Chế độ pháp lý về hợp đồng tín dụng ngắn hạn & thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank)

MỤC LỤC trang LỜI NÓI ĐẦU Ngay từ khi ra đời, Ngân hàng thương mại đã thể hiện được rõ vai trò, chức năng quan trọng của mình trong hoạt động tài chính tiền tệ, vai trò trung gian tài chính của mình trong hoạt động của nền kinh tế. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế... Là cầu nối giữa các do

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chế độ pháp lý về hợp đồng tín dụng ngắn hạn & thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh nghiệp với thị trường, để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế.. mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất thích hợp... Do đó để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thoả mãn nhu cầu vốn của mình.. Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, trong sự vân hành của nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một công cụ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Bằng các nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là các hoạt động tín dụng, các ngân hàng thương mại đã chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình. Hoạt động tín dụng ngắn hạn là một hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại, xuất phát từ đặc trưng của ngân hàng thương mại, là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, mà trong đó chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn nên để khả năng thanh toán của mình ngân hàng thương mại cho vay chủ yếu là ngắn hạn. Hoạt động tín dụng ngắn hạn có thời gian hoàn vốn ngắn, liên quan đến điều kiện kinh tế trong thời gian gần nên hoạt động này cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế nói chung, hợp đồng tín dụng nói riêng và đặc biệt là hợp đồng tín dụng ngắn hạn còn nhiều vướng mắc như thế nào là hợp đồng tín dụng ngắn hạn, phân biệt HĐTD- HĐDS... Hoàn thiện chế độ pháp lý về hợp đồng tín dụng ngắn hạn - một chủng loại của hợp đồng kinh tế- là cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng, chất lượng tín dụng. Qua quá trình thực tập tại NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam, với sự hướng dẫn nhiệt tình của các cán bộ Phòng Thu Hồi Nợ, tác giả đã tìm hiểu đề tài”Chế độ pháp lý về hợp đồng tín dụng ngắn hạn và thực tiễn áp dụng tại NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank). Bố cục của đề tài được chia thành 3 chương: Chương I: Hợp đồng tín dụng ngắn hạn- Một chủng loại của hợp đồng kinh tế. Chương II: Ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng ngắn hạn tại NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank). Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác hợp đồng tín dụng ngắn hạn tại NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank). Cuối cùng tác giả xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Thạc Sỹ Đỗ Kim Hoàng, các cán bộ phòng Thu Hồi Nợ, các cán bộ, nhân viên tại NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam đã giúp đỡ tác giả hoàn thành bài viết. CHƯƠNG I HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN - MỘT CHỦNG LOẠI CỦA HỢP ĐỒNG KINH TẾ I. TÍN DỤNG NGẮN HẠN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng ngân hàng 1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng Thuật ngữ ngân hàng đã có từ rất lâu. Tuy nhiên, từ thế kỷ 17 trở về trước, nghề ngân hàng chưa phát triển và chưa có vai trò quan trọng. Nó chỉ là một nghề mua bán, làm dịch vụ đổi tiền thông thường và cho vay nặng lãi. Ngân hàng thương mại ra đời từ thế kỷ 15 và là tổ chức tài chính lớn nhất, quan trọng nhất trong giới kinh doanh tiền tệ. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, hoạt động trên cơ sở”đi vay”để”cho vay”thông qua nghiệp vụ tín dụng của mình. Hoạt động tín dụng ngân hàng xuất hiện cùng lúc với sự hình thành đời sống kinh tế và xã hội của loài người, hình thức tín dụng sơ khai là tín dụng nặng lãi. Với sự phát triển của nền kinh tế, tín dụng nặng lãi đã không còn tồn tại khi chủ nghĩa tư bản ra đời và nó cũng không được coi là một hình thức tín dụng mà thay vào đó là các quan hệ tín dụng đa dạng và phong phú hơn đáp ứng được các nhu cầu của xã hội. Chính vì sự đa dạng của các quan hệ tín dụng mà hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về tín dụng. Vì vậy, tuỳ theo góc độ nghiên cứu mà có những khái niệm khác nhau: Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay. Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả. Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. Theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vố gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Bản chất của tín dụng là một giao dịch tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc điểm sau: Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn, tức là có sự tín nhiệm giữa người cho vay và người đi vay. Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Có khoảng cách thời gian giữ hành vi chuyển giao và hành vi hoàn trả tài sản. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện khi đến hạn thanh toán. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động ngân hàng giữ một vai trò hết sức quan trọng và nghiệp vụ tín dụng là chủ yếu (bao gồm hoạt động huy động vốn và cho vay). Tất cả các nghiệp vụ khác như bảo lãnh, chiết khấu, trung gian thanh toán.... đều mang tính bổ sung cho nghiệp vụ tín dụng và đây là nghiệp vụ quyết định sự tồn tại của ngân hàng. ở các nước có nền kinh tế thị trường như nước ta, những tổ chức tài chính làm nghiệp vụ tín dụng có rất nhiều bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các hợp tác xã tín dụng... nhưng nhiều nhất và có phạm vi rộng nhất là các ngân hàng thương mại. Theo pháp luật Việt Nam thì ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động có liên quan khác vì mục tiêu lợi nhuận. Trong đó, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Trong phạm vi đề tài này, tín dụng ngân hàng được hiểu là một quan hệ tín dụng, có đối tượng là tiền tệ, được thực hiện giữa bên cho vay là các ngân hàng thương mại và bên vay là các doanh nghiệp. 1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng được phân loại dựa trên một số tiêu thức nhất định, bao gồm: a. Theo thời hạn cho vay Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn cho vay dưới 1 năm, được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu chi tiêu cá nhân. Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn cho vay từ 1 năm đến 5 năm. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn vay trên 5 năm. Tín dụng dài hạn chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. b. Theo mục đích sử dụng: Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng tiêu dùng. c. Theo mức độ tín nhiệm Tín dụng có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Tín dụng không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. d. Theo phương pháp cho vay: tín dụng trực tiếp và tín dụng gián tiếp. e. Thep phương pháp hoàn trả: Tín dụng trả góp, tín dụng phi trả góp và tín dụng hoàn trả theo yêu cầu. 1.3. Nguyên tắc tín dụng ngân hàng a. Tiền vay phải được hoàn trả sau một thời gian nhất định cả gốc lẫn lãi. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu, phản ánh đúng bản chất quan hệ tín dụng. Quan hệ này sẽ bị phá vỡ nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ nguyên tắc trên. Điều này gây ra rủi ro thanh toán cho ngân hàng vì phần lớn vốn ngân hàng cho vay huy động được từ các chủ thể kinh tế khác. Do đó, khách hàng khi vay vốn phải cam kết trả cả gốc lẫn lãi trong một thời hạn nhất định. b. Tiền vay phải có giá trị tương đương làm đảm bảo Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp. Vì thế, mọi dự đoán về rủi ro của ngân hàng chỉ mang tính tương đối và bảo đảm tiền vay là một tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhằm bổ sung những mặt hạn chế của cán bộ tín dụng cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh. c. Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích Việc khách hàng thực hiện đúng cam kết trong hợp động tín dụng, sử dụng tiền vay đúng mục đích theo thoả thuận là một trong những yếu tố đảm bảo khả năng thu nợ của ngân hàng. Vì thế, ngân hàng phải tiến hàng thẩm định, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, ngân hàng có quyền thu nợ trước hạn. 1.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, cùng với sự phát triển, mọi hoạt động kinh tế đều được tiền tệ hoá, NHTM với vai trò là trung gian tài chính, tập hợp các khoản vốn nhỏ lẻ, tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân, đáp ứng nhu cầu về vốn cho quá trình tái sản xuất, đầu tư phát triển kinh tế, cũng như tiêu dùng cá nhân. Mặt khác, với ưu thế huy động tại chỗ nhânh chóng, đồng thời là trung tâm thanh toán của nền kinh tế, ngân hàng thương mại đã góp phần đẩy nhanh tốc độ luôn chuyển hàng hoá, tiền tệ, giảm chi phí lưu thông. Có thể nói, các ngân hàng thương mại là công cụ hữu hiệu để chính phủ các nước quản lý, điều hành chính sách tài chính - tiền tệ, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế mở. 2. Tín dụng ngắn hạn trong hoạt động của ngân hàng 2.1. Khái niệm, đặc điểm tín dụng ngắn hạn. a. Khái niệm tín dụng ngắn hạn. Quyết định số 1627/2001QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng đã đưa ra khái niệm về thời gian cho vay, đó là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Theo cách phân chia này, tín dụng được chia thành 3 loại là tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn, tín dụng dài hạn. Như vậy, tín dụng ngắn hạn là một loại tín dụng của hoạt động tín dụng ngân hàng có thời hạn ít hơn 1 năm, thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt cac nhân. Tín dụng ngắn hạn tồn tại bởi một số lý do sau: Trong nền kinh tế, mỗi ngành, doanh nghiệp đều có nhu cầu vốn để mua vật tư, nguyên liệu, hoặc trang trải các chi phí trong quá trình sản xuất nhằm tạo ra hàng hoá. Trong điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sinh hoạt của con người cũng ngày càng tăng lên, cả về nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cho cá nhân cũng như tập thể.... b. Đặc điểm của tín dụng ngắn hạn. Vốn tín dụng gắn liền với quá trình luân chuyển vốn của khách hàng. Xét về bản chất, tín dụng chính là quá trình chuyển dịch vốn dưới hình thức tiền tệ hay hiện vật của một tổ chức cá nhân này cho một tổ chức hay cá nhân khác sử dụng trong một thời gian nhất định trên nguyên tắc phải trả. Trong tín dụng ngắn hạn, các ngân hàng thương mại thường cho vay khi khách hàng phát sinh nhu cầu vốn để mua vật tư, nguyên liệu, hoặc trang trải các chi phí trong quá trính sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm hàng hoá, đồng thời khi hàng hoá được tiêu thụ, khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ tiến hành thu hồi nợ. Xuất phát từ đặc điểm này mà các ngân hàng thường quy định cơ sở để xác định thời hạn cho vay, đó là phải căn cứ vào chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay. Thời gian thu hồi vốn nhanh: Tín dụng ngắn hạn của NHTM chủ yếu đáp ứng những nhu cầu vốn lưu động tàm thời thiếu hụt trong quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Khi kết thúc chu kỳ sản xuất kinh doanh, vốn được giải phóng ra dưới hình thái tiền tệ thì khách hàng phải hoàn trả vốn vay cho ngân hàng. Trên thực tế, thời gian của một vòng luân chuyển vốn lưu động thường rất nhanh, điều đó dẫn đến thời hạn cho vay vốn ngắn hạn của các ngân hàng thương mại cũng ngắn tương ứng. Hình thức tín dụng rất phong phú: Để đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của khách hàng, để góp phần phân tán rủi ro, đồng thời để tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường tín dụng, các ngân hàng thương mại không ngừng phát triển các hình thức cho vay trong nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của mình, điều đó làm cho các hình thức tín dụng ngắn hạn phong phú như: nghiệp vụ ứng trước, nghiệp vụ thầu chi, nghiệp vụ chiết khấu, nghiệp vụ thể tín dụng.. Là nghiệp vụ tín dụng chủ yếu của ngân hàng thương mại. Xuất phát từ đặc trưng của ngân hàng thương mại là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, mà trong đó chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn, nên để đảm bảo khả năng thanh khoản của mình, các ngân hàng thương mại đã cho vay chủ yếu là ngắn hạn. 2.2. Phân loại tín dụng ngắn hạn. a. Chiết khấu thương phiếu. Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại, trong đó khách hàng chuyển nhượng quyến sở hữu những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng thương mại để nhận lấy một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức và hoa hồng phí. b. Nghiệp vụ tín dụng ngân quỹ. Tín dụng ngân quỹ là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn mà trong đó ngân hàng cho khách hàng vay để đảm bảo sự cân đối ngân quỹ hàng ngày của khách hàng và được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là ứng trước trên tài khoản hoặc thấu chi. c. Tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký là hình thức ngân hàng đứng ra cam kết với các chủ nợ trong khuôn khổ một hợp đồng bảo lãnh là sẽ thi hành nghĩa vụ tín dụng mà một người khác là người mắc nợ chính không thực hiện được hợp đồng tín dụng. Với một cách khác, khi tín nhiệm một khách hàng nào đó, ngân hàng cấp cho người này chữ ký của ngân hàng để họ vay tiền nơi khác hoặc xin hưởng một kỳ hạn trong việc trả tiền. d. Tín dụng có đảm bảo. Tín dụng có đảm bảo là hình thức cấp tín dụng có tài sản đảm bảo trực tiếp hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. 2.3. Vai trò của tín dụng ngắn hạn. Tín dụng ngắn hạn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế đối với hoạt động ngân hàng cũng như đối với doanh nghiệp. Trong hoạt động của doanh nghiệp, nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, tìm nguồn vốn lưu động để bổ sung sự thiếu hụt vốn lưu động luôn được doanh nghiệp quan tâm đúng mức, nhu cầu chi tiêu, tiêu dùng cá nhân cũng ngày càng được quan tâm hơn đối với cá nhân... chỉ có tín dụng ngắn hạn mới đáp ứng được các nhu cầu này của khách hàng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.. Đối với ngân hàng, đây là nghiệp vụ chủ yếu của mình, nên tín dụng ngắn hạn đã khẳng định vị trí rất quan trọng của mình với tư cách là một bộ phận của nghiệp vụ cho vay, đem lại nguồn lợi tương đối ổn định cho ngân hàng thương mại... 2.4. Quy trình tín dụng ngắn hạn. Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng. Trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cho đến khi chấm dứt quan hệ tín dụng. Đây là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn mang tính chất liên hoàn, theo một trật tự nhất định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau. Quy trình cấp tín dụng có thể được chia thành những giai đoạn sau: Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, thẩm định (hay là phân tích tín dụng), quyết định tín dụng, giải ngân, giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng. Quy trình tín dụng tổng quát Các giai đoạn của quy trình Nguồn và nơi cung cấp thông tin Nhiệm vụ cuả ngân hàng ở mỗi giai đoạn Kết quả sau khi kết thúc một giai đoạn 1. Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng Khách hàng đi vay cung cấp Tiếp xúc, phổ biến và hướng dẫn lập hồ sơ cho khách hàng Hoàn thành bộ hồ sơ để chuyển sang bộ hồ sơ phân tích 2. Phân tích tín dụng Hồ sơ đề nghị vay từ giai đoạn 1 chuyển sang Các thông tin bổ sung từ phỏng vấn, hồ sơ lưu trữ.. Tổ chức thẩm định về các mặt tài chính và phi tài chính do các cá nhân hoặc bộ phận thẩm định thực hiện Báo cáo kết quả thẩm định bộ phận có thẩm quyền quyết định cho vay 3. Quyết định tín dụng Các tài liệu và thông tin từ giai đoạn 2 chuyển sang và báo cáo kết quả thẩm định Quyết định cho vay hoặc từ chối của cá nhân hoặc bộ phận được giao quyền phán quyết Quyết định cho vay hoặc từ chối Tiến hành các thủ tục pháp lý như ký hợp đồng tín dụng, các hợp đồng khác,.. 4. Giải ngân Quyết định cho vay và hợp đồng liên quan Các chứng từ làm cơ sở giải ngân Thẩm định các chứng từ theo điều kiện của hợp đồng tín dụng Chuyển tiền vào tài khoản tiền gửi của khách hàng hoặc chuyển trả cho đơn vị cung cấp 5. Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng. Các thông tin từ nội bộ ngân hàng Các báo cáo tài chính theo định kỳ Các thông tin khác Phân tích hoạt động tài khoản, các báo cáo tài chính, kiểm tra cơ sở của khách hàng Thu nợ Tái xét và xếp hạng Thanh lý tín dụng Báo cáo kết quả giám sát và đưa ra các biện pháp xử lý Lập các thủ tục thanh lý tín dụng 2.5. Ưu, nhược điểm của tín dụng ngắn hạn. Nghiệp vụ tín dụng ngắn hạng là một hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại, có thời gian thu hồi vốn nhanh, vì tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại chủ yếu để đáp ứng những nhu cầu vốn lưu động tạm thời thiếu hụt trong quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Hình thức tín dụng ngắn hạn hết sức phong phú để đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của khách hàng, góp phần phân tán rủi ro, đồng thời tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường... Nhưng khách hàng muốn nhận được tín dụng ngắn hạn nói riêng và tín dụng nói chung thì phải thoả mãn các điều kiện cho vay của ngân hàng thương mại. Các tiêu chuẩn đưa ra của các ngân hàng ngày càng chặt chẽ hơn mặc dù đã có nhiều biện pháp nhằm giảm bớt những phức tạp trong các khâu cho vay, nhưng để giảm thiểu rủi ro thì các ngân hàng luôn phải kiểm tra, giám sát và đưa ra những tiêu chuẩn nhất định... II. HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN - HÌNH THỨC PHÁP LÝ CỦA QUAN HỆ TÍN DỤNG NGẮN HẠN. 1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngắn hạn. 1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng ngắn hạn. Trong khoa học pháp lý, hợp đồng được hiểu là sự thoả thuận giữa hai hay nhiều bên về một vấn đề nhất định trong sinh hoạt xã hội nhằm là phát sinh (thay đổi, chấm dứt) quyền và nghĩa vụ giữa các bên đó. Quan hệ tín dụng là một quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá tiền tệ, giữa ngân hàng và một chủ thể khác như cá nhân, doanh nghiệp, có đối tượng là tiền tệ dựa trên nguyên tắc hoàn trả và có sự tín nhiệm giữa các bên. Như trên đã phân tích, tín dụng ngắn hạn có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế, ngân hàng cho vay và đặc biệt là các doanh nghiệp. Các cá nhân có đủ điều kiện đều có thể được cấp tín dụng ngắn hạn. Trong bài viết này, chúng ta nghiên cứu mối quan hệ tín dụng ngắn hạn giữa bên cho vay là các ngân hàng thương mại với bên đi vay là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Từ các khái niệm chung về hợp đồng, bản chất của quan hệ tín dụng, ta có thể định nghĩa về hợp đồng tín dụng ngắn hạn như sau: Hợp đồng tín dụng ngắn hạn là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với các tổ chức, doanh nghiệp đủ những điều kiện theo luật định (bên vay), theo đó bên cho vay ứng trước một số tiền vay cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất định (dưới 1 năm) dựa trên sự tín nhiệm lẫn nhau với điều kiện bên đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. 1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngắn hạn. Về nội dung: Hợp đồng tín dụng ngắn hạn được ký kết nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc ngân hàng thương mại cấp tín dụng một khoản tiền vay có thời gian dưới một năm. Về chủ thể: Hợp đồng tín dụng ngắn hạn có một chủ thể bắt buộc là các ngân hàng thương mại, chủ thể còn lại là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Về hình thức: Hợp đồng tín dụng ngắn hạn phải được ký kết bằng văn bản. Đó là bản hợp đồng có chữ ký của các bên trao đổi và thoả thuận. Đặc điểm này xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động tín dụng ngắn hạn. Hợp đồng tín dụng là căn cứ pháp lý quan trọng nhất để bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán, đồng thời tạo điều kiện giải quyết trang chấp một cách hiệu quả nhất. Ngoài ra hợp đồng tín dụng ngắn hạn có một số đặc điểm khác như: Có thời gian hoàn trả ngắn, dưới 1 năm. Thông thường hợp đồng tín dụng ngắn hạn có giá trị tiền vay nhỏ, nhưng tuỳ vào mục đích vay vốn của khách hàng trong hoạt động kinh doanh mà có thể có giá trị vay lớn. Hợp đồng tín dụng ngắn hạn có tính rủi ro thấp. 2. Cơ sở pháp lý của hợp đồng tín dụng ngắn hạn. Sự ra đời của hợp đồng gắn liền với sự ra đời của nền sản xuấ hàng hoá. Do đó nhu cầu trao đổi sản phẩm hàng hoá mà người ta phải thoả thuận với nhau về sự trao đổi đó. Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì hợp đồng càng đan dạng và phong phú. Hợp đồng có rất nhiều loại như hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại... Để đáp ứng nhu cầu khách quan của việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường, Hội đồng nhà nước (nay là Uỷ ban thường vụ Quốc hội) đã ban hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25-9-1989. Theo điều 1 của pháp lệnh :”Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình.” Quan niệm trên đây về hợp đồng kinh tế cho thấy rõ bản chát của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường, đó là hình thức pháp lý của các quan hệ trao đổi sản phẩm hàng hoá, tiền tệ. Mục đích của các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế là để thực hiện hoạt động kinh doanh, hay là các bên ký kết hợp đồng kinh tế nhằm mục đích kinh doanh. Theo điều 2 của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì hợp đồng kinh tế được ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân, pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Theo điều 11 của Pháp lệnh thì hợp đồng kinh tế được ký kết bằng văn bản, tài liệu giao dịch, công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng. Như vậy, hợp đồng kinh tế là hợp đồng được ký kết bằng văn bản, tài liệu giao dịch nhằm mục đích kinh doanh giữa các chủ thể tham gia có chức năng kinh doanh (ít nhất một chủ thể là pháp nhân). Căn cứ vào nội dung cụ thể của các quan hệ kinh tế thì có thể phân chia thành các chủng loại hợp đồng kinh tế sau đây: Hợp đồng mua bán hàng hoá Hợp đồng dịch vụ Hợp đồng xây dựng cơ bản. Hợp đồng gia công, đại lý, môi giới, uỷ thác... Hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng tín dụng ngân hàng. Hợp đồng nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật. Các loại hợp đồng khác. Hợp đồng tín dụng ngắn hạn được ký kết nhằm bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp và cho vay phuc vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân. Như vậy hợp đồng tín dụng ngắn hạn được ký kết nhằm mục đích kinh doanh của ngân hàng cho vay và các doanh nghiệp, có thể là cho tiêu dùng cá nhân. Hợp đồng tín dụng ngắn hạn được ký kết giữa một bên là ngân hàng thương mại, có tư cách pháp nhân, với một bên là cá nhân, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, có hoặc không có tư cách pháp nhân, chó chức năng kinh doanh (trong bài viết này chúng ta nghiên cứu hợp đồng tín dụng ngắn hạn được ký kết giữa ngân hàng cho vay và các doanh nghiệp kinh doanh). Hợp đồng tín dụng ngắn hạn được ký kết bằng văn bản giữa ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp nhằm mục đích cấp tín dụng cho hoạt động kinh doanh, vì vậy hợp đồng tín dụng ngắn hạn là một chủng loại của hợp đồng kinh tế, nó chịu sự điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng kinh tế, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế do Hội đồng Nhà nước ban hành (Uỷ ban thường vụ Quốc hội) ngày 25-09-1989 và các văn bản liên quan. Mặt khác, hợp đồng tín dụng ngắn hạn được ký kết giữa một bên chủ thể bắt buộc là ngân hàng thương mại để thực hiện hoạt động tín dụng ngân hàng. Hoạt động tín dụng ngân hàng là hoạt động kinh doanh đặc thù, kinh doanh đồng vốn, quyền sử dụng các khoản tiền tệ. Hoạt động ngân hàng chịu sự điều chỉnh của Luật về tín dụng ngân hàng, đó là Luật ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 12-12-1997 và các văn bản khác. Hợp đồng tín dụng chịu sự điều chỉnh của cả pháp luật kinh tế nói chung và luật chuyên ngàng ngân hàng tns dụng nói riêng, chính vì vậy mà giữa hai ngành luật đó phải có nguyên tắc áp dụng chung, tránh chồng chéo, mâu thuẫn. Nguyên tắc áp dụng giữa Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Luật về tín dụng ngân hàng: Nếu vấn đề không được đề cập đến trong Luật về tín dụng ngân hàng mà được đề cập trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì áp dụng các quy định trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Nếu vấn đề được quy định trong Luật về tín dụng ngân hàng mà khác với quy định trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì áp dụng quy định trong Luật về tín dụng ngân hàng. III. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ KÝ KẾT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN. 1. Nguyên tắc ký kết. Hợp đồng tín dụng ngắn hạn là một chủng loại của hợp ddoongfkinh tế, việc ký kết hợp đồng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định do pháp luật về hợp đồng kinh tế quy định. Đó là những tư tưởng chỉ đạo được ghi nhận trong Pháp lện Hợp đồng kinh tế. 1.1. Những nguyên tắc chung của hợp đồng kinh tế. a. Nguyên tắc tự nguyện. Hợp đồng tín dụng ngắn hạn là sự thoả thuận của các bên tham gia ký kết, do đó việc ký kết hợp đồng tín dụng phải dựa trên cơ sở tự do ý chí của các bên. Việc bày tỏ ý chí đó là hoàn toàn tự nguyện, là ý muốn thực sự của các bên nhằm mục đích nhất định chứ không phải sự áp đặt, ép buộc của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào. Điều 4 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã quy định:”Ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế”. Quyền tự do hợp đồng bao gồm những nội dung chính sau: Tự do lựa chọn ban hàng, tự do thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng,tự do lựa chọn thời điểm giao kết hợp đồng. Nguyên tắc này thể hiện quyền tự chủ trong ký kết hợp đồng ngắn hạn của ngân hàng thương mại. Điều 15- Luạt các tổ chức tín dụng và Điều 5- Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng quy định quyền tự chủ kinh doanh của các tổ chức tín dụng:”Các tổ chức tín dụng có quyền tự chủ kinh doanh và tự chuỵ trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ kinh doanh của các tổ chức tín dụng.” b. Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia giao dịch tín dụng. Quan hệ hợp đồng kinh tế là quan hệ giữa các chủ thể bình đẳng với nhau. Các chủ thể có quyền và nghĩa vị ngang nhau trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng kinh té luôn luôn tương xứng với nhau, nó được thể hiện ngay trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế. Dù vị trí của các chủ thể hợp đồng có khác nhau nhưng không bên nào phải phục tùng bên nào, một bên không thể áp đặt ý chý chủ quan của mình cho bên kia, hai bên đều có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, một bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm với bên kia. Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng có quan hệ mật thiết với nguyene tắc tự nguyện. Một hợp đồng tín dụng được giao kết giữa ngân hàng thương mại và khách hàng vay mà có bằng chứng rõ ràng về sự thiếu bình đẳng, hạn chế tự do ý chí thì sự vi phạm này sẽ ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng kinh tế, tức là hợp đồng có thể bị vô hiệu. c. Nguyên tắc không trái pháp luật. Các bên tham gia ký kết hợp đồng tín dụng ngắn hạn có quyền tự do thoả thuận các điều khoản của hợp đồng. Pháp luật hợp đồng kinh tế tôn trọng ý chí của các bên. Điều đó không có nghĩa các bên muốn thoả thuận với nhau thế nào cũng được, ý chí của các bên chỉ được tôn trọng nếu ý chí đó phù hợp với pháp luật. Điều này thể hiện sự can thiệp của nhà nước vào quan hệ hợp đồng kinh tế nois chung và hợp đồng tín dụng ngắn hạn nói riêng. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ trật tự, kỷ cương của nhà nước trong hoạt động kinh doanh, bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội. d. Nguyên tắc cùng có lợi. Các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng kinh tế xuất phát từ lợi ích riêng của mình, do đó trong quan hệ hợp đồng kinh tế phải đảm bảo đồng thời lợi ích của các bên. Trong quan hệ hợp đồng tín dụng ngắn hạn, các bên phải biết tôn trọng lợi ích của nhau, không đẻ cho lợi ích của bên kia lấn át lợi ích của bên mình và ngượi lại. Điều này đòi hỏi các bên trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng tín dụng phải cùng nhau bàn bạc để thoả thuận với nhau những điều khoản hợp đồng có lợi nhất cho các bên. Mặt khác, hợp đồng tín dụng ngắn hạn là một loại hợp đồng kinh tế đặc biệt, có đối tượng là tiền tệ, gắn chặt với bản chất của hoạt động tín dụng. Vì vậy, hợp đồng tín dụng ngắn hạn có những nguyên tắc đặc thù cho quan hệ tín dụng ngân hàng. 1.2. Những nguyên tắc đặc thù của hợp đồng tín dụng ngân hàng. a. Nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Nguyên tắc này có nguồn gốc từ bản chất tín dụng, vốn là quan hệ của hợp đồng có điều khoản hoàn trả. Để thực hiện nguyên tắc này luật pháp quy định sự hoàn trả tiền vay phải được các bên thoả thuận thành một điều khoản cụ._. thể và bắt buộc phảo ghi rõ trong hợp đồng. Có như vậy ngân hàng cho vay mới có thể thu hồi nợ mà người đi vay không thể từ chối thực hiện nghĩa vụ hoàn trả như họ đã cam kết trong hợp đồng. Khoản 2- Điều 6 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của thống đốc ngân hàng nhà nước quy định:”Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo: 1. Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; 2. Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.” b. Nguyên tắc cho vay tránh rủi ro, tổn thất: Do tính chất, đặc điểm của tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng ngắn hạn của các tổ chức tín dụng nói riêng thường chứa đựng nhiều rủi ro nên thiết lập nguyên tắc này trong hoạ động tín dụng là hết sức cần thiết. Điều 52,53,78,79 - Luật các tổ chức tín dụng quy định những điều khoản nhằm bảo đảm an toàn trong kinh doanh của tổ chức tín dụng như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, giám sát khách hàng vay..., những biện pháp này làm giảm tỷ lệ rủi ro, tổn thất cho ngân hàng. 2. Chủ thể ký kết và thẩm quyền ký kết. Chủ thể của hợp đồng kinh tế là các bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế. Điều 2- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên sau đây: Pháp nhân với pháp nhân Pháp nhân với cá nhân đăng ký kinh doanh theo quy định cuaw pháp luật. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế còn công nhận một số cá nhân không có đăng ký kinh doanh (tức là không phải chủ thể kinh doanh) cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng kinh tế như người làm công tác khoa học- kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể (Điều 42). Ngoài ra theo điều 43- Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam được ký kết hợp đồng kinh tế với pháp nhân Việt Nam. Trong bài viết này chúng ta xem xét chủ thể của hợp đồng tín dụng ngắn hạn là ngân hàng thương mại và doanh nghiệp đi vay thuộc mọi thành phần kinh tế. 2.1. Bên cho vay_ ngân hàng thương mại. Theo khoản 1 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng thì:”Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật TCTD và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.” Tổ chức tín dụng bao gồm hai loại: Tổ chức tín dụng ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các dân tộc động kinh doanh có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không là dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thang toán. Ở nước ta, những tổ chức tín dụng là hoạt động ngân hàng và tín dụng có rất nhiều bao gồm các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng.. nhưng nhiều nhất và có phạm vi rộng nhất là các ngân hàng thương mại. Theo khoản 2 Điều 1_ Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại thì:”Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế của nhà nước.” NHTM trong Nghị định này bao gồm ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần của nhà nước và nhân dân. Ngoài ra còn có các ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài. NHTM là một tổ chức có tư cách pháp nhân thoả mãn các điều kiện: Được ngân hàng nhà nước thành lập hoặc cho phép thành lập. Có tài sản riêng thuộc sở hữu nhà nước hoặc các hình thức sở hữu khác và tự chịu trách nhiệm trong phàm vi tài sản đó. NHTM có quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. NHTM có quền tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật và tự chịu trách nhiệm về những mối quan hệ đó. NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Như vậy NHTM là chủ thể bắt buộc của hợp đồng tín dụng ngắn hạn. 2.2. Khách hàng vay. Khoản 1- Điều 50- Luật các tổ chức tín dụng quy định:”Tổ chức tín dụng cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.” Như vậy, khách hàng của các tổ chức tín dụng là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn. Khoản 2- Điều 2- Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành quy chế cho vay của ổ chức tín dụng đối với khách hàng quy định: Khách hàng vay tại tổ chức tín dụng: a) Các pháp nhân và cá nhân Việt Nam gồm: - Các pháp nhân