Các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên Thị trường chứng khoán Việt Nam

I. Phần mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu: Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức đưa vào vận hành từ tháng 7/2000, đánh dấu bằng việc khai trương Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đời của TTGDCK đã tạo ra một cơ chế linh hoạt trong thu hút và phân bổ các nguồn vốn trung, dài hạn đến nơi sử dụng có hiệu quả, góp phần cùng với hệ thống ngân hàng tạo nên một hệ thống cung ứng vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đ

doc58 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên Thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất nước. Tuy nhiên, việc đưa vào vận hành TTGDCK chỉ mới là giai đoạn thử nghiệm trước khi chúng ta xây dựng một Sở giao dịch chứng khoán hoàn chỉnh với quy mô hiện đại, vì vậy các thiết chế vận hành, quy mô và đối tượng tham gia vào thị trường còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của một thị trường vốn đầy đủ. Đặc biệt là sự tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán còn nhiều hạn chế, đây là các định chế tài chính đã tồn tại và phát triển gần 50 năm và có quan hệ gần gũi và mật thiết với thể chế thị trường chứng khoán. Mặc dù trong thời gian qua, các ngân hàng thương mại, tổ chức bảo hiểm và tổ chức kiểm toán đã trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào cơ chế vận hành của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, đây mới chỉ là sự khởi đầu, hoạt động mang tính chất thăm dò, vì vậy trong quá trình triển khai các trubg gian này hoạt động không hiệu quả, chưa khẳng định được vị thế của mình. Nhiều tổ chức ngân hàng và tài chính vẫn đứng ngoài cuộc chơi của thị trường chứng khoán, bởi lẽ cơ chế vận hành và cách thức tham gia vào thị trường như thế nào để phát huy hiệu quả vẫn là những trở ngại ban đầu đối với các định chế này. Xuất phát từ yêu cầu trên, đề tài: “Các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên TTCK Việt Nam” là đề tài nghiên cứu nhằm góp phần vào việc khẳng định vị thế của các trung gian tài chính trong cơ cấu thị trường chứng khoán và đánh giá vai trò, khả năng tham gia của các tổ chức ngân hàng-tài chính trong giai đoạn vừa qua, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức này vào thị trường chứng khoán Việt Nam. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích: - Nghiên cứu một số mô hình các trung gian trên thị trường chứng khoán quốc tế - Đánh giá vai trò của các trung gian tài chính trong quá trình phát triển thị trường chứng khoán (giai đoạn ban đầu và phát triển sau này). - Các nhân tố ảnh hưởng tới sự tham gia của các trung gian tài chính - Các hoạt động của trung gian tài chính trên TTCK - Đánh giá thực trạng của các trung gian tài chính Việt Nam và hiện trạng tham gia của các định chế này vào thị trường chứng khoán. - Các hình thức tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam của các định chế ngân hàng và tài chính. - Kiến nghị một số giải pháp tham gia. 3.Đối tượng nghiên cứu Các hoạt động chính,các kết quả đạt được,sự tham gia của trung gian tài chính từ khi TTCK Việt nam ra đời và đi vào hoạt động 4. Phạm vi của đề tài: Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu của đề tài, nên phạm nghiên cứu chỉ đề cập đến một số trung gian tài chính hoạt động mang tính chất trung gian trên thị trường chứng khoán, trong đó khía cạnh nghiên cứu tập trung đi sâu vào các ngân hàng thương mại và một số trung gian tài chính khác tham gia dưới hình thức cung ứng các dịch vụ tài chính đối với thị trường (môi giới, tư vấn, định mức tín nhiệm, bảo lãnh phát hành, kế toán, kiểm toán...vv), chứ không nghiên cứu dưới góc độ tạo lập hàng hoá cho thị trường. 5.Kết cấu của đề tài Tên đề tài “Các giải pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên TTCK Việt Nam” Ngoài phấn mở đầu ,phần kết luận,danh mục tài liệu tham khảo.Đề án gồm hai chương - Chương I: Sự tham gia của trung gian tài chính vào TTCK - ChươngII: Thực trạng và các giả pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính vào TTCK chươngi: sự tham gia của các trung gian tàI chính vào thị trường chứng khoán(TTCK) 1- Khái niệm chung về các trung gian tài chính 1.1. Khái niệm trung gian tài chính Trung gian tài chính là một doanh nghiệp mà tài sản chủ yếu của nó là các tài sản tài chính hay còn gọi là các hình thức trái quyền- như cổ phiếu, trái phiếu và khoản cho vay- thay vì tài sản thực như nhà cửa, công cụ và nguyên vật liệu. Trung gian tài chính cho khách hàng vay hoặc mua chứng khoán đầu tư trong thị trường tài chính. Ngoài ra các định chế này còn cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính khác, từ bảo hiểm và bán các hợp đồng lương hưu, cho đến giữ hộ tài sản có giá và cung cấp một cơ chế cho việc thanh toán, chuyển tiền và lưu trữ thông tin tài chính. 1.2. Những trung gian tài chính chủ yếu Những trung gian tài chính chủ yếu xuất hiện trong nền kinh tế thị trường gồm có: Ngân hàng thương mại Hiệp hội tiết kiệm và các tổ chức tín dụng khác. Công ty tài chính Công ty chứng khoán Công ty tư vấn tài chính Công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư (tương hỗ, hưu trí, phát triển). Các tổ chức bảo hiểm Các tổ chức kiểm toán độc lập Các tổ chức định mức tín nhiệm. Mặc dù các tổ chức tài chính thực hiện cùng lúc một chức năng cơ bản giống nhau- chấp nhận chứng khoán sơ cấp từ chủ thể vay và phát hành chứng khoán thứ cấp cho chủ thể cho vay, nhưng giữa chúng vẫn có sự khác nhau. Một số có thể mang tên là các tổ chức trung gian tiền gửi, bởi vì phần lớn những tài sản tài chính của họ (các nguồn quỹ có thể cho vay) được tạo thành từ tiền gửi của các doanh nghiệp, hộ gia đình và các tổ chức khác. Nhóm này bao gồm các ngân hàng thương mại, hiệp hội tiết kiệm và các tổ chức tín dụng khác. Các tổ chức trung gian quan trọng khác, mệnh danh là các tổ chức trung gian hợp đồng, ký hợp đồng với khách hàng của họ để khuyến khích tiết kiệm và/hoặc bảo vệ tài chính cho trường hợp mất mát tài sản và nhân mạng. Trong số những tổ chức trung gian hợp đồng được biết đến nhiều nhất là các công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn, các quỹ lương hưu tư nhân và dân chúng. Một nhóm tổ chức trung gian thứ 3 thường được gọi là các tổ chức trung gian thứ cấp bởi vì họ lệ thuộc rất nhiều vào những định chế tài chính khác (như ngân hàng thương mại) về những quỹ có thể cho vay. Tiêu biểu là các công ty tài chính và quỹ đầu tư địa ốc. Một nhóm tổ chức trung gian tài chính khác được mệnh danh các tổ chức trung gian đầu tư, bởi vì họ cung cấp cho dân chúng những chứng khoán có thể giữ lại vô hạn định, như là một khoản đầu tư dài hạn hoặc bán đi nhanh chóng khi khách hàng thu hồi quỹ. Những tổ chức trung gian đầu tư gồm có quỹ chứng khoán tương hỗ. Nói chung người ta thừa nhận rằng các chu chuyển tiền nhập và xuất của những tổ chức trung gian chứng khoán và hợp đồng có thể dự đoán dễ dàng hơn là các quỹ phải thông qua những loại tổ chức trung gian tiền gửi. Điều này cho phép các tổ chức trung gian chứng khoán và hợp đồng giảm thiểu những khoản đầu tư lưu hoạt ngắn hạn và vươn tới những tài sản đầu tư dài hạn có mức sinh lợi cao hơn. 1.3. Vai trò của các trung gian tài chính trênTTCK Các trung gian tài chính là một phần của hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính bao gồm một mạng lưới các thị trường tài chính, tiền tệ, các định chế, các doanh nghiệp, công chúng và nhà nước tham gia trong hệ thống đó và điều tiết hoạt động của nó. Cầu nối tài chính giữa người cho vay và người sử dụng vốn. Chức năng nền tảng của các trung gian tài chính là chuyển những khoản tiền từ những người cho vay đến những người đi vay. Những tổ chức, cá nhân có các khoản