Công tác đánh giá rủi ro trong hoạt động kinh doanh ở Bảo Việt nhân thọ Hà Nội

Lời Mở đầu Sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của ngành Bảo hiểm Việt Nam là sự ra đời của Nghị định 568/TC/TCCB ngày 22/6/1996 cho phép thành lập Công ty Bảo hiểm nhân thọ (gọi tắt là Công ty Bảo Việt Nhân thọ) trực thuộc Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam và là một trong những doanh nghiệp được Nhà nước xếp hạng đặc biệt. Việc triển khai Bảo hiểm Nhân thọ ở Việt Nam là nhằm mở rộng, tăng cường vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kết hợp v

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công tác đánh giá rủi ro trong hoạt động kinh doanh ở Bảo Việt nhân thọ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới các doanh nghiệp bảo hiểm khác hình thành một thị trường bảo hiểm đa dạng, năng động tại Việt Nam để từng bước hoà nhập vào thị trường Bảo hiểm khu vực và Thế giới. Bản chất của hoạt động kinh doanh Bảo hiểm nhân thọ là kinh doanh một loại hàng hoá, dịch vụ đặc biệt gắn liền với các rủi ro liên quan đến tuổi thọ của con người như: tử vong hay sống đến một độ tuổi nhất định... Vì thế Công ty Bảo hiểm nhân thọ phải sử dụng số liệu thống kê của cộng đồng nói chung hoặc của các Công ty Bảo hiểm nói riêng để tính toán xác suất rủi ro đối với người được bảo hiểm như: tỷ lệ chết trong dân số, tỷ lệ thương tật, chi phí y tế phẫu thuật... Thông thường tỷ lệ chết trong số những người được bảo hiểm sẽ khác với tỷ lệ chết trong dân số; tỷ lệ chết thực tế khác với tỷ lệ chết giả định để tính phí. Chênh lệch dương giữa tỷ lệ chết đưa vào tính phí và tỷ lệ chết thực tế sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cho Công ty Bảo hiểm nhân thọ, trong đó công cụ chính để đạt được là công tác đánh giá rủi ro. Đánh giá rủi ro là công tác hết sức quan trọng trong lĩnh vực kinh doanh Bảo hiểm nhân thọ. ý nghĩa nổi bật của công tác này là ngăn ngừa sự trục lợi từ phía khách hàng chuẩn bị tham gia bảo hiểm và đảm bảo sự công bằng giữa những người đang được bảo hiểm. Đây là trách nhiệm của Công ty bảo hiểm nhân thọ và bằng cách thực hiện công tác này một cách thoả đáng, Công ty Bảo hiểm nhân thọ sẽ có được uy tín trên thị trường, tránh thua lỗ về tài chính đồng thời đảm bảo được khả năng thanh toán cho khách hàng. Với mong muốn công tác đánh giá rủi ro thực sự phát huy được hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Bảo Việt Nhân thọ, tôi quyết định chọn đề tài “công tác đánh giá rủi ro trong hoạt đông kinh doanh ở Bảo Việt nhân thọ Hà Nội” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn tốt nghiệp này được hoàn thiện với sự quan tâm giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của Ban Giám đốc Công ty, phòng Phát hành hợp đồng, cán bộ trong Công ty Bảo Việt Nhân thọ Hà nội và cô giáo hướng dẫn tốt nghiệp chính Tô Thiên Hương. Tôi vô cùng biết ơn Công ty Bảo Việt Nhân thọ, cô giáo Tô Thiên Hương vì những giúp đỡ quý báu trong quá trình thực tập để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này. . Phần I lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ I- Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm nhân thọ 1. Sự cần thiết: Trong những năm qua, Thế giới đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của ngành Bảo hiểm thương mại nói chung và lĩnh vực Bảo hiểm nhân thọ nói riêng. Ngoài vai trò chủ yếu là giúp dân cư khôi phục được tình hình tài chính khi họ gặp những rủi ro liên quan đến cuộc sống của mình, Bảo hiểm nhân thọ còn là phương tiện hữu hiệu nhất để tập trung nguồn vốn khổng lồ trong dân cư để đầu tư phát triển nền kinh tế . Bảo hiểm nhân thọ bao gồm nhiều loại khác nhau: Đó có thể là hình thức tiết kiệm kết hợp với rủi ro (VD hai loại hình bảo hiểm đang được triển khai ở nước ta là An sinh giáo dục và Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp 5,10 năm), hoặc chỉ mang tính chất rủi ro (Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn ) hoặc là hình thức trợ cấp (Niên kim nhân thọ). Bảo hiểm nhân thọ nước ta mới ra đời vào năm 1996, nhưng trên Thế giới Bảo hiểm nhân thọ đã ra đời từ năm 1853. Thực tế từ ấy đến nay đã chứng minh được rằng Bảo hiểm nhân thọ chính là một hình thức tiết kiệm tốt nhất để đảm bảo cho việc đối phó với rủi ro đe doạ cuộc sống con người. Chả thế mà ở Nhật Bản bình quân mỗi năm tiền đóng bảo hiểm nhân thọ là 1909USD/ người, tiếp đến là Anh 1141USD/người/năm, ở Mỹ 838USD/người /năm, ở Pháp 826 USD/người /năm. Các nước Châu á cũng không kém phần, năm 1990 phí bảo hiểm nhân thọ của Châu á chiếm 33,8% tổng số phí trên toàn thế giới và năm 1993 chỉ riêng phí bảo hiểm nhân thọ của các nước Đông á cũng đã là 45,1tỷ USD trên tổng số phí bảo hiểm toàn ngành là 61,6 tỷ USD. Sở dĩ có được kết quả như vậy là vì: Mua Bảo hiểm nhân thọ vẫn đảm bảo được tính chất tiết kiệm mà nghĩa vụ của người tham gia lại rất đơn giản. Nếu một gia đình ngay từ khi sinh con ra, muốn dành cho con đến năm 18 tuổi có một khoản tiền là 10 triệu đồng thì mỗi tháng gia đình ấy chỉ phải đóng 39400 đồng (tương tự như tiền tiết kiệm bỏ ống vậy). Tuy cũng là tiết kiệm, nhưng việc tiết kiệm ở đây hoàn toàn khác với việc gửi tiết kiệm ở Ngân hàng để lấy lãi. Khi gửi tiền ở Ngân hàng, thường người ta phải đem theo một khoản tiền lớn và đến tận Ngân hàng để gửi. Vả lại chẳng có Ngân hàng nào nhận tiền gửi với số lượng ít (cụ thể như hiện nay thì chẳng có Ngân hàng nào nhận khoản tiền gửi vài chục nghìn đồng). Còn tham gia Bảo hiểm nhân thọ, cũng là để dành tiết kiệm nhưng người mua bảo hiểm nhân thọ chỉ cần có một số tiền nhỏ và đóng đều đặn hàng tháng mà thôi. Thậm chí nếu do công việc bận rộn họ chỉ cần gọi điện cho cơ quan bảo hiểm biết ý định là sẽ có người đến phục vụ tận nơi. Mục đích của người gửi tiền là sau một thời hạn nào đó sẽ nhận được cả vốn lẫn lãi. Nhưng nếu gửi ngân hàng thì việc rút lãi và vốn chỉ được thực hiện khi đến hạn ghi trên sổ tiết kiệm. Khi chưa đến hạn, nếu rút tiền ra người gửi tiền sẽ không được hưởng lãi và đặc biệt là nếu chẳng may người gửi tiền gặp rủi ro bất hạnh thì cũng chẳng được thêm khoản tiền nào nữa. Hơn hẳn thế, Bảo hiểm nhân thọ không những đem lại cho gia đình một kế hoạch tài chính dài hạn như nói trên mà còn tạo cho các gia đình sự ổn định về kinh tế, ngay cả khi một thành viên nào đó trong gia đình (kể cả người tham gia mua bảo hiểm hay người được bảo hiểm) chẳng may gặp nỗi bất hạnh dẫn đến tử vong hoặc thương tật vĩnh viễn. Thật vậy, nếu người đi mua bảo hiểm nhân thọ là người cha hoặc người mẹ, chẳng may bị thương tật vĩnh viễn, hay bị tử vong do những rủi ro nêu trong hợp đồng bảo hiểm hoặc khi người được hưởng quyền lợi bảo hiểm bị thương tật vĩnh viễn do tai nạn thì không những gia đình ấy được lĩnh tiền trợ giúp tai nạn ngay để có thể trang trải những chi phí nằm viện, điều trị hoặc phẫu thuật mà điều quan trọng nhất là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của họ vẫn tiếp tục có hiệu lực đến khi hết hạn để người tham gia mua bảo hiểm nhân thọ và người thừa hưởng của họ vẫn được lĩnh đủ số tiền họ mong muốn (theo quy định cụ thể) và đặc biệt hơn kể từ khi rủi ro xảy ra, không ai trong gia đình họ phải đóng thêm phí bảo hiểm nhân thọ nữa. Người mua Bảo hiểm nhân thọ ngoài việc được nhận toàn bộ số tiền của mình khi đến hạn, ngoài việc được trợ giúp khi họ không may gặp rủi ro như đã nói trên, họ còn được nhận một khoản tiền lãi thông qua việc đầu tư của Công ty Bảo hiểm nhân thọ và các khoản lãi này được lĩnh vào các kỳ 5 năm, 10 năm, 15 năm kể từ khi ký kết hợp đồng hoặc sau khi hết hạn hợp đồng. Rõ ràng ngoài tính chất hỗ trợ rủi ro thì hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ còn mang tính tiết kiệm, Nó thực sự mang lại cho các tầng lớp