Chính sách tiền tệ và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Lời nói đầu Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, hệ thống tài chính - tiền tệ luôn luôn được mọi nhà nước coi trọng, nhất là từ sau khi xảy ra sự suy sụp của hệ thống tài chính - tiền tệ quốc tế 1929-1933, kéo theo là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thì nhiều nước đã từ bỏ học thuyết " bàn tay vô hình " của Adam Smith và quan tâm đặc biệt đến học thuyết tiền tệ của Jonh Maynar Keynes. Từ đó các công cụ quản lý vĩ mô hệ thống tiền tệ lại càng được đặc biệt coi trọng. Trong công cuộc đổi mới

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1477 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chính sách tiền tệ và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở Việt Nam, trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế chỉ huy tập trung sang kinh tế thị trường, không phải ngẫu nhiên mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt lên hàng đầu vị trí của hệ thống tài chính - tiền tệ và chọn hệ thống ngân hàng làm mũi đột phá trong công cuộc đổi mới kinh tế. chính sách tiền tệ quốc gia vf hệ thống công cụ của nó bắt đầu nghiên cứu và được sử dụng. Hệ thống công cụ này dần nhằm thay thế cho công cụ kế hoạch hoá trực tiếp. Mỗi nước đều có hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô nhưng với vị trí ưu tiên khác nhau và trong từng thời kì, từng giai đoạn của nền kinh tế sẽ xác định được thứ tự ưu tiên đó. Để đạt được các mục tiêu này, nhà nước phải sử dụng các công cụ của mình và NHTW là người trực tiếp thực thi các công cụ đó và chịu sự quản lý, giám sát của nhà nước. Chính sách tiền tệ là một trong các công cụ đó. Riêng Việt Nam để thực hiện và đẩy nhanh tiến độ quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, cũng như quá trình chuyển giao công nghệ, thu hút sự đầu tư nước ngoài thì đòi hỏi các công cụ quản lý vĩ mô phải đồng bộ và hợp lý mà chính sách tiền tệ hợp lý trước tiên sẽ tạo ra môi trường kinh tế ổn định, thuận lợi. Hệ thống công cụ chính sách tiền tệ là những công cụ đang và sẽ đưa vào sử dụng ở Việt Nam - là một vấn đề có tính lý luận và thực tiễn, đồng thời cũng hết sức mới mẻ; thậm chí có những vấn đề đang còn được các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. Hơn nữa, là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước vì vậy nó mang tính trìu tượng cao nên việc tiếp cận gần nó để có được một chính sách hợp lý trong tương lai là điều khó khăn song bất cứ nước nào cũng mong muốn. Với đề tài: "Chính sách tiền tệ và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" chúng ta đi vào giải quyết những nội dung chủ yếu sau: Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường Chương 2: Thực tiễn việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở nước ta trong nền kinh tế thị trường Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu qủa việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ Do những hiểu biết của em về thực tế còn hạn hep khả năng đánh giá chưa sâu sắc, với những kiến thức được trang bị cùng với sự giúp đỡ của thầy em đã hoàn thành đề án này. Tuy nhiên, đề án chắc còn nhiều chỗ sai sót, em mong nhận được sự góp ý, của thầy để đề án của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Hà nội ngày 15 tháng 11 năm 2001 Sinh viên Hoàng Thị Thanh Thuỷ Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng – một sản phẩm tuyệt diệu của nền kinh tế tiền tệ được ra đời do đòi hỏi tất yếu khách quan của quá trình hoạt động tín dụng và sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá. Đến lượt nó, ngân hàng bằng hoạt động của mình lại tác động trở lại, thúc đẩy phát triển kinh tế. Hơn thế nữa, thông qua việc điều hành CSTT với tư cách là người cho vay cuối cùng, ngân hàng Quốc gia còn có thể đẩy nền kinh tế đến mức phát triển “ quá nóng “, hoặc có thể cứu vãn sự sụp đổ của thị trường chứng khoán hay ngăn chặn tình trạng hoảng loạn của thị trường tài chính. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà Samuelson – nhà kinh tế học người Mỹ đã rút ra nhận xét rằng: “ từ khi thời gian bắt đầu có cho đến nay đã có 3 phát minh lớn, đó là: lửa, bánh xe và ngân hàng trung ương" và thực tiễn đã chứng minh rằng với trách nhiệm điều hành CSTT quốc gia bằng những công cụ quản lý vĩ mô của mình trong nền KTTT, NHTW đã đóng một vai trò quan trọng. Chính vì những lý do đó mà trước khi nghiên cứu về CSTT, chúng ta cần phải tìm hiểu vai trò của NHTW trong nền KTTT I- Vai trò của NHTW trong nền KTTT 1. Sự ra đời của NHTW 1.1. Cơ sở kinh tế Khi hệ thống tín dụng thương mại phát triển, các loại lưu thông tín dụng xuất hiện ngày càng nhiều – kể cả về số lượng lẫn loại hình như kỳ phiếu thương mại, kỳ phiếu ngân hàng... Nhưng cho dù ở hình thức nào thì trong quá trình hoạt động, chúng đều bộc lộ những ưu điểm cũng như nhược điểm và cùng chịu sự tác động của các quy luật kinh tế – trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo quy luật này, loại hình công cụ tín dụng nào có nhiều ưu điểm sẽ tồn tại và trở nên phổ biến, có thị trường lưu thông lớn. Ngược lại, loại hình công cụ tín dụng nào bộc lộ nhiều nhược điểm sẽ dần mất thị trường và bị thay thế bởi loại hình công cụ tín dụng khác phù hợp hơn. Kỳ phiếu ngân hàng, ngay từ khi mới ra đời đã thể hiện nhiều ưu điểm của mình so với các hình thức công cụ tín dụng khác như: khả năng huy động vốn lớn, phạm vi huy động vốn rộng và hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế, nhiều ngành... vì thế, loại hình này ngày càng được ưa chuộng và trở nên phổ biến.Đây cũng chính là giai đoạn đầu trong quá trình hình thành NHTW – giai đoạn của kỳ phiếu ngân hàng bởi trong giai đoạn này, mỗi ngân hàng đều phát hành kỳ phiếu riêng, hoạt động và cho vay trên nhiều lĩnh vực và còn gọi là ngân hàng đa năng Tuy nhiên, khi kỳ phiếu ngân hàng đã trở nên phổ biến nhưng do mỗi ngân hàng lại phát hành một loại kỳ phiếu riêng nên đã làm hạn chế về quy mô hoạt động của chúng – chỉ trong từng địa phương – và tất yếu sẽ dẫn tới cạnh tranh gay gắt giữa các kỳ phiếu ngân hàng trong việc mở rộng thị trường hoạt động. Vì vậy, ở giai đoạn thứ hai này đòi hỏi mỗi ngân hàng cần phải tận dụng và phát huy hết những thế mạnh của mình. Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hoá, đòi hỏi phải có những kỳ phiếu lưu thông trên thị trường toàn quốc và thế giới. Và chỉ có những ngân hàng lớn mới có đủ uy tín để thực hiện. Trước đây, ở một số nước kinh tế phát triển, đã có một vài ngân hàng lớn tách ra khỏi hệ thống NHTM để chuyên thực hiện việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng cho các doanh nghiệp hoặc các NHTM vay vốn – những ngân hàng này được gọi là ngân hàng phát hành. Trong một thời gian khá dài, ở nhiều nước, mặc dù đã có ngân hàng phát hành nhưng các NHTM vẫn tiếp tục sử dụng phát hành kỳ phiếu ngân hàng tại địa phương vì đây là một trong những hình thức huy động vốn để cho vay có hiệu quả nhất. Về sau, do không cạnh tranh nổi với kỳ phiếu của những ngân hàng phát hành nên phạm vi bị thu hẹp và cuối cùng bị quét khỏi lưu thông. Sau này, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xu hướng chuyên môn hoá của các ngân hàng ngày càng cao đến mức hình thành xu hướng tập trung nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu vào tay các ngân hàng phát hành. Như vậy, kết quả của cơ sở kinh tế đó là việc tách biệt hai chức năng của ngân hàng: chức năng phát hành và chức năng kinh doanh tiền tệ tương ứng trong hệ thống ngân hàng là hai hình thức ngân hàng phát hành và NHTM. Dù đã có ngân hàng phát hành song người ta vẫn chưa gọi nó là NHTW bởi nhẽ cơ sở kinh tế chưa làm thay đổi hình thức sở hữu – thực tế, các ngân hàng phát hành lúc này vẫn