là: Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác có đủ các điều kiện quy định tại Điều 94 Bộ Luật Dân sự; - Cá nhân; - Hộ gia đình; - Tổ hợp tác; - Doanh nghiệp tư nhân; - Công ty hợp doanh. b) Các pháp nhân và cá nhân nước ngoài. Như vậy, chủ thể thứ hai trong quan hệ hợp đồng tín dụng ngắn hạn đã được xác định. Ta thấy ngoài các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân thoả mãn yếu tố của chủ thể trong quan hệ hợp đồng kinh tế một bên thì các doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh cũng có thể là chủ thể của hợp đồng tín dụng ngắn hạn. Đối với các chủ thể vay là các nhân, chúng ta hiểu là cá nhân có đăng ký kinh doanh, tức là những người kinh doanh cá thể có địa điểm kinh doanh cố định, có thực hiện các nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Ngoài ra, hộ gia đình, tổ hợp tác cũng có thể là chủ thể của hợp đồng tín dụng ngắn hạn. Điều 42- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định các nhân không có đăng ký kinh doanh vẫn có thể là chủ thể của hợp đồng kinh tế như: Người làm công tác khoa học- kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể. Cá nhân, tổ chức đủ điều kiện đều có thể được cấp tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên, với mục đích là phục vụ cho nhu cầu bổ xung nguồn vốn lưu động tạm thời thiếu hụt nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh nên chủ thể đi vay có thể là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Ngân hàng thương mại xem xét và quyết định cho vay khi doanh nghiệp có đủ các điều kiện sau: Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi và có hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật. Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vau theo quy định của Chính phủ và văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Một số vấn đề liên quan đến chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng ngắn hạn là đại diện ký kết hợp đồng tín dụng ngắn hạn. Theo Điều 9- Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và Điều 5- Nghị định số 17-HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ) quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì người ký kết hợp đồng kinh tế phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh. đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên trong đăng ký kinh doanh có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người khác thay mình ký kết hợp đồng. Như vậy, người có thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế cho pháp nhân là đại diện thơ pháp luật cuat pháp nhân hoặc đại diện theo sự uỷ quyền. 3. Thủ tục, trình tự ký kết. Theo pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì hợp đồng kinh tế được ký kết bằng phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Phương thức trực tiếp: Người đại diện có thẩm quyền của các bên trực tiếp gặp nhau bàn bạc, thương lượng, thống nhất ý chí về xác định nội dung của hợp đồng kinh tế và cùng ký tên vào văn bản hợp đồng. Phương thức gián tiếp: Các bên gửi cho nhau các tài liệu giao dịch (công văn, điện báo, đơn đặt hàng) trong đó có nội dung công việc cần giao dịch. Trình tự ký kết bao gồm: Đề nghị lập hợp đồng và tiếp nhận đề nghị. Dựa vào bản chất của quan hệ tín dụng ngắn hạn thì hợp đồng tín dụng ngắn hạn được ký kết theo phương thức trực tiếp và tuân thủ theo quy trình nhất định bao gồm các bước sau: 3.1. Đề nghị giao kết Hợp đồng tín dụng ngắn hạn. khi có nhu cầy vay vốn, các doanh nghiệp gửi cho ngân hàng cho vay các tài liệu: Giấy đề nghị vay vốn, các tài liệu chứng minh tư cách pháp lý, khả năng tài chính, bảo đảm tín dụng, dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các tài liệu này được bên vay gửi cho ngân hàng xem xét, thẩm định để quyết định cho vay và được coi là một bằng chứng đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng ngắn hạn. Xét về mặt kinh tế, mặc dù quan hệ tín dụng chưa hình thành nhưng đây là giai đoạn chuẩn bị những điều kiện cần thiết để hợp đồng tín dụng được thiết lập một cách lạnh mạnh. Về mặt thủ tục hành chính, đay là giai đoạn hình thành đày đủ các giấy tờ, văn bản chứng tỏ khách hàng thực sự có nhu cầu về vốn tín dụng, cũng như chững minh được tính hợp pháp về nhân thân khách hàng và tính tự nguyện xin cấp tín dụng của khách hàng. Hiện nay, để tăng cường khả năng cạnh tranh và thu hút khách hàng trong hệ thống ngân hàng thương mại, các ngân hàng đẩy mạnh việc tìm kiếm khách hàng và đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp này, ngân hàng phổ biến chính sách tín dụng và quảng cáo các sản phẩm của mình và gửi cho các doanh nghiệp có khả năng tài chính, có dự án khả thi mà ngân hàng muốn lựa chọn làm đối tác. 3.2. Thẩm định hồ sơ tín dụng. Sau khi tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp tín dụng của khách hàng, ngân hàng phải tiến hành thẩm định hồ sơ tín dụng nhằm phân tích khả năng hiện tại và tiềm năng của khách hàng về sử dụng vốn tín dụng, cũng như khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng. Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng và tiên lượng khả năng kiểm soát của ngân hàng về các loại rủi ro đó, cũng như dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra. Mặt khác, phân tích tín dụng giúp cho ngân hàng kiểm tra tính chính xác của các thông tin do khách hàng cung cấp từ đó có nhận định đúng về thái độ của khách hàng và quyết định cho vay hay không. a. Thẩm định khách hàng vay vốn. Năng lực pháp lý của khách hàng vay vốn. Đối với pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh thì hồ sơ pháp lý sẽ chứng minh cho ngân hàng biết về năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của chủ thể vay. Hồ sơ bao gồm: Quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước (20/4/95), Luật hợp tác xã (20/3/96), Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (12/11/96), Luật khuyến khích đầu tư trong nước (3/5/98), Luật doanh nghiệp (12/6/99). Điều lệ doanh nghiệp. Biên bản góp vốn, danh sách thanhg viên sáng lập (đối với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn). Quyết định bổ nhiệm Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng. Giấy phép hành nghề.. Giấy phép đầu tư (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Hợp đồng liên doanh, điều lệ liên doanh, biên bản họp HĐQT phân công lãnh đạo, nghị quyết HĐQT về việc vay vốn (nếu là công ty liên doanh). Quyết định giao vốn và các văn bản gàn giao tài sản của cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp (doanh nghiệp nhà nước). Tính cách và uy tín của người vay vốn. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng mà ngân hàng cần phải đánh giá. Phần lớn các thông tin về khách hàng đều được ngân hàng thu thập đầy đủ. Đối với một khách hàng cũ, những giao dịch trước đó của ngân hàng sẽ đưa lại cho họ những thông tin về tính trung thực của các nguồn tài chính và năng lực của khách hàng, thông tin về tính nghiêm túc trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, tính ổn định trong sản xuất kinh doanh. Đối với khách hàng mới, phần nhiều phụ thuộc vào sự giới thiệu của chính bản thân khách hàng, vào các doanh nghiệp có quan hệ với khách hàng đó, vào thông báo thực trạng từ phía ngân hàng khác đã có quan hệ với khách hàng đó. Do vậy, để giảm rủi ro trong quá trình hoạt động, ngân hàng cần đánh giá uy tín của khách hàng qua những thước đo như: Thị phần, chấp nhận sản phẩm, giá cả hàng hoá, các mối quan hệ kinh tế của khách hàng.. Lịch sử hình thành và phát triển. Thông qua lịch sử, các giai đoạn phát triển, quy mô vốn, tài sản, cán bộ tín dụng có thể thấy được phần nào tiềm lực của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp lâu đời với quy mô lớn và tài sản đáng kể thường có thị trường rộng rãi, khả năng cạnh tranh tốt. Thẩm định khả năng tài chính của khách hàng vay. Thông qua các số liệu cụ thể về tình hình sản xuất như: Tổng sản lượng, doanh thu bán hàng, lợi nhuận trước và sau thuế....có thể đánh giá khả năng sinh lãi, hiệu quả tổng hợp của hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực của người quản lý cũng như năng suất lao động mà doanh nghiệp đạt được. Những hệ số này giảm mạnh thể hiện sự xuống dốc trong hoạt động hay quản lý tài chính. Bên cạnh đó, các hệ số tài chính như tài sản nợ, tài sản có, vốn tự có, hệ số tài trợ và vốn góp liên doanh cho thấy những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn tài trợ chủ yếu cũng như mức độ ổn định, tự chủ tài chính và khả năng sử dụng các đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp. Cuối cùng là cá chỉ tiêu kinh tế, phản ánh tình hình thanh toán: Tỷ lệ thanh toán nhanh, vòng quay vốn lưu động, tỷ suất lợi nhuận... Khả năng tài chính là cơ sở quan trọng để ngân hàng xác định có cho vay hay không cho vay và quy mô của nhu cầu vay hợp lý. Đánh giá yếu tố tổ chức và quản lý. Cần phải nhấn mạnh rằng sự thạnh bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng tổ chức, quản lý của doanh nghiệp, chỉ một chính sách không phù hợp có thể dẫn doanh nghiệp đến phá sản, do vậy ngân hàng cần xem xét tới yếu tố tổ chức và quản lý của doanh nghiệp để giảm thiểu rủi ro của mình. Đánh giá về năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng cần xem xét đến chính sách kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn, hệ thống phân phối, chính sách marketing của doanh nghiệp từ đó có thể thấy triển vọng của khách hàng, đặc biệt vị trí trên thương trường, xu hướng phát triển ngành/ vùng và các chiến lược phát triển trong tương lai của khách hàng. b. Thẩm định dự án đầu tư. Thẩm định cơ sở pháp lý của dự án. Trước khi tiến hành thẩm định dự án, ngân hàng cần tập hợp đầy đủ hồ sơ có liên quan để khẳng định cơ sở pháp lý của dự án và là căn cứ để phân tích thẩm định dự án. Trên có sở đó, cán bộ tín dụng đánh giá nhận xét sự phù hợp của dự án đối với đường lối, chủ trương chính sách của nhà nước. Hồ sơ bao gồm: Luận chứng kinh tế kỹ thuật (báo cáo nghiên cứu khả thi) của dự án. Quyết định phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật của cấp có thẩm quyền theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 và Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP. Giấy phép đầu tư dự án do Bộ kế hoạch và đầu tư, UBND thành phố hoặc ban quản lý khu công nghiệp cấp. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê đất. Giấy phép xây dựng. Giấy phép xuất nhập khẩu của Bộ thương mại. Các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện dự án như kết quả thăm dò địa chất, môi trường, tài nguyên, giấy phép sử dụng tài nguyên, khai thác khoáng sản do nhà nước quản lý. Hợp đồng mua bán máy móc thiết bị trong nước. Hợp đồng nhập khẩu, hợp đồng vay vốn nước ngoài. Hợp đồng uỷ thác nhập khẩu (nếu doanh nghiệp không trực tiếp nhập khẩu). Hợp đồng xây láp. Hợp đồng bảo hiểm. Phê duyệt tổng dự toán của cấp có thẩm quyền Phê duyệt kết quả đầu thầu, chỉ định thầu theo quy định của quy chế quản lý và đầu tư, quy chế đấu thầu... Trong từng dự án cụ thể mà hồ sơ thẩm định cơ sở pháp lý của dự án có lượng văn bản khác nhau. Sự cần thiết của dự án. Bằng cách đối chiếu với mục tiêu của ngành, địa phương và cả nước kết hợp với vai trò của dự án trong việc duy trì, phát triển doanh nghiệp, cán bộ tín dụng đánh giá tầm quan trọng, sự cần thiết của dự án với bản thân doanh nghiệp, người lao động, nền kinh tế tại địa phương. Thẩm định phương diện thị trường. Các nội dung cần thẩm định về phương diện thị trường bao goomf: Quan hệ cung cầu của sản phẩm, đối tượng, phương thức tiêu thụ sản phẩm, tình hình cạnh tranh trên thị trường, cụ thể là các thông tin về: Thị trường trong và ngoài nước, khách hàng chủ yếu, phương thức tiêu thụ: bán buôn, bán lẻ, đại lý, bán chịu hay thanh toán ngay; Thế mạnh của sản phẩm được tạo ra; tình hình cạnh tranh hiện tại, khả năng cạnh tranh trong tương lai, biện pháp tăng cường sức cạnh tranh cho sản phẩm từ đó dự kiến khối lượng sản phẩm tiêu thụ được và vòng đời sản phẩm. Các thông tin về sản phẩm thu được khi thẩm định phương diện thị trường được đem đối chiếu với công suất dự kiến, chỉ số kỹ thuật sản phẩm, tính tiên tiến của công nghệ, phương thức chuyển giao công nghệ, đồng thời chúng cùng được đưa ra xem xét trong mối tương quan với các yếu tố đầu vào như số lượng, chất lượng, nguồn gốc cung cấp (nguồn sẵn có trong nước hay nhập khẩu), yêu cầu về nguồn nhân lực (lao động phổ thông hay lao động có kỹ thuật đã qua đào tạo), các yêu cầu về môi trường, địa điểm xây dựng dự án so với khu dân cư, mô hình sản xuất, tổ chức quản lý, cơ chế điều hành dự án. Thẩm định phương diện kỹ thuật. Đây là khâu mà các ngân hàng thường bị hạn chế do không có chuyên môn sâu về từng lĩnh vực khoa học cụ thể, nhưng đây lại là khâu có ảnh hưởng đến quá trình thực hiện dự án và là cơ sở cho việc phân tichs tài chính dự án. vì vậy cán bộ tín dụng nên tìm hiểu sơ bộ về công nghệ rồi sau đó tiến hành thẩm định trên các nội dung sau: Quy mô dự án: Sản phẩm (cơ cấu, quy cách, phẩm chất, mẫu mã)., công nghệ dự kiến. Công nghệ và trang thiết bị: Sơ đồ quy trình công nghệ, phương thức chuyển giao công nghệ, giá cả, phương thức thanh toán. Nguyên nhiên vật liệu và các yếu tố đầu vào khác. Các điều kiện về nhân lực, có sở hạn tầng, môi trường. Thẩm định phương diện kinh tế, tài chính. Công việc này chủ yếu được thực hiện thông qua các chỉ tiêu kinh tế sau: Dự toán và nguồn vốn đầu tư: Tổng dự toán đầu tư nếu có chênh lệch phải giải dh cụ thể (do tỷ giá hối đoái thay đổi, tính lại lãi suất các khoản vay thực tế đã được cam kết so với dự tính ban đầu khi phê duyệt dự án). Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn: Tỷ suất sinh lời, điểm hoà vốn, giá trịn hiện tại ròng (NPV), tỷ suất nội hoàn (IRR), thời gian hoàn vốn, đọ nhaỵ cảm của dự án khi có thay đổi giá bán, chi phí, sản lượng. Thông thường một dự án có hiệu quả về phương diện kinh tế tài chính có IRR lớn hơn lãi suất vay, NPV dương. Thẩm định phương diện tổ chức và quản lý. Thẩm định về mặt kinh tế, xã hội. Phương án cho vay và thu hồi nợ. c. Thẩm định biện pháp bảo đảm tiển vay. Bảo đảm tiền vay là một biện pháp cần thiết nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Trong lĩnh vực hợp đồng kinh tế tín dụng ngắn hạn, chúng ta xét đến ba biện pháp bảo đảm chính là thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Trong khâu này, cán bộ tín dụng thẩm định biện pháp bảo đảm tiền vay trên các nội dung sau: Hình thức bảo đảm tiền vay (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) Các điều kiện đảm bảo tiền vay theo cơ chế hiện hàng. Giá trị của đảm bảo tiền vay. Các vấn đề khác: số tiền vay, xử lý tài sản bảo đảm. Một vấn đề rất quan trọng là trách nhiệm của cán bộ tín dụng, lãnh đạo phòng tín dụng và ngân hàng trong khâu thẩm định. Cán bộ tín dụng chủ động tìm kiếm khách hàng vay vốn, thẩm định khách hàng, lập tờ trình thẩm định và chịu trách nhiệm về các kết quả phân tích, thẩm định trên tờ trình. Những cán bộ thẩm định phải bảo đảm tính độc lập, khách quan, chịu trách nhiệm về nội dung thẩm định và ý kiến đề xuất của mình. Lãnh đạo phòng tín dụng thẩm định lại toàn bộ hồ sơ vay vốn, tờ trình của cán bộ tín dụng hoặc tờ trình thẩm định do phòng thẩm định chuyển sang, ghi rõ ý kiến của mình trên tờ trình thẩm định và chịu trách nhiệm về việc tái thẩm định. 3.3 Quyết định cho vay. Nếu sau khi thẩm định tất cả các khâu mà ngân hàng thấy dự án đàu tư không khả thi hoặc khách hàng không đủ năng lực thì ngân hàng có quyền từ chối và thông báo cho khách hàng bằng văn bản cùng với lý do từ chối cho vay. Ngược lại, sau khi thẩm định hồ sơ tín dụng của khách hàng, ngân hàng chấp nhận cho vay và ra quyết định cho vay. Ngân hàng cho vay xét duyệt cho vay theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Giám đốc ngân hàng cho vay hoặc người được giám đốc uỷ quyền chịu trách nhiềm về việc cho vay hay không cho vay của mình. Những trường hợp thuộc đói tượng phải đưa ra Hội đồng tín dụng thì Hội đồng tín dụng phải chịu trách nhiềm về quyết đình cho vay hay không cho vay của Hội đồng tín dụng. 3.4. Đàm phán các điều khoản của hợp đồng. Sau khi quyết định cho vay, ngân hàng cho vay và khách hàng vay phải thoả thuận các điều khoản chủ yếu của hợp đồng tín dụng ngắn hạn, hợp đồng bảo hiểm tiền... Khi đó hợp đồng được coi là ký kết. 4. Hình thức của hợp đồng ngắn hạn. Theo điều 11- Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế quy định:”Hợp đồng kinh tế được ký kết bằng văn bản, tài liệu giao dịch (công văn, điện báo, đơn đặt hàng..)...’’. Hợp đồng kinh tế được ký kết bằng văn bản vì giá trị của hợp đồng kinh tế thường lớn, liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh đồng thời liên quan đến kế hoạch nhà nước. Xuất phát từ bản chất của quan hệ tín dụng ngắn hạn mà điều 51- Luật các tổ chức tín dụng quy định :”Việc cho vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng...”. Nó là căn cứ quan trọng để xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên, nâng cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ hợp đồng, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm nếu có. Hợp đồng tín dụng ngắn hạn là căn cứ quan trọng để cấp tín dụng, thực hiện mục đích của các bên khi ký kết hợp đồng. 5. Nội dung của hợp đồng tín dụng ngắn hạn. Nội dung của hợp đồng kinh tế trước hết là những điều khoản do các bên thoả thuận. Các điều khoản của hợp đồng được chia thành 3 loại: Điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tuỳ nghi. Khoản 2- Điều 12 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định những điều khoản sau đây là điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế: a) Ngày, tháng, năm ký hợp đồng kinh tế; tên, địa chỉ, số tài khoản và ngân hàng giao dịch của các bên, họ, tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh; b) Đối tượng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá trị quy ước đã thoả thuận; c) Chất lượng, chủng loại, quy sách, tính đồng bộ của sản phẩm, hàng hoá hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc; d) Giá cả; Nội dung của hợp đồng tín dụng ngắn hạn do Luật các tổ chức tín dụng quy định, Điều 51 nêu rõ”Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận.” Ngoài ra hợp đồng tín dụng còn có phuc lục hợp đồng tín dụng. Mọi thay đổi của hợp đồng tín dụng đã được ký kết đều được thể hiên bằng phụ lục hợp đồng. IV. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN. 1. Nguyên tắc thực hiện. 1.1. Nguyên tắc chấp hành hiện thực. Nguyên tắc này đòi hỏi các bên thực hiện đúng điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng. Không được thay thế đối tượng mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng bằng một đối tượng khác. Có thực hiện đúng điều khoản này, các bên mới đạt được mục đích của hợp đồng kinh tếm nằm đáp ứng yêu cầu kinh doanh. Đối với hợp đồng tín dụng ngắn hạn nguyên tắc này đòi hỏi ngân hàng cho vay phải cấp tín dụng cho khách hàng vay theo đúng hợp đồng. 1.2. Nguyên tắc chấp hành đúng. Nguyên tắc chấp hành đúng đòi hỏi các bên phải thực hiện đúng và đầy đủ tất cả các điều khoản đã vam kết trong hợp đồng, tức là tát cả các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng đều phải thực hiện đầy đủ. Nguyên tắc này thể hiện ngân hàng cho vay phải cung ứng vốn vay theo đúng thoả thuận, còn khách hàng vay phải sử dụng tiền vay đúng mục đích,trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn, thực hiện đúng các nội dung khác đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. 1.3. Nguyên tắc sử dụng vốn vay đúng mục đích. Nguyên tắc này đặc biệt quan trọng trong tín dụng ngắn hạn vì ngân hàng cấp tín dụng dựa trên những đánh giá, thẩm định hồ sơ tín dụng. Vì vậy, ngân hàng phải được đảm bảo khách hàng vay sử dụng vốn vay đúng mục đích, trên cơ sở đó ngân hàng mới thu hồi được nợ gốc và lãi vay. Khoản 1 Điều 6 Quyết đình 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc ngân hàng nhà nước quy định”Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.”Nếu khách hàng vi phạm nguyên tắc này, ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn. 2. Quy trình thực hiện. 2.1. Phát hành tiền vay. Quá trình này nằm cung cấp cho khách hàng vay lượng vốn như đã thoả thuận trong các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng tín dụng. Tuỳ vào phương thức cho vay mà ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng: Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn, khách hàng và ngân hàng thương mại thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Mỗi hợp đồng tín dụng có thể phát tiền vay một hoặc nhiều lần phù hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn của khách hàng. Tiền vay được phát bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản theo mục đích sử dụng tiền vay đã thoả thuận. Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng cho vay và khách hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn nhất định. Khách hàng được rút vốn phù hợp với tiến độ và yêu cấu sử dụng vốn thực tế nhưng phải đảm bảo không vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết. Mỗi lần rút vốn vay, khach hàng phải lập giấy nhận nợ với ngân hàng kèm theo bảng kê các chứng từ sử dụng tiền vay và các giấy tờ có liên quan đến sử dụng tiền vay. Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và phục vụ đời sống. Căn cứ để phát tiền vay bao gồm: Hợp đồng tín dụng, hợp đồng và chứng từ cung ứng vật tư, thiết bị,.. Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc một phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác Cho vay trả góp: Khi vay vốn ngân hàng cho vay và khách hàng xác định thoản thuận số lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Ngân hàng cho vay cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Ngân hàng cho vay và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Ngân hàng cho vay chấp nhận cho khách hàng được sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng. Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà ngân hàng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài kkhoanr thanh toán của khách hàng phù hợp với quy định của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với quy định tại Quy chế và điều kiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng và đặc điểm của khách hàng vay. Ngoài ra, phát tiền vay còn nhằm mục đích quản lý quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro cho ngân hàng. Sau mỗi lần phát tiền vay, hai bên lập một giấy nhận nợ. 2.2. Giám sát khách hàng và theo dõi rủi ro. Ngân hàng cho vay có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình va vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. Ngân hàng cho vay tiến hàng kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vay phù hợp với đặc điểm hoạt động của ngân hàng và đặc điểm kinh doanh, sử dụng vốn vay của khách hàng. Ngân hàng kiểm tra trước khi cho vay về các điều kiện vay vốn, tính pháp lý của hố sơ vay vốn và các nội dung khác để quyết định cho vay. Trong khi cho vay, ngân hàng kiểm tra các chứng từ, tài liệu gửi kèm giấy nhận nợ (nếu có) khi khách hàng rút vốn, bảo đảm mục đích vay phù hợp với hợp đồng tín dụng, giải ngân phù hợp với tiến đọ sử dụng vốn thực tế và hình thức thanh toán của khách hàng. Trường hợp cần thếp ngân hàng phải kiểm tra tình hình thực tế tại đơn vị khách hàng. Sau khi cho vay, ngân hàng kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay, tình hình sản xuất, kinh doanh, tình trạng tài sản bảo đảm tiền vay, nhũng khó khăn, thuận lợi trong việc thu nợ, phát hiện các vi phạm hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay để có biện pháp xử lý. 2.3. Thu hồi nợ. Trong quá trình cho vay ngắn hạn, thu nợ được tiến hành khi toàn bộ công trình hay dự án,.. hoàn thành đưa vào sử dụng hoặc khi có giá trị tài sản cố định hoàn thành đưa vào sử dụng. Khi có thu nhập thì doanh nghiệp mới có khả năng hoàn trả nguồn vốn vay ngân hàng. Như vậy, ngân hàng sẽ phải thu nợ theo kế hoạch trả nợ, kỳ hạn trả nợ phụ thuộc vào sự thoả thuận của hai bên trong hợp đồng. Cán bộ tín dụng và trưởng phòng tín dụng phải xây dựng phương án, biện pháp cụ thể để quản lý, thu hồi nợ vay đối với từng khoản vay hoặc từng hợp đồng tín dụng của khách hàng. Ngoài ra trong mốt số trường hợp ngân hàng tiến hành thu nợ khi: Doanh nghiệp vay vốn có sự thanh lý, bán tài sản ._.p xử lý như đôn đốc khách hàng trả nợ, phối hợp cùng với các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong việc xử lý nợ, xử lý tài sản bảo đảm nên tỷ lệ nợ quá hạn ngày càng giảm và phấn đấu không còn nợ quá hạn. Thận trọng khi triển khai nghiệp vụ mới Áp dụng chính sách lãi suất hợp lý. Ngân hàng đã áp dụng tốt cơ chế lãi suất, lãi suất theo thỏa thuận do Thống đốc NHNN ban hành theo Quyết định 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002. Cơ chế này xoá bỏ dần sự thiếu công bằng trong hoạt động tín dụng, đẩy mạnh nguyên tắc”Thuận mua, vừa bán”giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng trong hoạt động tín dụng thương mại. Cơ chế này đã tạo ra sự chủ động của cả ngân hàng và khách hàng vay vốn, tạo ra hành lang pháp lý tốt hơn, thông thoáng hơn cho việc thực hiện hợp đồng tín dụng. 2. Hạn chế và nguyên nhân. 21. Hạn chế: Chưa chú trọng đúng mức đến doanh nghiệp lớn. Hiện nay có khoảng 20% các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn là doanh nghiệp lớn, trong đó 31% là DNNN. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt là giải quyết công ăn việc làm và sử dụng hiệu quả đồng vốn. Các doanh nghiệp ngày nay cũng đã cố gắng, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước, cũng đã rất cố gắng để làm ăn có lãi, sử dụng hiệu quả đồng vốn đi vay và mang lại nhiều lợi ích hơn. Hiện tại, tại NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam, khách hàng vay là doanh nghiệp vừa và nhỏ có tỷ trọng lớn hơn, phần lớn là cho vay có đảm bảo bằng tài sản. Ngân hàng chủ trương phát huy cho vay cả doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngân hàng không phân biệt doanh nghiệp lớn hay nhỏ mà dựa vào khả năng của các doanh nghiệp trong sử dụng cũng như hoàn trả khoản vay. Tuy nhiên tỷ trọng cho vay doanh nghiệp lớn vẫn còn ở mức thấp, ngân hàng cần quan tâm hơn nữa ở thị trường này. 2.2. Nguyên nhân. NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam là một ngân hàng trẻ so với lịch sử ra đời của ngành ngân hàng cũng như để tạo một ngân hàng tên tuổi. Tuy đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ nhưng ngân hàng còn chưa có nhiều khách hàng truyền thống. Để khắc phục được điều này cần phải có sự nỗ lực rất lớn của toàn thể cán bộ nhân viên trong ngân hàng. Trình độ chuyên môn, năng lực của cán bộ tín dụng còn nhiều bất cập. Trong thẩm định dự án, phương diện kỹ thuật là một nội dung quan trọng. Công tác này đòi hỏi chuyên môn, hiểu biết nhất định về khoa học kỹ thuật. Nhưng phần lớn các cán bộ tín dụng của ngân hàng được đào tạo từ các trường nghiệp vụ ngân hàng, kinh tế nên việc thẩm định sẽ gặp nhiều khó khăn. Việc thuê các tổ chức chuyên nghiệp thẩm định sẽ hạn chế được điều này nhưng sẽ rất tốn kém, chỉ áp dụng với những dự án lớn, có khả năng bù đắp chi phí thuê. Hành lang pháp lý còn nhiều bất cập. Trong quá trình kiểm tra, kiểm soát sau khi cho vay, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi và định giá tài sản để đảm bảo tài sản được duy giá trị cần thiết đảm bảo cho khoản vay và có thể kịp thời yêu cầu khách hàng thay đổi hay bổ sung tài khoản này khi có sự hao mòn. Việc định giá tài sản bảo đảm tiền vay rất phức tạp. Nếu như tài sản là quyền sử dụng đất được sự hướng dẫn của Chính Phủ thì các tài sản khác việc định giá cực kỳ khó khăn. Ngoài ra còn một số vướng mắc như: DNNN được nhà nước giao vốn nhưng không có giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản khi thế chấp vay vốn, vấn đề đăng ký giao dịch ở những nơi chưa có cơ quan công chứng chuyên môn gặp nhiều khó khăn, việc đăng ký giao dịch không thuộc chức năng của xã, quận, huyện phải đăng ký tại trụ sở của tổ chức chuyên trách ở xã rất khó thực hiện, nhiều loại tài sản chưa được thực hiện việc đăng ký tài sản và giấy chứng nhận quyền sở hữu như nhà ở nông thôn, các cơ quan đăng ký và quản lý phân tán ở nhiều nơi do vậy rất khó xác định một cách chắc chắn các giấy tờ hợp pháp về sở hữu tài sản, đất được giao cho tổ chức cá nhân sử dụng nhưng chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc xử lý tài sản bảo đảm gặp nhiều khó khăn. Trước đây, muốn xử lý tài sản bảo đảm là đất, quyền sử dụng đất, ngân hàng phải xin phép chính quyền địa phương, ngân hàng không có được sự hỗ trợ trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm. Việc thực hiện bán tài sản bảo đảm qua trung tâm bán đấu giá thường mất thời gian, một số nơi chưa có Trung tâm bán đấu giá. Việc định giá đát của Toà án khi xét xử cao hơn nhiều so với giá thị trường và ngân hàng chủ nợ không được tham gia vào việc định giá này. Tất cả những bất cập và thiếu đồng bộ này sẽ dẫn đến tranh chấp về việc xử lý tài sản bảo đảm giữa ngân hàng và con nợ. II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 1. Hoàn thiện pháp luật về tín dụng ngắn hạn và hợp đồng tín dụng ngắn hạn. 1.1. Đối với hồ sơ tín dụng và nội dung của hợp đồng tín dụng. Một số vướng mắc trong các văn bản Luật nước ta làm cho cán bộ tín dụng lúng túng trong quá trình thẩm định cũng như ký kết hợp đồng tín dụng tại ngân hàng. a. Về hồ sơ tín dụng. Theo quy định tại Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, Điều 17 Quyết định số 1627/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng quy định một trong những nội dung chính thức của hợp đồng tín dụng là : Hình thức bảo đảm tiền vay, giá trị tài sản bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm. Nhưng tại khoản 6- Mục 2- Chương 2- Thông tư số 06/2000/TT- NHNN quy định rõ hợp đồng bảo đảm tài sản phải được lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng tín dụng. Điều này cho thấy việc ký kết hợp đồng bảo đảm tiền vay là không cần thiết, ngân hàng có thể ghi luôn vào hợp đồng tín dụng. Việc này có tác dụng rất lớn trong việc rút ngắn thời gian không cần thiết của hai bên để đi đến ký kết hợp đồng tín dụng ngắn hạn được nhanh hơn. Đây cũng là cơ sở để tinh gọn bộ hồ sơ cho vay của khách hàng nhưng vẫn bảo đảm đầy đủ căn cứ pháp lý. b. Nội dung của hợp đồng tín dụng ngắn hạn. Điều 17- Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN quy định”Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dụng về điều kiện vay, mục đich sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận”. Vậy những cam kết khác là cam kết gì mà lại là nội dung chủ yếu trong hợp đồng tín dụng. Mặc dù về nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ của chủ thể phát sinh sau khi hợp đồng được ký kết nhưng cần lưu ý một số nghĩa vụ của khách hàng xuất hiện khi khách hàng đã nhận được số tiền quy định. Những nội dung của hợp đồng tín dụng cần được nghi rõ trong phpas luật về tín dụng và ngân hàng ở Việt Nam để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người đi vay. Đây cũng là tiền đề tạo sự ổn định, lành mạnh hoạt động của hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tiếp cận với vốn tín dụng ngân hàng đặc biệt là tín dụng ngắn hạn. 1.2. Đối với bảo đảm tiền vay. a. Quy định về điều kiện của tài sản bảo đảm chưa rõ ràng. Theo quy định hiện hành, tài sản thế chấp, cầm cố phải đáp ứng được hai điều kiện: Được phép giao dịch và không có tranh chấp. Đối với điều kiện “Được phép giao dịch”thì ngân hàng có thể căn cứ vào văn bản của pháp luật để xác định loại tài sản nào được phép giao dịch và được thế chấp, cầm cố. Còn đối với điều kiện ”Tài sản không có tranh chấp”thì hiện nay ngân hàng không biết xác minh như thế nào. Nếu chỉ dựa vào văn bản cam kết của khách hàng thì ngân hàng có thể trở thành bên có liên quan trong trường hợp tài sản có tranh chấp. Thực tế thì chính quyền địa phương được ngân hàng đề nghị xác minh vấn đề này đã không xác nhận và chưa có văn bản hướng dẫn của cơ quan cơ quan cấp trên có thẩm quyền. Vì vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xem xét, có biện pháp thích hợp hỗ trợ ngân hàng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện tại trong quá trình thẩm định, định giá tài sản bảo đảm. b. Trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong việc kiểm tra thực trạng tài sản bảo đảm. Cho đến nay, chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định rõ cán bộ tín dụng có trách nhiệm đi kiểm tra thực tế tài sản bảo đảm trước khi lập tờ trình lên cấp có thẩm quyền đề nhị cho vay vốn. Nhưng theo quy định của hầu hết các NHTM, cán bộ tín dụng phải đi kiểm tra thực tế tài sản thế chấp, cầm cố,bảo lãnh để đánh giá tài sản và xác minh các cam kết của khách hàng vay, bên bảo lãnh. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng thiếu cơ sở rõ ràng để kiểm tra thực trạng tài sản bảo đảm (có lập thành văn bản hay không? Kiểm tra cái gì? ai chứng kiến..). Nếu cán bộ tín dụng không đi kiểm tra mà báo cáo thiếu trung thực thì họ vi phạm quy định nội bộ của ngân hàng chứ không vi phạm pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, trong các văn bản hướng dẫn về bảo đảm tiền vay của Nhà nước cần quy định rõ ”Ngân hàng có quyền cử cán bộ tín dụng đi kiểm tra thực tế tài sản bảo đảm nếu xét thấy cần thiết”, đồng thời quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cán bộ tín dụng, ngân hàng. c. Quy định về xử lý quyền sử dụng đất chưa nhất quán. Tài sản bảo đảm tiền vay là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất chiếm 75 -80% giá trị tài sản bảo đảm tiền vay còn tồn đọng. Các văn bản hướng dẫn hiện hành về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay như Nghị định số 178/1999/NĐ-CP và Thông tư số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 23/4/2001 chỉ quy định các bên được quyền thoả thuận về việc xử lý tài sản bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật về đất đai chứ chưa nêu ra các phương thức xử lý cụ thể đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Xuất phát từ thực tiễn và lý luân trên, ngày 5/10/2001, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 149/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM. Theo quyết định này, về cơ chế xử lý đã”cởi trói”cho ngân hàng trên nhiều mặt. Về cơ chế xử lý: các NHTM, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của NHTM được chủ động xử lý các tài sản bảo đảm nợ vay kể cả tài sản là bất động sản bao gồm đất, tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng theo các hình thức sau: Tự bán công khai trên thị trường Bán qua Trung tâm dịch vụ vf bán đấu giá tài sản Bán cho công ty mua bán nợ của Nhà nước Các NHTM, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản được xử lý tài sản là bất động sản bao gồm cả đất, tài sản gắn liền với đất không còn buộc phải xin phép chính quyền địa phương và không buộc phải uỷ quyền cho Trung tâm bán đấu giá. Cũng theo quyết định cày giá bán các tài sản bảo đảm nợ vay có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị nợ tồn đọng (gốc, lãi). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để NHTM yên tâm khi xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên trong Quyết định 149/2001/QĐ-TTg chưa quy định hình thức bán công khai triên thị trường là như thế nào? Trình tự, thủ tục thực hiện theo quy định nào... vì hình thức bán công khai triên thị trường là một hình thức mới mẻ, khi áp dụng sẽ có nhiều lúng túng, vì vậy ngân hàng Nhà nước cần có hướng dẫn về vấn đề này làm cơ sở pháp lý cho các tổ chức tín dụng thực hiện. d. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm. Theo khoản 2 Điều 16 Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định:”Giao dịch bảo đảm bị vô hiệu không làm ảnh hưởng đến nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp giao dịch bảo đảm là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm.” Giao dịch thực chất là hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh theo đó bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Do vậy, cán bộ tín dụng hiểu rằng nếu các bên đã thoả thuận giao dịch bảo đảm là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ bảo đảm thì giao dịch bảo đảm vô hiệu sẽ dẫn đến hợp đồng tín dụng vô hiệu. Vì vậy, tài sản bảo đảm được trả lại và khách hàng không phải trả lãi cho khoản vay đã sử dụng khi giao dịch bảo đảm vô hiệu. Điều này gây khó khăn cho các ngân hàng bởi vì ngân hàng vẫn phải trả lãi cho khoản vốn huy động từ tổ chức, dân cư. Vì vậy cần quy định lại theo các hướng sau: Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm. Nêu rõ những giao dich bảo đảm nào là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm. Các ngân hàng cần chú ý khi ky kết hợp đồng đó là hợp đồng bảo đảm phải được ký và có hiệu lực trước ngày ký hợp đồng tín dụng. 1.3. Đối với công tác thẩm định. Việc thực hiện đầy đủ các bước, các thủ tục cần thiết giúp ngân hàng có được những thông tin cần thiết về khách hàng và dự án. Bỏ qua hay xem nhẹ một yếu tố nào đó đồng nghĩa với ngân hàng chấp nhận một tỷ lệ rủi ro. Trong công tác thẩm định cần nhấn mạnh yếu tố uy tín khách hàng và khả năng của họ. Đây có thể coi là yếu tố quan trọng nhất, yếu tố bảo đảm tiền vay cần được thẩm định chính xác vì nó nhằm hạn chế rủi ro mất vốn cho ngân hàng. Đối với món vay không có bảo đảm tiền vay, cần ưu tiên khách hàng đã được kiểm toán độc lập, có tín nhiệm với ngân hàng. Đối với các dự án cần tăng cường tính khoa học, giảm sự chủ quan, cảm tính khi quyết định cho vay bằng cách ngân hàng giao cho các cán bộ tín dụng có năng lực, kinh nghiệm cùng nghiên cứu tham khảo và đưa ra các chỉ tiêu đối với các ngành ngân hàng cho vay. Nếu thấy cần thiết có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia. 1.4. Đối với việc thực hiện hợp đồng tín dụng. Quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng cần được quan tâm sâu sá hơn, đặc biệt là quá trình kiểm tra sau khi phát tiền vay để xác định tiền vay có được sử dụng đúng mục đích không, điều kiện về tài sản bảo đảm và các vấn đề phát sinh khi thực hiện dự án nhằm hạn chế, phát hiện rủi ro từ đó có các biện pháp xử lý thích hợp và kịp thời. 2. Một số kiến nghị 2.1. Đối với cơ quan Nhà nước. a. Chính phủ và các cơ Bộ, ngành liên quan. Nhà nước cần tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, hoàn thiện và thống nhất các văn bản pháp luật, chính sách để tạo một cơ sở ổn định và căn cứ pháp lý vững chắc cho qua trình ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng. Môi trường kinh doanh đồng nhất và hành lanh pháp lý vững chắc sẽ giúp quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng khách quan hơn. Sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật về đường lối phát triển kinh tế giữa trung ựơng với địa phương, giữa cơ quan chủ quản và các bộ, ngành giúp cho cán bộ tín dụng không lúng túng trong quá trình thẩm định cũng như quyết định cho vay. Nhà nước cần có các chính sách bảo vệ sản xuất trong nước, quản lý thị trường, đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp..... Chính phủ và các Bộ, ngành tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các chợ bán đầu giá, chợ buôn bán bất động sản và ban hành các quy định về tỷ suất vốn đầu tư, định mức tiêu hao nguyên vật liệu trong các ngành, lĩnh vực cụ thể để tạo điều kiện cho các cán bộ tín dụng thuậ lợi trong việc thẩm định mức vốn đầu tư và daonh thu, chi phí sản xuất hàng năm. Các Bộ ngành cần hệ thống hoá các thông tin liên quan đến các lĩnh vực mà ngành mình đảm trách, công bố công khai hàng năm qua các tài liệu chuyên ngành giúp cho chủ đầu tư cũng như ngân hàng thuận lợi hơn trong việc thu thập thông tin thẩm định dự án. Cần quy định rõ hơn trách nhiệm của chủ đầu tư và người có thẩm quyền quyết định đầu tư, trách nhiệm của các bên đối với việc thẩm định dự án đầu tư. Đặc biệt là trách nhiệm của các Bộ ngành và các cơ quan có liên quan trong xử lý tài sản bảo đảm và nợ vay tồn đọng. Bộ Tài chính hướng dẫn miễn giảm thuế và các nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước khi các NHTM, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của NHTM bán các tài sản bảo đảm nợ vay. Bộ Tư pháp hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc cá cơ quan thi hành án bàn giao cho NHTM các tài sản bảo đảm nợ vay đã được Toà án giao cho NHTM để xử lý. Hướng dẫn thủ tục đăng ký, công chứng đối với tài sản bảo đảm nợ vay do các NHTM, công ty Quản lý và khai thác tài sản của NHTM bán theo hinh thức bán đấu giá, bán công khai... Tổng cục Địa chính, Bộ Xây dựng hướng dẫ theo thẩm quyền về thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với đất và tài sản gắn liền với đất khi NHTM, công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản bảo đảm bán tài sản bảo đảm nợ vay. Bộ Công an, Bộ Giao thông vân tải hướng dẫn theo thẩm quyền đăng ký phương tiện giao thông vận tài là tài sản liên quan đến nợ tồn đọng được bán, chuyển nhượng. Bộ Công an có trách nhiệm bảo vệ tài sản quốc gia, bảo vệ việc thực thi pháp luật trong xử lý nợ tồn đọng. b. Ngân hàng nhà nước. Phát huy vai trò điều phối thông tin của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) Trung tâm thông tin tín dụng CIC thuộc vụ tín dụng ngân hàng Nhà nước Việt nam đã đi vào hoạt động trong vào năm qua với nhiệm vụ chủ yếu là thu thập thông tin về quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng thành viên với các doanh nghiệp lớn, chủ yếu là theo dõi nợ quá hạn. Để giúp cho các nghiệp vụ ngân hàng nói chung và quá trình ký kết hợp đồng tín dụng nói riêng, CIC cần phải được phát triển để bao quát mọi thông tin liên quan đến mọi hoạt động của ngân hàng. Phát huy vai trò của Hiệp hội ngân hàng trong việc giúp đỡ ngan hàng hội viên. Ngân hàng Nhà nước cần có cơ chế cho phép Hiệp hội ngân hàng tham gia với NHNN về một số vấn đề liên quan đến quyền lợi của các ngân hàng hội viên. Cụ thể trong các trường hợp sau: Ban hành cơ chế chính sách liên quan đến tổ chức tín dụng. Tham gia vào sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức tín dụng Tham gia vào việc phân loại tổ chức tín dụng Được cung cấp các thông tin liên quan đến việc chấn chỉnh các tổ chức tín dụng. Hiệp hội ngân hàng cần được tham gia vào các công việc trên để có thể giúp đỡ các ngân hàng về chuyên môn cũng như thông tin trong quá trình thẩm định dự án, ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng. Giúp đỡ về chuyên môn. Ngân hàng Nhà nước cần hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về thẩm định tín dụng, quy trình cho vay nhằm hỗ trợ cho quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng được thuận lợi hơn. NHNN cần đưa ra chỉ tiêu, chuẩn hoá từng ngàng, lĩnh vực để cán bộ tín dụng có căn cứ khi quyết định cho vay, từng bước hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. NHNN cần chỉnh sửa và ban hành một số cơ chế tín dụng, và quy trình thủ tục cho vay đồng tài trợ của nhiều ngân hàng thương mại cho phù hợp với môi trường pháp lý ở Việt Nam, quy định về bảo đảm tài sản bảo đảm tiền vay cần chỉnh sửa linh hoạt hơn cho phù hợp với thực tế để đảm bảo quyền thu hồi nợ của ngân hàng. 2.2. Với NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) Thường xuyên hoàn thiện những văn bản cho vay phù hợp với thực tế nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay. Những quy định chế độ tín dụng luôn là cơ sở để cán bộ tín dụng thực hiện, các quy định chi tiết đầy đủ sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng. Ngược lại, nếu quy định không rõ ràng, cụ thể thì hoạt động cho vay gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh cũng như uy tín của ngân hàng. Do vậy cần tiếp tục hoàn thiện các quy định để đáp ứng những đòi hỏi thực tế là hết sức quan trọng. NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam cần: Hướng dẫn kịp thời các văn bản của Chính phủ, của NHNN ban hàn để các phòng làm công tác cho vay thực thi thuận lợi và chính xác hơn. Ban hành các quy trình hướng dẫn cụ thể về nghiệp vụ liên quan đến hoạt động cho vay, thu nợ... Thu thập kịp thời đầy đủ và chính xác các thông tin về khách hàng. Chất lượng của quá trình thực hiện và ký kết hợp đồng tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào độ chính xác của thông tin, chất lượng thông tin. Thông tin đầu tiên mà ngân hàng nhận được do khách hàng cung cấp. Chính