dân cư sự ổn định về tài chính. Bảo hiểm nhân thọ còn giúp họ tích cóp được những khoản tiền lớn trong trường hợp không có rủi ro xảy ra để họ có thể sử dụng cho nhu cầu ngày một nâng cao như: dành cho con cái một khoản tiền lớn đến tuổi trưởng thành, giúp cho người già có thêm khoản tiền bổ sung vào khoản lương hưu trí ... Có thể nói rằng: Để đối phó với rủi ro chúng ta có nhiều cách như tiết kiệm, lập quỹ dự phòng, kêu gọi viện trợ của người thân hay sự quyên góp, hoặc tham gia bảo hiểm... Nhưng cho đến nay tham gia Bảo hiểm nhân thọ vẫn là phương thức đối phó với những rủi ro đe doạ cuộc sống của mình và người thân một cách ưu việt nhất. Nó bao hàm toàn bộ những ưu điểm của các phương pháp khác, thể hiện được cả tính kinh tế và xã hội . Tuy nhiên, đóng góp không phải là cầu nối xảy ra bất hạnh để được hưởng, vì ai cũng cảm thấy “ người sống là đống vàng “. Sức khoẻ là vốn quý, ai cũng muốn tránh điều không hay, chỉ cần ta sống thêm bình yên sức khoẻ đã là hạnh phúc rồi. Vì thế đóng góp một phần nhỏ mọn của mình giúp cho người không may trên tinh thần mình vì mọi nguời cũng là một việc đúng lương tâm. Nói tóm lại, trong nền kinh tế thị trường sự xuất hiện các dịch vụ bảo hiểm nói chung và Bảo hiểm nhân thọ nói riêng là rất cần thiết, là tất yếu của quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. 2- Tác dụng của bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm nhân thọ có rất nhiều tác dụng khác nhau đối với đời sống kinh tế xã hội. Tuy vậy chúng ta có thể khái quát những tác dụng chủ yếu của Bảo hiểm nhân thọ đó là : 2.1- Đối với mỗi cá nhân, gia đình và doanh nghiệp * Trước hết nó thể hiện sự quan tâm lo lắng của người chủ gia đình đối với bản thân mình và những người phụ thuộc, của ông chủ đối với công nhân... Đồng thời nó còn đóng vai trò là giá đỡ về tài chính cho người tham gia hay người được bảo hiểm khi không may gặp phải rủi ro . Thật vậy: Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cuộc sống của con người, trong đó có những nhân tố mà chúng ta có thể kiểm soát được, nhưng cũng không ít nhân tố chúng ta không thể kiểm soát được, đó là những rủi ro bất ngờ. Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển thì ngoài những yếu tố về thiên nhiên, những yếu tố về kỹ thuật cũng tác động không nhỏ đến cuộc sống của con người. Máy móc kỹ thuật do bàn tay, khối óc con người tạo ra làm cho năng xuất lao động tăng lên, sản phẩm ngày càng dồi dào và cuộc sống con người dần được cải thiện. Nhưng trên thực tế, đó cũng chính là nguồn gốc gây ra biết bao tai nạn bất ngờ khi mà con người sử dụng những phương tiện kỹ thuật đó. Vì thế mà người xưa có nói “Sinh hữu hạn ,tử bất kỳ “ (Sinh ra có kỳ hạn, chết không định kỳ là vậy). Hơn nữa, con người là một yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, không gì có thể thay thế vai trò của con người trong hoạt đông kinh doanh được. Cho nên khi rủi ro xảy đến với con người thì không chỉ gây thiệt hại cho bản thân họ mà còn làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động liên quan đến họ . Nói tóm lại, khi rủi ro bất ngờ xảy ra đối với bất kỳ một thành phần kinh tế nào đều dẫn đến gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh đồng thời kèm theo thiệt hại, tổn thất về người và của. Nếu tổn thất đó nhỏ thì các thành phần kinh tế có thể khôi phục lại được, nhưng nếu tổn thất thiệt hại lớn vượt quá khả năng tài chính thì ai sẽ là người đứng ra cáng đáng, giúp đỡ họ . Đây là nỗi lo lắng mà bất kỳ cá nhân gia đình hay doanh nghiệp đều phải quan tâm. Vì vậy, từ khi Bảo hiểm nhân thọ ra đời nó đã giải toả được nỗi lo lắng của mỗi cá nhân, gia đình hay doanh nghiệp đối với người phụ thuộc, làm cho họ yên tâm sản xuất hơn và sự thật là Bảo hiểm nhân thọ đã khẳng định được rằng nó luôn luôn là người sẵn sàng cùng đối phó với bất kỳ rủi ro nào đe doạ cuộc sống của con người, cụ thể là : + Trong trường hợp người được bảo hiểm không may gặp rủi ro thì gia đình có một khoản tiền để chi trả các khoản vay nợ, chi phí về viện phí và khám chữa bệnh, các khoản chi phí về mai táng và chôn cất ... + Nhiều người mua Bảo hiểm nhân thọ với mục đích cung cấp tài chính cho những người phụ thuộc khi không may họ gặp rủi ro hay chi phí về sinh hoạt, nuôi dưỡng và chăm sóc con cái, cung cấp khoản tiền trợ cấp cho các thành viên trong gia đình trong thời gian họ tìm kiếm kế sinh nhai khác hoặc có thêm thu nhập. * Thứ hai: Tham gia Bảo hiểm nhân thọ cũng có nghĩa là tiết kiệm một cách thường xuyên có kế hoạch. Khi quyết định mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì những khoản phí nhỏ phải nộp hàng tháng trích từ ngân sách của mỗi gia đình có thể coi như những khoản tiền điện, tiền nước... Trong điều kiện kinh tế phát triển và ổn định, những gia đình có thu nhập và chi tiêu ở mức cao thì trích một khoản tiền nhỏ mua mua bảo hiểm nhân thọ không ảnh hưởng lớn đến toàn bộ quá trình chi tiêu trong tháng của gia đình và như vậy hàng tháng họ còn tiết kiệm được một khoản tiền nhất định. Khoản tiền tiết kiệm này thực chất đã tạo lập được một nguồn quỹ nhất định cho gia đình, góp phần tạo quỹ giáo dục con cái và có tiền để chi dùng khi về hưu... Ngày nay khi xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định thì việc học hành của con cái trở lên rất quan trọng đối với hầu hết các bậc cha mẹ. Một trong những mục tiêu hàng đầu của các bậc làm cha, làm mẹ là có đủ khả năng tài chính để gửi con họ vào các trường đại học cũng như đầu tư tạo điều kiện cho việc học tập của con cái mình. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, chi phí cho giáo dục và đào tạo ngày càng cao, nó chiếm một phần rất lớn trong tổng chi phí của gia đình. Vì thế khi con người còn khả năng làm việc, còn khả năng tích luỹ thì việc dành mỗi tháng một khoản tiền nhỏ để lo cho tương lai con cái sau này là việc ai cũng muốn làm. Rủi ro bất ngờ có thể khiến chúng ta lâm vào tình trạng bất hạnh: Cái chết của người cha hoặc người mẹ đang làm việc là đồng nghĩa với việc giảm nguồn ngân sách gia đình và do đó ảnh hưởng đến tương lai của con cái. Loại hình bảo hiểm cho con đến tuổi trưởng thành hay Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp sẽ cùng gánh vác lo cho con cái của người tham gia bảo hiểm khi họ gặp rủi ro. Trên Thế giới có rất nhiều chương trình quốc gia được thiết lập để đảm bảo cho các cá nhân có nguồn thu nhập khi về hưu. Mặc dù vậy, số thu nhập này thường không đủ đảm bảo cho cuộc sống của người về hưu. Bởi vậy nhiều người đã mua Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp trong những năm họ đang làm việc hay hợp đồng bảo hiểm trợ cấp hưu trí để có thêm thu nhập khi về hưu. * Thứ ba: Hiện nay có rất nhiều đối tượng có tiền nhàn rỗi và muốn đầu tư theo phương thức dàn trải rủi ro. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ rất phù hợp và trở lên rất hấp dẫn các đối tượng này. Sở dĩ họ mua sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ là vì: Mặc dù tỷ lệ lãi xuất được trả có thể thấp hơn lãi xuất của một số loại hình đầu tư khác nhưng nó có một số ưu việt mà một số loại hình đầu tư khác không có đó là : + Số phí phải đóng mỗi lần là tương đối nhỏ nên phù hợp với nhiều đối tượng hơn. + Người tham gia bảo hiểm không phải mang tiền đi đầu tư mà nhân viên của Công ty bảo hiểm đến tận nhà thu . + Các sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ không những mang tính chất tiết kiệm mà còn chứa đựng tính chất rủi ro: Nghĩa là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đảm bảo hỗ trợ khó khăn về tài chính cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bằng một khoản tiền lớn ngay cả khi họ mới kịp tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ . + Chính sách thuế thu nhập của các loại hình bảo hiểm nhân thọ ưu việt hơn các loại hình đầu tư khác. + Đảm bảo tính chất tích luỹ một khoản tiền lớn với số tiền tiết kiệm nhỏ và thường xuyên. * Thứ tư: Như chúng ta đã biết, sự thiệt hại về kiến thức chuyên môn và sự cống hiến của người chủ chốt có thể ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: VD, một người bán hàng chủ chốt hoặc vài người ký hợp đồng kinh doanh quan trọng gặp rủi ro dẫn đến thiệt hại về tính mạng hay thương tật thì doanh nghiệp sẽ mất đi một người chủ chốt giỏi, hoạt động kinh doanh có thể bị xáo trộn. Hơn nữa công việc kinh doanh bắt buộc phải tính đến chi phí đào tạo hoặc tìm kiếm người thay thế. Hợp đồng bảo hiểm cho cá nhân chủ chốt sẽ đảm bảo những chi phí cho doanh nghiệp trong khi tìm kiếm hoặc đào tạo người thay thế . Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển thì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều được chuyên môn hoá, mỗi công nhân đóng vai trò hết sức quan trọng trong từng khâu của quá trình sản xuất. Nếu một công nhân hay một nhóm công nhân bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp sẽ làm gián đoạn quá trình sản xuất, điều đó cũng đồng nghĩa với việc làm giảm doanh thu của doanh nghiệp, tiếp đó doanh nghiệp còn phải tuyển nhân viên thay thế, chi phí cho việc tuyển dụng và đào tạo mới, trợ cấp tai nạn lao động... Có thể nói rằng trong nền kinh tế thị trường, một ông chủ biết kinh doanh là người biết lo xa, biết lường trước những rủi ro bất ngờ. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhóm sẽ đáp ứng được nguyện vọng đó của họ . Bên cạnh đó thì Bảo hiểm nhân thọ còn góp phần nâng cao sức khoẻ của nhân dân, vì trong quá trình kinh doanh để đạt hiệu quả cao, Công ty luôn tìm cách bảo vệ sức khoẻ cũng như tính mạng của người được bảo hiểm nhằm tối thiểu hoá rủi ro. ở các nước trên thế giới, trước khi tham gia bảo hiểm nhân thọ, người tham gia phải trải qua một đợt kiểm tra sức khoẻ tại các trung tâm y tế do công ty bảo hiểm chỉ định. Nếu đủ tiêu chuẩn mới được tham gia bảo hiểm. Như vậy, người tham gia bảo hiểm nhân thọ còn được lợi là kiểm tra sức khoẻ không mất tiền, Mặt khác, khi người được bảo hiểm gặp rủi ro ốm đau, phẫu thuật, tàn tật Công ty Bảo hiểm cũng chi trả một số tiền để họ phục hồi sức khoẻ nhanh chóng. ở Pháp năm 1995 chi phí chăm sóc y tế và thuốc men đạt 682 tỷ France(12,4tỷ USD). Trong đó, các Công ty Bảo hiểm tham gia thanh toán 3,1% cũng vào năm 1995:78 tỷ France(14,2 tỷ USD) được chi bởi các tổ chức hỗ trợ, trong đó 32% là bởi các Công ty Bảo hiểm. 2.2- Đối với nền kinh tế Bảo hiểm nhân thọ góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và các cơ quan xí nghiệp. Bởi lẽ ở bất kỳ quốc gia nào cũng có hệ thống bảo trợ xã hội, hệ thống y tế công cộng hay tổ chức nhân đạo... để bảo vệ con người. Vì thế hàng năm ngân sách nhà nước phải chi ra một khối lượng vốn lớn để trợ cấp cho các cá nhân hay tổ chức khi họ gặp rủi ro. Ngay ở mỗi xí nghiệp cũng luôn có một quỹ đề phòng cho các trường hợp rủi ro như bệnh tật, tai nạn bệnh nghề nghiệp... cho nhân viên của họ. Ngày nay, mỗi cá nhân mua bảo hiểm nhân thọ là một cách tự bảo vệ mình, chủ động đối phó với rủi ro đồng thời còn tạo ra một khoản tiết kiệm. Cuối cùng tham gia bảo hiểm nhân thọ không những đã làm giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước mà còn tạo ra một khoản tiết kiệm cho bản thân và cho xã hội . Hơn nữa, với chức năng huy động số lượng tiền nhỏ từ nhiều cá nhân nhằm hình thành một quỹ bảo hiểm tập trung để đầu tư vào nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Công ty Bảo hiểm đặc biệt là Công ty Bảo hiểm Nhân thọ đã trở thành một tổ chức, một nhà đầu tư chuyên nghiệp và chủ chốt trên thị trường vốn của nhiều nước. Tổng đầu tư của các Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Mỹ lên tới 1408 tỷ USD năm 1990, 1551 tỷ USD năm 1991, 1839 tỷ USD năm 1993 và 1977 tỷ USD năm 1994 đứng thứ ba sau các ngân hàng thương mại và các quỹ tương hỗ, đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ Pháp là 2638 tỷ France năm 1995 và 3089 tỷ France năm 1996 . Nếu trong một thời kỳ dài trên thế giới,hoạt động đầu tư của các Công ty Bảo hiểm phi nhân thọ được xem như hoạt động bổ trợ nhằm gia tăng thêm lợi nhuận ngoài phần lợi nhuận từ hoạt động bảo hiểm thì ngay từ khi loại hình bảo hiểm nhân thọ được đưa ra trên thị trường, đầu tư đã trở thành một hoạt động hết sức quan trọng không thể tách rời và có thể nói nó quyết định đến sự sống còn của Công ty Bảo hiểm nhân thọ. ở Việt Nam, với đội ngũ nhân viên và đại lý hoàn toàn mới, kinh nghiệm về bảo hiểm nhân thọ còn rất ít ỏi nhưng tính đến 31/12/1999, nghĩa là sau hơn ba năm hoạt động Bảo Việt nhân thọ đã ký được hơn 37607 hợp đồng với tổng số phí trên 120 tỷ đồng. Dự kiến đến năm 2000 tổng số phí sẽ lên tới trên 200 tỷ đồng, với những tiến triển như hiện nay chúng ta có thể hy vọng đến con số hàng ngàn tỷ đồng trong những thập kỷ tới . Với đặc điểm nguồn vốn lớn, thời hạn dài và thường xác định được tương đối chắc chắn trách nhiệm phải thanh toán, quỹ bảo hiểm nhân thọ sẽ là một nguồn vốn rất quan trọng nhằm thoả mãn cơn khát về vốn của Việt Nam cho đầu tư phát triển trong nhiều thập kỷ tới. 2.3- Đối với xã hội Bảo hiểm Nhân thọ góp phần tạo lập nên một phong cách, tập quán sống mới. Tham gia Bảo hiểm Nhân thọ thể hiện một nếp sống đẹp đó là tự biết lo lắng cho tương lai của mình và quan tâm đến tương lai của người thân, đồng thời góp phần giáo dục cho con em mình về đức tính tiết kiệm, cần cù và sống có trách nhiệm với người khác. Bảo hiểm nhân thọ góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như góp phần xoá đói giảm nghèo bù đắp những tổn thất, bất hạnh trong cuộc sống và góp phần giải quyết gánh nặng trách nhiệm cho xã hội đối với người lao động về hưu và người già. Bên cạnh đó, Bảo hiểm nhân thọ góp phần to lớn vào việc giải quyết việc làm cho xã hội. Bảo hiểm nhân thọ là ngành thu hút nhiều lao động hơn cả vì nó cần có một mạng lưới nhân viên đại lý khai thác bảo hiểm, máy tính, tài chính, kế toán... rất lớn. Vì vậy, việc phát triển Bảo hiểm nhân thọ sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tại Việt Nam trong khi vấn đề lao động thất nghiệp đang trở thành vấn đề bức xúc được cả xã hội quan tâm thì sự ra đời và phát triển của Bảo hiểm nhân thọ sẽ là một giải pháp rất có ý nghĩa. Điều này có thể suy đoán từ lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ của các nước khác: Chỉ tính riêng Công ty Bảo hiểm nhân thọ Manulife của Canada đã tuyển dụng tới 8000 người làm việc ở châu á, công ty Colonial Ltd của Autralia đã thu hút 17000 nhân viên khai thác, Đài loan có dân số 21triệu người thì có 1% dân số làm việc trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Thái Lan có 100000 người làm việc trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, Hồng Kông với dân số 6 triệu người có tới 30000 người làm đại lý bảo hiểm nhân thọ. Việt Nam đến cuối năm 1998 Bảo Việt nhân thọ đã tuyển 3785 cán bộ bán bảo hiểm trực tiếp. Nói tóm lại: Qua những con số cụ thể chúng ta thấy rất rõ tác dụng của Bảo hiểm nhân thọ và chắc chắn trong thời gian tới nó sẽ phát huy hết tính ưu việt góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta. II- Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ trên thế giới và ở Việt Nam 1- Trên thế giới Như chúng ta đã biết, đối với các nước trên Thế giới nhất là các nước phát triển thì Bảo hiểm Nhân thọ không còn là vấn đề mới mẻ, nó đã được biết đến từ lâu và được triển khai một cách rộng rãi . Hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ đầu tiên được cấp cho một công dân người Anh vào năm 1583, đó là ông Willam Gybbons. Ông chỉ phải đóng 32 bảng phí bảo hiểm và khi ông chết (trong năm