người đầu tư và du lịch nước ngoài vào Thẩm Quyến, Chu Hải và Hải Nam được cấp visa tạm thời trong thời gian 3,5 hay 15 ngày. Nhà đầu tư nước ngoài, nhân viên nước ngoài làm việc trong các DN có vốn đầu tư nước ngoài và gia đình họ được hưởng cấp visa nhiều lần. − Bài học 5: Trung Quốc đa dạng hóa các mô hình phát triển kinh tế: Ngoài mô hình đặc khu kinh tế, Trung Quốc có 14 thành phố kinh tế mở vùng duyên ra đời năm 1984, 32 khu phát triển kinh tế và kỹ thuật hay còn gọi là khu khai phát (1988), 13 khu mở vùng biên giới, 3 khu mậu dịch tự do. Các mô hình phát triển kinh tế nêu trên được hình thành căn cứ vào điều kiện cụ thể vị trí địa lý tạo điều kiện khơi dậy và khai thác một cách tốt nhất lợi thế của từng khu vực. Tới những năm 90, chính sách cải cách của nền kinh tế đã vươn tới 365 đô thị với diện tích 55 vạn km2 với hơn 300 triệu dân sinh sống. − Bài học 6: Hình thức huy động vốn xây dựng hạ tầng rất phong phú. 23 Riêng đặc khu Thẩm Quyến có các hạ tầng cấp điện 2.000MW, có 8 cảng trong đó có 26 cầu cảng có thể tiếp nhận tàu 10.000 tấn, có sân bay riêng, 44 nhà máy với tổng công suất cấp nước hàng năm là 800 triệu m3 nước thô và hàng ngày cấp 2,68 triệu tấn nước … Với hạ tầng như vậy phải cần tới vài chục tỷ USD để xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài hình thức huy động vốn như ở nước ta như vay Ngân hàng, hợp tác với nước ngoài, phát hành trái phiếu, họ còn có chính sách cho đặc khu giữ lại tiền bán quyền sử dụng đất trong 10 năm đầu và đến năm 1989 được giữ lại tiền thu ngân sách vượt chỉ tiêu Trung ương giao để phát triển hạ tầng. Ngoài ra người nông dân được góp vốn bằng giá trị hoa lợi và tài sản trên mảnh đất của họ để hưởng cổ tức thay vì cách làm cổ điển là nhận đền bù. − Tóm lại việc lựa chọn đúng địa điểm, sau đó là công tác quy hoạch và xác định bước đi ban đầu phù hợp, từ đơn giản đến phức tạp (ban đầu Thẩm Quyến là gia công lắp ráp, tới năm 1992 mới phát triển công nghiệp chế tạo hoặc sản phẩm có hàm lượng quốc gia cao), có những chính sách đúng đắn và kiên trì tổ chức thực hiện là những nội dung then chốt cần quan tâm để phát triển đặc khu. • Tại Đài Loan: − Thế giới đã chứng kiến theo dõi sự xuất hiện và phát triển kinh tế với tốc độ chóng mặt của các “con Rồng Châu Á”, trong đó Đài Loan được coi là hiện tượng đặc thù. Nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của Đài Loan sẽ rút ra nhiều bài học kinh nghiệm cho các quốc gia đang bước đầu thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa nói chung và Việt Nam nói riêng. Thật vậy, vào thời điểm những năm 1965 – 1970 nền kinh tế Đài Loan có những đặc điểm tương đồng với nền kinh tế Việt Nam. Thời điểm đó Đài Loan cũng là một nước phát triển đi lên dựa vào nông nghiệp, vào một nền kinh tế nhiều thành phần, sản xuất kinh doanh nhỏ là chính. Chỉ sau hơn 30 năm, kinh tế Đài Loan đã phát triển một cách vượt bậc, ổn định và bền vững. Đài Loan hiện nay là một trong những nước có dự trữ vàng – ngoại tệ lớnnhất trên thế giới, và cũng là quốc gia quy nhất 24 trong khu vực hầu như không bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á. Trong những thành quả mà Đài Loan đạt được trong thời gian vừa qua không thể phủ nhận có sự đóng góp của việc phát triển một mô hình kinh tế mới, mô hình KCX – KCN. Vài nét về những bài học kinh nghiệm, những bước đi đúng đắn của Chính phủ Đài Loan trong việc xây dựng và phát triển mô hình KCX – KCN ở Đài Loan, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm nhất định cho sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. − Bài học 1: Nhận thức đúng đắn của Chính phủ, phát triển nền kinh tế theo cơ chế hướng ngoại dựa vào việc phát triển công nghiệp. Các nhà hoạch định chính sách kinh tế của Đài Loan đã nhận thức được vị thế của Đài Loan trong hệ thống kinh tế thế giới và khu vực. Đài Loan thuộc loại hình nền kinh tế hải đảo, đất hẹp, người đông, tài nguyên khoáng sản nghèo nàn, mức độ phụ thuộc của nền kinh tế trong nước và hoạt động ngoại thương rất lớn. Vì vậy, để tồn tại và phát triển thì việc hình thành một “cơ cấu kinh tế hướng ngoại” mang ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế Đài Loan. Để có một ‘cơ chế kinh tế hướng ngoại”, tất nhiên không thể dựa vào phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp mà phải dựa vào phát triển công nghiệp, phải nhanh chóng thực hiện công nghiệp hóa toàn bộ nền kinh tế, nhằm tạo ra 1 nền sản xuất dựa trên phương thức sản xuất công nghiệp, năng động, có năng suất lao động cao, có khả năng sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp các dịch vụ cho xuất khẩu đến mọi thị trường trên thế giới. Đài Loan đã chọn cho mình một phương thức thích hợp để phát triển công nghiệp và tiến hành công nghiệp hóa. Xuất phát từ đặc điểm bên trong và tình hình thế giới thời kỳ cuối những năm 50 và đầu thập kỷ 60. Đài Loan chủ trương phát triển mạnh mẽ những ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động – Các xí nghiệp mới được xây dựng có quy mô vừa và nhỏ là phổ biến và được xây dựng tập trung ở khu vực nhất định (là KCX – 25 KCN) theo quy định của chính quyền. Các xí nghiệp ở các khu công nghiệp có nhiều thuận lợi: điều kiện hạ tầng kỹ thuật (điện, nước) hoàn hảo, được hưởng 1 số ưu đãi về tài