thuộc sở hữu tư nhân. 1.2. Cơ sở pháp lý Là việc Nhà Nước sử dụng quyền lực của mình để thống nhất quản lý và độc quyền việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng, đồng thời cho ra đời một ngân hàng của mình gọi là NHTW hay NHNN Ban đầu, để dễ dàng vay được nhiều tiền hỗ trợ cho ngân sách Nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu vĩ mô của mình, Nhà nước tư sản ủng hộ và khuyến khích thành lập các ngân hàng phát hành. Nhiều Nhà nước đã ban hành những điều luật hạn chế hoặc đình chỉ việc phát hành kỳ phiếu của các NHTM. Hoạt động của các ngân hàng phát hành giảm dần và đi đến ngừng hẳn việc giao dịch cho vay vốn đối với các doanh nghiệp, mà chỉ nhận tiền gửi của các NHTM, các tổ chức tín dụng, của ngân sách Nhà nước và phát hành kỳ phiếu ngân hàng – một loại tiền tín dụng để cho các NHTM vay và cho Nhà nước vay. Tuy nhiên, khi ngân hàng phát hành thuộc sở hữu của tư nhân, thậm chí một nền kinh tế có thể tồn tại nhiều ngân hàng phát hành thì không thể tránh khỏi có những lúc, các mục tiêu của ngân hàng phát hành không phù hợp với các mục tiêu vĩ mô của Nhà nước và Nhà nước khó có thể kiểm soát quá trình cung ứng tiền tệ này. Đặc biệt sau khủng hoảng 1929-1933 thì việc biến ngân hàng phát hành thành sỡ hữu của Nhà nước càng là một việc cần thiết ! Để làm được điều này, Nhà nước phải sử dụng đến quyền lực của mình và kết quả là NHTW ra đời với nhiều hình thức như: quốc hữu hoá, cổ phần hoá, xoá bỏ các ngân hàng phát hành cũ và lập một ngân hàng mới – NHTW.... Người ta thường gọi NHTW là ngân hàng phát hành, tuy nhiên không phải là do nguồn gốc ra đời của nó mà chủ yếu do hiện tại, các NHTW của các nước đều có chức năng quan trọng là phát hành tiền. 2. Mô hình tổ chức hệ thống ngân hàng ở Việt Nam Ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, nên sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam hoàn toàn khác với các nước có nền kinh tế hàng hoá phát triển. ở các nước này, ngân hàng được phát triển từ hệ thống ngân hàng một cấp – các NHTM – sang hệ thống ngân hàng hai cấp: NHTW và các NHTM. Riêng ở Việt Nam thì quá trình phát triển có dạng ngược lại. Bắt đầu từ thành lập NHTW và tổ chức hệ thống ngân hàng một cấp, với chức năng quản lý là chủ yếu, sau đó chuyển thành hệ thống hai cấp. 2.1. Ngân hàng một cấp trước đây Từ khi được thành lập đến khi có pháp lệnh ngân hàng, ngân hàng Việt Nam được tổ chức theo mô hình một cấp, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Hệ thống ngân hàng một cấp vừa thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, vừa thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong lĩnh vực tiền tề tín dụng theo cơ chế kế hoạch. NHTW thực hiện chức năng của một ngân hàng phát hành, điều hành chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế, trên cơ sở ban hành các chính sách về quản lý tiền tệ và chính sách tín dụng; đồng thời tổ chức hoạt động kinh doanh và tổng hợp kết quả tài chính (kết quả kinh doanh) theo chế độ hạch toán kinh tế toàn ngành Các chi nhánh ngân hàng tỉnh, thành phố, được tổ chức theo địa dư hành chính, là cấp trung gian thay mặt NHTW tổ chức hoạt động quản lý và kinh doanh trong phạm vi địa phương mình. Thực chất là chưa kinh doanh theo đúng nghĩa. Mặt khác, luôn phải thực hiện mệnh lệnh của cấp uỷ và chính quyền địa phương. Các chi nhánh ngân hàng quận, huyện trực tiếp thực hiện việc quản lý tiền tệ đối với tất cả các tổ chức kinh tế, các đơn vị hành chính sự nghiệp.... trên cơ sở thực hiện nghiệp vụ ngân hàng. Việc tổ chức và hoạt động ngân hàng một cấp phù hợp với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Thời kỳ đó, các công cụ quản lý kinh tế thường gắn chặt với các biện pháp, các mệnh lệnh hành chính, chỉ tiêu đánh giá chất lượng điều hoà lưu thông tiền tệ không phải là mức độ kiểm soát M1,M2..., mà thuần tuý là tỷ lệ thanh toán tiền mặt và không dùng tiền mặt trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, tiền tệ và giá cả trong nhiều giai đoạn khá ổn định, khi mọi hoạt động kinh tế trong xã hội được tổ chức và phối hợp đồng bộ. Việc phê phán gay gắt những cơ chế quản lý của giai đoạn đó, mà không xem xét đến hoàn cảnh lịch sử, chắc chắn không tránh khỏi những phân tích lệch lạc. Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang KTTT theo định hướng XHCN, mô hình ngân hàng một cấp không còn phù hợp nữa. Các điều kiện về kinh tế – xã hội và môi trường mới đã tạo tiền đề cho việc ra đời hệ thống ngân hàng hai cấp. 2.2. Mô hình ngân hàng hai cấp Nếu như ở các thế kỷ trước, học thuyết " bàn tay vô hình " của nhà kinh tế nổi tiếng AdamSmith đã ngự trị các nhà doanh nghiệp và điều khiển toàn bộ hoạt động KTTT và đây được coi là quy luật kinh tế khách quan chi phối mọi hoạt động của con người, thì sau cuộc khủng hoảng kinh tế trên bình diện quốc tế trong những năm 1929-1933, người ta lại tìm đến học thuyết " bàn tay hữu hình" của Keynes. Học thuyết này đòi hỏi phải sử dụng " những bàn tay công cộng " của Nhà nước để can thiệp và điều chỉnh " bàn tay vô hình ". Đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng, lĩnh vực lưu thông tiền tệ và tín dụng. Tuy nhiên, học thuyết Keynes chỉ là liều thuốc giảm đau chứ không phải là cứu cánh của nền kinh tế các nước đang lâm vào tình trạng khủng hoảng thời kỳ đó. Do hiểu đầy đủ các học thuyết kinh tế, hiểu vai trò của hệ thống ngân hàng và tầm quan trọng của CSTT trong nền KTTT, nên khi có chủ trương đổi mới nền kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng Việt Nam là một trong những công việc đầu tiên của quá trình đổi mới. Việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng hai cấp đã được tiến hành từng bước và mô hình này đã được khẳng định tại các pháp lệnh ngân hàng ban bố năm 1990. Ngân hàng nhà nước (hay NHQG tức là NHTW) là cấp quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ tín dụng và là cơ quan duy nhất phát hành tiền Việt Nam. Các ngân hàng thương mại (quốc doanh, cổ phần, liên doanh....), ngân hàng đầu tư phát triển, các công ty tài chính (quốc doanh, cổ phần), các hợp tác xã tín dụng là cấp thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Sự hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp đòi hỏi phải hoạch định một CSTT mà trong đó có nội dung tương đối hoàn chỉnh về mục tiêu cuối cùng, các mục tiêu trung gian và hệ thống công cụ thích hợp cho từng thời kỳ nhất định. Một CSTT như vậy là không thể có được trong hệ thống ngân hàng một cấp. Trong hệ thống ngân hàng hai cấp này, mặc dù ở nước ta, tính độc lập của NHTW chưa cao như ở các nước, nhưng đã có đủ điều kiện để hoạch định và thực thi một CSTT phù hợp với nền KTTT ở nước ta. Mặt khác, khi hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp thì trong những năm đầu NHTW tuy chưa phải là người duy nhất nhưng đã trở thành người chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện mục tiêu CSTT. Việc hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp không phải đơn thuần là thay đổi về mặt tổ chức bộ máy, mà điều cơ bản là thay đổi nội dung hoạt động, đó là việc phân biệt rõ chức năng quản lý của NHTW và chức năng kinh doanh của NHTM. Hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính ra đời, tuy bước đầu chưa đa dạng và phong phú như ở các nước, nhưng chúng đã làm môi trường cho các công cụ của CSTT hoạt động. Đồng thời cũng do hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính ra đời nên lại đòi hỏi phải có một hệ thống công cụ vĩ mô để điều khiển việc thực hiện CSTT. 3. Những nhận xét chung: Do hoàn cảnh lịch sử hình thành NHTW và điều kiện kinh tế của từng nước có khác nhau, phong tục tập quán không giống nhau nên các NHTW các nước đều có những điểm khác nhau. Nhưng điểm đồng nhất là ở chỗ, đều có