thu nhập dư thừa có thể cho các cá nhân, tổ chức khác trong hệ thống tài chính vay. Các cá nhân, tổ chức và chính phủ thiếu hụt vốn cho các khoản chi phí và đầu tư phát triển có thể vay, huy động vốn thông qua hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính và các trung gian tài chính là con kênh chuyển các khoản vốn các cá nhân, tổ chức dư thừa vốn sang các cá nhân tổ chức thiếu vốn. Trong các nền kinh tế định hướng thị trường ngày nay thì hầu hết tiền tiết kiệm của các cá nhân lưu chuyển thông qua hệ thống tài chính đến người sử dụng vốn chính là các doanh nghiệp và chính phủ. Thông qua các trung gian tài chính, người cho vay và người sử dụng vốn đều được thoả mãn các yêu cầu về tài chính bên canh đó người cho vay được đảm bảo an toàn đối với khoản tiền của họ và người đi vay có thể nhận được khoản tiền họ cần một cách nhanh chóng cho các nhu cầu sử dụng vốn của họ. Người cho vay muốn thông qua các trung gian tài chính vì họ giảm thiểu đối với các rủi ro không được thanh toán, tính thanh khoản cao, nhà đầu tư có số tiền dư thừa nhỏ cũng co thể tham gia và sự thuận tiện được cung cấp dịch vụ bởi một trung gian tài chính tại địa phương. Giảm thiểu rủi ro trên cơ sở đa dạng hoá đầu tư. Các trung gian tài chính còn tham gia vào việc tập trung rủi ro và lợi dụng quy mô hoạt động của họ. Khi đầu tư vào các khoản cho vay và các tài sản có khác mang tính đa dạng về rủi ro và lợi nhuận thì sự đa dạng đó sẽ nâng cao tính an toàn của nguồn vốn do nhà đầu tư cung cấp. Hầu hết các nhà đầu tư nhỏ không thể nào phân tán đúng mức việc sử dụng các khoản tiền vào nhiều loại đầu tư khác nhau. Tuy nhiên, một trung gian tài chính có thể tập hợp các khoản tiền phân tán của nhiều nhà đầu tư nhỏ và phân bổ một cách có hiệu quả vào nhiều danh mục khác nhau, do đó giảm thấp rủi ro cho tất cả moi nhà đầu tư. Các trung gian tài chính thông thường sử dụng nguồn vốn huy động nhằm cho vay và đầu tư chứng khoán. Khi nhận thấy nhu cầu về tín dụng mạnh thì họ có thể đầu tư ít vào chứng khoán, và sẽ bán số chứng khoán đã đầu tư trước đó để tạo vốn cho vay mới. Còn khi mức cầu tín dụng thấp đi, các định chế tài chính sẽ tăng mức đầu tư vào chứng khoán nhằm tăng thu nhập, tránh thuế, phân tán rủi ro, và tính thanh khoản của chứng khoán đầu tư. Giảm thiểu chi phí hợp đồng và chi phí xử lý thông tin Khi các trung gian tài chính phát triển về quy mô thì phí hoạt động theo đơn vị có thể thấp hơn và có thể giảm phí dịch vụ ngân hàng, tài chính cung cấp cho công chúng.Nhà đầu tư thường không có thời gian và nghiệp vụ để nắm bắt những thay đổi của thị trường và cũng không thể tiếp cận thông tin liên quan về các điều kiện của thị trường và cơ hội đầu tư. Các trung gian tài tài chính sử dụng năng lực của mình để thu thập và xử lý thông tin từ thị trường tài chính thay cho nhà đầu tư. Nhằm thu nhập thông tin đầy đủ về người đi vay, các trung gian tài chính phải tiêu tốn đáng kể về thời gian, vốn và nghiệp vụ- những nguồn lực mà những nhà đầu tư nhỏ và ngay cả một số nhà đầu tư lớn không có được. Ngày nay,các trung gian tài chính không những chỉ thực hiện chức năng quan trọng là thu thập thông tin về người đi vay và xác định độ tín nhiệm , mà còn giám sát điều kiện và việc chấp hành của người đi vay để đảm bảo rằng họ tuân thủ các điều khoản của hợp đồng tín dung và tiếp tục giữ vững uy tín. Bên cạnh đó, thông tin về người đi vay được trao đổi giữa các trung gian tài chính, do đó người đi vay có thể tìm kiếm thêm vốn đầu tư từ các trung gian tài chính khác trên thị trường. Cung cấp một cơ chế thanh toán. Trong hệ thống tài chính ngân hàng của một quốc gia, các trung gian tài chính thông qua một trung tâm bù trừ trung ương cung cấp dịch vụ thanh toán cho toàn xã hội. Hệ thống bù trừ giữa các ngân hàng giải quyết các giao dịch trong một giai đoạn xác định và chỉ thanh toán các khoản tiền ròng cần thiết để quyết toán các khoản thu chi giữa các ngân hàng. Cơ chế thanh toán mà hệ thống tài chính ngân hàng cung cấp cho xã hội cho phép giảm bớt chi phí, đảm bảo an toàn cho việc thực hiện các giao dịch. Thông qua mạng lưới rộng khắp của mình, hệ thống tài chính ngân hàng cho phép việc thực hiện thanh toán một cách nhanh nhất trên phạm vi toàn thế giới 2. Khái niệm chung về thị trường chứng khoán 2.1. Khái niệm thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán (TTCK) là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán,trao đổi các loại chứng khoán trung và dài hạn. Xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán. Xét về mặt bản chất: - TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm. - TTCK là trung gian tài chính trực tiếp:cả chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp.Qua kênh dẫn vốn trực tiếp, các chủ thể đầu tư đã thực sự gắn quyền sử dụng và quyền sở hữu về vốn, nâng cao tiềm năng quản lý vốn - TTCK thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ, chuyển tư bản tiền tệ từ tư bản sở hữu sang tư bản chức năng. 2.2 Phân loại TTCK 2.2.1. Phân loại theo hàng hoá Căn cứ vào hàng hoá được mua bán trên thị trường chứng khoán,có thể phân chia TTCK thành thị trường trái phiếu ,thị trường cổ phiếu và thị trường các công cụ dẫn xuất Thị trường trái phiếu là thị trường mà hàng hoá được mua bán đó là các trái phiếu .Trái phiếu: là một loại chứng khoán nợ xác nhận của tổ chức phát hành cam kết trả một số tiền được xác định trước (vốn gốc và lãi) vào một thời điểm được xác định trước trong tương lai.Đơn vị phát hành trái phiếu là chính phủ, chính quyền địa phương, và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế theo quy định của pháp luật. Thị trường cổ phiếu là nơi giao dịch mua bán trao đổi giây tờ xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông.Cổ phiếu: Khi một công ty cần huy động vốn, số vốn cần huy động được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy xác nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu thường (cổ phiếu phổ thông) và cổ phiếu ưu đãi.Cổ phiếu sẽ cho phép cổ đông có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cung như đối với tài sản của công ty khi tài sản này được đem bán Thị trường các công cụ dẫn xuất là nơi giao dịch mua bán các khoán phái sinh như quyền mua trước,chứng khế, hợp đồng quyền chọn,hợp đồng tương lai,..Nó cung cấp các công cụ phòng vệ hữu hiệu ,đồng thời cũng là công cụ đầu cơ lý tưởng cho nhà đầu tư 2.2.2. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn . Thị trương sơ cấp: Còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành, hàm ý chỉ nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán mới phát hành lần đầu. Thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành. Thị trường thứ cấp: Còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông,là nơi diễn ra các giao dịch mua bán chứng khoán sau khi đã phát hành lần đầu. Nói cách khác thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các loại chứng khoán được phát hành qua thị trường sơ cấp. 2.2.3. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường - Thị trường chứng khoán tập trung,tổ chức hình thành nên các sở giao dịch :là thị trường hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật,là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng ký tưc là đã đựoc cơ quan có thẩm quyền cho phép bảo đảm phân phối và mua bán qua trung gian.