chính như được miễn, giảm thuế 1 số năm, được hưởng thuế suất thấp, trong một số trường hợp được vay vốn với điều kiện ưu đãi …. Việc tập trung các xí nghiệp công nghiệp vào các KCN xét về phương diện quản lý kinh tế vĩ mô có nhiều lợi ích. Trước hết với các khu đất dành cho xây dựng KCN, có thể chủ động xây dựng hạ tầng kỹ thuật theo các tiêu chuẩn quốc tế. Với các điều kiện thuận lợi như vậy, nhiều nhà đầu tư trong nước và ngoài nước sẽ sẵn sàng đầu tư vào các khu này xây dựng nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là một lợi thế để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Mặt khác, nhờ bố trí sản xuất tập trung nên việc tổ chức sản xuất (cung cấp điện, nước, vận tải nguyên vật liệu cho sản xuất và sản phẩm, xử lý nước thải, ….) cũng thuận lợi hơn, tạo điều kiện giảm chi phí cho các xí nghiệp trong các khu công nghiệp. Cuối cùng nhờ có các khu công nghiệp nên đã giảm dần tiến tới chấm dứt việc xây dựng nhà máy riêng rẽ và phân tán trong nội thành, nội thị hoặc chiếm đất nông nghiệp, ngư nghiệp đặc dụng để xây dựng nhà máy, góp phần sử dụng có hiệu quả quỹ đất nông nghiệp vốn rất eo hẹp của Đài Loan. − Bài học 2 : Phát triển phổ biến mô hình KCX – KCN trên cả nước, không giới hạn quy mô, số lượng KCX – KCN. Kể từ năm 1996, khi thành lập khu chế xuất đầu tiên, đến nay Đài Loan đã có hơn 95KCN, trong đó 58 khu do Nhà nước đầu tư, còn lại do tư nhân hay các tổ chức đoàn thể đầu tư xây dựng. Hiện nay Bộ kinh tế (cụ thể là Cục công nghiệp) thống nhất quản lý Nhà nước đối với các KCN và có phân cấp như sau: chính quyền Trung ương trực tiếp quản lý 12 KCN có tầm quan trọng nhất, các khu còn lại do địa phương hoặc tư nhân quản lý (theo hình thức lập ban điều hành KCN do các xí nghiệp trong khu cử đại diện tham gia) – Qua cách phân bổ các KCX – KCN tại Đài Loan, hầu như huyện nào cũng có KCN, mỗi KCN là một “hạt 26 nhân” thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trong vùng. Trong những năm tới, cùng với việc phát triển khoa học – công nghệ, Đài Loan sẽ tiếp tục xây dựng thêm những KCN mới, nâng cấp các KCN cũ để đáp ứng nhu cầu phát triển của Đài Loan trong thế kỷ 21. Nên chăng đây là một kinh nghiệm cho chúng ta tham khảo: Muốn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với tốc độ cao và hiệu quả, nhất thiết đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển các KCX – KCN. Tùy theo điều kiện cụ thể, mỗi tỉnh nên có ít nhất một KCN. Điều quan trọng là phải làm tốt công tác quy hoạch phát triển công nghiệp nói chung và quy hoạch hình thành các khu công nghiệp trên phạm vi cả nước, bảo đảm tính thống nhất và mối quan hệ liên hoàn, tương hỗ trong phát triển giữa các KCN với hoạt động sản xuất và quá trình đô thị hóa ở vùng hình thành KCN. • Tại Thái Lan: Thái Lan là một đất nước có lợi thế so sánh tương đối giống với Việt Nam như : có tiềm năng lớn về phát triển nông nghiệp và lực lượng lao động. Tuy nhiên khi so sánh về kinh nghiệm phát triển KCN thì Thái Lan đã có hơn 40 năm hình thành và xây dựng mô hình này. Trong khi ở Việt Nam mô hình này mới chỉ được phát triển hơn 15 năm qua. Vì thế qua những thành công phát triển KCN tại Thái Lan cho phép chúng ta có được những bài học kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam đối với mô hình kinh tế mới mẽ KCX – KCN. Đến nay, Thái Lan có hơn 40 KCN hoạt động, trong đó 7 KCN do Cục Quản lý các KCN Thái Lan (gọi tắt IEAT) đầu tư, 1 KCN IEAT liên doanh với tư nhân để xây dựng cơ sở hạ tầng, 32 KCN do các tập đoàn lớn và tư nhân đầu tư. Tất cả các KCN này hoạt động theo luật KCN. IEAT trực tiếp quản lý 29 KCN, trong đó 7 KCN đã được lấp đầy. Trong số 29 KCN thì có 9 KCX và 20 KCN tổng hợp – KCN tổng hợp là nơi sản xuất hàng công nghiệp để xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Các KCN ở Thái Lan được chia làm 3 vùng, mỗi vùng được hưởng chế độ ưu đãi riêng về tài chính. − Vùng 1 : 6 tỉnh xung quanh Bang Kok, gồm 6 KCN 27 − Vùng 2 : 10 tỉnh xung quanh vùng 1, gồm 12 KCN − Vùng 3 : 60 tỉnh còn lại của Thái Lan, gồm 11 KCN Những bài học thành công tại các KCN Thái Lan; − Bài học 1 : Tổ chức bộ máy quản lý một cách hợp lý và hiệu quả. Trước đây, các nhà đầu tư vào Thái Lan tự mua đất để xây dựng nhà máy nên Nhà nước không quản lý được, nhất là về mặt bảo vệ môi trường. Từ năm 1972, IEAT được thành lập. Việc xác định chức năng và quyền hạn của IEAT là một cuộc đấu tranh và phải qua rất nhiều cuộc họp và tách một phần nhiệm vụ mà các bộ, ngành đang thực hiện giao cho IEAT. Cuối cùng, nhằm mục tiêu phát triển cân bằng ở Thái Lan, Chính phủ đã chính thức giao chức năng cho IEAT như ngày nay. IEAT được giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước thống nhất về phát triển KCN ở Thái Lan. Ngoài ra, cục còn có chức năng kinh doanh. Trong trường hợp này, IEAT như là một doanh nghiệp Nhà nước. Từ 2 chức năng trên, IEAT có quyền tiến hành các hoạt động sau: ™ Điều tra, xây dựng kế hoạch, thiết kế, xây dựng KCN. ™ Cấp giấy phép đầu tư. ™ Quản lý các nhà đầu tư trong KCN (bao gồm hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu, dịch vụ …), quản lý việc sử dụng đất, các công việc liên quan đến vệ sinh, y tế, ảnh hưởng môi trường. ™ Quy định ngành nghề và quy mô của cơ sở công nghiệp sẽ được cấp