quyền lực rất lớn và quyền độc lập trong việc hoạch định và điều hành CSTT quốc gia. Tại nước Mỹ, người ta thường gọi chủ tịch hội đồng các thống đốc ngân hàng là " con người quyền lực lớn thứ hai ở Mỹ ". Sự độc lập còn được thể hiện ở chỗ nhiệm kỳ của thống đốc NHNN thường dài hơn nhiệm kỳ của quốc hội và nội các. Sự độc lập và quyền lực của NHTW có được một mặt là bản thân NH không giống những cơ quan quyền lực do dân cử. Các ngành dân cử không phải lúc nào cũng hy sinh quyền lực trước mắt là khả năng được bầu cửđể đánh đổi phúc lợi kinh tế dài hạn. Nhìn chung, NHTW nước nào được giao quyền độc lập thì ở nước đó có tỷ lệ lạm phát thấp. Chính vì vậy nên cần phải nhấn mạnh rằng một Nhà nước không hiểu hết vai trò của NHTW, không giao đủ quyền hạn cho NHTW và sử dụng nó như một công cụ kinh tế sắc bén, thì nền kinh tế nước đó sẽ chưa thể phát triển mạnh. CSTT mà NHTW các nước hoạch định đều dựa trên học thuyết kinh tế và học thuyết tiền tệ phù hợp với điều kiện cụ thể của nước đó và tuỳ thuộc theo mục tiêu từng thời kỳ của nước họ. Có những NHTW coi các mục tiêu của các chính sách kinh tế cũng là mục tiêu của CSTT. II- Chính sách tiền tệ 1. Khái niệm Chính sách tiền tệ là một trong những bộ phận tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nước để thực hiện vĩ mô đối với nền kinh tế, nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn nhất định. CSTT có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa rộng thì CSTT là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến bốn mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Theo nghĩa thông thường là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kì tới (thường là 1 năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có; tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hoá. Các chức năng của tiền tệ trong nền KTTT hiện đại đã và đang phát huy mạnh mẽ theo trào lưu thời đại; thậm chí có những chức năng của tiền tệ đã được thực hiện theo những phương thức hoàn toàn khác với trước đây. Vì vậy, việc xác định CSTT quốc gia là một công cụ kinh tế vĩ mô và hiểu theo nhiều nghĩa rộng và nghĩa hẹp không chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong việc điều hành chính sách, trong việc thiết lập hệ thống công cụ để thực hiện CSTT. Đương nhiên hiểu theo nghĩa nào thì CSTT đều có một mục tiêu kinh tế xã hội như nhau. Nền KTTT là một nền kinh tế năng động, luôn luôn trong trạng thái phát triển với tốc độ nhanh và thực tế nó đã tạo ra lực lượng sản xuất nhiều hơn LLSX của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại cùng với trình độ xã hội hoá rất cao tới mức độ đã làm cho sự sản xuất và sự tiêu dùng của tất cả các nước vượt ra khỏi phạm vi quốc gia. Việc du nhập những công nghệ mới và quá trình chuyển giao công nghệ đã trở thành một vấn đề sinh tử đối với tất cả các nước trên thế giới bởi công nghệ luôn mang lại những bước nhảy kì diệu của sự phát triển tuy nhiên chính nó lại tạo ra những sự ràng buộc không chỉ đơn thuần về mặt kinh tế. Những mối quan hệ toàn diện, sự phụ thuộc toàn diện đối với nhau giữa các dân tộc, đang phát triển, thay thế cho tình trạng cô lập trước kia của các dân tộc đã khiến các nhà hoạch định CSTT không chỉ quan tâm thuần tuý đến quá trình lưu thông tiền tệ của quốc gia mình một cách đơn độc, tách biệt với thế giới bên ngoài. KTTT và hoạt động của nó tuân thủ những quy luật kinh tế khách quan; mặt khác quá trình cạnh tranh trong KTTT lại dẫn đến sự vi phạm các quy luật, vi phạm luật pháp dẫn đến những khiếm khuyết và khuyến tật của KTTT. Các NHTM, các doanh nghiệp... không thể thực hiện tốt chức phận của mình trước xã hội với sự điều khiển của bàn tay vô hình, đồng thời không thể tránh khỏi những rủi ro trong quá trình kinh doanh đi đến phá sản và thậm chí dẫn đến sự suy thoái toàn bộ nền kinh tế nếu như không có một CSTT cùng với một hệ thống công cụ của nó; một CSTT như thế, với mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ sẽ đảm bảo khả năng thanh toán, phát huy khả năng kinh doanh, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, văn minh xã hội, đã đóng một vai trò thực sự quyết định trong nền kinh tế hiện đại. Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu như chính sách tài chính chỉ tập trung vào thành phần, kết cấu các mức chi phí, thuế khóa của nhà nước, thì CSTT lại tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn theo những quỹ đạo đã định; kiểm soát hệ thống các NHTM; cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại và kinh tế ngoại thương, nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá Một CSTT hoàn chỉnh bao gồm cả một hệ thống công cụ của nó sẽ nói lên rằng, việc đáp ứng tiền cho lưu thông không đơn thuần cho mục tiêu tăng trưởng mà đối với từng giai đoạn giữa phát triển và tăng trưởng kinh tế đều được cân nhắc. Tín dụng cho tăng trưởng đơn giản hơn tín dụng cho phát triển vì nội dung của phát triển chứa đựng những yêu cầu về cơ cấu kinh tế nhiều hơn là tăng trưởng thuần tuý. Cung ứng tiền cho lưu thông để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ môi trường sinh thái thông qua công cụ lãi suất còn khó khăn hơn nhiều so với mục tiêu cho tăng trưởng; cung ứng khối lượng tiền tệ để đảm bảo mức tăng trưởng lại là vấn đề đầy mâu thuẫn trong mục tiêu CSTT. Trong trường hợp có mâu thuẫn, vai trò của CSTT là phải lựa chọn một trong hai mục tiêu là ổn định tiền tệ, không lạm phát hay giảm thất nghiệp, theo hai mục tiêu này, người ta phân CSTT làm hai loại là: chính sách thắt chặt tiền tệ hay chính sách mở rộng tiền tệ. Trong đó chính sách thắt chặt tiền tệ được hiểu là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế là kiềm chế lạm phát. Còn chính sách mở rộng tiền tệ được hiểu là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm. Việc sử dụng chính sách nào, thắt chặt hay thu hẹp là tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể bởi lẽ kinh tế học là khoa học về sự lựa chọn. 2. Nội dung 2.1. Mục tiêu Mục tiêu của CSTT của mỗi nước không tách rời mục tiêu kinh tế vĩ mô của quốc gia đó. Mục tiêu kinh tế vĩ mô được thực hiện bằng một loạt công cụ chính sách lớn. CSTT là một trong những chính sách đó của Nhà nước, vì vậy trong ngoài việc phục vụ cho mục tiêu chung, CSTT cũng có những mục tiêu của nó. 2.1.1. Mục tiêu của CSTT ở một số nước trên thế giới * Mục tiêu CSTT của Mỹ ở Mỹ, người ta coi những mục tiêu của các chính sách kinh tế cũng là mục tiêu của CSTT. Sáu mục tiêu được những người của dự trữ liên bang FED nêu lên thường xuyên là: 1.Công ăn việc làm; 2.Tăng trưởng kinh tế; 3.ổn định giá cả; 4. ổn định lãi suất; 5.ổn định tài chính; 6.