đó ) người thừa kế của ông được hưởng số tiền 400 bảng. Hợp đồng đã kết thúc với lời cầu nguyện “Chúa hãy ban cho ông sức khoẻ và cuộc sống lâu dài “. Công ty Bảo hiểm tương hỗ đầu tiên là Hội bảo hiểm nhân thọ và hưu trí, hội này do các nhà buôn bán vải lụa thành lập ngày 4/10/1699. Nhưng chỉ ít năm sau đó đã bị thất bại, chìm đắm trong nợ nần. Bảy năm sau, Công ty Bảo hiểm nhân thọ suốt đời được thành lập. Nó giới hạn chỉ gồm 200 thành viên và quyền lợi bảo hiểm theo một mức duy nhất và không quy định trước, phụ thuộc vào số người chết trong năm. Trên cơ sở số tiền để dành được họ chia đều cho những người thừa kế của những người bị chết trong năm đó . Vào năm 1762 Công ty Bảo hiểm nhân thọ ở Anh được thành lập và bán hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho tất cả nhân dân, lần này họ tỏ ra thận trọng hơn trong việc quản lý các hợp đồng bảo hiểm. Khi cần thiết họ đã sử dụng việc đánh giá rủi ro đối với người tham gia bảo hiểm. Vì vậy hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ của họ đảm bảo hơn trong tương lai. Đây là lần đầu tiên Bảo hiểm nhân thọ được thực hiện dựa trên nguyên tắc bảo hiểm hiện đại . ở Châu Mỹ, hội bảo hiểm tương hỗ đầu tiên được thành lập là hội giúp đỡ người nghèo, các mục sư giáo hội trưởng lão bị khốn cùng, những người goá chồng, trẻ con của mục sư... Tổ chức này do hội nghị tôn giáo của các nhà thờ đề nghị và đã được thành lập năm 1759 ở Philadephia. Đây là Công ty Bảo hiểm nhân thọ lâu đời nhất tồn tại trên thế giới mặc dầu ngày nay người ta chỉ được biết với cái tên ngắn gọn: Quỹ của các mục sư giáo hội trưởng lão hay là quỹ nhân từ của các mục sư giáo hội trưởng lão. Tại Châu Âu Bảo hiểm nhân thọ không thịnh vượng cho đến khi chủ nghĩa tư bản được thừa nhận và toán học phát triển . Năm 1787 Công ty Bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của pháp ra đời nhưng đến 1792 thì bị phá sản. Vào tháng 12 năm 1819 Công ty Bảo hiểm nhân thọ khác được thành lập. ở Đức năm 1828, Công ty Bảo hiểm nhân thọ đầu tiên được ra đời và phát hành bảo hiểm tồn tích (tích luỹ). Công ty Bảo hiểm nhân thọ Prudential của Anh được thành lập năm 1853. Nó là Công ty đi đầu trong công nghiệp bảo hiểm . Tại Châu á, Nhật Bản là nước có Công ty Bảo hiểm nhân thọ đầu tiên hoạt động dưới hình thức kinh doanh là Công ty Meij. Sau bảy năm độc quyền, đến năm 1889 hai Công ty Bảo hiểm lớn ra đời đó là Công ty Bảo hiểm nhân thọ Teikoku và Nippon. Các Công ty Bảo hiểm nhân thọ của Anh và Nhật đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển Bảo hiểm nhân thọ ở các nước Châu á khác. VD ở Triều Tiên, các Công ty Bảo hiểm nhân thọ của Anh hoạt động hầu hết trên khắp đất nước, cho đến năm 1905 thì Nhật Bản giành lại hoàn toàn quyền quản lý Bảo hiểm nhân thọ. Trên đất nước Triều Tiên, Công ty Bảo hiểm nhân thọ Sim được thành lập năm 1929, là Công ty duy nhất do người Triều Tiên quản lý .Đến những năm của thập kỷ 60 nền công nghiệp Bảo hiểm nhân thọ hiện đại của Triều Tiên thực sự bắt đầu phát triển . ở Singapore, các Công ty Bảo hiểm nhân thọ của Anh đóng vai trò chính trong việc phát triển kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, Công ty Bảo hiểm nhân thọ trong nước của Singapore ra đời năm 1908, công nghiệp Bảo hiểm nhân thọ của Singapore thực sự phát triển vào năm 1965. Như vậy, Bảo hiểm nhân thọ trên thế giới ra đời từ rất lâu và nó đã trở thành một ngành dịch vụ không thể thiếu được trong cuộc sống của người dân. Thị trường Bảo hiểm nhân thọ trên thế giới hiện nay phát triển mạnh nhất là Nhật Bản, Mỹ, Tây âu. Những nước như Mỹ, Nhật có hàng trăm công ty Bảo hiểm nhân thọ lớn hoạt động và cung cấp một khối lượng vốn rất lớn cho nền kinh tế. Hiện nay có rất nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ như John-Handcock (Mỹ), Prudential (Anh), Colonial (úc), Nippon (Nhật)... có đội ngũ nhân viên hùng hậu và hoạt động trên khắp các châu lục. Các sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ rất phong phú và đa dạng với hàng trăm tên gọi khác nhau, sự cạnh tranh trong thị trường này khá gay gắt, đôi khi quá đáng gây rắc rối khó chịu cho khách hàng. Ngày nay, mỗi Công ty Bảo hiểm nhân thọ đều thiết kế những sản phẩm mang tính đặc thù riêng để đáp ứng yêu cầu tài chính của từng khu vực dân cư và phù hợp với chính sách kinh tế xã hội của từng quốc gia. Trên thế giới, cho tới thời điểm này doanh số của bảo hiểm nhân thọ chiếm khoảng 50% tổng doanh số của toàn ngành bảo hiểm . Năm 1990, phí bảo hiểm nhân thọ ở Châu Mỹ chiếm 34,85%; Châu âu chiếm 31,4%; Châu á là 33,8% so với tổng số phí bảo hiểm nhân thọ trên toàn thế giới. Năm 1993, tổng số phí bảo hiểm của các nước Đông á là 61,1 tỷ USD trong đó phí bảo hiểm nhân thọ là 45,1tỷ USD chiếm 73,8%, phí bảo hiểm phi nhân thọ là 16 tỷ USD chiếm 26,2%. Chúng ta có thể nhìn thấy sự lớn mạnh của Bảo hiểm nhân thọ so với Bảo hiểm phi nhân thọ và sự đóng góp của nó vào nền kinh tế của một số nước đặc trưng qua biểu sau : Phí bảo hiểm của một số nước trên thế giới năm 1993 Tên nước Tổng số phí bảo hiểm (triệu USD) Cơ cấu phí bảo hiểm (%) Phí BHNT trên đầu người (USD/ 1000 người) Tỷ lệ phí BHNT trên GDP (%) Tỷ lệ phí BH phi NT trên GDP (%) Nhân thọ Phi nhân thọ Hàn quốc 36.050 79,66 20,34 651.201 8,68 2,21 Nhật bản 320.143 73,68 26,14 1.909.870 5,61 1,98 Đài loan 9.886 68,77 31,23 325.311 3,14 1,43 Singapore 1.666 62,42 37,28 358.620 1,89 1,14 Philippin 1.238 59,43 40,57 11.294 1,38 0,92 Thái lan 2.127 53,64 43,36 19.470 0,92 0,80 Malasia 1.989 46,45 53,55 48.125 1,43 1,65 Indonesia 1.233 30,25 69,75 1.974 0,26 0,60 Mỹ 522.468 41,44 58,56 838.223 3,41 4,82 Đức 108.403 39,38 60,62 524.138 2,25 3,46 Pháp 84.803 65,55 43,65 826.320 3,80 2,92 Anh 102.360 64,57 35,47 1.141.450 7,00 3,85 Nguồn: Swiss Re/3/1995 Như vậy, ta thấy các nước trong khu vực Đông Nam á mà nền kinh tế có những nét tương đồng như nước ta: Thái Lan, Philippin, Malaisia, ở đó Bảo hiểm nhân thọ của họ có doanh số ngang bằng với Bảo hiểm phi nhân thọ. Vì vậy, chúng ta có thể tin tưởng rằng Bảo hiểm nhân thọ ở nước ta chắc chắn sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới . 2- ở Việt Nam Sự ra đời của Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam được biết đến qua một số sự kiện sau: Trước năm 1954, ở Miền Bắc những người làm việc cho Pháp đã được bảo hiểm và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi của các hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ này. Các hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ này đều do các Công ty Bảo hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện . Trong những năm 1970, 1971 tại Miền Nam, Công ty Hưng Việt đã triển khai một số loại hình bảo hiểm như : An Sinh Giáo Dục, Bảo hiểm trường sinh (Bảo hiểm nhân thọ trọn đời). Bảo hiểm tử kỳ với thời hạn 5,10,20 năm. Công ty này hoạt động trong một thời gian ngắn nên hầu hết mọi người dân chưa biết nhiều về loại hình bảo hiểm này . Năm 1987, Bảo Việt đã tổ chức nghiên cứu đề tài : “Lý thuyết về bảo hiểm nhân thọ và sự vận dụng thực tế vào Việt Nam “ và đã được Bộ Tài chính công nhận là đề tài cấp bộ. Trong đề tài này, nhóm nghiên cứu đã tổng hợp những lý thuyết cơ bản mà ngành Bảo hiểm nhân thọ trên Thế giới đã áp dụng, đồng thời nghiên cứu phân tích các điều kiện triển khai Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế xã hội những năm cuối thập kỷ 80. Việc triển khai Bảo hiểm nhân thọ phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà ở Việt Nam vào những năm cuối thập kỷ 80 chưa có được như: + Tỷ lệ lạm phát lúc đó rất cao và không ổn định. + Thu nhập của nhân dân thời gian đó rất thấp. Hơn thế nữa tỷ lệ lạm phát cao nên thu nhập của đa số nhân dân chỉ đủ để chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu thường ngày, phần dành ra để tiết kiệm rất ít . + Chưa có điều kiện để đầu tư phí bảo hiểm thu được. Công ty Bảo hiểm lúc đó chưa được phép sử dụng phí bảo hiểm đi đầu tư, môi trường đầu tư chưa phát triển. + Chưa có những quy định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ giữa Công ty Bảo hiểm và khả năng thanh toán của Công ty Bảo hiểm . Với những phân tích trên, việc vận dụng đề tài này chỉ dừng lại ở mức độ triển khai Bảo hiểm sinh mạng cá nhân thời hạn 1năm (Bắt đầu triển khai từ tháng 2 năm 1990). So với loại hình Bảo hiểm con người mà Bảo Việt triển khai trước đây thì phạm vi bảo hiểm đã được mở rộng (Chết do mọi nguyên nhân ). Thực tế triển khai bảo hiểm sinh mạng cá nhân cho thấy : + Việc lo xa cho gia đình khi không may người chủ gia đình bị mất đi mà chỉ tính đến trong vòng một năm là không hấp dẫn. Tâm lý người tham gia loại hình bảo hiểm này cũng không thoải mái. Do đó loại hìn._.h bảo hiểm này chỉ đáp ứng nhu cầu của những người già . + Mọi người tham gia bảo hiểm đều thắc mắc là sau 5,10 năm tham gia bảo hiểm mà không có rủi ro thì có nhận lại được gì không ? Với thực tế trên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, Bảo Việt đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu triển khai Bảo hiểm nhân thọ vào cuối năm 1993. Ngày 20/3/1996 Bộ Tài chính ký quyết định cho phép Bảo Việt triển khai hai loại hình Bảo hiểm nhân thọ đầu tiên là:Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5,10 năm và Bảo hiểm trẻ em. Ngày 22/6/1996 Bộ Tài chính đã ký quyết định số 568/QĐ/TCCB cho phép thành lập Công ty Bảo hiểm nhân thọ trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện đó đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự phát triển của ngành Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam. Như vậy, kể từ khi được triển khai loại hình Bảo hiểm nhân thọ đến năm 1999 thì Bảo Việt vẫn là doanh nghiệp Bảo hiểm duy nhất được phép kinh doanh nghiệp vụ này. Qua gần 4 năm hoạt động ta thấy Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam phát triển tương đối mạnh. Điều này được thể hiện qua một số chỉ tiêu mà Bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt đã đạt được từ khi thành lập tới nay. Kết quả hoạt động bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 Số HĐ còn hiệu lực vào cuối năm Hợp đồng 1265 16000 22975 37607 Số đại lý còn hoạt động vào cuối năm Đại lý 40 145 230 350 Doanh thu phí BH Tỷ đồng 0,91 16,977 30,054 56,022 Nguồn: Tổng hợp báo cáo tổng kết của Bảo Việt Nhân thọ từ 1996 đến 1999 Năm 1999 đã có dấu hiệu phục hồi của các nền kinh tế khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính. Đặc biệt cùng với tiến trình hội nhập, Chính phủ đã cho phép một số Công ty Bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Sự có mặt của các Công ty Bảo hiểm nước ngoài đã làm cho thị trường Bảo hiểm Việt Nam trở lên sôi động hơn, đồng thời cũng đặt các Công ty bảo hiểm trong nước những thách thức không nhỏ trong đó có Công ty Bảo hiểm nhân thọ Hà Nội . Năm 2000 là năm khởi đầu của thiên niên kỷ mới với nhiều thuận lợi nhưng cũng đầy khó khăn: Bảo Minh đã liên kết với Công ty Bảo hiểm nhân thọ Colonial Ltd của Australia để thành lập một liên doanh bảo hiểm nhân thọ, Prudential là một công ty đi đầu trong công nghiệp bảo hiểm nói chung và Bảo hiểm nhân thọ nói riêng đã rầm rộ triển khai chiến lược quảng cáo. Vì vậy từ năm 2000 công ty Bảo Việt nhân thọ cần phải năng động hơn, tích cực hơn, có những đối sách kịp thời để đáp ứng tốt cho sự phát triển trong điều kiện cạnh tranh . III. Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm nhân thọ 1- Đặc trưng của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ * Về mặt pháp lý: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa Công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, trong đó: - Công ty Bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm khi có sự kiện đã định trước như : + Thương tật. + Chết. + Hết hạn hợp đồng. + Sống đến độ tuổi nhất định... - Người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm đóng góp phí đầy đủ và đúng hạn. * Về mặt kỹ thuật: Bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ chứa đựng các cam kết và sự thi hành các cam kết này phụ thuộc vào tuổi thọ của con người. Như vậy Bảo hiểm nhân thọ giải quyết nỗi lo âu về an toàn nhưng nó chỉ gắn với các biến cố liên quan đến bản thân con người như: tử vong, sống sót, bệnh tật kéo theo mất khả năng lao động, thương tật và các chi phí y tế. Các sự cố này không phải luôn tương ứng với các thiệt hại. Ví dụ như: hiện tượng sống vượt quá một độ tuổi nhất định nào đó. Do đó Công ty Bảo hiểm phải sử dụng các số liệu thống kê của cộng đồng nói chung hoặc của các Công ty Bảo hiểm nói riêng để tính toán các xác suất về thương tật, rủi ro chết, chi phí y tế bệnh viện... Dựa vào sự phát triển kinh tế, xã hội mà Công ty Bảo hiểm còn đưa ra các giả thiết về lãi suất kỹ thuật để tính toán khả năng đảm bảo cho những trường hợp người được bảo hiểm sống đến hết hạn hợp đồng. Việc tính toán nói trên đòi hỏi cán bộ tính toán phải có kiến thức nhất định mới đảm bảo cho Công ty Bảo hiểm không bị thua lỗ và đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng. Chúng ta có thể nhận thấy đặc trưng của Bảo hiểm nhân thọ qua sự phân biệt giữa Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm phi nhân thọ dưới đây: (Trang sau) Bảng phân biệt giữa Bảo hiểm nhân thọ với Bảo hiểm phi nhân thọ Bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm phi nhân thọ 1. Phạm vi bảo hiểm: Con người. 2. Thời hạn bảo hiểm: 5, 10, 20 năm hoặc suốt đời. 3. Phí bảo hiểm: a. Nhân tố ảnh hưởng: - Thời gian tham gia. - Số tiền bảo hiểm. - Tỷ lệ lãi kỹ thuật. - Xác suất tử vong. b. Đóng phí: Có thể đóng theo tháng, quý, nửa năm, một năm. 4. Quyền lợi bảo hiểm: Được chi trả tiền bảo hiểm trong những trường hợp: - Chết. - Hết hạn hợp đồng. - Thương tật toàn bộ vĩnh viễn. 5. Tính chất: Vừa mang tính chất rủi ro vừa mang tính chất tiết kiệm. 1. Phạm vi bảo hiểm: Tài sản. Con người. Trách nhiệm. 2. Thời hạn bảo hiểm: Thường là một năm. 3. Phí bảo hiểm: a. Nhân tố ảnh hưởng: - Xác suất rủi ro. - Số tiền bảo hiểm. - Chế độ bảo hiểm. b. Đóng phí: Thường là đóng phí một lần ngay sau khi ký hợp đồng. 4. Quyền lợi bảo hiểm: Chỉ được bồi thường tổn thất trong giới hạn hợp đồng khi có tổn thất xảy ra. 5. Tính chất: Hoàn toàn mang tính rủi ro. Trên đây là những khác biệt chung nhất giữa Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm phi nhân thọ. Song để công tác đánh giá rủi ro có hiệu quả và sát thực cần phải có những điểm lưu ý trong Bảo hiểm nhân thọ 1.1- Những người có mặt trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. - Công ty Bảo hiểm (nhà Bảo hiểm). - Người ký (người tham gia) tức là người đã ký hợp đồng với nhà bảo hiểm. thường thì đó là người được bảo hiểm nhưng đôi khi không phải thế. Ví dụ, bố mẹ tham gia cho con cái... -Người được bảo hiểm là người mà cuộc sống của họ gắn liền với hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ. - Một hoặc nhiều người được hưởng quyền lợi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Khi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được ký kết nhà bảo hiểm phải gắn với hợp đồng mà không được từ bỏ trước khi hết hạn hợp đồng, còn người tham gia thì không bắt buộc phải như vậy. Bởi lẽ, các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trong trường hợp sống thường là các hợp đồng dài hạn được các cá nhân ký kết. Nguồn thu nhập của gia đình họ có thể thay đổi do vậy họ có thể không tiếp tục duy trì hợp đồng cho đến hết thời hạn được. 1.2- Sự phức tạp trong các mối quan hệ giữa người ký hợp đồng, người được bảo hiểm và