giấy phép đầu tư vào KCN. ™ Quy định giá mua, bán và cho thuê bất động sản, động sản. ™ Phát hành ngân phiếu hoặc các loại tín phiếu khác nhằm mục đích đầu tư. Tổ chức bộ máy của IEAT gọn, tập trung và trực tiếp nên công việc được giải quyết nhanh chóng hiệu quả. 28 − Bài học 2 : Về dịch vụ “một cửa”. Nhà đầu tư muốn đầu tư vào KCN chỉ cần đến IEAT là có đủ thông tin cần thiết. Họ sẽ được giới thiệu mạng lưới KCN, ngành nghề khuyến khích đầu tư, vị trí các KCN, các ưu đãi, các thủ tục giấy tờ cần thực hiện. Sau một ngày được hướng dẫn chu đáo và làm xong mọi thủ tục, một tuần sau họ sẽ nhận được giấy phép để bắt tay vào xây dựng nhà xưởng. Trường hợp ở xa, nhà đầu tư có thể thông qua mạng Internet tìm hiểu KCX – KCN mà mình quan tâm, lô đất mình lựa chọn. Sau đó fax cho IEAT, khi được IEAT chấp nhận, họ sẽ đến Bangkok để ký hợp đồng. Thực tế cho thấy, để đi đến dịch vụ một cửa là một quá trình phấn đấu liên tục kể từ khi thành lập IEAT đến khi ban hành luật KCN ở Thái Lan, trong đó quy định chế độ dịch vụ một cửa phải mất 7năm. Mặc ._. thác nước và xử lý để cung cấp cho doanh nghiệp), điện (xây dựng nhà máy điện riêng cho KCN) thì chủ đầu tư cần đề xuất phương án cụ thể. − Các địa phương khi xây dựng quy hoạch phát triển KCN cần có kế hoạch triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội bên ngoài hàng rào KCN một cách đồng bộ so với bên trong KCN. Ngoài những công việc trên cần phải tính toán đầy đủ và có dự phòng những phát sinh khi xây dựng KCN như: tái định cư, chỗ ở cho người lao động, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự, các dịch vụ công cộng như: trường học, bệnh xá, khu vui chơi giải trí … từ đó có phương án xử lý kịp thời đảm bảo môi trường đầu tư bên trong và ngoài KCN – Tiến tới coi việc xây dựng KCN gắn chặt với phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật – xã hội ngoài hàng rào KCN và phải coi đây là tiêu chí bắt buộc khi phê duyệt các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng KCN. − Ngoài việc dùng vốn ngân sách để hỗ trợ đầu tư các công trình ngoài hàng rào, UBND các tỉnh, thành phố cần có cơ chế, biện pháp khuyến khích các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, dân cư và các tổ chức khác đầu tư kinh doanh khai thác dịch vụ và cho hưởng cơ chế ưu đãi nếu cần. Bên cạnh đó, cần lồng ghép các chương trình phát triển dân sinh, xã hội trong những khu vực xây dựng KCN, đảm bảo hài hòa môi trường bên trong và bên ngoài KCN. 87 • Xây dựng cơ chế, chính sách về nhà ở cho người lao động làm việc trong KCX – KCN: − Quy hoạch KCN phải được gắn với quy hoạch khu nhà ở cho công nhân. Quy hoạch khu nhà ở cho công nhân cần đáp ứng quy hoạch chung của đô thị, nhà ở dành cho công nhân là một bộ phận cấu thành của hệ thống nhà ở đô thị. Vì vậy, việc quy hoạch xây dựng nhà ở cho công nhân cũng đòi hỏi phải được gắn với các dự án nhà ở thương mại hoặc các dự án đô thị mới để đảm bảo tính đồng bộ về sơ cở hạ tầng xã hội. − Cần ban hành hệ thống tiêu chuẩn nhà ở tối thiểu cho người lao động trong KCN, đồng thời điển hình hóa các thiết kế nhà ở nhằm thống nhất và đảm bảo phù hợp với nhu cầu và khả năng của người lao động trong KCN. Đồng thời khi quy hoạch nhà ở KCN cần tính toán nhu cầu, khả năng nhà ở của người lao động, từ đó định hướng việc xây dựng các loại hình nhà ở với quy mô, mức độ hiện đại và giá thành hợp lý. − Đa dạng hóa các hình thức đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân, ngoài việc xây dựng nhà ở từ nguồn vốn Nhà nước, cần khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng nhà ở thương mại để cho thuê, thuê mua, bán trả dần (trả góp), trả chậm … theo cơ chế thị trường để góp phần tăng nguồn cung nhà ở trên thị trường, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các đối tượng khách hàng, kể cả các đối tượng có thu nhập thấp; ban hành quy định cụ thể về phương thức thanh toán tiền mua thuê, thuê mua nhà ở thông qua Ngân hàng phù hợp với pháp luật về kinh doanh bất động sản. Khuyến khích xã hội hóa về nhà ở đồng thời thực hiện chính sách tạo điều kiện, không thả nổi cho thị trường tự điều tiết. − Chính sách hỗ trợ, miễn giảm tiền thuê đất đối với việc xây dựng nhà ở cho người lao động và người có thu nhập thấp để việc xây dựng nhà ở cho thuê hoặc bán đảm bảo việc thu hồi vốn và có lãi đối với các doanh nghiệp, tổ chức cá 88 nhân, đồng thời người lao động có thể thuê hoặc mua được nhà với giá rẻ, chất lượng vừa phải. − Điều chỉnh hợp lý thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản nhà ở cho người lao động trong KCN và người có thu nhập thấp. Phát hành trái phiếu phát triển nhà ở để huy động vốn đầu tư trong lĩnh vực nhà ở đặc biệt là nhà ở có giá cho thuê hợp lý. − Ưu đãi, hỗ trợ về thuế cho người dân tham gia xây dựng nhà ở cho người lao động tại các địa bàn có KCN như : miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất đối với các cá nhân có nhà ở cho người lao động thuê nhằm giảm bớt chi phí đánh vào tiền thuê nhà ở của người lao động. Tuy nhiên, cần có quy định cụ thể về xây dựng nhà ở, quản lý nhân khẩu, an ninh, trật tự, …. nhằm đảm bảo tốt hơn cuộc sống cho người lao động. − Thành lập quỹ nhà ở cho người lao động làm việc trong các KCN nhằm hỗ trợ tiền thuê, mua nhà cho người