Đây là nơi mua bán trao đổi các loại chứng khoán của các công ty lớn và hoạt động có hiệu quả. Hay các loại chứng khoán do chính phủ hoặc các cơ quan công quyền phát hành và đảm bảo. - Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC): là thị trường mua bán chứng khoán nằm ngoài sở giao dịch, không có địa điểm tập trung mà có thể diễn ra tại tất cả các quầy sàn giao dịch của các thành viên,đây là thị trường của các nhà buôn, những người tạo lập thị trường (market makers) các giao dịch ở đây chủ yếu dựa váo thoả thuận giữa người mua và người bán các chứng khoán giao dịch ở đây thưong là chứng khoán của các công ty nhỏ mức độ rủi ro cao,ít người biết đến hoặc ít người mua bán 2.2.4. Phân loại theo cơ chế giao dịch Thị trường giao ngay:là thị trường mua bán chứng khoán theo giá ở thời điểm giao dịch nhưng việc thực hịên thanh toán và giao hàng có thể diễn ra sau đó một vài ngày theo thoả thuận Thị trừơng giao sau:là thị trường mua bán chứng khoán theo một hợp đồng định sẵn giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và giao hàng diễn ra trong tương lai 2.3.Vai trò của thị trường chứng khoán TTCK có vai trò rất quan trong đối với nền kinh tế của mỗi nước, trong xu thế hội nhập hiện nayđòi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ cao và hiệu quả,thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia đã khẳng định vai trò của TTCK,trong rất nhiều vai trò sau đây là một số vai trò chính của TTCK: Thứ nhất TTCK tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao,có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn,chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên thị trường sễ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách hiệu quả. Thực tế trên TTCK tất cả các thông tin được cập nhật và được chuyển tải đến tất cả các nhà đầu tư nhờ đó họ có thể phân tích và định giá cho chứng khoán, TTCK tạo ra một sự cạnh tranh hiệu quả trên thị trường tài chính, điều này bụôc các trung gian tài chính trên thị trường quan tâm đến hoạt động của chính họ và làm giảm chi phí. Thứ hai TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng,giải toả sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn song vẫn tập trung vốn cho sự phát triển kinh tế. Thứ ba TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa quản lý và sở hữu doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giam sát chặt chẽ của TTCK làm giảm tác động của các tiêu cực trong quản lý tạo điều kiện kết hợp hài hoà giữa lợi ích của chủ sử hữu, nhà quản lý và người làm công. Thứ tư TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ huy động được các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện các chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Thứ năm TTCK cung cấp dự báo về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh cho phép chính phủ cũng như các công ty đánh giá kế hoạch đầu tư cũng như việc phân bố các nguồn lực của họ một cách hiệu quả. Thứ sáu Việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này làm cho các công ty có thể huy động vốn rẻ hơn tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài,đồng thời tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và mở rông các công cụ kinh doanh của công ty trong nước. 3. Một số mô hình trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán thế giới Như đã trình bày ở phần trên, các trung gian tài chính tham gia vào TTCK dưới nhiều hình thái khác nhau và mức độ tiếp cận cũng hoàn toàn khác nhau, tuy nhiên sự xâm nhập hay nói khác là sự tham gia của mô hình trung gian ngân hàng thương mại vào thị trường chứng khoán là đặc trưng rõ nét nhất và nổi bật nhất. Trong phần này, đề tài đi sâu nghiên cứu một số mô hình đặc trưng của sự tham gia của các trung gian ngân hàng tiêu biểu trên thế giới. 3.1. Mô hình định chế tài chính đa năng Theo mô hình này hoạt động chung trên lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán...vv (đặc trưng ngân hàng đa năng Đức và úc). Mô hình này chia làm hai loại: Loại đa năng một phần:Các trung gian tài chính tham gia thị trường chứng khoán phải thành lập công ty con hoạt động độc lập, được áp dụng tại Anh và một số nước có quan hệ gần với Anh như Canada và úc. Loại đa năng hoàn toàn: các định chế ngân hàng được phép kinh doanh chứng khoán, kinh doanh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Trong mô hình này không có bất kỳ sự tách biệt nào giữa các hoạt động ngân hàng và chứng khoán. trong hệ thống ngân hàng đa năng, các ngân hàng thương mại cung cấp một danh mục đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm, tất cả trong một pháp nhân duy nhất. Mô hình đa năng hoàn toàn này được áp dụng chủ yếu ở các nước Đúc, Bắc Âu, Hà Lan, Thụy sỹ và ở áo. Ưu điểm của mô hình này là ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng về tài chính chịu đựng các biến động tài chính của TTCK. ở các nước bắt đầu xây dựng TTCK, các ngân hàng thường có ưu thế về đội ngũ nhân viên có chuyên môn cao, về quy mô vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, mạng lưới khách hàng rộng và đầy đủ thông tin để thực hiện kinh doanh chứng khoán so với các công ty chứng khoán chuyên ngành mới thành lập. Mô hình này cũng có những hạn chế nhất định, như sau: - Hoạt động chủ yếu của hệ thống ngân hàng là huy động vốn để cho vay lấy lãi, do đó ngân hàng thường quan tâm cho khách hàng vay vốn để kinh doanh và phát triển sản xuất hơn là giúp khách hàng huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Điều này không những thể hiện rõ ở các thị trường chứng khoán kém phát triển mà ở ngay thị trường chứng khoán châu Âu khi so sánh với thị trường chứng khoán Mỹ; - Trong trường hợp có biến động trên thị trường chứng khoán, thì các biến động này có thể ảnh hưởng đến hoạt đông kinh doanh tiền tệ của hệ thống ngân hàng nếu không có sự tách bạch giữa hai loại hình kinh doanh này. - Trong trường hợp có biến động trên thị trường tiền tệ, thì các biến động này có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán của hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán nếu không tách bạch giữa hai loại hình kinh doanh này. Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở Thái Lan trước đây mà bắt đầu là khủng hoảng nợ từ giữa năm 1997, khi mà 58 ngân hàng, công ty tài chính, trong đó có nhiều tổ chức được kinh doanh chứng khoán bị phá sản và điều này đã ảnh hưởng hết sức nặng nề đến thị trường chứng khoán Thái Lan. 3.2. Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán. Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận. Các ngân hàng, các tổ chức tài chính không được tham gia vào việc kinh doanh chứng khoán. Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước, trong đó đáng chú ý là Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc. Ưu điểm của mô hình này là: - Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng; - Tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, ở các nước áp dụng mô hình này đã có xu hướng giảm dần hạn chế về kinh doanh chứng khoán đối với ngân hàng thương mại và từng bước mở rộng quyền của ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Một trong những vấn đề về mô hình công ty chứng khoán gây tranh luận là nên chăng cho phép công ty chứng khoán thực hiện chức năng quản lý quỹ tín thác đầu tư, hay chức năng công ty quản lý quỹ đầu tư và từ đó lập các quỹ đầu tư chứng khoán. Vấn đề này ở các nước khác nhau cũng có cách tiếp cận và mô hình khác nhau. Một số quốc gia như Nhật Bản, Trung quốc, Thái Lan và các nước theo mô hình ngân hàng đa năng, cho phép công ty chứng khoán được làm chức năng công ty quản lý quỹ đầu tư, các quốc gia theo mô hình chuyên doanh chứng khoán như Mỹ thì tách biệt loại hình công ty quản lý quỹ tương hỗ đầu tư, tín thác đầu tư ra khỏi công ty kinh doanh chứng khoán. Vì vậy, việc cho phép công ty chứng khoán thực hiện chức năng công ty quản lý quỹ đầu tư, quỹ tương hỗ là vấn đề lớn và lệ thuộc vào khả năng quản lý, sự phát triển củaTTCK. Tuy nhiên, ở các thị trường mới nổi, nhiều nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách cho rằng nên tách riêng 2 lĩnh vực hoạt động này (theo mô hình Mỹ) vì lợi ích của các nhà đầu tư cũng như để phát triển tốt TTCK 