người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Trong Bảo hiểm nhân thọ người ta có thể biết trước được ai là người được hưởng quyền lợi của hợp đồng, chẳng hạn nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp của sự cố bảo hiểm Đối với Bảo hiểm nhân thọ khi người được bảo hiểm chết, người được hưởng quyền lợi là người thừa kế hợp pháp hoặc có mối quan hệ thân thuộc với người đươcj bảo hiểm. (ví dụ: vợ hoặc chồng, con cái ...). Điều này cho thấy có hạn chế đối với người được bảo hiểm, không phải lúc nào cũng có thể tự do thay đổi người thừa hưởng quyền lợi, một số người khác cũng có thể được thừa hưởng từ người này. Trong Bảo hiểm nhân thọ các mối quan hệ giữa người ký hợp đồng, người được bảo hiểm, người thừa hưởng quyền lợi bảo hiểm là phức tạp và mang tính chất nguyên tắc hơn rất nhiều so với các loại hình bảo hiểm khác. 1.3- Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ rất nhậy cảm với các thông số mà chúng phụ thuộc như: Các khoản lợi tức tài chính sinh ra bởi các khoản tiền mà nhà bảo hiểm đã được nhận. Tuổi thọ của con người và biến động của chúng theo thời gian. 1.4- Trong bảo hiểm con người hầu hết các trường hợp không áp dụng nguyên tắc bồi thường và nguyên tắc khoán vì: Thứ nhất là: Trong Bảo hiểm trường hợp tử vong, nhà bảo hiểm sẽ trả số tiền bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết. Liệu có thể xác định được số tiền này một cách khách quan không? chắc chắn khái niệm giá cả không thể áp dụng cho con người được, tính mạng của con người là vô giá . Thứ hai là: Một người được bảo hiểm muốn gia đình hay người thân của anh ta hưởng một khoản tiền nhất định nào đó còn tuỳ thuộc vào thu nhập, hoàn cảnh gia đình của mình. Anh ta có quyền ấn định một khoản tiền bồi thường vào thời điểm ký hợp đồng với nhà bảo hiểm. Như vậy bảo hiểm trong trường hợp tử vong không nhằm vào việc bồi thường một thiệt hại và trong phạm vi một thiệt hại. Hơn nữa, trong nhiều loại hình bảo hiểm con người như bảo hiểm hưu trí chẳng hạn, biến cố dẫn đến nghĩa vụ của người bảo hiểm không có bản chất thiệt hại. Cho nên khái niệm thiệt hại không thể sử dụng trong bảo hiểm con người . Nhìn chung, việc giải quyết tổn thất trong bảo hiểm con người là một số tiền được ấn định trước và tách biệt với khái niệm bồi thường. Đó là nguyên tắc khoán được áp dụng trong hầu hết các loại hình bảo hiểm con người, loại trừ trường hợp hoàn trả các khoản chi phí y tế, khi bị bệnh hoặc tai nạn. Bảo hiểm ở đây mang tính chất bồi thường vì nhà bảo hiểm bồi thường cho người được bảo hiểm giá của sự chăm sóc thuộc trách nhiệm của anh ta. 1.5- Không có sự thế quyền trong Bảo hiểm nhân thọ Cùng một lúc khách hàng có thể tham gia nhiều loại hình Bảo hiểm con người và nếu có xảy ra sự cố nào đó thuộc phạm vi bảo hiểm của nhiều hợp đồng thì họ được nhận tất cả các khoản bồi thường từ các hợp đồng khác nhau. Người được hưởng quyền lợi từ người từ bảo hiểm con người có thể đồng thời nhận được các khoản bồi thường từ các hợp đồng mà chính họ tham gia và khoản bồi thường của người gây ra thiệt hại. Như vậy, nếu bảo hiểm nhân thọ có những điểm tương đồng với những loại hình bảo hiểm con người thì nó lại có những khác biệt rất lớn với các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ khác. Chính điều này đã làm cho việc đánh giá rủi ro trong bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng có những điểm khác biệt. 2- Các loại hình bảo hiểm nhân thọ. ở các nước trên Thế giới, hầu hết các Công ty Bảo hiểm nhân thọ đều đang bán 4 loại sản phẩm chính là: - Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn. - Bảo hiểm nhân thọ trọn đời. - Bảo hiểm trợ cấp hưu trí. - Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. 2.1- Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn. Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn đúng như tên gọi của nó: Nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm đối với người tham gia trong một thời gian nhất định gọi là thời hạn bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm chỉ được thanh toán trong trường hợp người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm sống qua thời hạn bảo hiểm sẽ không được thanh toán bất cứ khoản gì. Độ dài của thời hạn bảo hiêm rất khác nhau. Tuy nhiên, ngày nay thời hạn bảo hiểm của loại sản phẩm này ít khi dưới 1 năm. a) Đặc điểm cơ bản của loại sản phẩm bảo hiểm sinh mạng có thời hạn là: + Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm. + Thời hạn bảo hiểm được xác định theo năm hoặc theo tuổi. + Phí bảo hiểm không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm và đóng định kỳ. + Không có giá trị giải ước: Nếu còn sống qua thời hạn bảo hiểm thì không được hưởng quyền lợi bảo hiểm hoặc huỷ bỏ hợp đồng trước khi kết thúc hợp đồng sẽ không nhận được bất cứ một khoản nào. Chính vì vậy mà phí bảo thấp. + Cung cấp một số tiền bảo hiểm lớn với phí bảo hiểm thấp. + Phù hợp với người có thu nhập thấp nhưng cần đảm bảo trách nhiệm cao. b)Các sản phẩm thông thường của loại hình này được các công ty trên thế giới đang triển khai đó là: + Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn với số tiền bảo hiểm cố định (Bảo hiểm tử kỳ). + Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn có số tiền bảo hiểm giảm dần. + Bảo hiểm tiền vay. + Bảo hiểm cho những người chủ chốt trong doanh nghiệp. 2.2- Bảo hiểm nhân thọ trọn đời Đây là loại hình có thời hạn bảo hiểm không xác định và số tiền bảo hiểm chỉ được trả khi người được bảo hiểm chết. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời kết hợp yếu tố tiết kiệm với rủi ro và không trả thêm bất cứ quyền lợi nào . a) Đặc điểm chính của loại hình bảo hiểm này có thể rút ra là: + Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm chết . + Thời hạn không xác định . + Phí bảo hiểm được đóng định kỳ và không thay đổi . b) Các sản phẩm của loại hình này là: + Hợp đồng bảo hiểm trọn đời trong đó phí bảo hiểm đóng đến khi người được bảo hiểm bị chết (Hợp đồng đóng phí liên tục). + Hợp đồng bảo hiểm trọn đời trong đó phí bảo hiểm đóng định kỳ và đến một độ tuổi nhất định (Hợp đồng đóng phí hạn chế). + Hợp đồng có số phí bảo hiểm thay đổi. + Hợp đồng có số tiền bảo hiểm thay đổi . + Hợp đồng bảo hiểm trọn đời có chia lãi. + Hợp đồng bảo hiểm trọn đời không chia lãi. 2.3- Bảo hiểm trợ cấp hưu trí Là loại hình mà phí bảo hiểm được đóng ngay một lần. Sau đó, Công ty Bảo hiểm có trách nhiệm trả trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm từ khi người được bảo hiểm về hưu cho đến khi chết . Người ta thường kết hợp dạng bảo hiểm trợ cấp hưu trí với bảo hiểm hưu trí. Khi về hưu, người được bảo hiểm nhận số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm hưu trí và mua ngay hợp đồng trợ cấp hưu trí để đảm bảo cuộc sống khi về hưu cho đến khi chết . 2.4- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp đảm bảo rằng số tiền bảo hiểm được trả mà không quan tâm đến việc người được bảo hiểm có bị chết trong thời hạn bảo hiểm hay không với điều kiện người được bảo hiểm phải đóng phí theo như quy định. Mỗi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp đều quy định ngày hết hạn bảo hiểm. Vào ngày đó công ty bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm nếu anh ta còn sống. Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hết hạn hợp đồng thì số tiền bảo hiểm sẽ được trả cho người được hưởng quyền lợi vào ngày người được bảo hiểm chết . Như vậy, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp trả số tiền bảo hiểm ấn định dù người được bảo hiểm vẫn còn sống đến ngày đáo hạn của hợp đồng hoặc chết trước khi hết hạn hợp đồng. Ngày hết hạn hợp đồng có thể là ngày cuối cùng của một thời hạn nào đó ví dụ sau 5,10,20 năm...Phí bảo hiểm đóng cho loại bảo hiểm này cũng không đổi trong suốt thời hạn hợp đồng. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp thể hiện rõ sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm a) Đặc điểm chính của loại hình bảo hiểm này có thể rút ra là: Số tiền bảo hiểm được trả khi : + Hết hạn hợp đồng. + Người được bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm. + Thương tật toàn bộ vĩnh viễn. + Thời hạn bảo hiểm xác định ,thường là 5,10,20 năm. + Phí bảo hiểm đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm. + Có giá trị giải ước. b)Các sản phẩm của loại hình này thông thường là: + Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn và có chia lãi . + Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn và không chia lãi. + Bảo hiểm chi phí giáo dục cho trẻ em. + Bảo hiểm hưu trí. + Bảo hiểm hôn nhân. 3- Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ là một văn bản ghi nhân sự cam kết giữa Công ty Bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm trong đó Công ty Bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm khi xảy ra những sự kiện quy định trước: Thương tật, chết, hết hạn hợp đồng, sống đến một độ tuổi nhất định, kết hôn... Người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm đóng phí đầy đủ và đúng hạn. Từ đây, ta có thể phân biệt giữa hợp đồng bảo hiểm và đơn bảo hiểm để tránh sự nhầm lẫn. + Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận hợp pháp giữa các bên có liên quan. + Đơn bảo hiểm là một bằng chứng về một hợp đồng bảo hiểm do người bảo hiểm cấp ra trên cơ sở nội dung của hợp đồng bảo hiểm . Theo quy định thì đối tượng của Bảo hiểm nhân thọ là tất cả những người trong độ tuổi từ 1 đến 60. Với đối tượng trên thì người tham gia bảo hiểm nhân thọ có thể tham gia bất cứ loại hình nào theo nguyện vọng và yêu cầu của mình. Khi tham gia bảo hiểm thì người tham gia phải viết giấy yêu cầu bảo hiểm. Giấy này là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm, trong giấy này người tham gia phải kê khai đầy đủ: tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tình trạng sức khoẻ, bệnh tật... Và đây là căn cứ để Công ty Bảo hiểm có chấp nhận bảo hiểm hay không? Để tìm hiểu về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì chúng ta cần làm rõ một loạt các vấn đề sau có liên quan đến hợp đồng . * Người được bảo hiểm ,người được hưởng quyền lợi bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Người được bảo hiểm: Là người mà sinh mạng và cuộc sống của họ được bảo hiểm theo điều khoản của hợp đồng và có tên trong giấy yêu cầu bảo hiểm, phụ lục của hợp đồng bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm: Là người kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm, ký kết hợp đồng bảo hiểm và nộp phí bảo hiểm. Tuy vậy, trong các hợp đồng cá nhân, người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm là hai người khác nhau, chỉ khi người được bảo hiểm chưa đến tuổi thành niên (Hợp đồng An Sinh Giáo Dục ). Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm: Là người được nhận số tiền bảo hiểm hoặc các khoản trợ cấp do khác do công ty bảo hiểm thanh toán. Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm thông thường là: Người được bảo hiểm, những người thân thích, người do người được bảo hiểm chỉ định, người thừa kế hợp pháp của người được bảo hiểm . Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ). Hiệu lực của hợp đồng này được tính từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên. Nếu nộp phí theo tháng thì phí bảo hiểm đầu tiên là số phí của tháng đầu tiên. Nếu nộp theo quý, nửa năm, một năm thì phí bảo hiểm đầu tiên là số phí của quý, nửa năm, năm đầu tiên. Ngày nộp phí này phải được ghi vào hợp đồng. Tai nạn và thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Tai nạn là bất kỳ một thiệt hại thân thể nào do hậu quả duy nhất và trực tiếp của một lực mạnh bất ngờ từ bên ngoài tác động lên người được bảo hiểm. Chính vì vậy, một loạt các sự cố sau không thuộc khái niệm này: ngộ độc thức ăn, trúng gió bất ngờ, viêm nhiễm do virus... Thương tật toàn bộ vĩnh viễn là trường hợp mà người được bảo hiểm bị mất hoàn toàn và không thể phục hồi chức năng của : + Hai tay: hoặc + Hai chân: hoặc + Một tay,một chân:hoặc + Hai mắt:hoặc + Một tay và một mắt:hoặc + Một chân và một mắt Do vậy, những trường hợp sau không thuộc phạm vi của thương tật toàn bộ vĩnh viễn và không phải nguyên nhân gây ra thương tật toàn bộ vĩnh viễn + Hành động cố ý của người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm. + Anh hưởng của rượu, bia, ma tuý. + Hành động tội phạm của người được bảo hiểm. + Chiến tranh,nội chiến,nổi loạn,bạo động. Số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm là số tiền người tham gia bảo hiểm đăng ký, lựa chọn mà cũng là số tiền bảo hiểm mà Công ty Bảo hiểm thanh toán cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi có sự cố xảy ra đối với người được bảo hiểm. Tuy vậy, trong bảo hiểm nhân thọ còn có hai khái niệm liên quan đến số tiền bảo hiểm đó là: * Số tiền bảo hiểm giảm: Khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực đến một khoảng thời gian nào đó theo quy định của mỗi Công ty Bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có thẻ dừng đóng phí và hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục có hiệu lực với số tiền bảo hiểm mới nhỏ hơn số tiền tham gia bảo hiểm ban đầu. Số tiền bảo hiểm này gọi là số tiền bảo hiểm giảm. Số tiền bảo hiểm giảm trong các trường hợp sau + Người kê khai tuổi tham gia bảo hiểm có sự sai lệch nhất định so với giấy khai sinh. + Vì một lý do nào đó mà người tham gia không có khả năng nộp phí trong một thời gian nhất định. + Do mức phí bảo hiểm quá cao, người tham gia chỉ đáp ứng được những tháng, quý đầu, sau đó xin phép yêu cầu giảm phí. * Giá trị giải ước Là số tiền mà người được bảo hiểm được nhận khi có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng trước khi kết thúc thời hạn hợp đồng. * Tuổi Tuổi của người được bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm nói chung trong bảo hiểm nhân thọ là tuổi tính theo ngày sinh nhật ngay sau ngày được nhận bảo hiểm và là một trong những điều kiện cơ bản để tính phí bảo hiểm . Cơ sở để tính tuổi là giấy khai sinh, chứng minh thư hoặc sổ hộ khẩu VD1: Ngày sinh 25/07/1992 Ngày được nhận bảo hiểm 02/08/1998 Tuổi: 5 tuổi (Tính theo ngày sinh nhật của năm 1997) VD2: Ngày sinh 15/08/1953 Ngày được nhận bảo hiểm 10/03/1996 Tuổi: 43 tuổi (Tính theo ngày sinh nhật của năm 1996) Trường hợp công ty bảo hiểm phát hiện khai nhầm tuổi thì sẽ xử lý như sau: _ Nếu tuổi thật nhiều hơn tuổi đã khai, nhưng tính tại thời điểm bắt đầu được nhận bảo hiểm, người được bảo hiểm vẫn ở trong độ tuổi được nhận bảo hiểm thì Công ty Bảo hiểm sẽ tính lại số tiền bảo hiểm và giữ nguyên mức phí bảo hiểm. Lúc đó giá trị của số tiền bảo hiểm sẽ bị giảm đi. Nếu tại thời điểm bắt đầu nhận bảo hiểm mà người được bảo hiểm đã ở ngoài độ tuổi nhận bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm bị huỷ bỏ và công ty bảo hiểm chỉ hoàn lại cho người tham gia bảo hiểm một tỷ lệ phí nhất định đã nộp. _ Nếu tuổi thật ít hơn tuổi đã khai. Như vậy,người tham gia bảo hiểm đã nộp phí cao hơn mức phí theo tuổi đúng. Lúc đó công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại số phí thừa đã nộp và giữ nguyên mức số tiền bảo hiểm. Mức phí định kỳ sẽ nộp trong những lần sau được tính theo tuổi đúng . * Phí bảo hiểm nhân thọ Phí bảo hiểm nhân thọ được tính dựa trên bốn yếu tố sau: + Tỷ lệ tử vong + Chi phí + Đầu tư + Các trường hợp đột biến Tỷ lệ tử vong có liên quan tới điều mà chúng ta gọi là rủi ro chết. Các chuyên viên tính phí bảo hiểm đã soạn thảo ra một bảng tỷ lệ tử vong tổng hợp cho những người có độ tuổi khác