ổn định thị trường ngoại hối. Thực chất sáu mục tiêu này có thể gộp lại thành bốn mục tiêu là: ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, việc làm và cán cân thanh toán. Ngân hàng trung ương Mỹ có quyền độc lập khá rõ ràng và rất có thế lực, vì vậy hộ xác định các mục tiêu đố là căn cứ vào khả năng thực tế của họ. * Mục tiêu CSTT cộng hoà liên bang Đức Những năm trước đây, nền kinh tế công hoà liên bang Đức ở trong tình trạng suy thoái và lạm phát, mức lạm phát năm 1974 lên tới 13%. Việc xây dựng CSTT lúc đó được dựa trên cơ sở lý luận của học thuyết Keynes và hậu Keynes. Từ năm 1980lại đây, CSTT của cộng hoà liên bang Đức được xây dựng trên quan đieemr của trường phái trọng tiền và thuyết định hướng vào cung. Mục tiêu CSTT của cộng hoà liên bang Đức là ổn định tiền tệ, hạn chế dần lạm phát và tăng tốc độ lưu thông tiền tệ; giảm dần tốc độ tăng giá hàng hoá; tăng trưởng kinh tế, nâng GDP với các mục tiêu trung gian là kiểm soát chặt chẽ khối lượng phát hành. * Mục tiêu CSTT của Pháp Từ năm 1984, sau khi ban hành bộ luật về ngân hàng (24-1/1984)và bộ luật sửa đổi vấn đề quốc hữu hoá (27-7/1984), CSTT của Pháp nhằm vào mục tiêu chủ yếu là ổn định kinh tế chống lạm phát với biện pháp cụ thể là kiểm soát chặt chẽ mức tăng khối lượng tiền vào lưu thông. Ngân hàng quốc gia Pháp cũng thực hiện những mục tiêu trung gian như: thay đổi sâu sắc cơ cấu tiền tệ và kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu khối lượng tiền (M2,M3) 2.1.2. Mục tiêu CSTT ở nước ta Trong giai đoạn đầu, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN, để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng, công ăn việc làm, ổn định giá cả, cán cân thương mại, Nhà nước đã sử dụng một hệ thống chính sách gồm: chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách về thu nhập, kinh tế đối ngoại... Mỗi chính sách đều góp phần cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô nhưng mỗi chính sách đều có mục tiêu cuối cùng của nó. Là một trong những chính sách nói trên, CSTT ở nước ta có mục tiêu cuối cùng của nó là ổn định tiền tệ (giữ vững giá trị đồng tiền) Mục tiêu cuối cùng của nó có mức độ quyết định nhất định đối với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Khi nghiên cứu mục tiêu này không thể quên mối quan hệ mâu thuẫn, tính thống nhất và đối lập tất yếu giữa giảm lạm phát và việc làm, giữa chính sách tỷ giá và cán cân thương mại... ở những nước kinh tế phát triển, khi các nhà kinh tế khẳng định rằng mục tiêu trực tiếp và là mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định tiền tệ được gọi là mục tiêu tiền tệ, thì đồng thời người ta cũng cho rằng CSTT còn có mục tiêu gián tiếp đó là mục tiêu kinh tế 2.1.2.1. Mục tiêu tiền tệ Thuộc phạm vi mục tiêu tiền tệ, CSTT phải đạt được các mục tiêu cụ thể hay còn gọi là các mục tiêu trung gian là: điều hoà khối tiền tệ, kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền, bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền bằng cách ổn định vật giá và ổn định giá trị quốc ngoại cuả đồng tiền. *Điều hoà khối tiền tệ Đó là nhằm duy trì mối tương quan tiền – hàng được ổn định bằng cách giữ nguyên, tăng hay giảm khối tiền tệ. Có một nguyên tắc tổng quát: nếu mỗi năm nền kinh tế đều tăng trưởng, thì phải tăng khối tiền tệ bằng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Nguyên tắc này khắc chế xu hướng ấn định khối tiền tệ cứng nhắc một lần cho khoảng thời gian dài. Một khối tiền tệ ấn định trước một cách chặt chẽ sẽ có tác dụng làm cho giá cả và lương bổng giảm nêú sản xuất tăng lên. Nhưng làm như vậy sẽ tạo ra căng thẳng trong các hoạt động sản xuất, lưu thông phân phối, làm nguy hại đến mức tăng trưởng kinh tế Khối tiền tệ hiện nay bao gồm phần lớn là tiền giấy do NHTW phát hành. Hầu như tiền mặt vẫn là công cụ thanh toán duy nhất. Đôi khi cũng có thanh toán bằng séc hay chuyển khoản song séc thì định mức còn chuyển khoản thì rườm rà, khó khăn. Chính vì thành phần đơn nhất của khối tiền tệ (hầu như chỉ duy nhất là tiền giấy của NHTW mà việc điều hoà khối tiền tệ trước đây chỉ chăm chú vào quản lý tiền mặt, lãng quên chuyển khoản, tiền bút tệ. Việc điều hoà khối tiền tệ kiểu đó không thừa nhận tiền trên các tài khoản tiền gửi thanh toán (tài khoản có thể rút séc) có thể chuyển hoá thành tiền mặt, là thành phần đương nhiên của khối tiền tệ, thậm chí còn tìm cách ngăn chặn nguồn phát sinh tiền mặt từ các tài khoản tiền gửi thanh toán. Đó là cách làm nghịch lý, dẫn tới việc các doanh nghiệp găm giữ tiền mặt, gây ra phản ứng dây chuyền thiếu tiền mặt thường xuyên trong hệ thống ngân hàng và trong nền kinh tế. Hạn chế rút tiền mặt sẽ kích thích tâm lý không tin vào hệ thống ngân hàng, không ai muốn gửi tiền vào ngân hàng và sẽ tự động chuyển hoá ra đôla hoặc ra vàng, gây nên bất động hoá về vốn. Điều hoà khối tiền tệ ngày nay có ý nghĩa là điều chỉnh việc tạo ra tiền và sử dụng tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Một khả năng kì bí của hệ thống ngân hàng hai cấp là tạo tiền, điều chỉnh mức cung tiền để ổn định tiền tệ. Do việc phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp, nên có việc phân chia hai loại tiền: tiền NHTW và tiền ngân hàng. Tiền NHTW là tiền do NHTW độc quyền phát hành. Tiền ngân hàng (còn gọi là tiền tín dụng hay bút tệ) là tiền do các NHTM tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, đặc biệt là tiền trên các tài khoản thanh toán séc. Nó được tạo ra như là sự mở rộng gấp nhiều lần quỹ dự trữ ngân hàng (thông qua hệ số tạo tiền) Hệ thống NHTM không thể tạo tín dụng từ hư không mà phải dựa vào tiền NHTW. Mức tạo tiền tín dụng do hệ số tạo tiền hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc quyết định. Một đồng tiền NHTW mà NHTM huy động được tạo khả năng cho NHTM cung ứng cho nền kinh tế số tiền tín dụng gấp nhiều lần; ngược lại mức cung tiền tín dụng của NHTM cũng giảm gấp nhiều lần khi tiền NHTW trong tay họ giảm đi. Cơ chế tạo ra tiền của NHTM xuất phát từ hai nguồn: Một là tiền gửi của công chúng và hai là sự cho vay của ngân hàng. Chính vì khả năng tạo ra bút tệ (tiền tín dụng) của các NHTM trong việc điều hoà khối tiền tệ, NHTW thường kiểm soát khối dự trữ của NHTM và theo dõi tỷ số giữa số dự trữ của ngân hàng này với tổng số tiền gửi. Để điều hoà khối tiền tệ, NHTW sử dụng các phương tiện trực tiếp và gián tiếp. Những phương tiện trực tiếp có ảnh hưởng thẳng đối với khối tiền tệ lưu hành - bao gồm: kiểm soát các NHTM; nắm quyền quyết định về nhập khẩu vàng; ngăn chặn và hạn chế các luồng ngoại tệ nhập vào ngoài pháp luật....Phương pháp này thường sử dụng các mệnh lệnh hành chính - điều này không hề mâu thuẫn với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Những phương tiện gián tiếp có ảnh hưởng không chắc chắn, ảnh hưởng có xảy ra hay không là tuỳ ở phản ứng của các đối tượng, bao gồm: tăng hay giảm lãi suất chiết khấu; chính sách thị trường mở và chủ yếu thực hiện thông qua cơ chế thị trường mà công cụ chủ yếu trong cơ chế thị trường lại là công cụ lãi suất Như vậy, thông qua việc cung ứng tiền trung ương và các phương tiện trực tiếp hoặc gián tiếp, NHTW có khả năng điều hoà khối tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế. * Kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền (MV) Việc kiểm soát khối tiền tệ đơn thuần có nhược điểm là không lưu ý tới tốc độ lưu hành tiền tệ. Cái gì ảnh hưởng mạnh mẽ đến vật giá, không chỉ có khối tiền tệ M, mà còn có tốc độ lưu hành tiền tệ V nữa. Vậy kiểm soát khối lượng M chưa đủ, mà phải lưu ý tới V, hay đúng hơn là kiểm soát MV mà người ta gọi là trào lượng tiền tệ, tức là tổng số lượng tiền tệ dùng để chi trả trong khoảng thời gian nhất định. Nhưng việc kiểm soát MV rất khó, bởi vì tuỳ thuộc vào cách hành động của các chủ thể kinh tế riêng biệt trong sử dụng tiền tệ. Nó tuỳ thuộc vào niềm tin của những người này đối với giá trị tiền tệ, sự tiên liệu của họ về thời cơ kinh tế, những cơ hội làm ăn sinh lời, khuynh hướng tiêu xài của dân chúng, lòng tin vào chính sách kinh tế của Nhà nước. Ngoài ra, còn tuỳ thuộc vào khả năng thanh toán của ngân hàng, trình độ kỹ thuật ngân hàng, mức độ tin tưởng của dân chúng đối với ngân hàng. ở những nước công nghiệp phát triển, các tiện ích ngân hàng được sử dụng rộng rãi, các chủ thể kinh tế quen dùng séc trong thanh toán. tổng số thanh toán các cuộc giao dịch bằng phương tiện này lên đến 70-80% trên tổng số thanh toán của dân cư. Vì vậy, NHTW kiểm soát số chi trả của xã hội qua hệ thống ngân hàng bằng cách tính tổng trị giá séc đưa đi giao hoán tại NHTW và theo dõi sự biến chuyển của nó. ở nước ta, việc dùng séc trong dân cư ít thông dụng, dùng tiền mặt để chi trả là phổ biến, cho nên một khối tiền mặt rất lớn lưu thông bên ngoài hệ thống ngân hàng, vượt ra ngoài tầm kiẻm soát của NHTW. Đó là đầu mối gây bất ổn cho nền kinh tế một cách đột biến và cũng là lý do cần phải thu hút lượng tiền trong tay dân cư vào hệ thống ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn hoặc dùng séc để thanh toán - là một yếu tố cần thiết để cho việc thực thi CSTT được hữu hiệu. * Bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền bằng cách ổn đ._.