4. Các hoạt động của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán 4.1 Sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào quá trình thành lập công ty chứng khoán NHTM là đối tượng có rất nhiều thuận lợi trong việc tham gia thành lập công ty chứng khoán trong giai đoạn hiện nay. Với thế mạnh đặc biệt về tiềm lực tài chính, hầu hết các ngân hàng đều không gặp khó khăn đối với việc đáp ứng các yêu cầu về vốn pháp định trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mặt khác, hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp và nền tảng khách hàng sẵn có cũng là một ưu thế vô cùng quan trọng cho các ngân hàng trong việc triển khai và mở rộng phạm vi hoạt động của các công ty chứng khoán sau này. Việc chuẩn bị điều kiện nhân sự cũng được sự hỗ trợ hết sức thuận lợi từ phía ngân hàng mẹ, phần lớn nhân sự của các công ty chứng khoán hiện nay là các cán bộ có kinh nghiệm điều chuyển từ ngân hàng sang, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Bản thân các ngân hàng – vốn là những tổ chức tín dụng có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, cũng sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc triển khai và mở rộng phạm vi kinh doanh sang một lĩnh vực tài chính mới với nhiều nội dung hoạt động tương đồng.Các ngân hàng có thể thành lập theo mô hình đa năng toàn phần hay chuyên doanh Tuy nhiên, việc tham gia của các ngân hàng thương mại vào thành lập công ty chứng khoán tham gia thị trường chứng khoán cũng có bước đi và lộ trình khác nhau tuỳ theo điều kiện mỗi nứơc 4.2 Tham gia của các ngân hàng vào dịch vụ lưu ký chứng khoán. Thành viên lưu ký là một tổ chức được phép cung cấp các dịch vụ về lưu ký chứng khoán cho khách hàng, thay mặt khách hàng nắm giữ chứng khoán ký qửi, đảm bảo mọi quyền lợi phát sinh đối với chứng khoán và tài lưu ký các chứng khoán ký gửi của khách hàng vào trung tâm lưu ký. Thành viên lưu ký chủ yếu là các công ty chứng khoán, ngân hàng lưu ký thương mại được cấp giấy phép hoạt động. Khách hàng của các thành viên lưu ký không chỉ là các tổ chức cá nhân đầu tư trong nước, mà còn là các tổ chức, các nhân đầu tư nước ngoài sinh sống và làm việc tại nước sở tại, các nhà đầu tư quốc tế tham gia vào TTCK nước sở tại lưu giữa bảo quản chứng khoán cho mình, tái lưu ký này vào Trung tâm lưu ký chứng khoán. Tại những nước đó, mối quan hệ uỷ thác này được thực hiện trên cơ sở các hợp đồng pháp lý. Do thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ dịch vụ lại đối với các tổ chức lưu ký toàn cầu, các thành viên lưu ký nước sở tại còn được gọi là các tổ chức lưu ký phụ Các tổ chức được phép trở thành thành viên lưu ký là các tổ chức đáp ứng được các điều kiện về mức vốn, điều kiện về uy tín, điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, khả năng quản lý chứng khoán cho khách hàng, thực hiện việc đóng góp, thực hiện việc báo cáo và chịu sự quản lý, giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và của các tổ chức điều hành hệ thống. Mỗi nước sẽ có các qui định cụ thể đối với các tổ chức đủ điều kiện trở thành thành viên lưu ky 4.3. Tham gia của các ngân hàng đóng vai trò ngân hàng chỉ định thanh toán, ngân hàng giám sát Ngân hàng chỉ định thanh toán là ngân hàng thương mại lớn ,được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ định để mở tài khoản thanh toán cho trung tâm giao dịch và thành viên lưu ký để phục vụ cho việc thanh toán các giao dịch.Việc thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán được thưc hiện bằng hình thức chuyển khoản của thành viên lưu ký và trung tâm giao dịch mở tại ngân hàng chỉ định thanh toán.Thanh toán bù trừ là khâu cuối cùng để hoàn tất các giao dịch chứng khoán sự tham gia của ngân hàng chỉ định thanh toán góp phần thúc đẩy quá trình thanh toán bù trừ nhanh và chính xác. Ngân hàng giám sát:để cho một quỹ đầu tư hoạt động có hiệu quả đặc biệt là quỹ đầu tư chứng khoán cùng với công ty quản lý quỹ.Ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản ,lưu ký tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán và giám sat công ty quản lý quỹnhằm bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư 4.4. Tham gia của các trung gian tài chính vào bảo lãnh phát hành,đại lý phân phối chứng khoán trên TTGDCK. Bảo lãnh phát hành là một trong những lĩnh vực hoạt động của các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại các công ty tài chính trên cơ sở việc thoả thuận mua bán chứng khoán để bán lại hoặc bán chứng khoán thay mặt người phát hành hay chủ sở hưũ,các hình thức bảo lãnh :bảo lãnh với cam kết chắc chắn, bảo lãnh theo phương thức dự phòng,bảo lãnh với cố gắnh cao nhất,bảo lãnh tối thiểu – tối đa. Bảo lãnh phát hành giúp các tổ chức phát hành thưch hiện các thủ tục trước khi trào bán chứng khoán,tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai doạn đầu phát hành. Tổ chức bảo lãnh chính có thể lập các tổ hợp bảo lãnh để giảm thiểu rủi ro và có thể xác định được các đối tượng tham gia đầu tư vào tổ chức phát hành. Đại lý phân phối là các công ty mà tổ chức bảo lãnh chính dành chứng khoán cho họ để họ phân phối.Tổ chức bảo lãnh mua chứng khoán trực tiếp từ từ tổ chức phát hành còn đại lý phân phối mua chứng khoán từ tổ chức bảo lãnh chính hoặc tổ chức bảo lãnh thành viên và bán lại các chứng khoán đó.Đại lý phân phối không đóng vai trò của tổ chức bảo lãnh vì vậy không chịu các rủi ro nếu đợt phát hành không thành công. 4.5. Tham gia dịch vụ kiểm toán các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán. Như đã biết, nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán là tính công khai minh bạch nên kiểm toán trở thành một yêu cầu không thể thiếu đối với hoạt động thị trường chứng khoán. Đặc biệt là tổ chức niêm yết, nơi phát hành ra các chứng khoán giao dịch trên thị trường. Việc ra quyết định mua, hoặc bán chứng khoán nào đó, do nhà đầu tư quyết định trên cơ phân tích các báo cáo kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp. Với tư cách là một tổ chức độc lập, các tổ chức kiểm toán tiến hành kiểm tra và xác nhận tính đúng đắn, hợp lý của các báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán, từ đó đảm bảo các báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán được công bố công khai ra công chúng là trung thực, hợp lý và minh bạch, góp phần bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán được hình thành một cách thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch. Chính vì lẽ đó trong lĩnh vực chứng khoán, việc qui định các báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán phải được xác nhận bởi một tổ chức kiểm toán độc lập đã trở thành thông lệ quốc tế. Vai trò của kiểm toán được thể hiện rõ nét thông qua tính chuyên nghiệp và quyền đưa ra các đánh giá về “chất lượng” của các báo cáo tài chính. Với tư cách là tổ chức độc lập, các tổ chức kiểm toán tiến hành kiểm tra và xác nhận tính đúng đắn, hợp lý và hợp pháp của các báo cáo tài chính, từ đó đảm bảo các báo cáo tài chính công bố ra công chúng là trung thực và minh bạch. Chính vì lẽ đó, qui định kiểm toán bắt buộc đối với các báo cáo tài chính của tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán đã trở thành thông lệ quốc tế. Mức độ công khai hoá của thị trường càng cao, vai trò của tổ chức kiểm toán độc lập càng được đề cao và là một yếu tố không thể thiếu trong câú trúc thị trường,kiểm toán là một yếu tố không thể thiếu giúp củng cố niềm tin đối với các hoạt động trên thị trường chứng khoán. Các tổ chức kiểm toán còn phải đáp ứng được các yêu cầu theo quy định ._.của từng nước như về vốn pháp định, số lượng kiểm toán viên tối thiểu trong công ty và số lượng khách hàng hàng năm...vv. 4.6. Tham gia của các trung gian tài chính vào việc thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm Các công ty định mức tín nhiệm đóng vai trò nổi bật trong thị trường chứng khoán mới nổi cũng như thị trường chứng khoán phát triển. Do nhu cầu cấp thiết để phát triển một thị trường trái phiếu và thị trường tiền tệ nhiều biến động nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn trong tương lai, vai trò của các tổ chức định mức tín nhiệm ngày càng có vai trò hết sức quan trọng. Thông thường, các công ty định mức tín nhiệm thành công hơn khi sự tự do hoá thị trường tài chính gây áp lực đến thị trường và quyết định của tư nhân đóng vai trò lớn trong việc tham gia vào thị trường chứng khoán. Việc tiêu chuẩn hoá các thông tin tài chính về các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ tạo điều kiện cho việc so sánh của các nhà phát hành và thống nhất hơn trong việc đánh giá các công ty có mức độ rủi ro như nhau. Việc thành lập tổ chức định mức tín nhiệm cần phải đầu tư lớn về tài chính và có hiểu biết nhất định về kỹ thuật, do đó rất cần có nhà bảo trợ và trợ giúp kỹ thuật quốc tế. Một công ty định mức tín nhiệm phụ thuộc vào sự chính xác và tin cậy của các thông tin mình có về các nhà phát hành chứng khoán. Có rất nhiều mô hình của công ty định mức tín nhiệm trong đó mô hình thành lập tổ chức tín nhiệm dưới dạng một công ty cổ phần trong đó các cổ đông chính sẽ là Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, các trung gian tài chính lớn và có uy tín như Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại, tổng công ty bảo hiểm, các công ty tài chính và công ty chứng khoán là mô hình hoạt động có hiệu quả cao bởi vì Sự tham gia của các trung gian tài chính có uy tín và kinh nghiệm trong cơ cấu sở hữu của tổ chức định mức tín nhiệm là một đảm bảo rất quan trọng về cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực có chuyên môn nghề nghiệp cao trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tiết kiệm được chi phí đào tạo cơ bản. Nhân viên của các công ty này phần lớn đều là những người có trình độ cao trong các lĩnh vực tài chính-ngân hàng, trong đó nhiều người là các chuyên gia cao cấp về định mức tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp từ các ngân hàng lớn chuyển sang, bởi vì bản thân các ngân hàng, các tổ chức tài chính cũng có những bộ phận chuyên nghiên cứu và xác định mức độ tín nhiệm của các doanh nghiệp để thực hiện các khoản cho vay và tài trợ dự án. 5.Các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán 5.1 ảnh hưởng của môi trường kinh tế vĩ mô Một nền kinh tế phát triển ổn định Kinh nghiệm các nước cho thấy môi trường kinh tế vĩ mô có tác động vô cùng quan trọng tới sự hình thành và phát triển của TTCK từ đó tác động mạnh mẽ tới sự tham gia của các trung gian vào sự phát triển của TTCK.Sự ổn định về chính trị và tăng trưởng kinh tế là yếu tố rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển TTCK. Bên cạnh đó cũng phải chú ý đến vấn đề tập quán, thói làm ăn nhỏ manh mún của phần lớn công chúng qua đó mà có những tác động định hướng, tạo sự hiểu biết mới, hình thức đầu tư mới để công chúng quen dần và coi đó là một hình thức đầu tư có thể thực hiện được với bất cứ ai có vốn, có ý muốn đầu tư. Không những thế còn phải duy trì tốc độ tăng trưởng ,lạm phát được kiểm soát, giá trị đồng nội tệ và mức lãi suất được bình ổn mới tạo được sự tin tưởng của các nhà đầu tư và của người dân khi đầu tư vào chứng khoán. Ngược lại khi nền kinh tế có những biểu hiện sa sút, mất ổn định sẽ ảnh hưởng rất mạnh đến khả năng sinh lời của việc đầu tư chứng khoán, các nhà đầu tư sẽ dừng hoạt động đầu tư vào chứng khoán và như vậy số lượng đầu tư giảm làm cho TTCK hoạt động kém hiệu quả và có thể đi đến phá sản. Thực tế đã chứng minh rằng nhân tố đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ của các thị trường mới nổi trong những thập kỷ qua, ở phần lớn là các nước đang phát triển có sự kết hợp linh hoạt giữa định hướng phát triển nền kinh tế thị trường với vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước trong hoạt động củaTTCK. Các chính sách kinh tế vĩ mô cơ bản tác động tới tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, thông qua đó tác động tới tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô (kiểm soát lạm phát và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế), tạo công ăn việc làm.Sự phát triển của một nền kinh tế sẽ tác động trực tiếp đến sự phát triển các dịch vụ cung ứng trên TTCK cả về số lượng và chất lượng 5.2. Chịu ảnh hưởng của sự phát triển thị trường tiền tệ Thị trường tiền tệ là thị trường của các công cụ nợ ngắn hạn thường dưới một năm. Thị trường tiền tệ tạo tính thanh khoản cho các công cụ nợ giao dịch trên thị trường và đáp ứng nhu cầu huy động vốn ngắn hạn để chi tiêu trong khi chưa cân đối được ngân quỹ của Chính phủ và các tổ chức kinh doanh. Chính phủ phát hành tín phiếu Kho bạc bù đắp những thiếu hụt tạm thời của ngân sách và cung cấp tài chính cho các khoản chi tiêu trong chương trình kế hoạch; các công ty và ngân hàng thương mại phát hành giấy tờ thương mại để có nguồn tài chính tận dụng các cơ hội thu lợi nhuận. Thị trường tiền tệ luôn song song tồn tại với thị trường vốn cụ thể là thị trường chứng khoán. Hai thị trường này có mối quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau, tạo ra một cơ chế tài chính hoàn thiện hơn đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho các tổ chức phát hành. Đồng thời việc song hành hai thị trường tạo ra một thị trường tài chính ổn định và hoàn thiện cho quốc gia, có ý nghĩa không chỉ đối với Chính phủ mà còn cả với các tổ chức tài chính cũng như các tổ chức kinh doanh. Thị trường tiền tệ cung cấp cơ hội huy động vốn ngắn hạn trong khi thị trường chứng khoán lại tạo cơ hội huy động vốn dài hạn cho các tổ chức phát hành, mở ra một cơ chế hoàn chỉnh cho mọi tổ chức khi tham gia vào thị trường. Chính mối quan hệ chặt chẽ giữa hai thị trường nên sự phát triển của thị trường tiền tệ cũng có ý nghĩa hoàn thiện thị trường chứng khoán 5.3. Chịu ảnh hưởng của sự phát triển của thị trường chứng khoán Như một quy luật có tính phổ biến ở nhiều nước trên thế giới ở đâu có TTCK phát triển thì ở đó hệ thống các tổ chức trung gian tài chính phát triển,ngược lại ở đâu có cạnh tranh các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính sôi động thì ở đó giao dịch trên TTCK cũng sôi động. TTCK phát triển làm cho môi trường đầu tư phát triển và các trung gian tai chính có nhiều cơ hội đầu tư hơn,Sự tham gia của trung gian của trung gian tài chính vào TTCK như: tham gia là tổ chức lưu ký, bảo lãnh phát hành,đại lý phân phối chứng khoán, Ngân hàng chỉ định thanh toán… sự tham gia đó đem lại cho các định chế này nhưng khoản phí và lệ phí thu về nhất định,thị trường càng phát triển thì khoản nay thu được càng lớn. Bên cạnh đó sự phát triển của TTCK làm cho các công cụ huy động vốn của các tổ chức này như trái phiếu,cổ phiếu giấy chứng nhận tiền gửi… có môi trường giao dịch từ đó tạo khả năng thanh khoản cao cho các công cụ này và đảm bảo cho các tổ chức này có khả năng huy động vốn nhanh va rẻ hơn. Với một thị trường phát triển sôi động và ổn định sễ thúc đẩy các trung gian tham gia tích cực hơn bởi lợi ích của việc tham gia TTCK đem lại là rất lớn, nó sẽ khẳng định vị thế và uy tín đối với thị trường từ có thể đem lại được lợi nhuận lơn nhất cho mình 5.4. Chịu ảnh hưởng bởi các chính sách vế thuế ,phí , lệ phí Trong việc thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô, thuế được Chính phủ sử dụng như một công cụ quan trọng tác động lên toàn bộ qua trình phát triển cảu nền kinh tế .Thông qua chính sách thuế Chính phủ thực hiện chính sách ưu đãi khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển cảu các ngành nghề lĩnh vực theo từng vùng lãnh thôe trong nền kinh tế quốc dân. Về phí đây là khoản tiền mà các chủ thể tham gia thị trường phải đòng góp cho Nhà nước ví dụ: phí thành viên, phí lưu ký,…Lệ phí đây là khoản tiền mà tổ chức phải nộp cho Nhà nước để nhận được các giấy phép cần thiết cho hoạt động của mình. Chính sách thuế, phí và lệ phí có tác dụng lớn trong việc khuyến khích các trung gian tài chính tham gia,nếu có một chính sách thúê hợp lý sẽ thúc đẩy các tổ chức trung gian tham gia tích cực hơn bởi khi đó lợi ích mang lại sẽ nhiều hơn.