lao động có thu nhập thấp làm việc trong các doanh nghiệp KCN. Quỹ này được hình thành dựa trên đóng góp từ ngân sách địa phương, vận động đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan trên địa bàn. − Cần ban hành cơ chế kiểm soát giá chặt chẽ, việc bán, cho thuê nhà ở chặt chẽ, tránh tình trạng đầu cơ, nâng giá nhà ở mua hoặc cho thuê ở mức bất hợp lý, không phù hợp với khả năng của người lao động trong KCN. − Xây dựng các chế tài cụ thể quy định rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương, doanh nghiệp trong KCN, doanh nghiệp phát triển hạ tầng và người lao động trong việc xây dựng, quản lý, sử dụng nhà ở cho người lao động trong KCN. 3.2.5- MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ NỘI TẠI CÁC KCX – KCN : Để thu hút đầu tư trong nước vào KCX – KCN, cần đẩy mạnh việc thi hành luật doanh nghiệp, tiếp tục thực hiện Nghị định 90 về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; thực hiện đầy đủ và đúng các quy định của Luật doanh nghiệp về đăng ký 89 kinh doanh. Chấm dứt các hiện tượng làm trái quy định của Luật, đặt ra những yêu cầu về hồ sơ, thủ tục và điều kiện kinh doanh mà Luật không quy định; nghiên cứu hợp nhất mã số đăng ký kinh doanh, mã số thuế và mã số hải quan. Áp dụng đăng ký kinh doanh qua mạng điện tử; công bố công khai các dự án kêu gọi đầu tư vào KCN. Xây dựng quy trình và điều kiện cho thuê đất rõ ràng, cụ thể về nội dụng trách nhiệm, thời gian và chi phí. Tăng cường thu hút vốn nước ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị thường quốc tế với những biện pháp đơn giản hóa thủ tục cấp phép đầu tư, xây dựng lộ trình thực hiện hài hòa thủ tục cấp phép cho doanh nghiệp trong nước và ngoài nước, trước hết ở các ngành thuộc danh mục ưu đãi và đặc biệt ưu đãi, mở rộng chế độ đăng ký cấp phép đầu tư cho các dự án không thuộc danh mục cấm hoặc hạn chế đầu tư ; tiếp tục ký kết các Hiệp định bảo hộ đầu tư và tránh đánh thuế hai lần với những đối tác chính trên cơ sở đàm phán căn cứ vào các Hiệp định đã ký (như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, Hiệp định Việt – Mỹ); mở rộng hình thức thu hút vốn ĐTNN như đầu gián tiếp, mua lại, sáp nhập. Đa dạng hóa các hình thức pháp lý, cho phép thành lập Công ty quản lý, quỹ đầu tư, ưu tiên xóa bỏ hạn chế về hình thức đầu tư với dự án trong ngành sản xuất chế tạo hoặc có tỉ lệ xuất khẩu sản phẩm cao, xóa bỏ những hạn chế về vốn góp và huy động vốn của doanh nghiệp có vốn ĐTNN; mở rộng quyền góp vốn bằng tiền Việt Nam của các nhà ĐTNN từ nguồn thu nhập hợp pháp bằng tiền Việt Nam để đầu tư tại Việt Nam; tăng cường tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư và cung cấp dịch vụ đầu tư. Xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư theo những ngành có ưu thế của nước đầu tư và các Công ty xuyên quốc gia. Tăng cường thâm nhập thị trường quốc tế, với việc thực hiện các biện pháp sau: nghiên cứu chiến lược tiếp thị, xúc tiến thương mại và kết quả hoạt động của các nước là đối thủ cạnh tranh, xóa bỏ các hạn chế về tổ chức và tham dự các triển lãm, hội chợ trong nước và quốc tế. Cải tiến chế độ cấp hộ chiếu và thị thực 90 cho doanh nhân trong nước và ngoài nước để rút ngắn thời gian và chi phí. Sớm gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Ký kết hiệp định Thương mại song phương, ký kết các hiệp định hỗ trợ thương mại như hiệp định về vận tải, thanh toán, công nhận kết quả kiểm tra vệ sinh, kiểm dịch, tiêu chuẩn và chất lượng hàng hóa. Từng bước mở cửa thị trường trong nước, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong KCN. Thay đổi chế độ giá tính thuế tối thiểu bằng giá trị trên hợp đồng phù hợp với hiệp định về giá trị hải quan của Tổ chức thương mại thế giới. Cải cách thủ tục hải quan theo hướng đơn giản hóa và hài hòa thủ tục với chuẩn mực quốc tế. Cải thiện môi trường kinh doanh, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm: − Khuyến khích cạnh tranh, kiểm soát độc quyền trong kinh doanh kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN, như: mở rộng cạnh tranh trong xây dựng và cung cấp các dịch vụ hạ tầng trong và ngoài KCN, mở rộng đấu thầu quyền cung cấp dịch vụ, áp dụng chế độ quản lý phù hợp với kinh tế thị trường, tạo nguồn thu để trang trải chi phí và tích lũy để đầu tư. − Giảm thuế và phí, bao gồm : loại bỏ những chi phí bất hợp lệ đối với doanh nghiệp trong KCN và tất cả các khâu vận tải, bốc xếp, hải quan, thuế v.v.. xóa bỏ chế độ phụ thu đối với sản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu. Giảm thuế xuất khẩu đối với những mặt hàng không hạn chế xuất khẩu; giảm mức thu đối với những loại phí và lệ phí quá cao so với các nước trong khu vực. Xem xét lại mức đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế v.v.. Đẩy mạnh tiến độ điều chỉnh giá, phí các hàng hóa, dịch vụ v.v… − Nâng cao chất lượng sản phẩm. Thực hiện xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm KCN phù hợp với quốc tế, thực hiện các quy trình quản lý chất lượng toàn diện; ký các hiệp định thừa nhận tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm. Áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO và quy trình quản lý 91 chất lượng toàn diện; hỗ trợ đầu tư tăng cường năng lực đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh đối với các sản phẩm phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh của thị trường xuất khẩu. • Các doanh nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng do cạnh tranh thu hút khách đầu tư nên có hiện tượng đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng bên trong các KCN với chất lượng kém và không xây dựng đầy đủ các công trình cơ sở hạ tầng và tiện tích công cộng nhằm làm giảm giá thành thuê đất. Điều này gây ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư của thành phố. Kiến nghị BQL cần theo dõi chặt chẽ quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng và tiện ích công cộng của các doanh nghiệp, đồng thời sớm có tiêu chuẩn quy phạm xây dựng đối với các công trình cơ sở hạ tầng KCX – KCN. Các doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCX – KCN cần điều chỉnh lại các loại giá, phí trong từng KCX – KCN với sự thỏa thuận bằng văn bản của BQL, trong đó bao gồm: giá cho thuê đất, thuê nhà xưởng, kho bãi, giá điện, giá nước, thông tin liên lạc, các loại phí bảo dưỡng hạ tầng, tiện ích công cộng, xử lý nước thải, vệ sinh chiếu sáng … Tăng cường các loại hình dịch vụ hỗ trợ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp: giao nhận, kho vận, chi nhánh Ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, kiểm toán và đặc biệt là thành lập kho ngoại quan tại các KCX – KCN và cho phép thành lập kho bảo thuế tại các doanh nghiệp có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn…. trên cơ sở giúp cho DN tiết kiệm thời gian, chi phí, đơn giản hóa thủ tục. Từng bước chuyển dần một số loại phí như bảo trì cho cơ sở hạ tầng, tiện ích công cộng, xử lý nước thải … vào giá thành thuê đất. Sớm thành lập hiệp hội các Công ty đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng và hình thành quỹ hỗ trợ xúc tiến giao cho hiệp hội quản lý và lập kế hoạch sử dụng. 3.2.6- CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH XUẤT KHẨU : − Thực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu, một loạt các biện pháp đã được ban hành áp dụng chung cho mọi sản phẩm xuất khẩu cũng như thành lập quỹ thưởng xuất khẩu, thuế VAT bằng 0, giảm thuế thu nhập doanh 92 nghiệp 50% nếu kim ngạch xuất khẩu đạt 80% doanh số, cho vay tín dụng ưu đãi, thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu. − Thuế xuất khẩu: việc miễn thuế xuất khẩu là một giải pháp quan trọng khuyến khích xuất khẩu. Trên thực tế, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều không phải chịu thuế xuất khẩu (trừ một số linh kiện máy tính, phế liệu kim loại, gạo). − Các hình thức khác: Ngoài việc hoàn thuế nhập khẩu, các nhà xuất khẩu được hưởng thuế giá trị gia tăng bằng 0 và được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập. Số lượng ưu đãi phụ thuộc vào tỷ trọng xuất khẩu và địa điểm sản xuất hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN nằm trong các KCN được hưởng nhiều ưu đãi thuế đặc biệt, bao gồm miễn thuế nhập khẩu các máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. − Tỷ lệ xuất khẩu phản ánh chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh và nổ lực các doanh nghiệp do đó cần có chính sách ưu đãi về chế độ miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp chế xuất theo hướng tỷ lệ xuất khẩu càng cao thì được hưởng càng nhiều các ưu đãi về thuế. − Theo các quốc gia lân cận: Thái Lan, Philipin … các doanh nghiệp có tỷ lệ xuất khẩu từ 40% -50% đều được xem là doanh nghiệp chế xuất và được hưởng các ưu đãi về thuế và các ưu đãi khác. Đây là điều rất hợp lý, nó có tác dụng hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa. Xác định tỷ lệ xuất khẩu ở mức vừa phải và có chính sách ưu đãi càng tăng đối với các doanh nghiệp, có tỉ trọng xuất khẩu càng lớn là rất hợp lý. − Đối với ngành nông lâm, thủy sản: thông thường các ngành hàng này chịu tác động mạnh mẽ của thời tiết, biến động của thị trường. Do đó, để hỗ trợ các ngành này, khuyến khích tăng cường xuất khẩu, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi mạnh mẽ các ngành hàng này thông qua việc giảm thuế suất thuế thu nhập, hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và chính sách giá cả. 93 3.2.7- CÁC GIẢI PHÁP KHÁC : ™ Hoàn thiện hệ thống các chính sách ưu đãi về đầu tư, đẩy mạnh vận động và xúc tiến đầu tư vào KCX – KCN: • Trong thời gian tới, cơ chế hoạt động đầu tư vào KCX – KCN nói chung và chính sách ưu đãi đầu tư vào KCX – KCN nói riêng cần phải được xây dựng và hoàn thiện theo hướng: − Đảm bảo thống nhất và công bằng giữa khu vực trong nước và ngoài nước trong hoạt động đầu tư vào KCX – KCN. − Có những chính sách khuyến khích cao hơn đối với những chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng các KCN chuyên ngành, những KCN công nghệ cao, những nhà đầu tư vào những lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp cơ khí chính xác và công nghiệp phù hợp … trong KCX – KCN. − Sửa đổi những quy định chưa thống nhất, bổ sung những nội dung còn thiếu trong pháp luật và đầu tư KCX – KCN nhất là những quy định về thuế. − Điều chỉnh thủ tục đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCX – KCN, và đầu tư vào KCX – KCN đảm bảo có sự phân công, phối hợp rõ ràng gắn với trách nhiệm cụ thể của các cơ quan, đơn vị