Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài. Hiện nay, ngành dệt may đang giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước; dệt may hiện nay đang sử dụng gần 5% lao động toàn quốc ( hơn 20%) lao động trong khu vực công nghiệp, đóng góp 8% giá trị xuất khẩu công nghiệp chế biến, kim ngạch xuất khẩu luôn đứng thứ 2 ( sau xuất khẩu dầu thô) và đóng góp hơn 16% trong kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong hơn 10 năm qua, ngành dệt may Việt Nam đã đạt tăng trưởng bình quân cao về nhiều mặt, đặc biệt

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1460 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kể từ khi Chính phủ ban hành quyết định 55/2001CP – QĐ ngày 21/4/2001 phê duyệt chiến lược tăng tốc phát triển các chính sách hỗ trợ ngành dệt may thì năng lực sản xuất và thương mại của ngành đã phát triển mạnh mẽ. So với năm 2001, năng lực sản xuất toàn ngành năm 2004 đã tăng gần hai lần và kim ngạch xuất khẩu tăng 2,23 lần. Đặc biệt là tại thị trường Mỹ, nếu năm 2001 kim ngạch xuất khẩu dệt may chỉ đạt 47 triệu USD, nhưng bước sang năm 2002 kim ngạch xuất khẩu dệt may vào Mỹ tăng trưởng mạnh, đạt gần 900 triệu USD, và đến năm 2005 thì kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 2,6tỷ USD. sản phẩm may mặc Việt Nam được hầu hết các nhà nhập khẩu lớn trên thế giới đánh giá cao và đã bước đầu có vị thế trên thị trường trong và ngoài nước. Các chủ trương và quan điểm vĩ mô về phát triển dệt may của Đảng và Nhà nước đề ra là đúng đắc, tuy nhiên do từ năm 2001 đến nay thế giới đã có rất nhiều thay đổi nên một số định hướng và chỉ tiêu cụ thể của Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Công nghiệp dệt may đến năm 2010 và Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt any Việt Nam đến 2010 tại quyết định 55/2001/Cổ phần đầu tư thương mại Hải Nam – QĐ ngày 21/4/2001 đã không còn phù hợp với giai đoạn mới. Thêm vào đó, nước ta đang trong tiến trình hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới và đã trở thành thành viên chính thức cuả Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) từ tháng 7/1995, thành viên của Diễn đàn Kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC) từ tháng 11/1998; là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ tháng 11/2006. Khi tham gia các tổ chức đó buộc chúng ta phải thực hiện các cam kết khi gia nhập, cụ thể như chúng ta đang thực hiện lộ trình cắt giảm thúe theo Hiệp định ưu đãi thuế quan ( CEPT) của Khu vực mậu dịch tự do AFTA. Bãi bỏ các ưu đãi cho dệt may trong quyết định 55/2001/CP-QĐ ngày 21/4/2000 theo thoả thuận với Mỹ khi gia nhập WTO. Trong bối cảnh thị trường xuất khẩu dệt may thế giới rộng mở và tự do hoá hoàn toàn từ 1/1/2005 (chế độ hạn ngạch dệt may đã được xoá bỏ với các nước thành viên WTO) làm cho mức độ cạnh tranh trên bình diện quốc tế trở nên gay gắt hơn, các ưu đãi cho ngành dệt may không còn nữa làm cho giá thành sản phẩm tăng lên, giảm khả năng cạnh tranh. Điều này đã đặt ra cho ngành dệt may nước ta một câu hỏi lớn: “Làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may?” Để góp phần vào việc trả lời câu hỏi trên, tác giả luận văn đã chọn vấn đề: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” để làm đề tài luận văn cao học của mình. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với lĩnh vực công tác của tác giả. 2. Tính hình nghiên cứu của đề tài. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may không chỉ là nhu cầu của một đơn vị, một doanh nghiệp mà là nhu cầu chung của toàn ngành trên đất nước. Do đó, xung quanh vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của dệt may đã có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, việc đánh giá chi tiết năng lực cạnh tranh cũng như đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế nhất là khi Việt Nam đã gia nhập WTO thì hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu nào phân tích và tổng hợp đầy đủ được. Chính vì vậy mà đề tài: Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” có ý nghĩa rất thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu bức xúc hiện nay của ngành dệt may Việt Nam, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển của toàn ngành dệt may trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài. * Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh tranh, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam thông qua các sản phẩm: sản phẩm may mặc, Sản phẩm sợi tơ tằm để từ đó nêu lên các định hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. * Nhiệm vụ khoa học - Phân tích khái quát những vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh tranh. - Phân tích, đánh giá thực trạng về năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam, tập trung vào các sản phẩm: sản phẩm may mặc, sản phẩm sợi tơ tằm. Đề xuất các định hướngvà giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. *Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. *Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu, giải quyết những vấn đề về nâng cao năng lực của sản phẩm dệt may Việt Nam mà cụ thể là các sản phẩm : sản phẩm may mặc, sản phẩm sợ tơ tằm trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 5. Phương pháp nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu,luận văn sử dụng phương pháp khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, với công cụ trừu tượng hoá, phương pháp logíc kết hợp với lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp theo hệ thống là sáng tỏ nội dung nghiên cứu. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp khảo sát thực tiễn các doanh nghiệp trong ngành dệt may Việt Nam nhằm thu thập các số liệu thống kê ngành và kết hợp các ý kiến của các chuyên gia để minh hoạ cho những nhận định của mình. 6.Những đóng góp của luận văn. Luận văn góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua số liệu thống kê, khảo sát thực tế tại doanh nghiệp để đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam nói chung và năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc, sản phẩm sợi và tơ tằm nói riêng. Đề xuất định hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 7.Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương, bao gồm: Chương I: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam. Chương III: Định hướng và giải pháp năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong thời gian tới. Chương I: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. I.1.Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. 1.1.1.năng lực cạnh tranh và nội dung năng lực cạnh tranh của sản phẩm. 1.1.1.1.Cạnh tranh. -Khái niệm về cạnh tranh Theo C.Mác “Cạnh tranh TBCN là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà TB nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất tiêu thụ hàng hoấ để thu lợi nhuận siêu ngạch”: Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là một yếu tố trong cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Kết quả trong cạnh tranh sẽ là có một số doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi đó một số doanh nghiệp sẽ tồn tại và phát triển hơn nữa. Cũng chính nhờ sự cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế thị trường vận động theo hướng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội. Đó cũng là yếu tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển. Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh là môi trường vừa là động lực của sự phát triển kinh tế –xã hội. Cạnh tranh có thể được hiểu như sau: “Cạnh tranh là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắthu nhập quyết liệt giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường hàng hoá cụ thể nào đó mà giành giật khách hàng và thị trường, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hoá và thu được lợi nhuận cao”. -Các loại hình cạnh tranh. Nếu căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, người ta chia cạnh tranh làm 3 loại: +Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. +Cạnh tranh giữa người mua với nhau: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật cung cầu. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa người mua trở lên quyết liệt, giá cả hàng hoá dịch vụ sẽ tăng lên. +Cạnh tranh giữa người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh gay go quyết liệt nhất. Đây là cuộc cạnh tranh quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp đều muốn giành lợi thế cạnh tranh. Để có thể đứng vững và phát triển, các doanh nghiệp phải sử dụng mọi biện pháp khác nhau để tạo cho mình một lợi thế hơn đối thủ. Nếu căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường, người ta chia ra: -Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Là hình thức cạnh tranh trên thị trường có nhiều người bán có ưu thế như nhau. Các sản phẩm bán ra được xem như đồng nhất. Các doanh nghiệp tham gia thị trường nàychủ yếu tìm biện pháp cắt giảm chi phí vào sản xuất một số lượng sản phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên. -Cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn các sản phẩm là không đồng nhất với nhau. Người bán có thể ấn định giá linh hoạt theo khu vực bán sản phẩm, tuỳ theo khách hàng cụ thể la mức lợi nhuận mong muốn. -Cạnh tranh độc quỳên là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó một số người bán một số sản phẩm thuần nhất. -Vai trò của cạnh tranh. -Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. -Đối với người tiêu dùng, cạnh tranh giúp họ thoả mãn nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ, chất lượng sản phẩm ngày càng cao cùng với mức giá cả ngày càng phù hợp với khả năng của họ. -Đối với nền kinh tế quốc dân thì cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để phát huy lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội. Đó cũng là điều kiện để xoá bỏ độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ bất bình đẳng trong kinh doanh, phát huy tính tháo vát, năng động và óc sáng tạo trong các doanh nghiệp gợi mở nhu cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng cao chất lượng đời sống xã hội, phát triển nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận mặt tiêu cực của cạnh tranh, Để khắc phục được những tiêu cực đó thì vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. Tóm lại: cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết định giữa các chủ thể hoạt động, nhằm giành giật những điều kiện sản xuất thuận lợi và nơi tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển. 1.1.1.2.Năng lực cạnh tranh. Nêú hiểu cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường thì chỉ có cạnh tranh giữa các cá nhân, các doanh nghiệp và cạnh tranh các nền kinh tế, không có cạnh tranh của hàng hoá. Vì bản thân hàng hoá không phải là chủ thể kinh doanh và do đó không thể tự cạnh tranh được. Nói cạnh tranh ở đây là nói đến hành vi của chủ thể và vì vậy hành vi của doanh nghiệp kinh doanh, của cá nhân kinh doanh và của một nền kinh tế , không có hành vi của hàng hoá. Trong quá trình các chủ thể cạnh tranh với nhau, để giành lợi thế về phía mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì phát triển vị thế của mình trên thị trường. Các bịên pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó, một khả năng nào đó hoặc một