Đặc biệt ở các thị trường chứng khoán mới nổi chính sách này có tác dụng rất lớn. Về thuế các công ty chứng khoán là một trong những đối tương được hưởng ưu đãi thuế nhiều nhất.Như ở Việt Nam các công ty đựơc miễn thuế GTGT đố với các hoạt động kinh doanh chứng khoán được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm đầu tiên và 50% trong 2 năm tiếp theo. Để có thể thu hút đựợc các trung gian tham gia vừa với tư cánh nhà cung ứng cá dịch vụ với tư cánh nhà đầu tư cần có một chinh sách thuế rõ ràng và thống nhất để các tổ chứuc này có chính sách hợp lý và yên tâm khi tham gia,chính sách thuế ,phí ,lệ phí phù hợp với sự phát triển của TTCK sẽ là đòn bẩy tích cực,là động lưc thúc đẩy các trung gian tài chính tham gia. 5.5. Chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Hệ thống pháp lý sẽ là công cụ không thể thiếu để duy trì cho TTCK hoạt động nhịp nhàng, lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng phát triển. Muốn có một TTCK ổn định phải có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh. Tính ổn định của TTCK nói lên sự thành công của thị trường.Hệ thống pháp luật quyết định tới vịêc tham gia cảu các trung gian tài chính vào các loại hình dịch vụ nào. Hệ thông pháp luật thống nhất và đồng bộ sẽ tạo môi trường ổn định ,các chủ thể tham gia có sự phân định rõ ràng về chức năng nhiệm vụ,quyền hạn sẽ giảm bớt sự chống chéo về thủ tục hành chính,các chủ thể tham gia sẽ không bị chi phối bởi nhiều quy định nhiều loại luật và quy định.Không phải bất kỳ tổ chức nào muốn tham gia thị trương là có thể tham gia được nó phải đảm bảo những quy định bắt buộc của cơ quan quản lý.Hệ thống pháp luật của mỗi nước sẽ quy đinh việc tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường Chương II:Thực trạng và giả pháp thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán 1.Thực trạng tham gia của các trung gian tài chính vào TTCK ở Việt Nam 1.1. Các tổ chức trung gian tài chính ở Việt Nam 1.1.1. Các Ngân hàng thương mại Từ giữa năm 1987, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới bắt đầu có những đổi mới về tổ chức và hoạt động, mô hình ngân hàng hai cấp dần được hình thành, thay thế cho mô hình ngân hàng một cấp trước kia. Bên cạnh NHNN, các loại hình ngân hàng chuyên doanh, ngân hàng cổ phần cũng dần dần xuất hiện. Năm 1990, hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời, góp phần khẳng định thêm mô hình ngân hàng hai cấp với NHNN đóng vai trò ngân hàng trung ương, nằm trong cơ cấu Chính phủ; các NHTM là các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu. Qua hơn mười năm hoạt động, mô hình ngân hàng hai cấp đã dần thích nghi với nền kinh tế thị trường và đã có những đóng góp đáng kể cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động ngân hàng cũng đã bộc lộ những nhược điểm cần khắc phục, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ hai đã thông qua hai luật: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các TCTD, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Với việc ban hành hai luật này, NHNN đã được tăng cường quyền lực và sức mạnh để thực hiện chức năng quản lý nhà nước và đảm nhiệm vai trò ngân hàng của các ngân hàng; các TCTD cũng có được môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển cả về số lượng và chất lượng cũng như đa dạng hoá về loại hình. Tính đến nay, hệ thống NHTM Việt Nam gồm có:6 NHTM nhà nước: Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu long và Ngân hàng Phục vụ Người nghèo, hơn 51 NHTM cổ phần trong đó 28 NHTM cổ phần đô thị và 23 NHTM cổ phần nông thôn, có nhiều ngân hàng liên doanh với nước ngoài,hơn 26 chi nhánh ngân hàng nước ngoài…. Như vậy, hệ thống NHTM Việt Nam đã có bước phát triển đột biến cả về nội dung cũng như số lượng, loại hình và khung khổ pháp lý cho hoạt động. Ngoài ra, trên lãnh thổ Việt Nam còn có rất nhiều văn phòng đại diện nước ngoài và tổ chức quốc tế, gồm văn phòng đại diện thuộc ngân hàng và công ty tài chính của hơn 21 quốc gia, 3 văn phòng đại diện của các tổ chức tài chính thế giới (Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF, Ngân hàng Thế giới - WB, Ngân hàng phát triển châu á - ADB).Các NHTM Việt Nam mới được hình thành, trong đó nhóm NHTM nhà nước chiếm vị trí chủ đạo Các NHTM nhà nước trước đây là những ngân hàng chuyên doanh mới được tách khỏi Ngân hàng Nhà nước từ hơn 10 năm nay, chủ yếu vẫn kinh doanh theo từng lĩnh vực, chưa thực sự trở thành những ngân hàng đa năng; Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu long và Ngân hàng Phục vụ Người nghèo thực chất là hai ngân hàng chính sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Nhóm các NHTM cổ phần tuy nhiều về số lượng nhưng phần lớn là các ngân hàng nhỏ, hiệu quả kinh doanh chưa cao lại tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các NHTM nước ngoài và liên doanh tuy đang có xu hướng tăng nhưng hiện còn hạn chế về số lượng và phạm vi kinh doanh 1.1.2 Công ty tài chính Đây là mô hình thí điểm thực hiện Luật Doanh nghiệp Nhà nước và Luật Các TCTD và bước đầu đã được thành lập trong năm tổng công ty nhà nước, đó là các Tổng Công ty Cao su, Bưu chính-Viễn thông, Dệt-May, Công nghiệp Tàu thuỷ và Dầu khí; hoạt động theo giấy phép được cấp bởi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; với mục tiêu hỗ trợ vốn cho các công ty con trong tổng công ty bằng cách huy động các nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời trong các đơn vị thành viên và cán bộ, công nhân viên để điều hoà vốn trong tổng công ty; đồng thời là kênh dẫn vốn từ các NHTM cho các dự án sản xuất kinh doanh của tổng công ty Trong thời gian qua, hoạt động của các công ty tài chính này đã đạt được một số kết quả, góp phần đáng kể vào thành tích hoạt động kinh doanh của các tổng công ty cũng như của hệ thống tài chính-tiền tệ và tín dụng - ngân hàng nói chung. Chẳng hạn, đã góp phần tạo vốn cho các dự án đóng tàu viễn dương, tàu chở dầu, khai thác và cung ứng các sản phẩm dầu khí; các dự án về thông tin, bưu chính-viễn thông; các dự án về nâng cao chất lượng hàng dệt may, sản phẩm cao su, v.v. Tuy nhiên, hoạt động thí điểm trong mấy năm qua đã cho thấy mô hình công ty tài chính hiện hành, hoạt động trong khuôn khổ Luật Các TCTD có một số tồn tại cần được nghiên cứu chỉnh sửa.. Hàng năm Chính phủ cấp tín dụng ưu đãi hàng trăm tỷ đồng cho các tông công ty, tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ, làm giảm tính chủ động tích cực trong việc tìm kiếm các nguồn vốn của các công ty tài chính. Hơn nữa, các tổng công ty có công ty tài chính hiện nay đều là những đơn vị kinh tế có mối quan hệ kinh doanh quốc tế rộng, có các đơn vị thành viên là những doanh nghiệp nước ngoài hoặc liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài lên đến hàng trăm triệu USD nên họ thường xuyên phải sử dụng các ngoại tệ mạnh như USD, , v.v. trong lúc các công ty tài chính của họ lại không được phép làm các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối nên chưa phát huy hết khả năng, đặc biệt là khả năng huy động các nguồn vốn bằng ngoại tệVề mặt cho vay vốn, các công ty tài chính cũng như các TCTD vẫn phải tuân thủ quy định của Luật Các TCTD không được phép cho vay một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của