trong thẩm tra, thẩm định dự án, đảm bảo giải quyết nhanh gọn, chính xác nguyện vọng của nhà đầu tư, đồng thời tăng cường cơ chế giám sát sau cấp phép đối với các dự án, đặc biệt là dự án đầu tư nước ngoài. − Quy định trách nhiệm của các cơ quan địa phương, đặc biệt là Sở kế hoạch và Đầu tư và Ban Quản lý KCN cấp tỉnh trong việc cấp phép đầu tư, quản lý hoạt động đầu tư và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp theo hướng đảm bảo thống nhất quản lý theo ngành, lĩnh vực và quản lý trong phạm vi KCN. • Công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào KCX – KCN trong thời gian tới phải thực hiện tốt các công việc sau: 94 − Đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp vận động, xúc tiến đầu tư, chú trọng xúc tiến đầu tư theo lĩnh vực, địa bàn và đối tác cụ thể, chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ. − Xây dựng quỹ xúc tiến đầu tư trên cơ sở ngân sách Nhà nước cấp kết hợp với huy động đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp. − Thực hiện thống nhất, chủ động công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào KCN với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các Bộ, Ngành và chính quyền địa phương. Cần thành lập cơ quan chuyên môn làm công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào KCX – KCN và các khu vực khác. − Nhà nước cần dành kinh phí thỏa đáng từ ngân sách Nhà nước cho công tác vận động xúc tiến đầu tư. Tổ chức công bố rộng rãi quy hoạch chi tiết, danh mục các dự án ưu tiên đầu tư và các chính sách khuyến khích đầu tư vào KCX – KCN để các nhà đầu tư và người dân được biết. Cung cấp miễn phí các thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đầu tư. Hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân có công thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào KCX – KCN. − Để nhanh chóng lấp kín các KCX – KCN đã được thành lập và đạt được mục tiêu đề ra khi thành lập KCX – KCN trên địa bàn, UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo chặt chẽ Ban Quản lý KCN, doanh nghiệp phát triển hạ tầng trong việc vận động định hướng đầu tư vào KCX – KCN. − Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các nước, các tập đoàn và Công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. Tăng cường bộ phận xúc tiến đầu tư tại các cơ quan đại diện của nước ta ở một số nước và địa bàn 95 trọng điểm để chủ động vận động, xúc tiến đầu tư đối với từng dự án, từng tập đoàn, từng nhà đầu tư có tiềm năng, nhất là các tập đoàn xuyên quốc gia. − Xây dựng một hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu đồng bộ thống nhất, có liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị quản lý và kinh doanh trong KCX – KCN về pháp luật liên quan đến KCX – KCN; tình hình hoạt động và các thông tin về các KCX – KCN hiện có và dự kiến quy hoạch, định hướng thu hút đầu tư của các địa phương và trên cả nước. − Các cơ quan xúc tiến đầu tư cần kết hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước tháo gỡ, giải quyết kịp thời những khó khăn và đề nghị của doanh nghiệp và nhà đầu tư. ™ Đẩy nhanh công tác đền bù giải phóng mặt bằng, ổn định đời sống lâu dài của người dân có đất bị thu hồi trong KCX – KCN: • Đền bù, giải phóng mặt bằng là điều kiện tiên quyết đảm bảo có mặt bằng để tiến hành xây dựng KCX – KCN. Do đó, trong thẩm định dự án khả thi xây dựng KCX – KCN cần thẩm định chi tiết phương án đền bù, giải phóng mặt bằng và nguồn vốn huy động cho công tác này. Cần đảm bảo phương án đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư có tính khả thi cao phù hợp với thực tế dân cư và địa chất của khu vực xây dựng KCX – KCN; đặc biệt là phải làm rõ nguồn vốn cho công tác đền bù, giải phóng mặt bằng phải huy động được ngay khi có các quyết định thành lập KCX – KCN, tránh tình trạng kéo dài công tác giải tỏa do thiếu vốn. • Bên cạnh phổ biến quy hoạch KCX – KCN tại địa phương, cần có quy định hướng dẫn thống nhất về các quy định giá đền bù đất cho người dân trong KCX – KCN để tạo cơ sở cho các địa phương ban hành cơ chế giá đền bù công bầng, phù hợp với đặc điểm từng địa phương. Đồng thời, phải phổ biến cơ chế giá đền bù đến người dân để người dân có sự chuẩn bị trước khi tiến hành đền bù. 96 • Xây dựng chế tài có tính bắt buộc cao đối với chủ đầu tư khi tiến hành đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng, trường hợp tình trạng đền bù, giải phóng mặt bằng kéo dài do thiếu vốn, chậm trễ từ phía chủ đầu tư cần xem xét việc chuyển đổi chủ đầu tư, đảm bảo triển khai xây dựng KCN nhanh. Ngoài ra, cũng cần có quy định mang tính cưỡng chế đối với người dân khi tiến hành các phương án đền bù được duyệt mà cố tình không tiến hành di dời. • Đối với người dân đã bị thu hồi đất trong KCX – KCN, cần có biện pháp đảm bảo ổn định đời sống, lâu dài, cụ thể: − Thống kê xã hội học về hiện trạng cuộc sống, nghề nghiệp, trình độ của người dân khu vực có KCX – KCN trước khi bị thu hồi đất để tạo cơ sở có những chính sách hỗ trợ thích hợp. − Xây dựng chương trình hỗ trợ về đào tạo, dạy nghề của người dân bị thu hồi đất phù hợp với định hướng cơ cấu ngành nghề trong KCX – KCN hoặc nhu cầu tuyển dụng lao động của địa phương. Từ đó, ưu tiên bố trí chỗ làm việc cho người dân trong hoặc ngòai KCN, tránh