năng lực nào đó của chủ thể, được gọi là sức cạnh tranh của chủ thể đó hoặc năng lực cạnh tranh của chủ thể đó hoặc khả năng cạnh tranh của chủ thể đó. Một số nhà kinh tế xem khả năng cạnh tranh quốc gia là một hiện tượg kinh tế vĩ mô và phụ thuộc vào một số biến số như tỷ giá hối đoái,lãi suất hay thâm hụt ngân sách chi tiêu chính phủ. Nhưng nhiều quốc gia đã phát triển rất nhanh và mức sống ngày càng được nâng lên nhanh chóng ,mặt dù những nước này đã phải chịu thâm hụt ngân sách (nhà Nhật Bản, ý hay Hàn quốc), có đồng tiền nội tệ bị tăng giá (Như Đức hay Thuỵ Sỹ) hay có lãi suất cao (Như ý, Hàn quốc). Một số nhà kinh tế khác lại lập luận rằng khả năng cạnh tranh là một hàm số của lao động rẻ và dư thừa. Nhưng những quốc gia như Thuỵ sỹ, Đức đã tăng trưởng rất nhanh mặc dù tiền lương ở những nước này rất cao và có những thời kỳ các nước này chịu thiếu hụt lao động nghiêm trọng. Một số quan điểm khác cho rằng khả năng cạnh tranh phụ thuộc vào việc sở hữu một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong số những quốc gia thành công nhất về mặt kinh tế trong thời gian qua như Đức, Hàn Quốc, Nhật bản…đều là những nước không giàu có gì về tài nguyên thiên nhiên và phải nhập khẩu hầu hết nguyên liệu thô. Ngay trong nội bộ các nước Hàn Quốc, Đức, Anh quốc thì những vùng nghèo về tài nguyên lại phát triển hơn những vùng giàu tài nguyên. Gần đây, nhiều nhà kinh tế đã lập luận rằng chính sách của chính phủ gây ra ảnh hưởng mạnh nhất đến khả năng cạnh tranh. Quan điểm này xác định những chính sách bảo hộ, khuyến khích xuất khẩu hay trợ giá là những yếu tố chính dẫn đến thành công kinh tế ở tầm quốc gia (chủ yếu là Hàn Quốc và Nhật Bản) và một số ngành công nghiệp lớn như chế tạo xe hơi, thép, đóng tàu hay chất bán dẫn để làm bằng chứng cho quan điểm của mình. Theo Michael Porter (1990), khái niệm duy nhất có ý nghĩa về khả năng cạnh tranh ở tầm quốc gia là năng suất lao động quốc gia. Năng suất lao động là giá trị sản lượng được sản xuất bởi một đơn vị lao động hay vốn. Năng suất lao động phụ thuộc vào cả chất lượng, đặc trưng của sản phẩm (nó quyết định giá cả sản phẩm) và tính hiệu quả mà qua đó sản phẩm được làm ra. Năng suất là định tố quan trọng nhất trong dài hạn đối với mức sống dân cư trong một nước vì đó là nguyên nhân cơ bản của thu nhập quốc dân bình quân đầu người. Năng suất lao động của nguồn nhân lực quyết định mức lượng của họ, trong khi năng suất của vốn quyết địh lợi nhuận của người nắm giữ vốn. Năng suất lao động không ngừng tạo ra mức thu nhập cao mà còn cho phép công dân có khả năng lựa chọn việc nghỉ ngơi nhiều hơn hay thay vì phải làm việc liên tục. Một mức sống ngày càng cao phụ thuôc vào khả năng của các công ty trong nước dù có đạt được hay không những mức năng suất lao động cao và gia tăng năng suất lao động theo thời gian. Tăng trưởng năng suất bền vững đòi hỏi một nền kinh tế phải liên tục tự nâng cấp. Các công ty của một nước phải không ngừng cải thiện năng suất trong những ngành công nghiệp hiện hữu bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ sung những tính năng mong muốn, cải thiện công nghệ sản xuất gia tăng hiệu quả sản xuất. Các công ty trong cùng một nước cũng cần phải t những khả năng cần thiết để có thể cạnh tranh ở những ngành phát triển ngày một tinh vi phức tạp hơn, mà ở đó thường là năng suất cao hơn. Đồng thời, một nền kinh tế được nâng cấp là một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh thành công trong những ngành hoàn toàn mới, phức tạp và tinh vi. Làm được như vậy sẽ tiếp nhận được nguồn nhân lực bị rơi ra trong quá trình cải thiện năng suất của những ngành hiện hữu. Tất cả những điều này sẽ làm rõ vấn đề tại sao lao động lại rẻ, tỷ giá hối đoái và ưu đãi không phải là những quan niệm có ý nghĩa về khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Khi muốn đề cập đến một sức mạnh, một khả năng duy trì được vị trí của một hàng hoá trên thị trường (hàng hoá này phải thuộc một doanh nghiệp nào đó) thì người ta dùng thuật ngữ “sức cạnh tranh của hàng hoá”, hoặc “ năng lực cạnh tranh của hàng hoá”…mà bản chất của nó chỉ là mức độ hấp dẫn của hàng hoá đó đối với khách hàng. Tuy nhiên, bản thân không tạo ra năng lực cạnh tranh mà nó phải thông qua doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá đó. Hiện nay, vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh ( còn gọi là sức mạnh của cạnh tranh, khả năng cạnh tranh) của doanh nghiệp. Có quan niệm gắn sức cạnh tranh với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan điểm lại gắn sức cạnh tranh của doanh nghiệp theo thị phần mà nó nắm giữ, có người lại đồng nghĩa công cụ cạnh tranh với các chỉ tiêu đo lường sức cạnh tranh của hàng hoá, của doanh nghiệp, thậm chí có người còn đồng nghĩa sức cạnh tranh với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp…có tác giả sau khi phân tích bản chất của sức mạnh cạnh tranh đã đi đến kết luận: “Sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của nó so với các đối thủ khác trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp của mình:. Tuy nhiên, nếu sức cạnh tranh chỉ là thực lực và lợi thế của bản thân nó thôi, thì chưa đủ vì doanh nghiệp cạnh tranh có thắng lợi hay không lại bị tác động của rất nhiều nhân tố, trong đó có sự tác động ngoại lực, của sự vay mượn tạm thời để duy trì vị trí của nó trên thị trường bằng rất nhiều cách khác nhau. Trong thực tế có doanh nghiệp thực lực rất nhỏ nhưng vẫn duy trì được vị trí của nó trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh bằng huy động ngoại lực về thực lực và lợi thế hoặc cả hai. Do vậy, nếu chỉ hiểu sức cạnh tranh của doanh nghiệp là thực lực và lợi thế của nó sẽ làm giảm những suy nghĩ sáng tạo dám nghĩ dám àm, dám huy động thực lực hoặc lợi thế của doanh nghiệp khác vào việc duy trì vị trí của nó trên thị trường. Đố không phải là sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời mở cửa và hội nhập, sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời kỳ đóng cửa, giơ cao ngọn cờ tự lập từ cường. Cách hiểu đó không còn phù hợp với bối cảnh mới của nền kinh tế thế giới. Theo chúng tôi, nên hiểu: “Năng lực (sức,khả năng) cạnh tranh của doanh nghiệp, đó là thực lực và lợi thế mà doanh nghiệp có thể huy động để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường một cách lâu dài và ý chí nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp của mình”. Tương tự như vậy, có thể hiểu “Năng lực (sức,khả năng) cạnh tranh của một nền kinh tế là thực lực và lợi thế mà nền kinh tế có thể huy động để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường thế giới một cách lâu dài và có ý trí nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế của mình và cho quốc gia mình”. Một tất yếu là những ngoại lực được huy động vào việc bảo vệ vị trí của doanh nghiệp hay của một nền kinh tế ở một thời điểm quyết liệt nào đó trong cạnh tranh cũng chỉ là những giải pháp tình thế trước mắt, hoàn toàn không phải là những giải pháp màn tính chiến lược lâu dài. Vì vậy, nói đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hay nền kinh tế chủ yếu là nói đến thực lực của doanh nghiệp hay nền kinh tế đó là chính mà không tính đến thực lực vay mượn. Việc vay mượn tức thời chỉ giải quyết được những mục tiêu trước mắt tức thời của doanh nghiệp hay của nền kinh tế không quyết định việc duy trì vị trí của doanh nghiệp hoặc nền kinh tế một cách lâu dài. Nếu doanh nghiệp nào không có khả năng hoặc có khả năng huy động ngoài lực thấp thì sẽ bị thất bại trước các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, việc huy động ngoại lực là quan trọng nhưng không thể là quyết định trong việc duy trì sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh,khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Mặt khácạnh tranh để giành được những điều kiện thuận lợi trong kinh doanh, duy trì và phát triển vị trí của mình trên thị trường, các doanh nghiệp, quốc gia phải sử dụng tổng hợp nhiều công cụ và biện pháp khác nhau. Việc lựa chọn công cụ và biện pháp phù hợp để áp dụng cho từng trường hợp cụ thể là một nghệ thuật trong cạnh tranh. Sử dụng đúng thì thắng lợi và ngược lại không đúng sẽ bị thất bại, không những không duy trì được vị thế mà còn làm cho vị thế đó giảm đi so với trước đây. Các chủ thể khác nhau thì lựa chọn những biện pháp và công cụ khác nhau. Hệ thông công cụ cạnh tranh mà doanh nghiệp sử dụng không trùng hợp với hệ thống công cụ cạnh tranh là mẫu mã, kiểu cách sản phẩm, chất lượng, giá cả, hệ thống phân phối sản phẩm , tiếp thị, hệ thống bảo hành sản phẩm…còn Nhà nước thường sử dụng các công cụ sau: Bảo hộ mậu dịch, thuế quan, hạn ngạch, tiêu chuẩn kỹ thuật, trợ cấp xuất khẩu, hiệp định song phương và đa phương về đầu tư và thương mại, gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế và các liên kết kinh tế quốc tế và khu vực. 1.1.1.3.Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bao gồm các nội dung sau: -Mẫu mã và chất lượng của sản phẩm Mẫu mã và chất lượng của sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế sản phẩm cho đến khâu hoàn thành sản xuất sản phẩm đem ra tiêu thụ sản phẩm. Chất lượng của mỗi sản phẩm được thể hiện ở giá trị sử dụng và thời gian sử dụng. Chất lượng sản phẩm ngày nay được hiểu một cách linh hoạt hơn, không chỉ có các chỉ tiêu kỹ thuật thuần tuý mà còn gắn với đối tượng tiêu dùng. Các doanh nghiệp muốn cạnh tranh cần phải tuân thủ nguyên tắc chất lượng sản phẩm tuyệt đối với độ tin cậy sử dụng cao khi sử dụng. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, chất lượng sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp tới sự sống còn của doanh nghiệp. Nếu chất lượng sản phẩm không tốt thì thương hiệu của doanh nghiệp sẽ mất đi mà không có thể lấy lại được, giá sản phẩm dù có rẻ đi chăng nữa thì người tiêu dùng cũng không chấp nhận. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng sản phẩm luôn là ưu tiên hàng đầu của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Ngoài ra, để có được lợi thế cạnh tranh thì các doanh nghiệp cũng phải luôn thay đổi mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và đặc biệt nó phải có sức thu hút lớn đối với mọi đối tượng khách hàng. Có nhiều yếu tố tác động đến mẫu mã và chất lượng sản phẩm như trình độ thiết kế sản phẩm, chất lượng nguyên vật liệu đầu vào, trình độ công nghệ của thiết bị, trình độ quản lý của doanh nghiệp và đặc biệt là chất lượng lao động của đội ngũ công nhân. -Trình độ công nghệ thiết bị: Trong nền sản xuất hàng hoá nói chung, trình độ công nghệ của thiết bị sẽ được phản ánh trung thực vào chất lượng của sản phẩm và ngược lại khi nhìn vào chất lượng của sản phẩm ta sẽ cơ bản đánh giá được trình độ công nghệ thiết bị của doanh nghiệp làm ra sản phẩm đó. -Trình độ thiết kế sản phẩm. Thể hiện ở khả năng tạo ra ác sản phẩm mới đáp ứng với nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Khi trình độ thiết kế ở mức độ cao thì khả năng phản ứng của doanh nghiệp đối với nhu cầu khách hàng sẽ nhanh nhẹn,linh hoạt. Điều này giúp cho doanh nghiệp nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình. -Trình độ quản lý của doanh nghiệp. Được thể hiện ở góc độ nhìn nhận về yếu tố chất lượng sản phẩm của lãnh đạo doanh nghiệp, cách xây dựng chiến lược chất lượng, cách quản lý và tổ chức sản xuất để đạt đượcc các chính sách chất lượng mà doanh nghiệp đã đề ra. -Chiến lược lao động của đội ngũ công nhân. Đây là yếu tố quan trọng cấu thành nên chất lượng sản phẩm bởi máy móc sản xuất ra sản phẩm, thiết kế, quản lý đều do con người. Nếu trình độ không đủ thì người lao động sẽ không thể nào vận hành tốt thiết bị máy móc, hệ thống quản lý nhằm sản xuất ra được sản phẩm tốt nhất có thể. -Giá của sản phẩm. Giá của sản phẩm được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua chính sách giá bán mà doanh nghiệp áp dụng đối với thị trường có sự kết hợp của một số điều kiện khá. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả mà doanh nghiệp có thể kiểm soát là chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí bán hàng, chi phí lưu thông. Để bán được hàng và nâng cao ưu thế cạnh tranh, các doanh nghiệp phải xây dựng được chính sách giá cả sản phẩm hợp lý, đảm bảo lợi ích lâu dài của bản thân doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp phải tìm mọi cách hạ giá thành sản phẩm như thuê công nhân với giá thấp, đặt nhà máy tại nơi có nguồn nguyên vật liệu để giảm tối đa chi phí vận chuyển, tăng năng suất lao động, giảm tỷ trọngchi phí quản lý trong giá thành sản phẩm…và trong chính sách giá, doanh nghiệp có thể áp dụng chính sách giá hớt váng, chính sách định giá thấp…để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Một điều quan trọng nữa trong giá cả sản phẩm là doanh nghiệp phải biết kết hợp giữa giá cả và chu kỳ sống của sản phẩm. Việc kết hợp này sẽ cho phép doanh nghiệp khai thác được tối đa khả năng tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. -Thương hiệu của sản phẩm. Đây là một nhân tố không thể thiếu để cấu thành nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay. Thương hiệu được coi là một tài sản quỹ giá của doanh nghiệp và việc xây dựng được một thương hiệu tốt không chỉ một sớm một chiều mà diễn ra trong một thời gian dài. Xây dựng thương hiệu không chỉ là gắn cho sản phẩm một cái tên, biểu tượng, hình vẽ hoặc kết hợp những yếu tố là sản phẩm có uy tín, tạo dựng lòng tin, thu hút khách hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh. Để một thương hiệu của sản phẩm có uy tín và thu hút được khách hàng cần nhiều thời gian và thể hiện những cam kết đối với khách hàng, những cam kết của sản phẩm về chất lượng,dịch vụ khách hàng, đa dạng sản phẩm, chất liệu. Những cam kết này cần có thời gian để khách hàng nhận thấy, luôn giữ vững và không ngừng được nâng lên. Hệ thống phân phối. Hệ thống phân phối là tập hợp các kênh đưa ra sản phẩm của doanh nghiệp từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Hệ thống phân phối sản phẩm sẽ gắn kết sản xuất với tiêu dùng. Điều này được thể hiện ở hai khía cạnh. -Hệ thống phân phối giúp cho doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm và người tiêu dùng có cơ hội tiếp xúc, sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. -Ngược lại thông qua Hệ thống phân phối sẽ giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được những đánh giá của khách hàng về sản phẩm của mình. Đồng thời cũng Hệ thống phân phối mà doanh nghiệp có thể đánh giá được như cầu của thị trường để đưa ra những chiến lược phù hợp. Khí sản xuất hàng hoá càng phát triển thì Hệ thống phân phối càng quan trọng. Hệ thống phân phối. Sản lượng sản phẩm tiêu thụ, kéo theo là giá thành sản phẩm sẽ giảm và năng lực cạnh tranh của sản phẩm được tăng lên đáng kể. 1.1.2.Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của một hàng hoá, một doanh nghiệp và một nền kinh tế là khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nền kinh tế chỉ có năng lực cạnh tranh cao khi có nhiều doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao, và doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao khi có nhiều hàng hoá và có năng lực cạnh tranh cao so với các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá là cơ sở và điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế quốc gia. Để lựa chọn các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của từng loại chủ thể và đối tượng tham gia vào thị trường cần phải có các tiêu chí định lượng để đo lường và đánh giá chúng. Trên ý nghĩa đó, tác giả đưa ra các tiêu chí định lượng kết hợp với cá tiêu chí định tính để đo lường và đánh giá năng lực cạnh tranh của một hàng hoá, của một doanh nghiệp, của một nền kinh tế. -Đánh giá năng lực cạnh tranh của một mặt hàng, gồm các tiêu chí sau: +Mức doanh thu của mặt hàng đó trong từng năm hay tỷ trọng doanh thu của mặt hàng đó trong tổng doanh thu của nhà sản xuất ra hàng hoá đó;. +Thị phần của mặt hàng đó trên thị trường trong từng năm hay so với các sản phẩm đồng dạng; + Mức độ hấp dẫn của sản phẩm đó về mẫu mã kiểu cách so với các đối thủ cạnh tranh. + Mức chênh lệch về giá của mặt hàng đó so với đối thủ cạnh tranh. + Mức chênh lệch về chất lượng của hàng hoá đó so với hàng hoá cùng loại của các đổi thủ cạnh tranh. +Mức ấn tượng về hình ảnh nhãn hiệu hàng hoá của nhà sản xuất ra mặt hàng đó so với hàng hoá cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. - Đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, gồm các chỉ tiêu sau: + Công nghệ, thiết bị và khả năng tiếp nhận chuyển giao công nghệ; + Nguồn lực lao động và năng suất lao động. + Chủng loại và chất lượng sản phẩm/. + Giá thành sản phẩm. + Trình độ quản lýtheo các chuẩn mực quốc tế. + Thương hiệu. + Năng lực xúc tiến thương mại + Năng lực công nghệ thông tin. + Khả năng đáp ứng nhanh theo yêu cầu của khách hàng. Một doanh nghiệp kinh đoanh đa ngành, đa lĩnh vực kinh doanh nhiều mặt hàng trong một lĩnh vực và trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, không phải tất cả các mặt hàng đều do doanh nghiệp sản xuất ra đều có năng lực cạnh tranh hoặc có năn lực cạnh tranh bằng nhau. Một tất yếu sẽ xảy ra là một mặt hàng phải có năng lực cạnh tranh cao nhưng một số mặt hàng khác lại có sức hấp dẫn thấp. Trong trường hợp đó chúng ta phải đánh giá thế nào về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cho thoả đáng. Chúng ta chỉ có thể đánh giá năng lực cạnh tranh của từng mặt hàng của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh hàng hoá, hoặc chúng ta phải đi đánh giá năng lực cạnh tranh chung của toàn doanh nghiệp trên tất cả các loại hàng hoá mã doanh nghiệp sản xuất và cung ứng trên thị trường theo các tiêu chí vừa nêu ra ở trên. Doanh nghiệp nào có chỉ tiêu đạt cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh cao hơn về mặt đó. Và tương tự như vậy, doanh nghiệp nào đạt được nhiều chỉ tiêu cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh cao hơn các đối thủ cạnh tranh. -Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế, gồm các chỉ tiêu sau: +Độ mở cửa của nền kinh tế; +Mức độ tham gia phân công lao động quốc tế của nền kinh tế (mức độ tham gia và các tổ chức và các liên kết kinh tế quốc tế); +Tiềm lực tài chính của nền kinh tế; +Trình độ công nghệ của nền kinh tế; +Kết cấu hạ tầng của nền kinh tế; +Trình độ, tác phong làm việc và mức độ linh hoạt của độ ngũ nhân lực trong nền kinh tế; +Mức độ thông thoáng của cơ chế kinh doanh; +Hệ thống pháp luật phải đầy đủ, rõ ràng và tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh; +Quan hệ đối ngoại quốc gia đó; + Hệ thống kênh thông tin ra vào nền kinh tế; +Khả năng khai thác các lợi thế của nền kinh tế; +Quy mô của nền kinh tế; +Sự ổn định của hệ thống chính trị quốc ._.gia; +ấn tượng tốt về hình ảnh của một nền kinh tế trong tiềm thức của người tiêu dùng trên thế giới. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế cần phải dùng đến nhiều tiêu chí như trên mới có thể đo lường và đánh giá được. Sự hơn kém về các tiêu chí này của các nền kinh tế chính là sự thể hiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đó. 1.2.Vai trò và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2.1.Vai trò của nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hoá là quá trình xã hội hoá ngày càng sâu sắc, sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cùng với mối quan hệ biện chứng giữa hai yếu tố này ở quy mô toàn cầu. Cùng với quá trình toàn cầu hoá là sự phân công lao động quốc tế và mỗi quốc gia sẽ phải phát huy tối đa lợi thế của mình để xây dựng được năng lực cạnh tranh của mình. Một trong những thách thức lớn nhất đối với Việt Nam khi hội nhập chính là năng lực cạnh tranh thấp trên cả 3 phương diện: Năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm.Mặc dù đã đạt được những tiến bộ nhất định trong những năm qua, song năng lực cạnh tranh quốc gia Việt Nam vẫn ở mức thấp so với thế giới và khu vực. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, Việt Nam hiện nằm trong nhóm những quốc gia có khả năng cạnh tranh thấp. Năm 2004 năng lực cạnh tranh của Việt Nam xếp ở vị trí 92/104. Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam thấp do năng lạc cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm thấp. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sẽ góp phần làm tăng năng lực cạnh tranh bởi các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh quốc gia được phản ánh tương đối đầy đủvào năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Ta có thể thấy điều này qua các yếu tố sau: -Trình độ công nghệ: Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm có chất lượng cao thì ngoài trình độ tay nghề của người lao động, hệ thống quản lý thì trình độ công nghệ thíêt bị sản xuất phải ở mức cao. Hay nói cách khácạnh tranh trong mỗi sản phẩm bao giờ cũng chứa đựng một hàm lượng công nghệ nhất định và chính hàm lượng này sẽ phản ánh trình độ công nghệ của doanh nghiệp. Thông qua nhiều loại sản phẩm khác nhau ta có thể cơ bản đánh giá được trình độ của quốc gia đó. -Các định chế của Nhà nước: Các định chế của Nhà nước bao gồm môi trường kinh doanh, khung pháp lý và hành chính. Nếu môi trường kinh doanh không tốt thì không ai muốn kinh doanh, và kéo theo là chủng loại, mẫu mã sản phẩm bị hạn chế, tính chất cạnh tranh của thị trường và năng lực cạnh tranh của sản phẩm thấp.Khung pháp lý và hành chính thường phản ánh trực tiếp vào giá bán của sản phẩm. Nếu thủ tục hành chính đơn giản, gọn nhẹ sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm rất nhiều chi phí và tất yếu là giá sản phẩm giảm, năng lực cạnh tranh tăng lên. Nước ta hiện nay đang trong tình trạng kém phát triển, tỷ lệ thất nghiệp cao, công cuộc CNH –HĐH đang diễn ra mạnh mẽ. Để có vốn đầu tư phát triển kinh tế, ngoài việc kêu gọi đầu tư nước ngoài, vay nợ nước ngoài, nước ta phải tích cực sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Một trong những lợi thế của nước ta là lực lượng lao động dồi dào, giá công nhân rẻ nhưng trình độ lao động thấp. Do vậy Đảng và Nhà nước đã ưu tiên phát triển ngành dệt may, giầy da để tận dụng lợi thế trên. Trong xu thế toàn cầu hoá, cạnh tranh trở lên gay gắt hơn cả trên thị trường quốc tế và thị trường nội địa nhất là khi nước ta ra nhập WTO. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may sẽ giúp cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tăng được hả năng cạnh tranh,mở rộng sản xuất tạo thêm nhiều công ăn việc làm, góp phần là giảm tỷ lệ thất nghiệp của nước ta. Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may sẽ giúp cho các doanh nghiệp dệt may tăng lượng hàng tiêu thụ, đồng nghĩa với tăng lợi nhuận,kéo theo vốn của doanh nghiệp được nâng lên. Khi đó nhu cầu đầu tư nâng cao trình độ công nghệ, hệ thống phân phối sản phẩm thương hiệu, trình độ quản lý…. sẽ được đáp ứng, việc đầu tư vào công nghệ, hệ thống phân phối sản phẩm, thương hiệu…sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Như vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và quá trình phát triển của doanh nghiệp tỷ lệ thuận với nhau, tác động qua lại mất thiết với nhau. 1.2.2.Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đưa lại cho ngành dệt may Việt Nam những thuận lợi đó là: -Việc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế với tư cách thành viên đầy đủ tạo điều kiện cho ngành dệt may Việt Nam chủ động hơn trong việc tham gia, thâm nhập mạnh hơn vào các thị trường truyền thống của mình, đồng thời mở rộng các thị trường tiềm năng. Đây là cơ hội để ngành dệt may Việt Nam mở rộng hoạt động, nâng cao hình ảnh và thương hiệu của mình trên trường quốc tế. -Tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tạo áp lực cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đổi mới toàn diện và triệt để cơ cấu tổ chức của mình. Đông thời ngành dệt may Việt Nam có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu. Điều này sẽ giúp cho ngành dệt may nước ta có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh của toàn ngành nói chung cũng như của tưng sản phẩm nói riêng.Ngoài ra, việc tham gia hội nhập WTO sẽ giúp doanh nghiệp dệt may Việt Nam có nhiều cơ hội để tiếp cận nguồn vốn đầu tư lớn về công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các tập đoàn lớn trên thế giới. -Hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO với tư cách thành viên đầy đủ đồng nghĩa với việc chúng ta phải thực hiện các cam kết song phương và đa phương. Một điều tất yếu là hàng trong nước sẽ mất đi cái ô “Bảo hộ”, hàng hoá nước ngoài sẽ tràn ngập thị trường Việt Nam. Khi đó buộc doanh nghiệp dệt may phải đầu tư hơn nữa vào thị trường trong nước, đổi mới quản lý, công nghệ, nâng cao năng suất lao động để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, tránh tình trạng thua cuộc ngay trên sân nhà. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cho ngành dệt may Việt Nam nhiều khó khăn, thách thức: -Năng lực cạnh tranh của nước ta trên cả 3 phương diện là năng lực cạnh tranh của quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm còn thấp. Điều này thể hiện khá rõ nét qua các yếu tố về vốn, công nghệ, trình độ quản lý, khả năng nắm vững luật pháp quốc tế… -Khi các chính sách bảo hộ mất đi, thuế nhập khẩu giảm sẽ tạo điều kiện cho hàng ngoại xâm nhập vao thị trường Việt Nam. Do các đối thủ cạnh trạnh của ngành dệt may nước ta thường có trình độ phát triển cao hơn, và đi trước nước ta nhiều năm sẽ khiến nhiều sản phẩm của ta không thể cạnh tranh được với hàng ngoại nhập. -Hàng hoá của nước ngoài khi nhập khẩu vào thị trường Việt Nam thường có mẫu mã đa dạng. trong khi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường có vốn nhỏ nên phần thiết kế mẫu mã thường không được chú trọng, không theo được với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Và tất yếu khi xảy ra hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO là sẽ có một loạt các doanh nghiệp sẽ bị phá sản, tạo thêm gánh nặng thất nghiệp cho đất nước. Như vậy, những đòi hỏi khách quan nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay xuất phát từ những yêu cầu và đòi hỏi sau: Thứ nhất: Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành dệt may Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện lộ trình tham gia Khu mậu dịch tự do ASEAN (tức AFTA), Hiệp định tư do mậu dịch (FTA) giữa ASEAN với Trung Quốc và bắt đầu thực hiện lộ trình tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng. và mục đích đạtkim ngạch xuất khẩu 10 -12 tỷ USD vào năm 2010 đòi hỏi ngành dệt may Việt Nam phải phát triển mạnh hơn nữa cả về quy mô và số lượng, tạo thêm công ăn việc làm. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam đang còn rất nhiều hạn chế, điều này được thể hiện ở các khía cạnh: -Trình độ công nghệ còn thấp, 45% số lượng máy móc thiết bị cần được đầu tư nâng cấp, 30-40% cần được thay thế. Năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam nói chung chỉ băng 2/3 mức bình quân của các nước ASEAN. -thị trường trong nước mới đáp ứng 30% nhu cầu nguyên phụ liệu cho toàn ngành dệt may. -Toàn ngành có trên 2000 doanh nghiệp nhưng mới chỉ một vài doanh nghiệp có thương hiệu trên thế giới và có đến 65% doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ (vốn điều lệ từ 5 tỷ trở xuống)… -Chất lượng nguồn nhân lực còn rất yếu,. Ngành dệt may Việt Nam hiện đang sử dụng 1,1 triệu lao động trong các dây chuyền công nghệ thì có đến gần 70% trong số đó là lao động phổ thông. Để đáp ứng được tốc độ phát triển ngành dệt may Việt Nam, đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may phải thúc đẩy mạnh hơn nữa việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Thứ hai: Sự phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới trong đó có công nghệ dệt may đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may phải tăng cường công tác đầu tư nâng cao trình độ công nghệ. Và con đường duy nhất để tạo vốn đầu từ một cách bền vững là nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm để tăng sản lượng tiêu thụ, tăng doanh thu, đồng thời tăng tỷ trọng giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm để tăng tỷ lệ lợi nhuận. Sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ trong những năm cuối thế kỷ XX là yếu tố cơ bản, có tính chất quyết định tới quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Bên cạnh khoa học công nghệ, có nhiều yếu tố xuất hiện đồng thời trong giai đoạn này đóng vai trò xúc tácạnh tranh hoặc trở thành công cụ đắc lực cho tiến trình toàn cầu hoá. Khoa học công nghệ làm thay đổi phương thức sản xuất, tạo ra bước đột biến về năng suất lao động, thúc đẩy nền kinh tế bước vào quá trình toàn cầu hoá. Ngành dệt may là một ngành kinh tế kyc thuật có đặc thù à sử dụng nhiều công nhân, máy móc thiết bị có vai trò quyết định đến năng suất lao động. Khi năng suất lao động cao sẽ góp phần làm giảm tỷ lệ khấu hao, tỷ lệ chi phí quản lý, chi phí nhân công trên mỗi sản phẩm và tất yếu là hạ giá thành,lợi nhuận tăng. Vì vậy, áp dụng khoa học công nghệ mới là một tất yếu để giúp cho các doanh nghiệp dệt may có thể tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Thứ 3: Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp ngành dệt may phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Cùng với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới, nhu cầu về hàng dệt may cũng tăng lên đáng kể. Đơn cử như thị trường Mỹ, nếu nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may năm chỉ là 52tỷ USD thì năm 2003 là 71 tỷ USD và dự kiến là tăng gấp đôi trong vòng 10-15 năm tới, trong đó năm 2003 hàng Việt Nam mới chiếm 1% tổng giá trị hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Tại thị trường nội địa, doanh thu của toàn ngành dệt may Việt Nam năm 2006 chỉ đạt 1,8 tỷ USD (trong khi xuất khẩu đạt 5,834tỷ USD). Con sô snày cho thấy thị trường nội địa bị yếu so với xuất khẩu và tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao khi xuất khẩu gặp khó khăn. Và khi gia nhập WTO, hàng ngoại nhập tràn vào vớimẫu mã đâ dạng, phong phú sẽ làm tăng khả năng lực chọn của người tiêu dùng. Chính những điều đó đã đặt những doanh nghiệp dệt may Việt Nam vào tình thế bắt buộc phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, tăng giá trị gia tăng trong sản phẩm ,, đáp ứng yêu cầu CNH –HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Tóm lại: Đối với mỗi nền kinh tế quốc dân, khi tham gia vào chuỗi toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đều có mặt tích cực và mặt tiêu cực. Tuy nhiên mỗi quốc gia cũng đều hiểu rằng nếu đóng cửa, không hội nhập có nghĩa là loại mình ra khỏi cuộc chơi, đất nước sẽ không phát triển. Do đó hầu hết các quốc gia đều tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và tuỳ điều kịên của từng quốc gia mà mỗi nước đề ra cho mình và chiến lược hội nhập phù hợp. Việt Nam chúng ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng và điểm mốc đánh dấu là quá trình hội nhập của chúng ta là ngày 07/11/2006 thi WTO chính thức công bộ Việt Nam là thành viên 150 của tổ chức này. Tiến trình hội nhập đó đã đặt ra cho ngành dệt may Việt Nam (ngành có kim ngạch xuất khẩu luôn đứng ở vị trí thứ 2 trong nền kinh tế quốc dân) yêu cầu phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nếu không muốn bị “chết”. 1.3.Kinh nghiệm các nước trong khu vực và quốc tề về nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may. 1.3.1.Trung quốc. Trung Quốc được đánh giá là cường quốc số 1 về hàng xuất khẩu dệt may của thế giới với tổng số trên 21.000 doanh nghiệp và được coi là nước có khả năng cạnh tranh cao nhất với lợi thế lớn nhất về nguồn lao động chi phí thấp, nguồn nguyên liệu phụ liệu tại chỗ đa dạng và dồi dào cũng như khả năng sản xuất hầu hết tất cả các chủng loại sản phẩm trong mọi khung giá cả, chất lượng. Về chính sách, Trung Quốc đã triền khai kế hoạch tái cơ cấu một cách triệt để từ năm 1998 với ngân sách hỗ trợ hàng tỷ đô la nhằm hiện đại hoá ngành dệt. Trong đó, cho phép đóng cửa và sát nhập các nhà máy làm ăn không hiệu quả, loại bỏ hơn 10 triệu cọc sợi cũ. Năm 2000, Trung Quốc cam kết hỗ trợ không hoàn lại 2,4 tỷ đô la và co vay 1,7 tỷ đô la cho 200 công ty hàng đầu để nâng cấp thiết bị, công nghệ cũng như cam kết hỗ trợ 1,8 tỷ đô la và cho vay 1,2 tỷ đô la cho các doanh nghiệp khác trong toàn ngành dệt may. Tổng cộng trong 3 năm 2001-2004, Trung Quốc đã đầu tư 21 tỷ USD để nâng cấp3.500 nhà máy trong toàn ngành dệt may. Trung Quốc cũng miễn giảm thuế thu nhập đối với nguyên liệu phụ để sản xuất hàng xuất khẩu. Năm 2002, sản lượng sợi bông của Trung Quốc là 8,2 triệu tấn, sản lượng vải là 32,2 tỉ m2, sản phẩm may trên 13 tỉ sản phẩm và kim ngạch xuất khẩu đạt 56 tỉ USD. Dự báo Trung Quốc chắc chắn sẽ là nước chiếm lĩnh thị trường xơ, hàng dệt và sản xuất hàng dệt trong thời gian tới. Hiện tại, Trung Quốc là nước sản xuất và tiêu thụ bông tơ tằm lớn nhất thế giới đồng thời cũng là nước tiêu thụ len lớn nhất thế giới. Đối với sợi nhân tạo, Trung Quốc là nước sản xuất lớn nhất thế giới và năng lực sản xuất sẽ tăng đáng kể trong thời gian tới. Năm 2003, năng lực sản xuất sợi bông polyeste filament của Trung Quốc là 8,4 triệu tấn; dự kiến 2010 năng lực sản xuất sẽ tăng lờn 14,4 triệu tấn. Đối với polyeste ngắn, năng lực sản xuất năm 2003 đạt 4,3 triệu tấn và dự kiến năm 2010 sẽ đạt 7,7 triệu tấn. Xuất khẩu dệt may Từ Trung Quốc cũng tăng nhanh kể từ khi Trung Quốc ra nhập WTO tháng 11/2001. Xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ tăng 67% từ 4.963 triệu mét vải (quy đổi) năm 2002 lên 8.287 triệu mét vải năm 2003; và chiếm gần 20% tổng nhập khẩu dệt may toàn thế giới vào Mỹ. Năm 2004, tổng kim ngạch Xuất khẩu dệt may của Trung Quốc đạt 97,4 tỷ đola mỹ, tăng 25,2% so với năm 2003. Trong đó, Xuất khẩu hàng may mặt đạt 61,6% tỷ đô la Mỹ Xuất khẩu hàng dệt đạt 35,8 tỷ đô la mỹ. thị trường Xuất khẩu lớn nhất đối với Trung Quốc là Hông Kông (17,4 tỷ USD, tăng 13% so với 2003), Nhật Bản (đạt 17,2tỷ USD tăng 12,7% so với 2003) , Mỹ (đạt 11,8 tỷ USD tăng 21,9%) và EU (đạt 12,1%, tăng 12,05%). Bước vào năm 2005, sau 3 tháng Xuất khẩu trong điều kiện phi hạn ngạch, Xuất khẩu dệt may của Trung Quốc vào thị trường Mỹ đạt 3,7 tỷ USD, tăng 66,79%vào thị trường EU đạt 3,97% USD, tăng 47,42%. Một số mã hàng có tốc độ tăng trưởng chóng mặt tới trên 1000% như Cat 338/339 (áo dệt kim, chất bông), Cat 347/348 (quần dệt thoi, chất bông), Cat 332 (tất), Cát 342 (váy chất bông), cat 647/648(quần dệt thoi, sợi nhân tạo)(1). Thống kê của hội đồng ngành dệt Trung Quốc- www.ctei.gov.cn Trước tốc độ Xuất khẩu mạnh mẽ hàng dệt may Trung Quốc giai đoạn hậu hạn ngạch. EU và Mỹ đã chính thức tiến hành điều tra việc bán phá giá hàng dệt may Trung Quốc vào tháng 5/2005. Hiện tại, Trung Quốc đã đạt được thoả thuận với Châu Âu về hạn chế bớt Xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này. Mỹ cũng đã tái áp đặt hạn ngạch với 03 nhóm Cat 338/339, Cat 347/348 và Cat 352/362 và đang tiếp tục điều tra một số nhóm Cat khác. Mặc dù vậy, Xuất khẩu của Trung Quốc dự báo sẽ chiếm tới 30,8 thị phần thế giới vào năm 2005 và 49,4% vào năm 2010.