mình để hạn chế rủi ro. Điều này cũng đang gây khó khăn cho các công ty tài chính nói riêng và các TCTD nói chung, bởi vốn tự có của các công ty tài chính hiện nay còn rất nhỏ bé, chỉ khoảng từ 40 đến 90 tỷ VND, trong lúc đó vốn đầu tư cho mỗi một dự án thường vượt quá 15% mức vốn này. v.v. Thực tế hoạt động đang đòi hỏi phải có thêm văn bản hướng dẫn để kinh doanh ngoại hối được thông thoáng và đòi hỏi nhanh chóng có giải pháp bổ sung vốn tự có của các công ty tài chính để tăng năng lực trong kinh doanh 1.1.3 Công ty cho thuê tài chính Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường, bên cạnh một số doanh nghiệp từ thời bao cấp để lại với công nghệ và thiết bị lạc hậu, hàng ngàn doanh nghiệp khác đã ra đời. Để cạnh tranh và tồn tại, bắt buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới công nghệ và thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu vốn nghiêm trọng nhưng chưa đủ điều kiện hoặc chưa dám vay những món nợ lớn trực tiếp tại các NHTM. Loại trung gian tài chính này đã được thành lập và hoạt động có hiệu quả ở hầu khắp các quốc gia công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật, Hàn quốc, v.v. Tại Mỹ, người ta cho thuê từ các thiết bị lớn như máy bay đến các thiết bị nhỏ như máy photocopy, máy fax, v.v. ở Việt Nam, hoạt động cho thuê tài chính vẫn còn mới mẻ đối với các cá nhân cũng như doanh nghiệp nên tình hình phát triển còn rất chậm so với nhu cầu thị trường. Nhưng hiện tại, cả nước mới có tám công ty cho thuê tài chính được cấp phép; trong đó, năm công ty trực thuộc bốn NHTM nhà nước (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có hai công ty hoạt động ở hai miền Nam và Bắc), hai công ty liên doanh và một công ty 100% vốn nước ngoài. Vốn pháp định của các công ty trong nước khoảng trên 50 tỷ VND còn công ty nước ngoài và liên doanh khoảng 140 tỷ VND.Tuy nhiên hoạt động của các công ty cho thuê tài chính còn gặp nhiều bế tắc nên đã hạn chế tốc độ phát triển và chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Về mặt pháp lý cũng còn nhiều vướng mắc. Chẳng hạn, chưa có các văn bản pháp luật phân định rõ mối quan hệ giữa quyền sử dụng và quyên sở hữu đối vơí các tài sản cho thuê nên đã dẫn đến những rắc rối không đáng có về việc quản lý tài sản trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng như khi kết thúc hợp đồng hoặc khi hợp đồng có xẩy ra tranh chấp. Bên cạnh đó, do vốn điều lệ của các công ty còn quá thấp, trình độ nghiệp vụ của cán bộ-nhân viên các công ty còn bất cập, các doanh nghiệp sản xuất chưa xây dựng được nhiều dự án khả thi mang tính thuyết phục cũng đã ảnh hưởng đến việc mở rộng thị phần cũng như độ an toàn trong hoạt động kinh doanh của các công ty cho thuê tài chính. 1.1.4. Công ty bảo hiểm Để đảm bảo đời sống cho người lao động và giữ gìn sự ổn định trật tự xã hội, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện hai loại hình bảo hiểm: Bảo hiểm xã hội – mang tính bắt buộc và Bảo hiểm rủi ro – mang tính tự nguyện. Ơ Việt Nam, bảo hiểm xã hội do nhà nước tổ chức và quản lý, đươc thực hiện chủ yếu đối với những người làm công hưởng lương; hiện nay có khoảng hơn 5 triệu người tham gia loại bảo hiểm này. Còn các loại hình bảo hiểm rủi ro, nhà nước chủ trương cho thực hiện từng bước một, phù hợp với nhu cầu thực tế và khi điều kiện kinh tế – xã hội cho phép. Vào cuối năm 1987, thực hiện chiến lược đổi mới nền kinh tế, nhà nước ta đã ban hành luật về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; cho phép các nhà đầu tư, các liên doanh được phép thực hiện bảo hiểm tại Bảo Việt hoặc tại các công ty bảo hiểm khác do thoả thuận, đã mở đầu cho việc phát triển thị trường bảo hiểm tại Việt Nam. Cùng với sự gia tăng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, bãi bỏ bao cấp trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp, nghị định 100/CP ngày 18-12-1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm đã làm cho nhu cầu bảo hiểm tăng lên, thị trường bảo hiểm phát triển một cách đột biến; 7 công ty bảo hiểm mới ra đời, hơn 36 văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài được phép hoạt động (trước đó chỉ có Bảo Việt). Riêng bảo hiểm nhân thọ, được Bảo Việt triển khai đầu tiên vào năm 1996 và đến cuối năm 1999, Bộ Tài chính đã cho phép 4 công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Đến nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có gần 20 doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm, trong đó có trên 50% là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quy mô thị trường cũng phát triển nhanh chóng Sự tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm trong thời gian này chủ yếu thuộc khu vực bảo hiểm nhân thọ, tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ chỉ vào khoảng 15%/năm trong những năm gần đây. Sản phẩm bảo hiểm cũng đa dạng và phong phú hơn, trước thời kỳ đổi mới chỉ có khoảng 20 loại sản phẩm, thu hẹp trong một số lĩnh vực truyền thống như bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tai nạn con người. Đến nay, các sản phẩm bảo hiểm đã bao trùm hầu hết các lĩnh vực khác nhău của đời sống xã hội. 1.1.5 Công ty kiểm toán Đến nay, Việt Nam đã có 18 công ty kiểm toán độc lập, bao gồm 5 công ty nhà nước, 8 công ty tư nhân, 4 công ty 100% vốn nước ngoài và 1 công ty liên doanh với tất cả trên 1500 lao động; trong đó, khoảng 300 người đã được cấp chứng chỉ kiểm toán viên quốc gia và một số người đã có chứng chỉ kiểm toán viên quốc tế. Cùng với việc phát triển nhanh chóng về số lượng, việc tạo lập và hoàn thiện từng bước môi trường pháp lý và hệ thống các nguyên tắc, thông lệ, chuẩn mực về nghiệp vụ kiểm toán cũng được tiến hành song song và đã tạo được các điều kiện thuận lợi ban đầu để hệ thống kiểm toán Việt Nam phát triển, từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước cũng như chuẩn bị tham gia hội nhập vào thị trường tài chính khu vực Tuy nhiên, trên thực tế, ngành kiểm toán Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém, nhất là kinh nghiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên và năng lực quản lý của các công ty. Trong lúc đó, còn nhiều quy định hạn chế phạm vi hoạt động của các công ty kiểm toán nước ngoài và các công ty kiểm toán Việt Nam thì vẫn được nhà nước bảo hộ nhiều nên chưa tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh để kích thích các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao chất lượng hoạt động, dẫn đến tình trạng khách hàng không mấy thoả mãn khi sử dụng các thông tin kinh tế-tài chính do các công ty kiểm toán Việt Nam đưa ra. Môi trường pháp lý cho hoạt động kiểm toán còn thiếu và chưa thực sự đồng bộ, chưa phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế; đặc biệt là sự ràng buộc về trách nhiệm pháp lý đối với các thông tin kế toán do kiểm toán xác nhận cũng như những chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp của các chức danh kiểm toán nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan, trung thực trong hành nghề kiểm toán. Tuy vậy, trong thời gian qua vẫn có một số doanh nghiệp kiểm toán hoạt động tốt, giữ được niềm tin của khách hàng và mở rộng được thị trường Sự ra đời của hệ thống kiểm toán Việt Nam gồm kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ được xem là một trong những thành tựu quan trọng đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế và kiểm toán được công nhận là một trong những ngành thương mại dịch vụ quan trọng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay 1.1.6 Quỹ đầu tư Sự đa dạng hoá các trung gian tài chính trong bối cảnh chuyển đổi sang kinh tế thị trường đã góp phần ra đời các loại hình quỹ đầu tư tại Việt Nam. Trong đó phải kể đến hệ thống quỹ đầu tư phát triển (mô hình