ịnh vật giá Giá trị quốc nội của đồng tiền là sức mua của nó đối với hàng hoá và dịch vụ trong nước. Sức mua của đồng tiền biến đổi ngược chiều với vật giá. Khi mức vật giá chung gia tăng, sức mua của đồng tiền giảm. Ngược lại, khi mức vật giá chung giảm, sức mua của đồng tiền tăng. Sức mua đồng tiền tăng khi mức vật giá chung giảm chỉ là điều đáng mừng khi nào do năng suất chung tăng lên. Thật vậy, trong trường hợp này, nhà sản xuất tuy bán lẻ với giá hạ hơn, nhưng vẫn có lời vì nhờ năng suất tăng, giá thành mỗi đơn vị sản phẩm vẫn thấp hơn giá bán. Nhà sản xuất có lời, họ vẫn tiếp tục sản xuất, chẳng những duy trì được việc làm mà còn có thể tăng thu nhập cho nhân viên, nếu đó là do năng suất lao động tăng. Trái lại, nếu vật giá chung giảm không do năng suất mà do mức cầu trên thị trường giảm lại là một biểu hiện đáng lo. Vật giá giảm tuy sức mua của đồng tiền tuy có tăng nhưng đó chỉ là tăng nhất thời, vì người sản xuất có thể rơi vào tình trạng lỗ lãi. Họ có thể xét lại kế hoạch sản xuất, có thể sẽ bớt nhân công bớt số lượng sản xuất nếu tình trạng hạ giá, hàng hoá tồn đọng kéo dài. Tình hình đó mà lan rộng, thất nghiệp sẽ trầm trọng, làm giảm số cầu của thị trường, làm cho kinh tế suy thoái thêm. Do đó, CSTT phải nhằm đảm bảo mức vật giá chung ổn định. Sự ổn định của vật giá là điều cần thiết để mọi người được an tâm, tin tưởng trong việc tính toán đầu tư, vì đầu tư là cuộc tính toán lâu dài. Vậy cần có sự ổn định lâu dài mới khuyến khích sức đầu tư. Trong trường hợp không duy trì được sự ổn định, một mức vật giá tăng hàng năm ở mức 2% hay 3% là mức gia tăng thuận lợi cho sự phát triển mà CSTT có thể chấp nhận được. Lẽ tất nhiên, một CSTT có thể tác động tới sự gia tăng năng suất trong hoạt động sản xuất của các chủ thể kinh tế vẫn là điều mong mỏi. * ổn định trị giá quốc ngoại của đồng tiền Giá trị quốc ngoại của đồng tiền thường được đo lường bởi tỷ giá hối đoái thả nổi. Trước đây nhiều nước đo bằng tỷ giá chính thức, những sự đo lường đó là không chính xác về mặt quy luật kinh tế cũng như về thực tế biến động thường xuyên của thị trường Một sự biến động của tỷ giá hối đoái ít hay nhiều đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế trong nước tuỳ theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tế. Trái lại, mọi biến chuyển về tiền tệ cũng tác động tới mối tương quan giữa tiền tệ trong nước với tiền tệ nước ngoài. Tỷ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của khối dự trữ ngoại hối, thị trường và chính sách ngoại hối, tình hình giá cả trong nước. Do đó, một CSTT nhằm ổn định kinh tế trong nước cần phải đi đôi với những biện pháp nhằm ổn định tỷ giá hối đoái. Về phương diện tiền tệ, khối dự trữ ngoại hối, thị trường vàchính sách hối đoái, tỷ giá hối đoái là những yếu tố tác động mạnh tới khối tiền tệ.Cụ thể sẽ được xem xét ở phần sau 2.1.2.2 Mục tiêu kinh tế CSTT - là một trong những công cụ quản lý vĩ mô, vì vậy nó còn nhằm đến mục tiêu chung của nền kinh tế đó là mục tiêu kinh tế với hai nội dung chính sau: - Tăng trưởng kinh tế, trong đó có mục tiêu đạt đến mức nhân dụng cao - Giảm thiểu những thăng trầm chu chuyển kinh tế * Mục tiêu tăng trưởng kinh tế Hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò tác động của tiền tệ đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên cùng thống nhất chung về tác động của lãi suất và số cầu tổng hợp của khối tiền tệ trên mức tăng trưởng đó. Tác động đó thể hiện thông qua hai hướng: Một là, khi khối tiền tệ M tăng, nói chung nó có tác dụng làm giảm lãi suất điều này sẽ khuyến khích đầu tư, kết quả là tổng sản phẩm xã hội cũng tăng. Và nếu tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm xã hội lớn hơn nhịp gia tăng dân số, sẽ có tăng trưởng kinh tế. Hai là, sự gia tăng khối tiền tệ đưa đến tác dụng làm tăng số cầu tổng hợp: các thành phần dân cư có nhiều tiền hơn sẽ có xu hướng tiêu thụ nhiều hơn và mãi lực trên thị trường tăng, điều này giúp giải quyết được những mặt hàng tồn đọng, làm cho các doanh nghiệp tăng gia sản xuất, hàng hoá lưu thông, phân phối với nhịp điệu rộn nhịp hơn. Đến một lúc nào đó, doanh nghiệp cũng tăng thêm việc mua sắm máy móc, trang thiét bị, nhà xưởng.... Cả hai sức cầu về sản phẩm tiêu dùng và về sản phẩm đầu tư đều tăng, từ đó tổng sản phẩm xã hội cũng tăng. Và nếu mức gia tăng đó lớn hơn nhịp gia tăng dân số, sẽ có tăng trưởng kinh tế. Trong cả hai trường hợp, đều có sự gia tăng nhân dụng, vì đây là một trong ba yếu tố đầu vào quan trọng nhất quyết định số lượng sản xuất đồng thời nhân công là yếu tố được tăng lên trước khi xí nghiệp gia tăng sản xuất. Đối với xí nghiệp quản lý có hiệu quả, việc tuyển dụng thêm nhân công chỉ xảy ra khi số nhân lực hiện hữu được tận dụng. Như vậy, muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ngoài việc gia tăng khối tiền tệ trong CSTT, cần có những biện pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất để đạt đến mức toàn dụng nhân công. * Giảm thiểu những thăng trầm chu chuyển kinh tế Theo các quy luật kinh tế, sự cân bằng chỉ là tạm thời, tương đối. Sự tăng trưởng kinh tế cũng vậy. Không một quốc gia nào đạt được một mức độ tăng trưởng thường xuyên đều đặn, kéo dài mãi với thời gian; cũng như không có được một hiện tượng lạm phát ỳ mãi được mà thường có sự xâm nhập tự nhiên của các loại lạm phát cầu kéo hoặc lạm phát chi phí đẩy. Lý do cơ bản là số cầu dù tiếp tục gia tăng nhưng số cung không thể đáp ứng kịp thời, liên tục mãi mãi. Nó bị hạn chế bởi nhiều yếu tố, đáng kể trước tiên là nhân công. Khi nền kinh tế tăng trưởng liên tục và đến một lúc nào đó nhân công trở nên khan hiếm, hạn chế mức gia tăng sản xuất. Đó là chưa kể nguyên liệu có thể cũng khan hiếm. Sự khan hiếm của yếu tố này sẽ góp phần trong việc nâng cao gía thành và giá bán trên thị trường. Vào thời điểm này, nếu khối lượng tiền tệ tiếp tục gia tăng mà không kiềm chế, số cầu tăng mạnh, hậu quả tất yếu làm tăng vật giá, tình trạng lạm phát ngày càng trầm trọng hơn. Tình hình đó buộc phải giảm bớt khối tiền tệ, từ đó làm giảm số cầu, làm giảm khuynh hướng tiêu thụ của dân cư. Hoạt động kinh tế rơi vào tình trạng ngưng trệ. Trước tình hình này, các đơn vị sản xuất hàng hoá bán chậm lại, hàng tồn kho tích luỹ ngày càng nhiều, tất sẽ có phản ứng là giảm bớt sản xuất. Trong trường hợp tiên đoán tình hình tiêu thụ trên thị trường xấu nhiều hơn nữa và có tính cách lâu dài, họ phải sa thải bớt nhân công, sau một thời gian nghỉ giảm lương. Nhân công thất nghiệp, giảm thu nhập, giảm tiêu pha, kéo theo suy giảm trong khối lượng sản xuất. Không ai chịu đầu tư trong tình huống thế này và tình trạng suy thoái sẽ tiếp tục lan rộng. Để chặn đứng suy thoái, NHTW sẽ phải thi hành CSTT mở rộng, khuyến khích các ngân hàng cho vay để nâng số cầu lên, giúp các nhà sản xuất nhìn nhận lạc quan trên thị trường. Nhân công thất nghiệp nhiều và lâu ngày nên giá thuê công nhân sẽ rẻ, hàng tồn kho giảm dần khiến cho nhu cầu đầu tư tăng lên. Những sự kiện đó đưa nền kinh tế từ giai đoạn suy thoái sang giai đoạn phục hưng. Lúc này tiền được rót thêm vào guồng máy kinh tế, kích thích tiêu thụ tăng mạnh, kéo theo sức gia tăng trong số lượng đầu tư, trước tiên là thay thế máy móc hư hỏng, rồi dần dần đổi mới guồng máy sản xuất. Từ đó có khả năng nền kinh tế chuyển sang giai đoạn phục hưng sang giai đoạn tăng trưởng mạnh. Trong nền KTTT hiện đại, NHTW bằng những phương tiện thông tin, dữ liệu và nhạy cảm của