(2) 1.3.2.ấn độ. ấn Độ là cường quốc lớn thứ 2 trên thế giới về sản xuất dệt may và được coi là nước cung cấp và thay thế Trung Quốc với trên 3100 doanh nghiệp và sản xuất 4 triệu tấn sợi, 42 tỷ m2 vải (thống kê năm 2001). Kim ngạch Xuất khẩu năm 2001 đạt 11,7 tỷ đô la. ấn Độ có lợi thế rất dồi dào về nguồn lao động giá thành thấp, có kỹ năng và khả năng thiết kê đa dạng, là một trong những nước sản xuất sợi và vải lớn nhất thế giới và có khả năng sản xuất đa dạng các mặt hàng dệt may, đặc biệt là hàng dệt nội thất kể cả ga trải giường và khăn mặt. Về chính sách, ấn Độ loại bỏ khống chế đối với đầu tư nước ngoài, bãi bỏ nhiều hạn chế và giấy phép nhập khẩu, hỗ trợ nâng cao chất lượng bông, giảm thuế nhập khẩu máy dệt và cho phép sử dụng máy dệt cũ, nâng cấp hạ tầng và trang thiết bị tại trung tâm sản xuất dệt, hỗ trợ đào tạo thiết kế thời trang. Dự báo, ấn Độ, cũng như Trung Quốc, có thể sẽ chiếm thị phần quan trọng sau khi tất cả các mã hàng trong giai đoạn hậu hạn ngạch. Một số ý kiến cho rằng Xuất khẩu hàng dệt may từ ấn Độ có thể tăng lên 3 lần trong khoảng từ 2005-2010,, đặc biệt khi các công ty ấn Độ đã và đang đầu tư đáng kể vào lĩnh vực xơ, sợi, vải và dệt. Cụ thể, sản lượng sợi filament polyester dự báo sẽ tăng gấp 2/3 lần, từ 1,2 triệu tấn năm 2003 đến 2 triệu tấn trong năm 2010. Đối với sơ ngắn, sản lượng tăng tới 70% từ 0,7 triệu tấn lên 1,2 triệu tấn. Các nhà bán lẻ lớn của Hoa Kỳ như Wal-Mart, J.C Penny và Carrefour đều đã đặt hàng tại ấn Độ. 1.3.3.Pakistan Pakistan cũng có rất nhiều tiềm năng phát triển mạnh ngành dệt may với chi phí lao động thấp, có lợi thế về nguồn bông tại chỗ và năng lực sản xuất sợi cotton, vải và hàng nội thất; được hưởng nhiều ưu đãi trong chính sách thương mại của mỹ và EU, có mức kim ngạch Xuất khẩu 9 tỷ USD. Nhập khẩu từ Pakistan vào EU gia tăng bất kể về việc Pakistan không được hưởng quy chế GSP khi xuất hàng vào EU kể từ 1/1//2005. Thông tin thương mại ngành dệt may Việt Nam số ngày 9/5/2005 và ngày 16/5/2005 : Asia Chemical tháng 10/2004. Hiện tại, Bộ công nghiệp Pakistan cũng đang tiến hành các dự án đầu tư trang thiết bị tăng cường năng lực sản xuất của ngành công nghiệp dệt trị giá nhập khẩu máy móc khoảng 5 tỷ đô la. Dự báo, Pakistan cũng sẽ chiếm lĩnh thị phần hàng dệt may quốc tế, đặc biệt đối với các sản phẩm cotton và hàng may mặc Nam. 1.3.4.Băngladét: Băngladét Với 3.600 doanh nghiệp dệt may và 1,8 triệu lao động trong ngành dệt may cũng là đối thủ cạnh tranh rất nhiều tiềm năng với mức Xuất khẩu trên 5,68 tỷ USD năm 2004 với mức tăng trưởng trung bình 16,8%/năm từ 1990 -2004. Băngladét có khả năng sản xuất và đáp ứng tới 80% nhu cầu về phụ liệu trong nước. Mặc dù vậy, khả năng cung ứng vải còn rất hạn chế so với nhu cầu khoảng 3 tỷ yard vải /năm và có mắc tăng cầu khoảng 20%/năm. Hiện tại 85-90% nguồn cung cấp vải vẫn phải nhập khẩu từ Trung Quốc, ấn Độ, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan… Tuy nhiên, chính phủ Băngladét đang triển khai nhiều chính sách khuyến khích sản xuất vải trong nước và dự kiến sẽ xây dựng khoảng 60nhà máydệt cỡ trung bình với công suất khoảng 30 triệu yard vải/năm/nhà máy. Bên cạnh đó, với lợi thế về nguồn lao động chi phí rất thấp, khả năng sản xuất đại trà các mặt hàng cơ bản như áo dệt kim và quần thoi cotton, Băngladét sẽ có sức cạnh tranh đáng kể trong thương mại dệt may quốc tế. 1.3.5. Srilanka: Ngành dệt may là ngành công nghiệp lớn nhất tại Srilanka và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế với sản lượng sản xuất công nghiệp chiếm 6% GDP 39% tổng sản lượng sản xuất công nghiệp toàn quốc, 33% lao động công nghiệp, 6% lực lượng sản xuất, 52% tổng kim ngạch xuát khẩu toàn quóc và 67% xuất khẩu của sr ngành công nghiệp (năm 2002).Với khoảng 1061 công ty may, xuát khẩu của dệt may của Srilanka đạt 2,4 tỉ USD, trong đó xuất khẩu vào Hoa Kỳ chiếm 63% và vào EU chiếm 31%; Srilanka được coi là nhà cung cấp hàngmay mặc có chất lượng cho thị trường đại chúng và đã xây dựng được mối quan hệ khăng khít với các khách hàng lớn như: Victoria’s, Seret, Liz Claiborn, Nike, GAP…các sản phẩm may mặc Srilanka có lợi thế sản xuất các sản phẩm nam nữ thông thường (casual men’s and women’swear) và đặc biệ rất được khách hàng tín nhiệm trong việc sản xuất các sản phẩm lót nữ chất lượng cao.Công nghiệp dệt may Srilanka có lợi thế giảm được 20% thuế suất theo GSP (năm 2003) và hiện tại được miễn thuế xuất vào Châu âu sau khi thảm hoạ sóng thần xảy ra. Nguồn lao động có kỹ thuật cao, được đào tạo và giao tiếp tốt bằng tiếng Anh. 1.3.2 inđonesia Indonesia là một trong những nước sản xuất hàng dệt lớn nhất tại Đông Nam á và được coi là nguồn cung cấp dệt may quan trọng trong thương mại dệt may thế giới. Ngành dệt may Inđônesia thu dụng khoảng 3,5 triệu lao động trong các lĩnh vực khác có liên quan. Kim ngạch xuất khẩu của ngành chiếm khoảng 14% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Lợi thế của ngành dệt may Inđônesia là sự phát triển đồng bộ theo chiều dọc trong mọi công đoạn sản xuất. Mặc dù phần lớn bông phải nhập khẩu song ngành dệt may Inđônesia lại có những năng lực sản xuất xơ sợi nnhân tạo lớn và được khai thác có hiệu quả. Ngành dệt may Inđônesia bao gồm hầu hết tất cả các công đoạn sản xuất từ sản xuất tơ sợi nhân tạo kéo sợi, dệt va hoàn tất vải may. Hiện có khoảng 8.000 nhà máy dệt và may tại Inđônesia. Về cơ bản, các nhà máy dệt của Inđônesia có thể sản xuất vải để đáp ứng yêu cầu cho may xuất khẩu và sản xuất sợi đủ để đáp ứng nội địa. Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Inđônesia đạt 7,7 tỷ USD năm 2004, tăngư 8,51% so với năm 2003.Với thế mạnh về năng lực sản xuất theo chiều dọc, lao động dồi dào và có trình độ, ngành dệt may Inđônesia đã và đang tập chung hướng tới chiếm lĩnh thị phần trung và cao cấp. Hiện tại bên cạnh viẹc không chịu khống chế hạn ngạch, Inđônesia còn được EU miễn thuế đối với hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường này sau thảm hoạ sóng thần. Đó là một thuận lợi đáng kể đối với ngành dệt may Inđônesia trong cuộc cạnh tranh sau ngày 01 tháng 01 năm 2005. 1.3.7 Các nước đang phát triển khác. So với các nước chưa phải là thành viên của WTO vẫn phải tiếp tục chịu chế độ hạn ngạch, nhiều nước đang phát triển khác đang được hưởng lợi thế về chi phí lao động và thuế. Tuy nhiên, dường như tất cả các nước đang phát triển, đặc bịêt là các nước ở châu á, ngoại trừ Băngladét, đều không tận dụng giai đoạn chuyển giao này để phát triển năng lực sản xuất cũng như không tập trung phát triển thị trường nhập khẩu trọng yếu của mình. Các nước này cũng không đầu tư nâng cao năng lực sản xuất sợi nhân tạo mặc dù nước đó không sản xuất xơ sợi thiên nhiên. Chẳng hạn như Nepal không phải là nước sản xuất xơ sợi thiên nhiên những cũng không sản xuất xơ sợi nhân tạo. Mặc dù Nepal vẫn có thể hưởng lợi thế chi phí lao động thấp song tương lại ngành dệt may không chắc chắn, Campuchia cũng tương tự. Mặc dù thời gian gần đây, ngành may mặc Campuchia phát triển nhanh chỷ yếu do giá nhân công rẻ song thủ tục Xuất khẩu khá rườm rà khiến Xuất khẩu có thể bị suy giảm trong tương lai. 1.3.8.Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam. Thứ nhất: tăng cường đầu tư là giải pháp chủ yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Năng lực thiết kế, trình độ công nghệ, hệ thống quản lý chất lượng, chất lượng lao động …là các yếu tố cấu thành nên mẫu mã, chất lượng của sản phẩm. để nâng cao được chất lượng sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm thì không thể không đầu tư nâng cao năng lực thiết kế,máy móc thiết bị, hệ thống quản lý chất lượng. Ta có thể học hỏi điều này từ kinh nghiệm đi trước của Trung Quốc. Vốn đầu tư của mỗi doanh nghiệp là hữu hạn nhưng nhu cầu đầu tư là vô hạn. Chính vì vậy, việc đầu tư cần phải cân nhắc kỹ lưỡng đảm bảo hài hoà giữa các yếu tố bởi năng lực cạnh tranh của sản phẩm là tổng hoà của các yếu tố chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm, thương hiệu và hệ thống phân phố sản phẩm. Thứ hai: Nhân lực là nền tảng của tăng trưởng. Tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Trong xu thế toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực là một yếu tố quyết định đến sự phát triển của doanh nghiệp cũng như của quốc gia. Nhân lực ảnh hươngr tới mọi hoạt động của doanh nghiệp từ chiến lược kinh doanh, định hướng phát triển đến sản xuất, tiêu thụ. Mọi dây chuyền sản xuất dù có hiện đại đến đâu đi chăng nữa thì vẫn phải có bàn tay con người vận hành. Thêm vào đó, dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động nên nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần phải đặc biệt chú trọng hơn so với các lĩnh vực khác, ngành khác. Có như vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm mới được thực hiện liên tục, thực hiện trong từng khâu của quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu thụ. Thứ ba: Phải đặc biệt chú trọng tới ngành sản xuất nguyên vật liêụ. Đối với sản phẩm dệt may,nguyên vật liệu thường chiếm 50-60% của giá thành sản phẩm. Để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh ngoài việc giảm các chi phí có thể kiểm soát được như chi phí quản lý, chi phí nhân công các doanh nghiệp dệt may cần phải có biện pháp để giảm chi phí nguyên vật liệu. Mà biện pháp tốt nhất là sử dụng nguyên vật liệu sản xuất trong nước. Tham khảo các nước Xuất khẩu dệt may lớn nhất trên thế giới hiện nay như Trung Quốc, ấn Độ ta thấy họ hầu như chủ động được hoàn toàn nguyên vật liệu sản xuất đặc biệt là nguyên vật liệ cho ngành may. Để chủ động trong sản xuất, tránh phụ thuộc vào nước ngoài thì điều đầu tiên mà các doanh nghiệp phải làm là phải chủ động được nguyên vật liệu. Các điều này lý giải tại sao mà ngành dệt may Việt Nam cần phải chú trọng tới ngành sản xuất nguyên vật liệu. Thứ tư: Đảng và Nhà nước cần phải có định hướng và các cơ chế chính sách hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam phát triển. Nhu cầu vốn đầu tư cho ngành dệt may rất lớn (riêng trong giai đoạn 2005-2010 cần phải 3 tỷ USD), bản thân ngành dệt may Việt Nam không thể ào có thể huy động được. Điều này đồng nghĩa với Đảng và Nhà nước phải có cơ chế chính sách tạo nguồn vốn cho ngành. Trung Quốc là một chứng minh rất rõ của điều này, ví dụ như năm 2000, Trung Quốc cam kết hỗ trợ cấp không hoàn lại 2,4 tỷ đô là và cho vay 1,7 tỷ đô la cho 200 công ty hàng đầu để nâng cấp thiết bị, công nghệ cũng như cam kết hỗ trợ 1,8 tỷ đô la và cho vay 1,2 tỷ đô la cho các doanh nghiệp khác trong toàn ngành dệt may. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải có những cơ chế chính sách để khuyến khichs và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự phát triển, tích tụ, tập trung vốn, sử dụng các nguồn lực của mình để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Một số vấn đề nữa cần quan tâm đến là Nhà nước cần có các chính sách để thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu. Đây là giải pháp tốt nhất để ngành dệt may Việt Nam có thể nhanh chóng chủ động được nguyên vật liệu cho sản xuất. Thứ năm: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, quản lý theo hướng gọn nhẹ, thay đổi mô hình doanh nghiệp và yếu tố then chốt trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm đó chính là chi phí quản lý. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh vẫn còn những di chứng của thời bao cấplà bộ máy quản lý cồng kềnh, chức năng chồng chéo và làm việc không hiệu quả. Chính điều này đã làm giảm năng suất lao động, tăng giá thành sản phẩm, giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì điều này là không thể chấp nhận được. Chính vì vậy, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải đẩy nhanh chóng cổ phần hoá. Đây là mô hình hoạt động tối ưu trong nền kinh tế thị trường.Có như vậy thì doanh nghiệp dệt may Việt Nam mới phát triển nhanh chóng và bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chương II. Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam 2.1.Khái quát về tình hình phát triển, kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam từ năm 2000 đến nay 2.1.1.Quy mô, năng lực sản xuất, kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam. Các tư liệu về lịch sử Việt Nam cho thấy, ngành dệt đã hình thành từ thế kỷ thứ XII ở vùng Châu thổ Sông Hồng. Tại đây hình thành các vùng nuôi tằm ở Hưng Yên, Thái Bình…Cây Bông cũng được trồng tại các vùng cao miền núi phía Bắc Việt Nam và một số tỉnh như Ninh Thuận, Đồng Nai. Đến năm 1889, khi người Pháp tiến hành xây dựng khu công nghiệp dệt Nam Định mới đánh dấu sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp dệt tại Việt Nam. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ hơn: ở miền Nam với công nghệ máy móc khá hiện đại của Châu Âu tập trung ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Sài Gòn, Biên Hoà, Đồng Nai, Long An, Tiền Giang, Minh Hải…và ở miền Bắc với công nghệ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu tập trung ở Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì…sau khi thống nhất đất nước năm 1975, công nghiệp dệt may Việt Nam tiếp quản toàn bộ nhà máy xí nghiệp ở Miền Nam và đầu tư một số nhà máy có quy mô khác như sợi Hà Nội, sợi Vinh,Sợi Huế, sợi Nha trang, Dệt kim Hoàng Thị Loan… theo thời gian ngày càng phát triển . Giai đoạn khó khăn nhất của dệt may Việt Nam là thời kỳ từ năm 1990-1998 khi khu vực kinh tế đông âu bị tan vỡ. Dệt may Việt Nam mất thị trường. Đồng thời đây cũng là giai đoạn để ngành dệt may Việt Nam để nhìn lại mình, hoạch định cho mình con đường đi mới. Và đến năm 1998, quy hoạch tổng thể phát triển ngành Công nghiệp dệt may đến năm 2010 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ( tại quyết định số 161/199._.ng có mục tiêu chất lượng để vươn tới. - Đa dạng hoá hàng may xuất khẩu: Trong nhiều năm, hàng may mặc Việt Nam có những thay đổi về kiểu dáng, mẫu mã, chất liệu, chủng loại hàng nhưng khi hàng may mặc Việt Nam thay đổi được một phần, hàng may mặc của các đối thủ cạnh tranh đã thay đổi nhiều phần về kiểu dáng, mẫu mã chất liệu, chủng loại hàng. Mặt hàng áo sơmi, jacket quần âu của Việt Nam chỉ thay đổi chút ít về mầu sắc còn chất liệu vải, kiểu dáng thay đổi ít, các chủng loại hàng trong nhiều năm qua gần như không tăng lên. Cho nên, trong ngắn hạn từ 2-3 năm tớicần tập trung vào những mặt hàng áo sơmi, jacket, quần âu, quần áo dệt kim, quần áo thể thao tự tạo ra sự đa dạng theo hai hướng: + Đa dạng hoá chất liệu sản phẩm nhờ vào ý tưởng thiết kế. Đa dạng hoá chất liệu sản phẩm cần dựa vào ý tưởng thiết kế của nhà thiết kế của các nhà thiết kế thời trang. Các nhà thiết kế sẽ biết cách sử dụng chất liệu khác nhau cho những sản phẩm khác nhau, dù những chất liệu có thể trong nước sản xuất được hoặc phải nhập khẩu. ý tưởng thiết kế cần xuất phát khả năng sáng tạo của các nhà thiết kế Việt Nam, tránh sao chép hoặc rập khuôn theo mẫu mã của nước ngoài, ý tưởng thiết kế xuất phát từ nhu cầu và thị hiếu của khách hàng EU, những ý tưởng thiết kế cần mang tính thương mại, tức là tạo ra sản phẩm để xuất khẩu và cạnh tranh trên thị trường chứ khôg phải để trình diễn trên sân khấu hay tham gia các cuộc thi thời trang. + Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm: Chủng loại sản phẩm hàng may mặc Việt Nam vẫn còn nghèo nàn, trong khi nhu cầu sử dụng hàng may mặc trên thị trường thế giới rất đa dạng. Mỗi nhóm khách hàng đều có những yêu cầu khác khi mua hàng may mặc với mục đích sử dụng khác nhau. Thậm chí, những chủng loại hàng khác nhauu cần được sản xuất theo khoảng thời gian ngắn như mùa trong năm như hàng may mặc cho đầu mùa hè, hoặc cuối mùa hè, đầu mua thu hoặc cuối mùa thu, đầu mùa đông hoặc cuối mùa đông, đầu mùa xuân và cuối mùa xuân. Mỗi thời gian khác nhau, ứng với một thời tiết khác nhau, sự thay đổi thời tiết ở các quốc gia rất rõ ràng, vì thế hàng may mặc cần có nhiều chủng loại hơn nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Mỗi chủng loại sản phẩm nên được hình thành theo chế độ sưu tập thời trang theo mùa, trong mỗi bộ sưu tập sẽ có nhiều loại hàng hoá khác nhau sử dụng chất liệu khác nhau. Nếu làm được như vậy, hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam mang tính chuyên nghiệp hơn, tạo sự thu hút hơn đối với khách hàng. Hướng đa dạng hoá sản phẩm, với nhiều chủng loại hàng may mặc theo thời gian và theo hướng các bộ sưu tập rất phù hợp với cách thức giới thiệu những sản phẩm mà các trung tâm thời trang quốc tế lớn tại Pháp, Đức, Anh, ý mang đến cho khách hàng EU. Dần dần, hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam sẽ trở nên hoà nhập hơn với xu hướng thời trang thế giới, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. 3.3.2 Nhóm giải pháp về tăng cường công tác xúc tiến thương mại, quản bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu. Xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm là hoạt động nhằm truyền tải thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm tới người tiêu dùng. Nếu quá trình truyền tài đó được thực hiện thì nhiều người sẽ biết đến doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp. Khi các thông tin truyền tải được chứng kiến hình ảnh, uy tín của sản phẩm, của công ty được hình thành và ngày một phát triển - đó chính là thương hiệu của sản phẩm và thương hiệu của doanh nghiệp. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, trên mỗi thị trường đều có rất nhiều loại sản phẩm đồng dạng khác nhau của các doanh nghiệp khác nhau. Và hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp sẽ dẫn đến lựa chọn của khách hàng tới sản phẩm của doanh mình sản xuất. Nếu không có hoạt động đó, khách hàng sẽ lựa chọn ngẫu nhiên và có thể doanh nghiệp sẽ mất cơ hội bán hàng. Để công tác xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu đạt hiệu quả cao đối với thị trường xuất khẩu, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trên trường quốc tế, chúng ta có thể sử dụng các giải pháp sau: - Thành lập những trung tâm thương mại và xây dựng hệ thống phân phối, Tại các thị trường tiêu thụ hàng may mặc lớn Đức, Anh, Pháp, ý, Tây Ban Nha cần có các trung tâm thương mại Việt Nam nhằm thực hiện các hoạt động trưng bày, giới thiệu hàng may mặc của các doanh nghiệp, là nơi các doanh nghiệp thực hiện ký kết hợp đồng trực tiếp với các nhà phân phối trên thị trường EU, đồng thời thực hiện thu nhập thông tin về thị hiếu tiêu dùng của khách hàng EU. Những hàng may mặc được trưng bày tại các trung tâm thương mại là một hình thức quảng cáo tốt, chi phí rẻ, mặc dù phạm vi hẹp trong một khu vực địa lý, với sự xuất hiện hàng may mặc Việt Nam, của thương hiệu hàng may mặc Việt Nam, đồng thời bằng chất lượng, mẫu mã, giá cả của sản phẩm sẽ thu hút nhiều khách hàng và các nhà phân phối trên thị trường EU. Ngoài gia, giữa các quốc gia trong EU không còn đường biên giới ngăn cách, khách hàng đi từ quốc gia này sang quốc gia khác không bị cản trở, đây là một điều kiện thuận lợi cho các trung tâm thương mại thu hút khách hàng từ quốc gia khác nhau trong EU. Xây dựng hình ảnh ngành dệt may Việt Nam. Hợp tác với kiều bào Việt Nam và các nhà nhập khẩu từng bước xây dựng mạng lưới bản lẻ hàng dệt may Việt Nam với thương hiệu Việt Nam tại nước ngoài. - Thực hiện tốt công tác quan hệ công chúng. Hàng may mặc Việt Nam nên có mối quan hệ tốt đối với các tổ chức, các Hiệp hội liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới mua sắm hàng may mặc của khách hàng EU. Hiệp hội bảo về quyền lợi người tiêu dùng trên thị trường EU có ảnh hưởng rất lớn đối với khách hàng EU, đứng ra bênh vực cho khách hàng khi quyền lợi của khách hàng bị xâm phạm, những hàng hoá có thể gây mất an toàn khi sử dụng, ảnh hưởng đến sức khẻo gây ô nhiễm môi trường. Chiến dịch quần áo sạch là một chiến dịch hỗ trợ rất lớn của các Tổ chức và Hiệp hội, có một trang web riêng. Chiến dịch phát triển mạnh ở Đức, Hà Lan, Bỉ, Pháp và nhiều quốc gia khác nhau trong EU. Hàng may mặc Srilanca, Bangladesh, ấn Độ thường xuất hiện trên trang web này về tình hình sử dụng trẻ em lao động, phân biệt đối xử, giới tính trong lao động, sản xuất gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Điều này ảnh hưởng lớn đến uy tín của hàng may mặc các quốc gia này đối với khách hàng EU. Với hàng may mặc Việt Nam chưa thấy được những thông tin hạn chế, nhưng những thông tin tích cực về hàng may mặc Việt Nam cũng không thấy xuất hiện. Làm sao những thông tin tốt về hàng may mặc Việt Nam được những Tổ chức, Hiệp hội cung cấp cho khách hàng EU thì có giá trị rất lớn cải thiện hình ảnh và vị thế của hàng may mặc Việt Nam. Ngoài ra, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nên tổ chức các chuyến khảo sát, thăm viếng các hội chợ quốc tế, thu nhập thông tin để tiếp cận người tiêu dùng và k huếch trương sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới. - Các dệt may phải chú trọng đến việc xây dựng và đăng ký thương hiệu cho sản phẩm của mình. Thương hiệu cho doanh nghiệp và thương hiệu sản phẩm hai khái niệm này còn được dùng khá lẫn lộn ở rát nhiều doanh nghiệp trong khi mục tiêu và đối tượng quảng bá thì hoàn toàn khác nhau. Thương hiệu doanh nghiệp chủ yếu được dùng để quảng bá đối tượng là các nhà cung ứng và đặt hàng. Mục tiêu xây dựng là một hình ảnh một đơn vị có khả năng quản lý tốt và tin cậy, đảm bảo giao hàng đúng chất lượng và tiến độ, có khả năng đáp ứng