tình trạng buông lỏng sau khi đền bù và đào tạo để mặc người dân tự tìm việc làm. − Đa dạng hóa các hình thức tái định cư cho người dân bị thu hồi đất, vừa xây dựng khu tái định cư vừa hỗ trợ người dân mua nhà, thuê nhà với giá ưu đãi, cho vay với lãi suất ưu đãi, hoặc ưu đãi các thành phần kinh tế xây dựng nhà ở cho người dân có đất bị thu hồi trong KCN. − Hình thành hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm, hướng dẫn tái định cư, nhà ở, tạo mối liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, trung tâm dịch vụ, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. − Tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật có liên quan đến vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng, quy hoạch KCN để tăng cường ý thức của người dân khi thực hiện di dời, ý thức và kế hoạch sử dụng tiền đề đền bù hợp lý, mang lại hiệu quả lâu dài. 97 ™ Giải pháp bảo vệ môi trường trong KCX – KCN trong thời gian tới: • Giải pháp tổ chức quản lý: − Sở Tài Nguyên & Môi Trường là cơ quan giúp việc cho UBND thành phố trong chức năng quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường trong thành phố. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động của KCX – KCN được điều chỉnh bởi khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật ngoài luật. Bảo vệ môi trường, bởi nhiều ngành và nhiều cơ quan chức năng. Vì thế sự phối hợp giữa các cơ quan hữu trách là một trong những nội dung cần được quan tâm cải tiến để vấn đề quản lý môi trường được thực hiện tốt không chỉ bởi Sở tài nguyên và môi trường. Các cơ quan như Ban Quản lý các KCN, Sở kế hoạch và đầu tư, Sở xây dựng, Cục hải quan, Thanh tra … trong hoạt động của mình đều có ảnh hưởng nhất định đến vấn đề quản lý môi trường. Do vậy cần đẩy mạnh sự phối hợp giữa các ngành liên quan, theo quy chế bảo vệ môi trường KCN theo Quyết định số 62/QĐ-BKHCNMT ngày 09/8/2002 của Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường. • Giải pháp quy hoạch và đầu tư: Để tăng hiệu quả kiểm soát ô nhiễm môi trường KCX – KCN ngay từ giai đoạn quy hoạch, các giải pháp sau nên được tính đến: − Công tác quản lý quy hoạch kiến trúc, xây dựng KCN, quy định cấp phép đầu tư cho các dự án vào KCN cần có thêm những quy định ràng buộc về sự phù hợp của dự án đối với yêu cầu bảo vệ môi trường KCN hiện tại và tương lai. − Quy trình cấp giấy phép cho hoạt động của dự án đầu tư vào KCN cần hội đủ điều kiện và nhấn mạnh sự tuân thủ điều kiện bảo vệ môi trường. − Đẩy mạnh đầu tư các công trình xử lý chất thải, các công trình thuộc hệ thống hạ tầng KCN. 98 − Đầu tư các trạm quan trắc môi trường tự động (cố định và di động) để thường xuyên giám sát diễn biến chất lượng môi trường KCN và khu vực xung quanh, cũng như dự báo xu thế tác động môi trường của KCN đối với vùng phụ cận. • Giải pháp công nghệ: − Công nghệ cần được cải tiến và đổi mới trong quy trình sản xuất kinh doanh của từng nhà máy. − Công nghệ được áp dụng cho xử lý chất thải cần xuất phát từ quy trình sản xuất. − Công nghệ kiểm soát mức phát thải của KCN từ phía cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành. • Giải pháp tuyên truyền giáo dục: − Tổ chức thông tin “nóng” và dễ hiểu về diễn biến chất lượng môi trường ở các KCN và các khu vực xung quanh KCN, và các kết quả xử phạt các KCN và doanh nghiệp trong các KCN gây ô nhiễm môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng. − Phổ biến các thông tin kỹ thuật về sự phát thải ô nhiễm, các kỹ thuật kiểm soát phát thải, các công nghệ sản xuất sạch hơn; chuyển hóa quan niệm chấp nhận ô nhiễm để đạt lợi ích kinh tế đơn thuần bằng quan niệm phát triển bền vững. • Giải pháp giám sát môi trường: − Mạng lưới quan trắc KCN cần được chuẩn hóa và được hòa mạng môi trường quốc gia. − Công tác hậu kiểm sau giấp phép ở KCN cần được tiến hành kịp thời, thường xuyên, nhưng gọn & hiệu quả. − Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra môi trường KCX – KCN. 99 ™ Các kiến nghị : • Đối với Trung Ương: − Sớm thông qua luật bảo vệ môi trường sửa đổi cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. − Hoàn thiện quy hoạch các KCN và các cơ sở hạ tầng phục vụ để tối ưu hóa công tác bảo vệ môi trường. − Quy định tiêu chuẩn môi trường theo từng vùng tùy theo yêu cầu bảo vệ môi trường phù hợp với thực tế vùng, thích hợp từng giai đoạn phát triển. − Chỉ đạo xử lý những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Quyết định 155 của Thủ tướng Chính phủ về quy chế quản lý chất thải nguy hại như tăng cường mạng lưới quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường đến cấp quận, huyện, phường, xã về tổ chức liên chế cũng như về ngân sách, phương tiện, trang thiết bị, mặt bằng …. • Đối với địa phương: − Chỉ đạo đẩy mạnh phối hợp giữa các ngành có liên quan trong việc thực hiện quy chế bảo vệ môi trường KCN. − Phân loại và xử lý triệt để doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trong KCN. − Xây dựng các nhà máy xử lý chất thải tập trung cho KCN, cải tạo, nâng cấp các hạng mục công trình xử lý nước thải tập trung đã bị quá tải. − Khuyến khích các doanh nghiệp KCN xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện môi trường, khuyến khích các biện pháp tái sử dụng và tái chế chất thải