vì vậy mà người đi vay bao giờ cũng cung cấp những thông tin có độ sai lệch nhất định để cố gắng vay được vốn. Để hạn chế và ngăn chặn rủi ro, ngân hàng cần phải tìm kiếm các thông tin chính xác bằng các biện pháp như: Điều tra trực tiếp doanh nghiệp xin vay vốn, thực hiện phỏng vấn trực tiếp để thu thập thông tin, kiểm tra thông tin từ đó có thể phát hiện những mâu thuẫn với hồ sơ xin vay. Thu thập thông tin từ những nguồn bên ngoài giúp cho ngân hàng có thông tin chính xác, có thể từ những cơ quan hữu quan, các chuyên gia tư vấn, các đối tác của khách hàng vay vốn.. Cán bộ tín dụng tích cực chủ động tìm kiếm thông tin để nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thời gian và chi phí trong thẩm định và ký kết thực hiện hợp đồng tín dụng. Hoàn thiện hơn nữa nội dung và phương pháp thẩm định. Có thể nói thẩm định toàn diện mọi phương diện, nội dung của dự án là một trong những yêu cầu quan trọng nhất cho quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng diễn ra thuận lợi, khách quan nhất, giảm thiểu rủi ro. Cần phải nhấn mạnh rằng mọi nội dung của dự án đều có mối liên hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời. Cả hai phương diện thẩm định tài chính và phi tài chính phải được kết hợp chặt chẽ với nhau nhằm đưa ra kết luận chính xác nhất. Xây dựng chiến lược giá cả. Ngân hàng cần xây dựng phương pháp định giá phù hợp, dựa trên lãi suất cơ bản, độ rủi ro của người vay, mối quan hệ với họ, thế mạnh của ngân hàng hoặc trên cơ sở cảm nhận đối với thị trường. Ngân hàng cần xác định chiến lược giá cả trên cơ sở chi phí nhằm đảm bảo bù đắp vốn và đạt lợi nhuận mục tiêu hay vì tối đa hoá lợi nhuận, bởi vì điều quan tâm của doanh nghiệp là lãi suất cho vay đối với họ. Một cơ chế lãi suất phù hợp phải tạo ra được sự chủ động cho cả ngân hàng và người đi vay. Ngân hàng cần phải giải chi phí hoạt động thông qua việc tăng cường, phát triển dịch vụ, biến nguồn thu từ dịch vụ trở thành nguồn thu đáng kể để lợi nhuận thu được trên cả gói dịch vụ tăng tối đa. Điều này đòi hỏi sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận để quản trị tốt chi phí, đảm bảo mức cạnh tranh hợp lý, duy trì lợi nhuận ổn định. Xây dựng chiến lược khách hàng Tìm kiếm khách hàng mới Qua các hội thảo, hội chợ và phối hợp với chính quyền các địa phương để có thể tiếp cận với các làng nghề để cho vay các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt các doanh nghiệp mới thành lập chưa có quan hệ tiền vay với ngân hàng nào và đang tìm ngân hàng tin cậy. Duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Sự tồn tại của ngân hàng phụ thuộc vào sự trung thàng của khách hàng. Vì thế bên cạnh phát hiện những khách hàng tiềm năng cần thường xuyên phân loại khách hàng để có sự hỗ trợ, tư vấn kịp thời và duy trì mối quan hệ gắn bó mật thiết, lâu dài với ngân hàng. Ngân hàng cần tổ chức những cuộc gặp gỡ tiếp xuc với khách hàng để giải toả những khúc mắc trong quan hệ tín dụng. Đó là cơ hội tốt để người có vốn và người thiếu vốn hiểu nhau hơn và tìm mọi cách để đáp ứng nhu cầu của hai bên. Đa dạng hoá khách hàng Ngân hàng cần mở rộng các loại khách hàng, tiếp tục cho định hướng phục vụ ngân hàng vừa và nhỏ, cá nhân và mở rộng việc cho vay đối với doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp Nhà nước. Đa dạng hoá, tạo sự linh hoạt trong tài sản bảo đảm tiền vay. Do các văn bản về tài sản bảo đảm còn nhiều bất cập nên ngân hàng cần quan tâm hơn đến việc đánh giá, kiểm tra tài sản bao đảm, tránh vướng mắc khi xử lý gây khó khăn cho ngân hàng, khách hàng và các cơ quan có liên quan nhằm đánh giá lại toàn diện tài sản bảo đảm, thoả thuận các biện pháp quản lý cụ thể nhằm chuyển giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng dễ dàng hơn. Ngân hàng cần quan tâm hơn đến việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Mặc dù bảo đảm tiền vay có ý nghĩa quan trọng trong hạn chế rủi ro tín dụng nhưng quá chú trọng đến yếu tố này chưa hẳn là tốt, điều này làm việc ký kết hợp đồng tín dụng gặp nhiều khó khăn, giảm chất lượng tín dụng. Nên tránh những khoản nợ khó đòi. Một số hiểm hoạ dẫn đến nợ khó đòi Cho vay vượt quá giá trị của đảm bảo: Hậu quả của sự mất giá về đất đai và bất động sản, việc không duy trì nổi mức lãi hợp lý của các cổ phần, tin tưởng và các giấy bảo lãnh kém giá trị...Những khuyết tật này có thể được hạn chế bằng việc kiểm định và thanh tra thường kỳ. Quản lý tài khoản yếu kém: Tình trạng này bao gồm việc thường xuyên rút tiền vượt hạn mức thoả thuận và khiếm khuyết trong việc kiểm tra tài khoản và hoạt động của nó. Hiểu biết không thấu đáo về khách hàng: Kết quả của việc không hiểu biết thấu đáo là ở chỗ bản chất thực thụ và mục đích của việc vay tiền đã không được biết đến. Ngay từ đầu cần phải có được càng nhiều thông tin thu lượm về khách hàng càng tốt. Lạm dụng quá mức ‘từ cho vay”: Rất nhiều món nợ khó đòi là hậu quả của việc cho vay như cho vay khách hàng mà không kiểm chứng độ tin cậy, cho những khách hàng vay họ sử dụng vào mục đích đầu cơ hoặc vẫn cho phép khách hàng được hưởng các khoản tiền ứng trước tiếp theo trong khi những dấu hiệu báo động đã lộ rõ. Thanh toán các Séc trên cơ sở khi chưa được bù trừ. Tránh các khoản nợ khó đòi bằng cách: Lấy mọi thông tin cần thiết từ cuộc đàm thoại để có thể đánh già tương xứng về địa vị tài chính của người vay. Tránh những quyết định vội vã khi chưa hiểu biết đầy đủ về người vay. Phân tích đầy đủ bằng việc áp dụng những nguyên tắc cho vay cơ bản và các quy định của ngân hàng. Phải khẳng định được rằng khách hàng đã nhận thức được đầy đủ về bổn phận của mình. Tiến hành kiểm soát chặt chẽ các khoản ứng trước. Duy trì kiểm tra sát sao các khoản ứng trước. Chú ý những dấu hiệu báo động trước các vấn đề nảy sinh. Hành động kịp thời khi món nợ có dấu hiệu vi phạm, chẳng hạn như chậm chễ trong việc trả nợ theo yêu cầu. Lưu ý đến chỉ thị của bên thứ 3 và phải nhớ rằng người làm đơn luôn là người trả nợ duy nhất. Phải thận trọng khi giám định các khoản ứng trước dùng vào các mục đích đầu cơ. Một hoạt động kinh doanh như vậy cần phải được giám định bởi cán bộ có quan hệ tới loại hình kinh doanh như thế. 2.3. với khách hàng của VPBank. Doanh nghiệp đóng vai trò là khách hàng, đối tác kinh doanh của ngân hàng do đó có hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng bị chi phối khá lớn bởi hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Để tạo điều kiện cho quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng tại ngân hàng, doanh nghiệp cần làm những việc sau: Cung cấp cho ngân hàng số liệu chính xác, nhanh chóng nhất. Hợp tác với ngân hàng trong khi tiến hành thẩm định dự án, đánh giá đúng mức những ý kiến đóng góp của ngân hàng. Luôn giữ mối quan hệ qua lại thường xuyên với khách hàng về một số thông tin như nhu cầu về vốn hoạt động, tốc độ lưu chuyển hàng hoá, tình hình sản xuất kinh doanh.. tạo điều kiện cho dự án diễn ra trôi chảy. Các doanh nghiệp nên thực hiện chế độ kiểm toán hiện đại, chính xác theo đúng quy định của Nhà nước. KẾT LUẬN Hoàn thiện chế độ pháp lý về hợp đồng tín dụng ngắn hạn là một trong những vấn đề cấp bách và cần thiết để nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Từ khi hoạt động, NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện chế độ pháp lý về ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng nói chung và hợp đồng tín dụng ngắn hạn nói riêng. Tuy nhiên là một ngân hàng mới được thành lập hơn 10 năm nhưng việc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng còn nhiều bất cập. Để khắc phục và làm được những công việc này đòi hỏi ngân hàng phải có sự nghiên cứu sâu sắc, có những biện pháp tổng hợp phối hợp với cá cơ quan chức năng nhằm giải quyết những vấn đề này. Trong thời gian thực tập tại NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam, tác giả đã cố gắng tìm hiểu các vấn đề pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng chế độ pháp lý về hợp đồng tín dụng ngắn hạn và nêu được một số giải pháp, kiến nghị nhằm đóng góp vào việc hoàn thiện môi trường pháp lý cho ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên do thời gian thực tập có hạn cũng như trình độ còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót, rất mong có được những ý kiến đóng góp từ phía các thầy cô, bạn đọc để tác giả có điều kiện nâng cao hiểu biết về cả lý luận và thực tiễn. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Văn bản quy phạm pháp luật Luật Doanh nghiệp 12/6/1999 Luật Ngân hàng Nhà nước 12/12/1997 Luật các tổ chức tín dụng 12/12/1997 Luật phá sản doanh nghiệp 30-12-1993 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 25-9-1989 NĐ 178/1999/NĐ-CP 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng NĐ 165/1999/NĐ-CP 29/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm QĐ 95/1998/QĐ-TTg 15/5/1998 của TTg về thanh toán nợ giai đoạn II QĐ 5/1998/QĐ-TTg 5/1/2000 của TTg sửa đổi, bổ xung QĐ 95 của TTg về thanh toán nợ giai đoạn II QĐ 688/2001/QĐ-NHNN 27/11/2000 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về thực hiện chuyển nợ quá hạn các khoản vay của khách hàng tại các tổ chức tín dụng QĐ1627/2001/QĐ- NHNN 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc ban hàng quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng QĐ 174/2002/NHNN-TD 21/2/2002 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc xử lý nợ quá hạn tông động không có tài sản bảo đảm theo quyết định 149/2001/QĐ-TTg ngày 5/10/2001 của TTg Chỉ thị 01/2002/CT-NHNN 07/01/2002 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc xử lý nợ quá hạn tại các NHTM Chỉ thị 02/2002/CT-NHNN 30/1/2002 của Thống đốc NHNN về việc trấn chỉnh công tác xử lý nợ quá hạn tại các NHTM Tài liệu tham khảo khác Giáo trình Luật kinh tế - ĐHKTQD Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng - Học viện ngân hàng- NXB Thống kê Báo cáo thường niên của ngân hàng VPBank 2002 Quy chế nhân viên VPBank 10/4/1999 Tạp chí Tạp chí ngân hàng số 11/2001: Một số nguyên nhân chính gây nợ khó đòi cho các NHTM - Phan Lê PTKT 37/2001: Nợ quá hạn và các vấn đề giải quyết nợ quá hạn của hệ thống NHVN hiện nay - TS Đặng Tiến Đờn; TS Võ Thị Ánh Tuyết TC-NH 4/2001: Xử lý nợ tồn đọng cần có sự phối hợp của các ngành hữu quan - Nguyễn Văn Phương TC-NH 4/2001: Nợ quá hạn- vấn đề cần tiếp tục được giải quyết - TS Đào Minh Phúc TC 3/2002: Vấn đề xử lý nợ xấu của các TCTD và doanh nghiệp _ TS Nguyễn Đình Tài TC-NH 3/2000: Mua bán nợ - Một sản phẩm tất yếu của kinh tế thị trường _ TS Nguyễn Như Minh TT TC TT 18/2001: Một số kiến nghị của các ngân hàng hội viên hiệp hội ngân hàng với NHNN TT TC TT 1/2002: Quy định về tài sản bảo đảm tiền vay phù hợp với thực tiễn _ Nguyễn Văn Phương Incombank 10/2001: Giải pháp mới về xử lý tài sản bảo đảm và nợ vay tồn đọng Dân chủ và Pháp Luật số 12/2002: Bản chất pháp lý của Hợp đồng tín dụng Ngân hàng DC và PL 10/2002: Khuôn khổ pháp lý mới để các NHTM mở rộng cho vay đối với khách hàng vay NN và PL 4/2002: Về đặc điểm của HĐTD ngân hàng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0002.doc
Tài liệu liên quan