mình, phải sử dụng các công cụ của CSTT đúng lúc, kịp thời. Có thể cùng một lúc sử dụng nhiều công cụ như lãi suất chiếu khấu, lãi suất tín dụng, hoạt động thị trường mở.... để ngăn chặn ngay suy thoái hoặc kìm hãm ngay sự tăng trưởng, khi nền kinh tế bắt đầu đến điểm " nóng ", không để tăng trưởng vượt mức tiềm năng. Vai trò, mục tiêu của CSTT trong việc làm giảm thấp những thăng trầm chu chuyển kinh tế,vì thế đã có một ý nghĩa quan trọngtrong việc thực hiện mục tiêu kinh tế-xã hội 2.2. Các công cụ truyền thống của CSTT Nếu như trong nền kinh tế chỉ huy tập trung, NHTW điều hành CSTT bằng các công cụ trực tiếp, các chỉ tiêu pháp lệnh... thì trong nền KTTT, với hệ thống ngân hàng hai cấp và các trung gian tài chính đa dạng, NHTW phải điều hành CSTT bằng các công cụ kinh tế thích hợp, gồm các công cụ truyền thống, các công cụ hỗ trợ và các công cụ trung gian thích hợp với điều kiện trong từng giai đoạn ở mỗi nước. 2.2.1. Công cụ truyền thống của các nước * Dự trữ bắt buộc Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các NHTM có khả năng biến những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ thống, khả năng sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả năng này, NHTW buộc các NHTM phải trích một phần tiền huy động được, theo một tỷ lệ quy định, gửi vào NHTW không được hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế mức cung tiền thông qua khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các NHTM. (cụ thể sẽ được trình bày ở chương sau) Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần khống chế (bị " vô hiệu hoá " về mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và khả năng tín dụng của các NHTM. Nếu NHTW nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm hạn chế khả năng cho vay và khả năng thanh toán của các NHTM đồng thời khối lượng tín dụng trong nền kinh tế sẽ giảm. Ngược lại, nếu NHTW hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tức khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các NHTM cũng tăng lên; khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng, và có xu hướng mở rộng khối lượng tiền. Do tính chất và tác dụng như vậy nên tại các nước NHTW có quy định, phân biệt tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho từng loại tiền gửi theo nguyên tắc: tiền gửi tiết kiệm có tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp nhất, sau đó là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn là có tỷ lệ cao nhất. * Tái chiết khấu Tái chiết khấu là phương thức để NHTW đưa tiền vào lưu thông, thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu, NHTW đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống NHTM thực hiện việc tạo tiền, đồng thời khai thông thanh toán. Trong hoạt động của các NHTM, những nguồn vốn huy động được thường được sử dụng vào các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp có thể bằng hình thức chiết khấu (mua lại) thương phiếu; mua ngoại tệ, mua tín phiếu kho bạc v.v... Vì vậy đến khi có những nhu cầu trước mắt về vốn, NHTM phải đến NHTW xin tái cấp vốn dưới hình thức tái chiết khấu các kỳ phiếu, các giấy tờ có giá trị nói trên. Tái chiết khấu là đầu mối tăng tiền trung ương, tăng khối tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền tệ và điều hành CSTT. Tuỳ theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ thuộc yêu cầu của việc thực hiện CSTT trong giai đoạn ấy; cần thực hiện chính sách " nới lỏng " hay " thắt chặt " tín dụng mà NHTW quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt ra từng thời kỳ phải có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai đoạn đó. Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu, buộc các NHTM cũng phải nâng lãi suất tín dụng (lãi suất chiết khấu) của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên làm " cầu " về tín dụng sẽ giảm và đương nhiên kéo theo giảm cầu tiền tệ. Trường hợp ngược lại, tức là NHTW kích thích tăng về " cung ". ở các nước, công cụ nghiệp vụ trực tiếp để thực hiện tái chiết khấu là thương phiếu hoặc các loại tín phiếu là những công cụ rất thông dụng trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. * Hoạt động thị trường mở Nếu như công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu... đến để xin " tái cấp vốn " thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của NHTW để điều khiển khối lượng tiền tệ Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động việc phát hành tiền trung ương vào lưu thông (làm tăng khối lượng tiền cơ sở) bằng cách mua trái phiếu hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông (làm giảm khối lượng tiền cơ sở) bằng cách bán trái phiếu trên thị trường này. Bằng cách này, NHTW không những điều khiển được khối lượng tiền tệ mà thông qua " giá cả " mua - bán trái phiếu để điều khiển lãi suất tín dụng. Thực tế, ta thấy rằng giá cả trái phiếu và lãi suất tín dụng có mối quan hệ ngược chiều. Khi giá trái phiếu tăng lên tức chi phí và rủi ro của việc nắm giữ trái phiếu giảm xuống, do vậy cầu về trái phiếu sẽ giảm điều đó cũng đồng nghĩa với việc cầu về tiền sẽ tăng, người ta sẽ thích giữ tiền hơn và lãi suất sẽ giảm. 2.2.2. Công cụ bổ trợ: can thiệp thị trường hối đoái ở một số nước, trong những thời kỳ cần thiết, NHTW sử dụng công cụ can thiệp thị trường hối đoái nhằm hỗ trợ cho các công cụ khác của CSTT. Khi can thiệp thị trường hối đoái, NHTW điều khiển khối lượng tiền tệ bằng cách mua vào hay bán ra các loại ngoại tệ hoặc vàng. Sự ổn định tương đối của đồng tiền một nước được đánh giá bằng sự ổn định tương đối của tỷ giá hối đoái. Trước đây, một số nước sử dụng cơ chế tỷ giá cứng nhưng cách này không phản ánh thực tế những biến động thường xuyên trên thị trường tiền tệ. Một sự biến động tỷ giá dù không lớn nhưng cũng ảnh hưởng đến kinh tế trong nước tuỳ theo mức độ hoà nhập với kinh tế thế giới bên ngoài. Ngược lại, những biến động về tỷ giá cũng tác động tới mối tương quan tiền tệ trong nước với tiền tệ nước ngoài. Tỷ giá bị chi phối bởi cung - cầu ngoại hối trên thị trường, chính sách ngoại hối; ngoài ra còn bị chi phối bởi giá cả nội địa. Khi sử dụng công cụ can thiệp thị trường hối đoái, NHTW thường xem xét đến các vấn đề về chính sách hối đoái, tỷ giá, dự trữ ngoại tệ và thị trường hối đoái. Dữ trữ ngoại hối: mỗi nước đều có khối lượng dự trữ ngoại hối, lớn hay nhỏ tuỳ theo khả năng của nền kinh tế nước đó có thể tạo lập được nhiều hay ít. Nó là kết quả của tổng số thu và chi ngoại tệ (kể cả vàng) của một nước trong một thời hạn nhất định, thường là một năm. Dự trữ ngoại hối tăng khi thu lớn hơn chi, bất kể thu, chi ngoại hối vì lý do gì. Điều đó có được khi NHTW mua bán ngoại hối: NHTW mua ngoại hối, khối tiền tệ tăng thêm; ngược lại khi bán ngoại hối, khối tiền tệ sẽ giảm-nếu những yếu tố khác không đổi. Vì vậy, đây là một yếu tố để góp phần ổn định tiền tệ vì trong khối lượng ngoại hối dự trữ có một bộ phận được dành để thực hiện nhiệm vụ quỹ bình ổn. ở nhiều nước trước đây chính phủ quy định tỷ lệ quan hệ giữa ngoại hối dự trữ và khối lượng tiền tệ trong lưu thông chính là do trước đây phần lớn dự trữ ngoại hối là quỹ bình ổn. Thị trường hối đoái: là nơi mua-bán ngoại tệ. Trong một nước mà thị trường hối đoái tổ chức quá đơn sơ sẽ làm cho NHTW chẳng những không thể tích luỹ được dự trữ ngoại hối, mà cũng không chủ động được nguồn cung ứng tiền tệ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Các đơn vị này khi có nhu cầu ngoại tệ lại đi mua ngoại tệ trôi nổi trên thị trường không tổ chức bằng lượng tiền đồng Việt Nam mà hậu quả cuối cùng là số lượng tiền đồng lớn luân lưu ngoài hệ thống ngân hàng - một yếu tố làm tăng áp lực vay tiền ngân hàng để bổ sung nguồn vốn lưu động và NHTM lại thiếu tiền. Từ đó áp lực trên nhu