rắn. − Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về bảo vệ môi trường, công tác quan trắc môi trường đối với các KCN tập trung để thường xuyên giám 100 sát diễn biến chất lượng môi trường KCN và khu vực xung quanh, dự báo xu thế và diễn biến tác động môi trường của KCN trên địa bàn tỉnh. − Xây dựng khu liên hiệp xử lý chất thải công nghiệp, đẩy mạnh công tác quản lý chất thải đối với các khâu thu gom, vận chuyển, xử lý, tiêu hủy chất thải, nhất là chất thải nguy hại. − Tổ chức công tác thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp, sớm đưa quỹ bảo vệ môi trường địa phương đi vào hoạt động nhằm khuyến khích, hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong phương án nâng cấp và hoàn thiện các hạng mục công trình về môi trường. ™ Giải quyết chỗ ở cho công nhân làm việc trong các KCX – KCN : Đây cũng là một vấn đề vướng mắc mà các DN trong các KCX – KCN đang phải đối đầu, nhất là những KCN mà cách xa các khu vực dân cư. Khi sản xuất trong nội thành, các cơ sở sản xuất nhỏ thường tận dụng mặt bằng vừa làm nhà xưởng vừa làm chỗ ở cho công nhân, hoặc các công nhân sinh sống, thuê mướn nhà ở trong những khu vực gần đó, vấn đề di chuyển đến nơi làm việc không khó khăn, tốn kém mấy. Nhưng nếu di dời hoặc đầu tư vào KCN, họ sẽ có nguy cơ mất đi hàng loạt công nhân lành nghề do công nhân ngại đi làm xa. Để giải quyết vấn đề này, thành phố cần quy hoạch các khu dân cư mới nằm gần các KCX – KCN, có thể giao cho Quỹ đầu tư phát triển đô thị, các Công ty kinh doanh nhà hoặc thậm chí cả với Công ty phát triển hạ tầng (nếu có khả năng) xây dựng các căn hộ, các chung cư để thuê hoặc bán trả góp cho cán bộ, công nhân viên làm việc trong KCX – KCN. Tuy nhiên để hỗ trợ cho người lao động nghèo, trước mắt thành phố chưa tính tiền sử dụng đất vào giá thành của các căn hộ nhằm hạ giá thành bán ra, chỉ khi nào có sự sang nhượng lại những căn hộ này thì người mua mới phải đóng tiền sử dụng đất. Muốn ổn định lực lượng lao động ở KCX – KCN thì phải chăm lo đời sống và nơi ở của họ, có như vậy người lao động mới yên tâm nâng cao trình độ văn hóa, tay nghề và gắn bó với xí nghiệp. 101 KẾT LUẬN Phát triển KCX – KCN có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu gắn phát triển công nghiệp theo quy hoạch với việc bảo vệ môi trường hướng tới phát triển nhanh và bền vững. Các KCX – KCN đã đóng góp không nhỏ vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đa dạng ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần tăng trưởng kinh tế chung của cả nước, mở rộng mối liên kết ngành, liên vùng và mối quan hệ hợp tác quốc tế, nâng cao năng lực quản lý điều hành và cải cách thủ tục hành chính ở địa phương. Trong giai đoạn đầu triển khai mô hình KCX – KCN tại Việt Nam nói chung cũng như tại TP.HCM nói riêng chắc chắn không thể tránh khỏi những khó khăn, thiếu sót trong khâu quản lý cũng như thực hiện. Đến nay sau hơn 15 năm xây dựng và phát triển các KCX – KCN, bên cạnh những thành tựu mà KCX – KCN thành phố đạt được vẫn còn một số hạn chế còn tồn tại. Vì vậy việc nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCX – KCN là cần thiết không chỉ mang tính cấp bách mà cả về mặt lâu dài để thúc đẩy sự phát triển của các KCX – KCN. Tuy các giải pháp đề xuất nêu ra chưa phải đầy đủ, nhưng hy vọng rằng các giải pháp này sẽ được quan tâm và một phần nào đó sẽ được áp dụng trong thực tế để thúc đẩy sự phát triển mạnh và bền vững mô hình các KCX – KCN. Thực sự là động lực thúc đẩy phát triển công nghiệp của thành phố. 102 103 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kinh nghiệm thế giới về phát triển KCX và đặc khu kinh tế; nhà xuất bản CTQG – Viện Kinh tế học, năm 1994. 2. Báo cáo thường niêng của Ban Quản lý các KCX – KCN Thành phố và của các Công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng KCX – KCN. 3. Tạp chí Sai Gon Time về Khu chế xuất – Khu công nghiệp Việt Nam 2005. 4. PGS.TS Mai Ngọc Lương; Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia 2000. 5. Các thông tin tham khảo về bất động sản công nghiệp của một số quốc gia trên thế giới trên mạng Internet. 6. Tạp chí phát triển kinh tế, tạp chí đầu tư, tạp chí khu công nghiệp Việt Nam các số từ năm 1997 đến nay. 7. PGS. TS Lê Du Phong và PGS. TS Nguyễn Thành Độ; Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới, NXB Chính trị Quốc gia năm 2000. 8. Ministry of Economic Affairs, Legal documents about establishtment of industrial parks in Taiwan, June 1998. 9. Ministry of Economic Affairs, Export processing Zone on its 25th anniversary 1994. 10. Báo Đầu tư, báo SGGP và các tài liệu chuyên ngành khác. 11. Viễn cảnh và mục tiêu kinh tế và xã hội TP.HCM đến năm 2020 của Viện Kinh tế TP.HCM – Tháng 5/1998. 12. Tổng kết quá trình xây dựng phát triển các KCN và thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai – NXB Tổng hợp Đồng Nai 2005. 13. Kỷ yếu 10 năm phát triển & Quản lý các KCX – KCN TP.HCM 1992 – 2002, Ban Quản lý các khu chế xuất và công nghiệp TP.HCM 14. Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ về ban hành Quy chế KCN, KCX, Khu Công nghệ cao. 15. Cơ sở hình thành, phát triển các khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam. 103 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA1315.pdf
Tài liệu liên quan