nhanh yêu cầu của người đặt hàng. Còn thương hiệu sản phẩm thì chủ yếu được quảng bá đến người sử dụng cuối cùng. Mục tiêu là xây dựng một hình ảnh một sản phẩm có chất lượng tốt và mang nhiều giá trị gia tăng cho người sử dụng. Xây dựng hình ảnh ngành dệt may Việt Nam. Hợp tác với kiều bào Việt Nam và các nhà nhập khẩu từng bước xây dựng mạng lưới bán lẻ hàng dệt may với thương hiệu Việt Nam tại nước ngoài. Đối với thị trường nội địa, các doanh nghiệp dệt may cần xây dựng cho mình một chiến lược xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm và tạo dựng thương hiệu hợp lý, cần kết hợp hài hoà các công cụ quảng cáo, quảng bá sản phẩm, tham gia hội chợ, xây dựng mạng lưới phân phối sản phẩm … 3.3.3 Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách. Ngành dệt may có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta hiện any. Là ngành sử dụng nhiều lao động nhất trong các ngành công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu trong 10 năm trở lại đây luôn đứng vị trí thứ 2 sau dầu thô. Để hỗ trợ ngành dệt may hội nhập kinh tế quốc tế thành công, Đảng và Nhà nước cần chỉ đạo, xây dựng những cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện cho ngành dệt may Việt Nam nâng cao chất lượng cạnh tranh của sản phẩm. Tuy nhiên cơ chế chính sách đó phải phù hợp với các cam kết song phương và đa phương khi nước ta hội nhập. Điều quan trọng nhất là nước ta cần pohải xây dựng ssịnh hướng và có quy hoạch tổng thể để phát triển ngành mang tính chất dài hạn và bền vững. Đây sẽ là kim chỉ nam châm cho mọi hoạt động phát triển của ngành dệt may Việt Nam, nó giúp cho ngành xây dựng được lộ trình phát triển, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển nguồn nhân lực… Bên cạnh đó các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước có thể tập trung vào các hướng sau: Xây dựng cơ chế chinh sách ưu đãi thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nguyên vật liệu cho ngành dệt may và lĩnh vực dệt may có yêu cầu vốn lớn. Như đã phân tích ở Chương 2, hiện nay 70% nguyên vật liệu chho ngành dệt may Việt Nam phải nhập khẩu. Điều này khiến cho ngành dệt may Việt Nam rơi vào tình trạng bị động và năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may bị giảm đi đáng kể. Trong khi đó yêu cầu về vốn đầu tư dành cho lĩnh vực sản xuất nguyên liệu là rất lớn, Ngân sách Nhà nước và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam không đủ tiềm lực để đầu tư. Giải pháp tốt nhất ở đây là thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng ưu đãi đầu tư, bằng cơ chế chính sách hợp lý, bằng các thủ tục hành chính gọn nhẹ… Xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp để các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể tiếp cận được với nguồn vốn đầu tư Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đa phần có quy mô vừa và nhỏ (vốn điều lệ 5 tỷ đồng trở xuống). Đa phần các doanh nghiệp này có nhu cầu lớn về vốn đầu tư nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng cạnh tranh của sản phẩm nhưng lại rất khó tiếp cận với các nguồn đầu tư do rất nhiều các nguyên nhân khác nhau. Vì vậy việc có được các cơ chế chính sách phù hợp sẽ giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn đầu tư để nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, tạo thêm công ăn, việc làm… Xây dựng hoàn thiện hành lang pháp lý để ở các doanh nghiệp dệt may có thể chủ động trong hoạt động sản xuất, chủ động liên doanh, liên kết, mở rộng lĩnh vực hoạt động nhằm huy động được mọi nguồn lực để nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong quá trình toàn cầu hoá, hoạt động liên doanh, liên kết, mua bán, sát nhập doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm diễn ra rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, luật pháp và các chính sách cơ chế điều chỉnh các hoạt động này vẫn còn rất nhiều hạn chế và tính ứng dụng thực tế chưa cao. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập, đòi hỏi Nhà nước ta cần hoàn thiện hành lang pháp lý dể các doanh nghiệp có cơ sở, căn cứ tiến hành các hoạt động của mình. Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO, WTO yêu cầu cao hơn khi thực hiện BTA (Hiệp định tự do thương mại) với Hoa Kỳ, như giảm thuế XNK; bỏ trợ cấp xuất khẩu; tự do dịch vụ sâu, nhanh và rộng hơn, yêu cầu minh bạch, công khai; cải cách pháp luật và thể chế…việc thay đổi toàn diện về luật và chính sách của Việt Nam theo yêu cầu của WTO cũng sẽ đem lại nhiều lợi ích trung và dài hạn, đặc biệt trong việc cải thiện môi trường đầu tư với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bỏ hạn chế đối với đầu tư nhiều hàng hoá, dịch vụ…hệ thống pháp luật được củng cố vừa là tôn trọng các điều khoản đã cam kết vừa là đảm bảo lợi ích tối đa của Nhà nước. Việc liên quan đến pháp luật mà Việt Nam phải thực hiện. Đó là tiếp tục cải cách pháp luật nhằm thực hiện đầy đủ các cam kết của WTO. Đó là ban hành các văn bản thực thi cho các luật và pháp lệnh được phê duyệt gần đây, hiệu chỉnh một số luật và pháp lệnh mới ban hành nhằm đáp ứng đầy đủ yêu cầu của WTO và nhu cầu phát triển của kinh tế – xã hội Việt Nam. 3.3.4 Nhóm giải pháp về hoàn thiện cơ cấu tổ chức và mô hình doanh nghiệp. Thực tế quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đã chỉ ra rằng mô hình doanh nghiệp Nhà nước trong ngành dệt may Việt Nam đã không còn phù hợp. Vì vậy, việc chuyển đổi mô hình hoạt động của các doanh nghiệp dệt may Nhà nước là điều không thể tránh khỏi. Vấn đề ở đây là các doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình một mô hình thích hợp để đảm bảo cho sự phát triển của mình. Việc chuyển đổi mô hình của các doanh nghiệp dệt may Nhà nước có thể thực hiện theo các hướng sau: - Phát triển các loại hình doanh nghiệp dệt may đa sở hữu, hỗn hợp giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong và ngoài nước, bao gồm sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp khác. Không hình thành các liên kết kinh tế thuần sở hữu Nhà nước bởi ngành dệt may không thuộc lĩnh vực Nhà nước phải nắm giữ 100% sở hữu. - Phát triển tập đoàn có sự liên kết của các doanh nghiệp thành viên dưới hình thức pháp lý khác nhau như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh,… - Mở rộng và thu hút các thành phần kinh tế cùng liên kết. Các hình thức mở rộng liên kết bao gồm: + Thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế khác vào tập đoàn kinh tế bằng các giải pháp cổ phần hoá, giao, bán doanh nghiệp thành viên. + Thành lập mới doanh nghiệp thanh viên dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn..có cổ phần, vốn góp của các thành phần kinh tế. + Mua cổ phần, góp vốn vào các doanh nghiệp khác tới mức chi phí trở thành doanh nghiệp thành viên tập đoàn. + Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác tham gia tập đoàn dưới hình thức hợp đồng liên kết và ràng buộc pháp lý (có hoặc không góp vốn, mua cổ phần). +Phát triển các hình thức đầu tư liên kết đa dạng tổ chức tập đoàn, nhưng ttrọng tâm liên kết kinh tế và đầu tư chi phối lẫn nhau. - Liên kết trong các tập đoàn dệt may cần được phát triển đa dạng. Ngoài liên kết chủ đạo là liên kết bằng cổ phần, vốn góp chi phối còn có các liên kết chi phối bằng hợp đồng kinh tế, gia công, thầu phụ, cung cấp bán thành phẩm, phân phối, tiêu thụ sản phẩm, chuyển giao công nghệ thương hiệu… - Khuyến khích hoặc hỗ trợ có thời hạn đối với các tổ chức liên kết nghiên cứu khoa học với sản xuất, dựa vào doanh nghiệp lớn để lập ra tổ chức liên kết kinh tế. Bên cạnh việc chuyển đổi mô hình hoạt động, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần tiến hành hoàn thiện cơ cấu tổ chức của mình theo hướng gọn, nhẹ, đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh. 3.4.5 Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực. Con người là nhân tố quan trọng, quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh. Phát triển nguồn nhân lực là giải pháp quyết định sự phát triển bền vững, lâu dài của ngành dệt may. Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam rất thiếu các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật công nghệ, nhất là khâu quản lý kỹ thuật công nghệ nhuộm hoàn tất, chuyên gia bán hàng và công nhân lành nghề, cán bộ nghiên cứu thị trường. Vì thế mở rộng và lập thêm các trung tâm dạy nghề tại các địa phương (ít nhất mỗi tỉnh một trung tâm) nhằm ngày càng cung cấp cho ngành Dệt may Việt Nam một lực lượng lao động dồ dào, có tay nghề vững Việt Nam, có tác phong công nghiệp, phục vụ tốt cho việc sản xuất các mặt hàng dệt may đạt tiêu chuẩn xuất khẩu theo yêu cầu cảu từng thị trường … mở từ 1 đến 2 trường Đại học tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho riêng ngành dệt may nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nghệ, các bộ phận nghiên cứu thị trường, thiết kế mẫu, mốt sản phẩm là vô cùng cần thiết. - Để đáp ứng yêu cầu cảu khách hàng về chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng và để tăng năng suất thì việc trang bị các kỹ năng quản lý là rất cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Cán bộ quản lý kinh tế – kỹ thuật cần thường xuyên bồi dưỡng và sát hạch nghiệp vụ; áp dụng các kỹ năng quản lý tiên tiến để nâng cao hiệu quả quản lý ở các doanh nghiệp dệt may. - Cung cấp các khoá học đào tạo về kỹ năng bán hàng. Đào tạo các chuyên gia Marketinh (bao gồm các kỹ năng thiết kế, làm mẫu, bán hàng) là rất quan trọng đối với các nhà máy sản xuất hàng may mặc ở Việt Nam để tăng giá trị gia tăng. - Đối với khâu thiết kế sản phẩm: Đây là khâu yếu của dệt may Việt Nam. Đội ngũ các nhà thiết kế mẫu, mốt mới được đào tạo trong những năm gần đây còn ít và thiếu kinh nghiệm thực tế. Để nhanh chóng nắm bắt với trình độ quốc tế, cần tập trung đầu tư mạnh cho đội ngũ thiết kế cả trình độ kiến thức và cơ sở vật chất cho thực hành, đẩy mạnh các hoạt động giao lưu cả trong và ngoài nước và ngoài nước để học hỏi và trao đổi kinh nghiệm. - Việc mở trường đào tạo các cán bộ trình độ đại học và trên địa học tại các trung tam dệt may lớn, trong đó giành nhiều thời gian thực tập ( trong nước và ngoài nước) cho sinh viên sử dụng thành thạo công nghệ, làm quen dần với quy trình quản lý và điều hành sản xuất công nghiệp, kết hợp hướng dẫn chuyên sâu công tác nghiên cứu thị trường theo đặc thù, thiết kế mẫu mốt phù hợp với xu hướng mẫu một và tư duy của nền kinh tế mở…sẽ tạo được một lực lượng lớn cán bộ trẻ, có năng lực tốt ở những lĩnh vực khác nhau của ngành dệt may. Trong vòng 20 năm đến 30 năm nữấn Độ Việt Nam vẫn là nước có nguồn lao động dồi dào và rẻ, đây là cơ sở để dòng đầu tư nước ngoài từ các nước phát triển và các nước NICS. đầu tư mạnh vào ngành dệt may Việt Nam nhằm tận dụng lợi thế sức lao động. Việc thiết lập và đưa vào hoạt động tổ chức đào tạo này phải căn cứ trên cơ sở các yêu cầu và tiềm năng tương lai, trong đó giải quyết các vấn đề khó khăn trong hệ đào tạo: thiếu tài liệu về quản lý trong lĩnh vực dệt may; đào tạo những chuyên gia đào tạo , bổ sung các thiết bị đào tạo. - Đối với người lao động: cần được quan tâm không ngừng nâng cao tay nghề, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường cả trong và ngoài nước; đầy mạnh hoạt động đào tạo công nhân lành nghề trong lĩnh vực trong dây chuyền sản