quỹ nhà nước) và quỹ đầu tư nước ngoài hiển diện tại Việt Nam. Quỹ đầu tư phát triển: Các quỹ này là những tổ chức tài chính được thành lập bằng các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, do Uỷ ban nhân dân địa phương trực tiếp quản lý. Chức năng và nhiệm vụ của mỗi quỹ đầu tư có phần khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng địa phương. Đặc điểm hoạt động của quỹ cho phép khả năng huy động vốn rộng rãi trong công chúng, đầu tư vào các dự án lớn, đặc biệt là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, mà lâu nay những dự án loại này vẫn phải chờ ngân sách. hiện nay chúng ta mới chỉ có Quỹ đầu tư nhà nước, chưa có các quỹ đầu tư tập thể để có thể khắc phục được những hạn chế nhất định của Quỹ đầu tư Nhà nước. Hiện nay, ngoài Quỹ đầu tư Nhà nước còn có khá nhiều loại, mô hình quỹ khác hoạt động tại Việt Nam cùng với tên gọi Quỹ. Có quỹ xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận, có quỹ không tự hình thành, tự quản lý và cũng tự xử lý khi có sự việc xảy ra Quỹ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam:Hiện nay có rất nhiều quỹ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam như :Vietnam Fund Ltd, Beta vietnam Fund Ltd, Vietnam Enterprise Fund, Beta Mecong Fund Ltd, Lazard Vietnam Fund Ltd…. Tất cả các quỹ đầu tư hoạt động tại Việt Nam đều là Qũy đóng. Người đầu tư muốn rút vốn có thể trao đổi với nhau hoặc mua bán tại Sở giao dịch nơi quỹ niêm yết. Cách thức hoàn vốn của các qũy là rất khác nhau, có thể hoàn vốn tại một thời điểm nhất định, hoặc cho phép chiết khấu sau mỗi thời hạn nhất định. Quỹ đầu tư chứng khoán:Theo quy định quỹ này do công ty quản lý quỹ cùng vói các tổ chức cá nhân Việt nam và nước ngoài thành lập ,vốn điều lệ tố thiểu là 5 tỷ dồng Việt nam việc lập quỹ có phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng phải được UBCK chấp nhận.Hiện nay thị trường của chúng ta chỉ có quỹ đầu tư chứng khoán VF1,quỹ VF1 thành lập theo giây phép thành lập và phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng ngày 24/3/2004 do UBCKNN cấpvới số vốn điều lệ là 300 tỷ và số lượng chứng chỉ quỹ là 30triệu đơn vị quỹ,thời hạn hoạt đọng của quỹ là 10 năm.Quỹ này đầu tư tối thiểu 60%tổng giá trị tài sản vào các loại chứng khoán dang và sẽ niêm yết, phần còn lại đầu tư vào các loại tài sản khácnhư công cụ của thị trường tiền tệ , bất động sản tiền mặt dự trữ 1.2 Thực trang tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường chứng khoán ở Việt Nam 1.2.1. Sự tham gia của các trung gian tài chính vào quá trình thành lập công ty chứng khoán Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, phát triển nền kinh tế Việt nam theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán đã bước đầu được triển khai nghiên cứu và chuẩn bị, trong đó những người đi tiên phong phải kể đến chính là các cơ quan ngân hàng, thể hiện đầu tiên là việc thành lập Ban nghiên cứu thị trường vốn đặt tại Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN). Đồng thời, NHNN cũng đã chỉ đạo các Ngân hàng thương mại (NHTM) xúc tiến việc nghiên cứu các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện về nhân lực và vật lực để có thể tham gia ngay từ đầu khi thị trường chứng khoán Việt nam ra đời và đi vào hoạt động.Thực hiện Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc các tổ chức tín dụng thành lập công ty chứng khoán và tham gia niêm yết chứng khoán, ngày 2/11/1999 NHNN đã có Thông tư số 04/1999/TT-NHNN5 hướng dẫn về việc thành lập công ty chứng khoán của NHTM, theo đó NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần của nhà nước và nhân dân được thành lập công ty chứng khoán trực thuộc, có tư cách pháp nhân và hạch toán độc lập. Hiện nay, các công ty chứng khoán thuộc hệ thống ngân hàng đang giữ vị trí nòng cốt trong số các công ty chứng khoán đang hoạt động trên thị trường. Cho đến nay, NHNN đã chấp thuận cho 4 NHTM quốc doanh gồm NHĐT&PT Việt Nam, Ngân hàng công thương việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam,Ngân hàng ngoại thương Việt nam và các NHTM cổ phần là Ngân hàng á Châu và Ngân hàng thương mại cổ phần quân đội,Ngân hàng Đông á được thành lập công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán trong thời gian vừa qua đều đã triển khai nhiều nghiệp vụ khác nhau như môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư...và bước đầu thu được những kết quả nhất định. Sự tham gia của Tổng công ty bảo hiểm Việt nam vào thành lập công ty chứng khoán Bảo Việt(BVSC). Nhằm phát huy tối đa mạng lưới chi nhánh sẵn có, cộng với đội ngũ cán bộ nhân viên có năng lực chuyên môn cao trong lĩnh vực tài chính, Tổng công ty Bảo hiểm Việt nam đã có chiến lược thành lập công ty chứng khoán từ rất sớm. Công ty đã triển khai việc đào tạo cán bộ và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật song song với tiến trình thành lập thị trường chứng khoán Việt Nam. Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt là công ty chứng khoán đầu tiên được nhận giấy phép hoạt động của UBCKNN. Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt có trụ sở chính ở Hà nội và chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện tốt vai trò là tổ chức trung gian, BVSC đã sớm tổ chức thực hiện các điểm giao dịch từ xa như điểm giao dịch tại Hải Phòng và Long An thông qua các công ty thành viên của Bảo Việt để phục vụ cho cổ đông của các công ty niêm yết. BVSC cũng đã thực hiện việc điều tra nghiên cứu để triển khai thêm các điểm giao dịch từ xa tại các địa bàn, khu vực kinh tế lớn và phát triển thành các Đại lý nhận lệnh giao dịch 1.2.2. Tham gia của các ngân hàng vào dịch vụ lưu ký chứng khoán. ở Việt Nam, Quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán được ban hành kèm theo quyết định số 05/1999/QĐ-UBCK ngày 27/3/1999 và Quyết định số 43/2000/QĐ-UBCK3 ngày 14/6/2000 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán ban hành kèm theo quyết định số 05/1999/QĐ-UBCK3, được xem là cơ sở pháp lý ban đầu cho việc thành lập và phát triển của một loại hình định chế tài chính phụ trợ hết sức mới mẻ mà không kém phần quan trọng vào sự thành công của thị trường là các thành viên lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Theo đó thành viên lưu ký bao gồm thành viên lưu ký trong nước và thành viên lưu ký nước ngoài, thành viên lưu ký trong nước là các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại Việt Nam được phép cung cấp các dịch vụ về lưu ký chứng khoán cho các tổ chức và cá nhân trong nước, thành viên lưu ký nước ngoài là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty chứng khoán liên doanh tham gia cung cấp dịch vụ về lưu ký chứng khoán cho các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Đến nay, UBCKNN đã cấp giấy phép hoạt động lưu ký chứng khoán cho 16 tổ chức tham gia làm thành viên lưu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán, bao gồm: 13 công ty chứng khoán và 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam là tập đoàn ngân hàng HSBC; ngân hàng Deutsche Bank; ngân hàng Standard Chartered Bank. Trong đó, việc tham gia của 3 ngân hàng thương mại làm thành viên viên lưu ký được xem là sự tham gia trực tiếp của các ngân hàng vào dịch vụ chứng khoán mà không cần thiết phải thành lập các công ty con, và đây cũng là 3 ngân hàng thương mại duy nhất ở Việt Nam (bao gồm cả ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế) được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động lưu ký chứng khoán. 1.2.3. Tham gia của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển vào Ngân hàng chỉ định thanh toán. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam hiện nay có quan hệ đ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0947.doc
Tài liệu liên quan