cầu phát hành tiền sẽ gia tăng. Chính sách hối đoái:Trên nguyên tắc, nước ta áp dụng chính sách ngoại hối có quản lý chặt chẽ. Điều 51 - pháp lệnh NHNN nêu rõ: tất cả các tổ chức - cá nhân có ngoại tệ đều phải bán cho ngân hàng, được phép kinh doanh ngoại hối và nếu có nhu cầu thì mua ngoại tệ tại ngân hàng (các tổ chức thì có thể mua ngoại tệ tại thị trường hối đoái trong nước) Nhưng trên thực tế, các tổ chức-cá nhân lại có thể mua bán ngoại tệ trôi nổi ngoài những nơi đã chỉ định ở trên vì vậy mà có một lượng lớn ngoại tệ đang luân chuyển bên ngoài ngân hàng. Lại nữa, chúng ta đang tổ chức thị trường mua-bán ngoại tệ với tỷ giá dựa trên cơ sở cung-cầu thị trường, đồng thời vẫn duy trì được cơ chế tiền gửi bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, để rồi nhận lấy hết những rủi ro không đáng có. Xin đưa ra đây một nghịch lý: trong khi chúng ta đang khuyến khích thu hút ngoại tệ vào trong nước để đầu tư phát triển kinh tế, nhưng với cơ chế và cách làm của ta, chúng ta phải mang ngoại tệ ra gửi ở nước ngoài, vô tình đã làm lợi cho những nước có ngoại tệ đó. Nhìn theo một khía cạnh nào đó thì những vấn đề nêu trên là một điều hại vì NHTW qua hệ thống ngân hàng trung gian không mua được nhiều ngoại tệ cho nhu cầu của mình. Và như vậy, khả năng điều hoà lưu lượng tiền tệ và một lượng ngoại tệ đang nằm bên ngoài thẩm quyền điều tiết cuả hệ thống ngân hàng. Trái lại, nhìn ở khía cạnh khác, điều đó cũng có mặt thuận lợi là giảm gớt căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ của những đơn vị sản xuất kinh doanh. Một chính sách độc quyền hối đoái cứng nhắc sẽ không tránh khỏi những căng thẳng nói trên. Đó là điểm cần lưu ý khi thiết lập một thị trường hối đoái có tổ chức trong tương lai với những quy định sao cho uỷen chuyển thích hợp với tình hình thực tế trong nước mà không cản trở sản xuất, kinh doanh. Tỷ giá hối đoái: là giá cả của ngoại tệ được biểu hiện bằng đồng tiền quốc gia (đồng bản tệ). Là một loại giá cả nên cũng giống như các bất kỳ một giá cả nào khác, chức năng kinh tế của nó là nhằm ảnh hưởng đến sự phân bố các nguồn tài nguyên thực sự.Tỷ giá hối đoái là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, cũng là đòn bẩy kinh tế tác động mạnh đến các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu trong nước. Một tỷ giá hối đoái quá thấp có tác dụng khuyến khích nhập khẩu nhưng gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng xuất khẩu tương đối đắt, khó bán ra nước ngoài - tức là gây trở ngại cho ngành sản xuất trong nước hướng về xuất khẩu, bất lợi cho những cuộc chuyển dịch ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước, khối lượng dự trữ ngoại hối dễ bị xói mòn. Ngược lại, một tỷ giá hối đoái cao bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu vì làm cho hàng nhập khẩu đắt hơn, hàng xuất khẩu rẻ hơn để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, dễ tìm được thị trường hơn. Do đó những ngành sản xuất có nguyên liệu nhập khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu gặp trở ngại, trong khi ngành sản xuất hàng cho thị trường nước ngoài thuận lợi hơn, lưu lượng ngoại tệ có khuynh hướng chuyển vào trong nước khá hơn, khối lượng dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng. Vì vậy muốn tỷ giá hối đoái hợp lý thì tỷ giá phải được phản ánh trong cơ cấu giá cả nội địa, phù hợp với CSTT thời kỳ đó. Mức tỷ giá quá cao hay quá thấp là so với tỷ giá thực tế được quyết định bởi cung cầu ngoại tệ trên thị trường hối đoái hay thị trường đen (nơi nào không có thị trường hối đoái tự do). Tỷ giá hối đoái cao hay thấp là tỷ giá do NHTW ấn định và cố định, còn tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do hoàn toàn không có sự can thiệp của NHTW, là tỷ giá thả nổi do cung cầu ngoại tệ trên thị trường quyết định. Thế giới đã trải qua một thời kỳ khá lâu áp dụng tỷ giá hối đoái ấn định, cố định từ thập niên 30 đến giữa thập niên 70. Từ năm 1973, nhiều nước công nghiệp hàng đầu đã thử nghiệm tỷ giá hối đoái thả nổi và sau đó áp dụng tỷ giá hối đoái thả nổi có " quản lý ". Đến năm 1976, các nước phương Tây đã đạt được một thoả hiệp Jamaica, công khai chấp nhận hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, vì cả hai tỷ gía cố định cứng nhắc và tỷ giá thả nổi hoàn toàn đều có hạn chế tác động lên nền kinh tế trong nước và sự chuyển dịch tài nguyên ngoại tệ trên bình diện quốc tế. Theo hệ thống đó, NHTW can thiệp để giữ cho tỷ giá hối đoái không thăng trầm qúa đáng, làm dịu bớt những tình trạng bất ổn định của nền kinh tế trong nước. NHTW can thiệp trên thị trường hối đoái bằng cách tham gia mua hay bán ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái biến đổi trong một biên vực không quá lớn, nhờ đó chế ngự bớt tác động đối với nền kinh tế trong nước. Khi giá ngoại tệ lên cao, NHTW đưa ngoại tệ ra bán đẻ làm chậm bớt nhịp tăng giá ngoại tệ. Dĩ nhiên điều đó chỉ làm được khi dự trữ ngoại hối còn ở mức độ tương đối khả quan. Ngược lại, khi giá ngoại tệ xuống quá thấp, NHTW sẽ dùng tiền trong nước mua ngoại tệ vào để duy trì một biên vực biến đổi ít tác động mạnh đối với sinh hoạt kinh tế trong nước, nhất là để tái tạo khối dự trữ ngoại tệ đã bị thiếu hụt. 3. Vai trò của CSTT trong nền KTTT Trong nền kinh tế vĩ mô có bốn lĩnh vực đóng vai trò trọng tâm và cũng là bốn mục tiêu tổng quát, đó là sản lượng cao, tạo nhiều công ăn việc làm, ổn định mức giá thị trường tự do và cân bằng cán cân ngoại thương. Để đạt được những mục tiêu đó, kinh tế vĩ mô cũng đòi hỏi cho mình một hệ thống công cụ chính sách lớn, mang tính chất bao trùm. Cùng với chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại... CSTT quốc gia xuất hiện trên vũ đài khoa học kinh tế thế giới, như một đòi hỏi tất yếu khách quan trước những bước thăng trầm của toàn bộ nền kinh tế ở tất cả các nước trong những thế kỷ vừa qua. Trong suốt thời gian đầy rẫy những thăng trầm đó, nhân loại đã phát hiện đầy đủ những khuyết tật của cơ chế thị trường trên tất cả các phương diện, như trình độ tự phát cao đã phát sinh tác dụng điều tiết mù quáng; cách chạy theo lợi nhuận tối đa, dẫn tới lừa đảo, tội ác, vi phạm pháp luật, đồng tiền chi phối các quan hệ xã hội, quan hệ chính trị, phân hoá giàu nghèo ngày một tăng, bất công xã hội phát triển; phá huỷ môi trường sinh thái... Thế giới văn minh ngày nay càng thấy rõ hơn bao giờ hết các khiếm khuyết và khuyết tật đó, nên không ai phủ nhận vai trò của Nhà nước trong các hoạt động quản lý vĩ mô, không ai chuyển giao quyền lực điều hành tự giác của con người, mà đại diện là Nhà nước sang cho bàn tay vô hình của cơ chế thị trường thuần tuý. CSTT quốc gia là một trong những công cụ quản lý vĩ mô đó. Chúng ta đã biết, tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là một hàm số có nhiều biến số, như năng lực sản xuất, cung-cầu xã hội...Trong nền KTTT, tổng sản phẩm quốc dân, mức tăng trưởng kinh tế ổn định thường xuyên chủ yếu do sự ổn định tương đối giữa cung - cầu thị trường hàng hoá quyết định. Cung cầu hàng hoá xã hội lại được quyết định bởi giá cả, thu nhập (trong đó một phần thu nhập có liên quan trực tiếp đến việc làm hoặc thất nghiệp) và nhiều yếu tố khác. Tất cả yếu tố đó không thể nằm ngoài tổng thể cung cầu và khối lượng tiền tệ. Trong nền KTTT, quan hệ cung-cầu là một phạm trù khách quan, nó có tác dụng chi phối ý chí của những thể nhân hoạt động trong thị trường tác động một cách khách quan với tư cách là một quy luật, mà là quy luật khởi phát. Quy luật cung-cầu tác động vào giá cả, lợi nhuận, cạnh tranh, quy mô sản xuất, công ăn việc làm... và đều hướng tới mục tiêu nâng cao phúc lợi cho từng cá nhân và từ đó làm lợi cho toàn xã hội. Và tuy là thông thường mỗi cá nhân không có chủ định củng cố lợi ích