xuất; cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao thu nhập cho người lao động. - Khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức các trung tâm đào tạo để tự đào tạo lực lượng lao động cho các doanh nghiệp mình và các doanh nghiệp cùng ngành nghề trong các lĩnh vực. - Bên cạnh đó, để mở rộng thị trường xuất khẩu, việc đạo tạo nhữg chuyên gia pháp luật những người có khả năng am hiểu kinh doanh quốc tế, có đủ trình độ để tư vấn hỗ trợ trong hợp tác kinh doanh quốc tế (am hiểu về khung pháp luật, đặc biệt các quy luật của Mỹ như về luật bản quyền, luật chống phá giá, luật chống độc quyền, luật bảo vệ người tiêu dùng, các luật quy định về an toàn sản phẩm , bảo vệ môi trường và hải quan…) - Hợp tác với các đơn vị, trường học trong và ngoài nứoc để thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo kỹ sư chuyên ngành, công nhân kỹ thuật để bổ sung cho nguồn nhân lực hiện tại và cung cấp nhân lực cho các khu công nghiệp dệt may. - Thực trạng thiếu nguồn cung cấp cán bộ kỹ thuật, kỹ sư công nghệ trong lĩnh vực sản xuất sợi – dệt – nhuộm cho các doanh nghiệp cũng lý giải cho khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trong thời gian qua. Do đó cần đẩy mạnh việc đào tạo kỹ sư, công nhân trong lĩnh vực sợi – nhuộm – dệt. Phối hợp với các trường đào tạo (như Bách khoa Hà Nội, Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh) để có chương trình đào tạo phù hợp với những dự án đầu tư chiều sâu. Các doanh nghiệp và trường cần có chính sách khuyến khích sinh viên theo học các ngành thuộc lĩnh vực dệt may (công nghiệp sợi, dệt, nhuộm, hoá,…) và chú trọng phát triển đội ngũ thiết kế thời trang. - Hợp tác với nước ngoài mở trường đào tạo kỹ sư, công nhân lành nghề cho ngành dệt may. Bên cạnh đó, cần đầu tư nâng cao khả năng đào tạo, cơ sở vật chất cho giảng dạy và thực hành. Ngoài những chính sách về đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động, vấn đề ổn định, chăm lo và cải thiện đời sống công nhân qua cơ chế lương thưởng cũng là một vấn đề rất quan trọng. - Chiến lược nhân lực: Điều quyết định thành bại của doanh nghiệp là chiến lược nhân lực. Lựa chọn người có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức và tài năng vào các vị trí chủ chốt của doanh nghiệp là khâu đột phá trong chiến lược sử dụng con người, thông qua cơ chế tuyển dụng, tuyển chọn nghiêm túc. Khắc phục tình trạng giám đốc doanh nghiệp Nhà nước không đọc nổi bản báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp, tiến tới mọi thành viên của doanh nghiệp phải biết được tình hình tài chính hàng năm của doanh nghiệp và hiệu suất sinh lời của đồng vốn, để từ đó điều chỉnh chiến lược kinh doanh, bởi vì mục tiêu cuối cùng cảu toàn doanh nghiệp là hiệu suất sinh lời của đồng vốn. Kết luận Quan hai mươi năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định trong phát triển kinh tế trong đó có phần đóng góp không nhỏ của ngành dệt may. Mặc dù đạt được nhiều thành công trong những năm qua nhưng trước yêu cầu của sự CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, ngành dệt may Việt Nam cần phải có những bước đột phá, thay đổi về chất để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Với mục tiêu giúp các nhà hoạch định chính sách và phát triển ngành dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế có một cách nhìn tổng quát hơn, tác giả luận văn đi sâu vào nghiên cứu đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế” trên cơ sở phân tích nội dung: - Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. - Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam. - Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao năn lực cạnh tranh cảu sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Do ngành dệt may là một ngành lớn, bao gồm nhiều lĩnhvực sản xuất khác nhau, địa bàn rộng từ Bắc vào Nam, từ Thành thị tới nông thôn nên việc phân tích đánh giá còn có nhiều hạn chế không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong muốn nhận được những đóng góp của các thầy cô giáo, và bạn bè đồng nghiệp và các chuyên gia trong ngành dệt may để luận văn được hoàn thiện và có tính ứng dụng cao thực tế cao hơn. Xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo 1. Lê Xuân Bá và Nguyễn Thị Tuệ Anh (2006) “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 15 năm (1991 – 2005)” Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 2. Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (2005), Giáo trình Kinh tế. NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 3. Đinh Phi Hồ, Lê Ngọc Uyển, Lê Thị Thanh Tùng (2006), Kinh tế phát triển: lý thuyết và thực tiễn, NXB Thống kê, TP Hồ CHí Minh. 4. Đoàn Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2001), Giáo trình Khoa học và quản lý tập 1; NXB Khoa học và kỹ thuật Hà Nội. 5. Đỗ Hoài Nam (1996), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam, NXB khoa học và xã hội, Hà Nội. 6. Trần Văn Thọ (2005) “Biến động kinh tế Đông á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội. 7. Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu 92001), Giáo trình quan rlý kinh tế học , Kinh tế quốc dân tập 1,2 NXB khoa học và kỹ thuật Hà Nội. 8. Đỗ Hoàng Toàn, Phan Kim Chiếu, Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2000), Giáo trình Các phương pháp lượng trong quản lý kinh tế, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 9. PGS. TS Lê Bàn Thạch, TS.Trần Thị Trí (2000), Công nghiệp hoá ở NIES, Đông Nam á và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, NXB thế giới. 10. Vũ Quang Vinh (2001), Một số vấn đề cải cách mở cửa của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam, NXB Thanh Niên. 11. Kenichi Ohno (2004), Đổi mới chính sách công nghiệp Hà Nội. 12. Kenichi Ohno và và Nguyễn Văn Thường (2005) “Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam” Nhà xuất bản lý luận chính trị, Hà Nội. 13. Lê Minh Tâm (2004) , xây dựng chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hàng công nghiệp chủ lực công nghiệp xuất khẩu chủ lực thời kỳ 2001 – 2010, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Ngô Doãn Vịnh (2006), Hướng tới sự phát triển đất nước. Một số vấn đề lý thuyết và ứng dụng, NXB chính trị quốc gia Hà Nội. 15. Harold Koontz, Cyril Odomnell, Heinz Weihrich (2004), Những vấn đề cốt yếu trong quản lý. NXB khoa học kỹ thuật. 16. PGS. TS Phạm Đức Thành (1995 – 1998), Giáo trình “Quản lý nhân lực” – Bộ môn quản trị nhân lực, Trường ĐHKTQD, NXB giáo dục. 17. PGS. TS Hồ Sỹ Quý (2003), Con người và phát triển con người trong quan niệm của C. Mác và Ph. ănghen, NXB chính trị quốc gia. 18. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất công nghiệp giai đoạn 2001 – 2005 và kế hoạch phát triển giai đoạn 2006 – 2010 của ngành công nghiệp các tỉnh Điện Biên, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Quảng Nam, Đồng Nai và một số tỉnh khác. 19. Bộ Công nghiệp (2003), Đề án Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiệp, Hà Nội. 20. Bộ Công nghiệp (2004), Nghiên cứu vê đề xuất định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiệp, Hà Nội. 21. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000, NXB Sự thật, Hà Nội 22. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. “Hội nhập kinh tế quốc tế và những vấn đề đặt ra với doanh nghiệp Việt Nam” được đăng trên tạp chí quản lý kinh tế số 3 (tháng 7/205). 24. Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp (Bộ Công nghiệp) 2005, Chiến lược và phát triển công nghiệp đến năm 2010, tầm nhìn 2020. 25. Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp (Bộ công nghiệp) (2002), Dự thảo Báo cáo tổng hợp dự án “Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010” Hà Nội. 26. Nhiều tác giả - Báo cáo tài chính về Hoạt động chung giữa Việt Nam và Nhật Bản nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010 – Hà Nội – tháng 12- 2004. 27. Văn kiện Đại hội lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam – NXB chính trị quốc gia, 2006. 28. Quyết định số 55/2001/QĐ- TTg ngày 23/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ): “Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010”. 29. Thống kê của Hội đồng ngành Dệt Trung Quốc – www.ctei.gov.cn 30. Thông tin thương mại ngành dệt may Việt Nam số ngày 9/5/2005. và ngày 16/5/2005: Asia Chemicail tháng 10/2004. 32. Nguồn Tổng cục thống kê 2004 – 2005. 33. Các trang web: (7h16’ Mục lục Nội dung Trang Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 3. Mục đích và nhiệmh vụ khoa hhọc của đề tài 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 5. Phương pháp nghiên cứu 6. Những đóng góp của luận văn 7. Kết cấu của luận văn Chương I. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 1.1 Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. 1.1.1. Năng lực cạnh tranh và nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. 1.1.2 Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá năng lực cạnh tranh. 1.2 Vai trò và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2.1 Vai trò nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hôị nhập kinh tế quốc tế. 1.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 1.3 Kinh nghiệm các nước trong khu vực và quốc tế nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may 1.3.1 Trung Quốc 1.3.2 ấn Độ 1.3.3 Pakistan 1.3.4 Bănglađét 1.3.5 Srilanka 1.3.6 Inđonexia 1.3.7Các nước đang phát triển khác 1.3.8 Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam. Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm ngành dệt may từ năng 2000 đến nay. 2.1.Khái quát tình hình phát triển kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam năm 2000 đến nay. 2.1.1.Quy mô, năng lực sản xuất, kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam 2.1.2 Thực trạng ngành dệt may Việt Nam. 2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may việt nam thông qua các sản phẩm: may mặc, sợi và tơ tằm. 2.2.1 Mẫu mã và chất lượng sản phẩm. 2.2.2 Giá thành sản phẩm 2.2.3 Thương hiệu 2.2.4 Hệ thống phân phối sản phẩm và xúc tiến thương mại. 2.3 Những hạn chế trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may và nguyên nhân 2.3.1 Những hạn chế trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam 2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam Chương 3 Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 3.1 dự báo nhu cầu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may. 3.1.1 Tổng quan về hội nhập kinh tế quốc tế 3.1.2 Bối cảnh quốc tế. 3.1.3 Bối cảnh trong nước. 3.1.4 Dự báo về khả năng cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ ngành. 3.1.5 Dự báo về thị trường dệt may quốc tế.\ 3.2 Các quan điểm định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 3.2.1 Mục tiêu phát triển. 3.2.2 Quan điểm định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 3.3 các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 3.3.1 Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá mẫu mã. 3.3.2 Nhóm giải pháp về tăng cường công tác xúc tiến thương mại, quản bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu. 3.3.3 Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách. 3.4.5 Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực. Kết luận ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctk11.doc
Tài liệu liên quan