công cộng, mà cũng chẳng biết mình đang củng cố lợi ích này ở mức nào. Cá nhân này chỉ có mục đích bảo vệ sự an toàn và thành quả riêng của mình. Trong khi đó, dưới lợi ích của mình, anh ta thường bảo vệ luôn lợi ích của xã hội một cách hữu hiệu hơn cả khi anh ta có ý định làm việc này như Adam Smith đã nhận xét. Đó chính là do sự chi phối của quy luật cung cầu mà ông gọi là bàn tay vô hình. Như chúng ta đã biết, trong kinh tế vĩ mô, giá cả được xác định bởi giao điểm giữa đường cung và đường cầu. Do đó, khi có sự thay đổi về cung hay về cầu, điểm giao nhau sẽ thay đổi nghĩa là giá cả sẽ thấp hơn hoặc cao hơn. Tuy nhiên, khi cả cung và cầu hàng hoá đều tăng thì giao điểm đó có thể không đổi trị số tung độ, nghĩa là giá cả không đổi song khối lượng tiền tệ cung ứng tăng lên, thu nhập và việc làm tăng, sản lượng tăng, tổng GNP tăng. Trường hợp này là kết quả của việc điều hành CSTT, điều khiển khối lượng tiền tệ cung ứng tăng lên phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, phù hợp với mức tăng trưởng, và còn có thể hài hoà với mức thu nhập và đảm bảo việc làm. Đó là một quá trình tác động theo phản ứng dây chuyền trong nền kinh tế. Vì khi NHTW tăng mức cung hợp lí về tiền tệ trong điều kiện nếu sản xuất đang ở dưới mức tiềm năng; vốn tín dụng trở nên dồi dào, lãi suất tín dụng có xu hướng giảm xuống. Kết quả là việc tìm những dự án đầu tư mới trở nên có lợi hơn, do đó số vốn đầu tư tăng lên làm tăng sản lượng. Nếu NHTW tăng mức cung của tiền tệ lên thì sẽ dẫn đến mức đầu tư cao hơn và do vậy, tổng mức cầu tăng lên gấp đôi. Khoa học kinh tế hiện đại đã chứng minh mối quan hệ giữa sản lượng tiềm năng với tổng mức cung, tổng mức cầu rằng: khi sản lượng và tỉ lệ có việc làm ở mức rất cao (vì vậy tỉ lệ thất nghiệp ở mức rất thấp) thì lạm phát (và giá cả) bắt đầu tăng mạnh; tương tự như vậy khi thất nghiệp ở mức độ cao thì lạm phát giảm xuống. Nếu thất nghiệp giảm xuống dưới mức bản lề hay dưới mức tỉ lẹ tự nhiên thì lạm phát bắt đầu tăng. Lịch sử kinh tế nhiều nước cũng đã chứng kiếm, nếu việc tăng mức cung về tiền tệ trong một cuộc suy thoái thì GNP thực tế tăng tương đối mạnh, còn giá cả thì tăng chút ít. Nhưng khi tổng sản lượng đã đến mức tối đa tức là khi sản lượng tiềm năng sản xuất thực tế đã tương ứng với tỉ lệ thất nghiệp thì việc thay đổi lượng tiền ít có tác động đối với việc thay đổi sản lượng thực tế. Để ngăn chặn khả năng lạm phát, NHTW sẽ sử dụng các công cụ của CSTT để thu hẹp tổng mức cung tiền tệ (qua hoạt động thị trường mở) và sẽ đẩy lãi suất tăng lên. Việc này làm giảm khối lượng đầu tư, làm giảm tổng mức cầu, do đó làm giảm sản lượng; trong trường hợp này, giá cả cũng giảm xuống. Đó là tất cả những yêu cầu mà sứ mệnh nền KTTT đã giao phó cho CSTT phải gánh vác sứ mệnh mà khoa học kinh tế đã biết cách dùng CSTT và tài chính để ngăn chặn bất cứ một cuộc suy thoaí nào nổ ra, không cho nó phát triển lên thành những cuộc khủng hoảng mãn tính kéo dài, đưa nền KTTT phát triển không ngừng, phục vụ nhu cầu cuộc sống con người. chương 2: Thực tiễn việc sử dụng các công cụ của CSTT ở nước ta trong nền KTTT Việc đổi mới kinh tế đất nước đòi hỏi ngân hàng phải tổ chức lại về mặt cơ cấu bộ máy, cũng như mạng lưới các loại hình và hệ thống ngân hàng, phù hợp với quy luật hình thành và phát triển các tổ chức ngân hàng trong KTTT. Sự ra đời các NHTM làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, việc đa dạng hoá các tổ chức tài chính đúng với chức năng vốn có là đòi hỏi tất yếu, mà lịch sử của chúng ta trước đây đã từng diễn ra. ở Việt Nam, các NHTM được ra đời từ năm 1988 không phải do qúa trình tự phát mà được Nhà nước điều khiển, tổ chức phù hợp với tính chất kinh tế của thời đại, với yêu cầu của giai đoạn đầu chuyển sang KTTT ở nước ta. Tuy chưa có một lịch sử lâu đời, nhưng các NHTM cũng phát huy đầy đủ khả năng, vai trò của chúng. Vì vậy với vai trò của mình, NHTW phải thiết lập một hệ thống công cụ mới phù hợp với điều kiện hiện tại nhằm điều hành CSTT. 1. Công cụ truyền thống nêu trong pháp lệnh Để điều hành CSTT trong điều kiện đã có hệ thống ngân hàng hai cấp và các tổ chức tài chính đa dạng, tại các nước người ta sử dụng một số công cụ truyền thống. Các công cụ đó cũng tương đối phù hợp với điều kiện nước ta, do đó tại pháp lệnh ngân hàng nhà nước cũng nêu ra để ngân hàng áp dụng. Đó là: dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở. 1.1. Dự trữ bắt buộc (DTBB) Việc sử dụng công cụ DTBB có thể làm thay đổi khối lượng tiền lưu thông, thậm chí thay đổi theo một bội số lớn hơn rất nhiều. Vì công cụ này có tác dụng hạn chế khả năng tạo tiền của các NHTM mà chúng ta sẽ nghiên cứu dưới đây. 1.1.1. Mối quan hệ giữa khả năng tạo tiền và DTBB Khả năng tạo tiền của các NHTM đã biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền ký gửi mới lớn hơn gấp nhiều lần khi tiền qua nhiều ngân hàng. Khả năng tạo tiền tạo ra một bội số của mức cung tiền tệ. Khả năng này liên quan trực tiếp đến công cụ DTBB tối thiểu trong hệ thống công cụ của CSTT.Vì vậy nghiên cứu kỹkhả năng này sẽ có biện pháp tốt để sử dụng công cụ DTBB . Chúng ta hãy xem xét ví dụ sau để thấy được các NHTM đã tạo bút tệ như thế nào: Hãy bắt đầu từ một khoản tiền gửi tại NHTM 1 và chẳng hạn với số tiền là 1.000.000 đ. Sau khi nhận được số tiền gửi này, NHTM 1 phải thực hiện DTBB theo quy định của NHTW - được giả sử với tỷ lệ là 10%. Thế thì NHTM 1 phải trích 100.000 đ nộp tại NHTW và còn lại 900.000 sẽ đem cho vay hoặc thực hiện các bút toán thanh toán khác theo chức năng vốn có của mình. Giả thiết rằng, số tiền 900.000 đ cho A vay hoặc thanh toán tiền gửi trước đây được A mang đến gửi ở NHTM 2. Tại NHTM này, cũng như trên, phải trích 10% để nộp lên NHTW và chỉ còn lại 90% - tức 810.000 đ sẽ đem cho vay hoặc thực hiện các bút toán thanh toán khác. Cứ tiếp tục như vậy, từ nguồn 1.000.000 đ ban đầu đó, đến các ngân hàng tiếp theo. Chúng ta có thể tổng hợp qua bảng số sau: Vị trí từng NH trong chuỗi dây chuyền Tiền gửi mới (đ) Cho vay và đầu tư mới(đ) Dự trữ mới (đ) NH ban đầu NH thứ 2 NH thứ 3 v.v... 1.000.000 900.000 810.000 ... 900.000 810.000 729.000 ... 100.000 90.000 81.000 ... Tổng của toàn bộ hệ thống ngân hàng 10.000.000 9.000.000 1.000.000 Như vậy khi tỷ lệ DTBB là 10% (tiền gửi mới của ngân hàng tiếp theo sẽ là 90% hay 9/10 so với số tiền gửi của ngân hàng trước nó) thì tổng số tiền gửi mới được hệ thống ngân hàng tạo ra sẽ gấp 10 lần tiền gửi ban đầu. Có thể khẳng định rằng, việc tạo ra tiền gửi mới gấp bao nhiêu lần là phụ thuộc trực tiếp vào tỷ lệ DTBB đã quy định. Điều này có liên quan tới việc sử dụng công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc trong hệ thống công cụ của CSTT. Tỷ lệ này có tính chất hai mặt: Mặt là tích cực là, khi tỷ lệ DTBB càng cao thì mức độ an toàn trong hoạt động của các NHTM càng cao. Mặt tiêu cực là, công cụ này của CSTT sẽ kém hiệu lực khi tỷ lệ này càng cao sẽ đồng thời dẫn đến hệ số sử dụng vốn cuả các NHTM quá thấp, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách lãi suất, thậm chí bất lợi cho kinh doanh và huy động vốn của các NHTM; đình đốn tín dụng. Tỷ lệ DTBB đặt ra, nếu quá cao đến mức nào đó sẽ làm cho các NHTM mất hẳn khả năng tạo tiền, một khả năng cần phải có của ngân hàng đồng thời mất khả năng kinh doanh. Sự ra đời của hệ thống NHTM là phù hợp với yêu cầu khách quan của KTTT nhưng khả năng tạo tiền của nó đòi hỏi NHTW phải thiết lập một hệ thống công cụ của CSTT thích hợp để quản lý và điều khiển khối lượng tiền. 1.1.2 Quá trình sử dụng công cụ DTBB ở Việt Nam Tại điều 45 pháp lệnh NHNN đã quy định " tỷ lệ DTBB ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Tr._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35140.doc
Tài liệu liên quan