nhau. Các bảng này cho chúng ta biết số người trong nhóm còn sống qua một số năm nhất định. Những bảng này đã dựa trên những con số rất lớn và chính xác khi sử dụng cho nhiều người. Theo cách này,khai thác viên bảo hiểm nhân thọ sẽ có thể xác định rủi ro phải thanh toán. Đó có thể là rủi ro khiếu nại phát sinh khi một người chết hay rủi ro phải thanh toán cho một khiếu nại theo hợp đồng nhân thọ hỗn hợp có kỳ hạn do người được bảo hiểm còn sống sau một số năm nhất định. phần II công tác phân loại, lựa chọn và đánh giá rủi ro trong bảo hiểm nhân thọ I. Phân loại rủi ro 1- Các khái niệm 1.1: Định nghĩa rủi ro: Đối với hầu hết mọi người rủi ro ám chỉ một số hình thức không chắc chắn về hậu quả của một số tình huống nhất định, tạm thời chưa nói đến ý nghĩa của từ “không chắc chắn “, chúng ta thường hiểu rõ mình định nói gì khi dùng thuật ngữ rủi ro trong câu chuyện hàng ngày. Nghĩa là một sự kiện có thể xảy ra, nếu đã xảy ra hậu quả của nó có thể không có lợi cho chúng ta, hoặc không phải là kết quả mà chúng ta mong đợi. Từ rủi ro không những ám chỉ mối ngờ vực trong tương lai mà còn ám chỉ cả một thực tế là hậu quả có thể khiến chúng ta sẽ lâm vào hoàn cảnh khó khăn hơn so với hiện tại. Xung quanh định nghĩa rủi ro có rất nhiều khái niệm khác nhau. Cụ thể các khái niệm đó được phát biểu như sau: -Rủi ro là khả năng xảy ra của một sự cố không may. -Rủi ro là tập hợp các hiểm hoạ. -Rủi ro là sự không thể đoán trước được một khuynh hướng dẫn đến kết quả thực tế khác với kết quả dự đoán. -Rủi rolà sự không chắc chắn về tổn thất. -Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất. Khi nghiên cứu định nghĩa này dường như có mối quan hệ giữa chúng với nhau. Thứ nhất: Các định nghĩa này đều đề cập đến sự không chắc chắn mà chúng ta coi là mối ngờ vực đối với tương lai. Thứ hai: ở đây người ta cũng ám chỉ rằng những cấp độ hay mức độ rủi ro là khác nhau. Việc sử dụng những từ như: khả năng và không thể đoán trước được dường như để chỉ ra mức độ nào đó không chắc chắn do có mối ngờ vực nói trên. Thứ ba: Các định nghĩa đều nói đến hậu quả do một hay nhiều nguyên nhân gây ra.Điều này dường như có mối quan hệ chặt chẽ với định nghĩa mà chúng ta đã sử dụng trước đó, theo định nghĩa này rủi ro là sự không chắc chắn về hậu quả trong một tình huống cụ thể. Vậy: Trong bảo hiểm nói chung: Rủi ro là một sự kiện có thể xảy ra hoặc không xảy ra xuất phát từ ý tưởng là sự ngờ vực đối với tương lai. Sự kiện đó có thể xảy ra ở mức độ khác nhau do hậu quả của một hay nhiều nguyên nhân. Có hoặc không có tổn thất mà người ta không thể dự đoán được chính xác. Cũng có thể nói rủi ro là sự kiện không chắc chắn có liên quan đến tổn thất phải gánh chịu trong tương lai. Rủi ro trong bảo hiểm nhân thọ: là những thiệt hại về tính mạng và thương tật của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm mà Công ty Bảo hiểm phải trả tiền theo những điều khoản đã cam kết trong hợp đồng bảo hiểm. 1.2: Mức độ rủi ro: Sẽ không hợp lý nếu chúng ta cho rằng khả năng xảy ra của mọi rủi ro là như nhau. Khi nghiên cứu mức độ rủi ro chúng ta cần xem xét hai nhân tố: - Xác suất rủi ro (tần số rủi ro). - Tính khốc liệt của tổn thất (mức độ nghiêm trọng của rủi ro). Xác suất rủi ro: là khả năng xảy ra của một sự kiện. Nó có thể được xác định theo ba cách: * ấn định trước: được xác định khi biết được tổng số sự kiện có thể xảy ra VD: khi lắc con xúc xắc, xác suất có được mặt 5 chấm là 1/6. * Dựa vào thực nghiệm: được xác định trên cơ sở các dữ liệu theo thời gian. Có thể được xác định một cách tương đối chính xác theo quy luật số đông. VD: Một công ty vận tải điều hành 1000 chiếc xe, trung bình mỗi năm gặp phải 50 vụ tai nạn, tức là xác suất xảy ra là 50/1000. * Dựa vào phán quyết: Được xác định dựa trên cơ sở dự đoán của một người về kết quả xảy ra. Phương pháp này dùng đến khi thiếu các dữ kiện lịch sử hay các dữ kiện thống kê tin cậy... Trên thực tế các Công ty Bảo hiểm sử dụng các khả năng dựa vào thực nghiệm và khả năng dựa vào phán quyết để dự đoán các tổn thất có thể xảy ra trong tương lai . Như vậy để đánh giá rủi ro người ta dùng hai tiêu thức: tần số lặp lại và mức độ nghiêm trọng của rủi ro a. Trường hợp thứ nhất: Tần số cao nhưng mức độ thiệt hại không nghiêm trọng. VD: Hàng năm có nhiều tai nạn giao thông, nhưng không phải tai nạn nào cũng dẫn đến tử vong. Mức độ thiệt hại trong trường hợp này được đánh giá thấp và có thể chấp nhận bảo hiểm được. Biểu đồ tam giác Heinrich- sau khi thống kê vài nghìn vụ thiệt hại và nghiên cứu cho ra kết quả như sơ đồ (Theo sách của David Bland) Thương tích nghiêm trọng 1 Thương tích ít nghiêm trọng 30 Tai nạn không gây thương tích 300 Trong công nghiệp, cứ 300 vụ sự cố không gây thiệt hại thì có 30 vụ gây thiệt hại nhỏ, có một vụ sự cố gây thiệt hại lớn . b. Trường hợp thứ hai Tần số thấp nhưng mức độ thiệt hại lớn. VD: Máy bay là một phương tiện giao thông hoàn hảo, kỹ thuật tối tân , rất ít xảy ra tai nạn, nhưng một khi xảy ra tai nạn thì thiệt hại về người và vật chất rất lớn. Đối với các trường hợp này, khi nhận bảo hiểm các nhà bảo hiểm nghĩ ngay đến vấn đề phân tán và chia sẻ rủi ro thông qua tái bảo hiểm. 1.3: Những khái niệm liên quan đến rủi ro: Chúng ta thường dùng từ rủi ro để chỉ cả sự cố gây ra tổn thất và những nhân tố có thể làm ảnh hưởng đến hậu quả của tổn thất. Vì thế khi “đánh giá tổn thất hay đánh giá rủi ro “ cần phải nhớ rằng có ít nhất hai khía cạnh cần quan tâm đó là hiểm hoạ và nguy cơ. Điều này sẽ được làm sáng tỏ khi xem xét ví dụ về 2 ngôi nhà nằm trên bờ sông cũng như khả năng xảy ra tổn thất khi có lụt lội. Ví dụ: Giả sử có một ngôi nhà nằm trên bờ một con sông và con sông này nổi tiếng là hay bị tràn bờ khi lũ lụt xảy ra. Hậu quả trong tương lai hoàn toàn không chắc chắn được bởi vì không ai có thể khẳng định liệu nước sông có tràn bờ và gây thiệt hại cho ngôi nhà hay không. Điều đáng nói ở đây là rủi ro chính là thiệt hại do lụt lội gây ra, và lụt lội là nguyên nhân gây ra tổn thất. Trong trường hợp này, lụt lội được gọi là hiểm hoạ. Vậy hiểm hoạ là nhân tố cấu thành rủi ro, là nguyên nhân chính gây ra tổn thất. Thông thường hiểm hoạ nằm ngoài tầm kiểm soát của ngững người có liên quan, chẳng hạn như bão, lụt lội, hoả hoạn, trộm cắp, tai nạn xe cộ, bệnh tật, tử vong, động đất, núi lửa phun... đều là những hiểm hoạ. Hiểm hoạ có thể gây thiệt hại đến một lĩnh vực lớn hoặc cho nhiều người. Các hiểm hoạ cùng loại có thể kết hợp dẫn đến thảm hoạ. Những nhân tố có thể làm ảnh hưởng đến hậu quả của tổn thất được coi là những nguy cơ. Bản thân nguy cơ không phải là nguyên nhân dẫn đến tổn thất song chúng có thể làm tăng hoặc giảm khi hiểm hoạ xảy ra. Quay trở lại ví dụ trên chúng ta thấy: Việc dòng sông nổi tiếng nay bị tràn bờ làm gia tăng khả năng xảy ra thiệt hại khi có lũ lụt. Như vậy thuật ngữ “có nguy cơ gặp rủi ro “ có thể dùng để chỉ khả năng gia tăng này. Để rõ hơn, ta hãy hình dung có một ngôi nhà thứ hai nằm trên quả đồi dốc, cách xa bờ sông hơn so với ngôi nhà đã nói trên. Ngôi nhà thứ hai này được coi trong tình trạng ít “có nguy cơ gặp rủi ro “hơn. Khả năng dòng sông tràn bờ vẫn giữ nguyên trong khi khả năng thiệt hại gây ra cho ngôi nhà thấp hơn nhiều. Nói tóm lại, nguy cơ (Hazard) là thuật ngữ dùng để ám chỉ những điều kiện phối hợp có tác động làm tăng hoặc giảm khả năng xảy ra tổn thất. Vì vậy việc xem xét nguy cơ có một ý nghĩa quan trọng khi một Công ty Bảo hiểm quyết định có nên nhận bảo hiểm một số rủi ro hay không và nếu có thì mức phí bảo hiểm là bao nhiêu. Nguy cơ có thể là nguy cơ “vật chất “ hoặc nguy cơ “tinh thần “. Nguy cơ vật chất (physical hazard) liên quan tới khía cạnh vật chất. Chẳng hạn như phương thức xây dựng một toà nhà, bảo vệ an ninh trong một cửa hàng, việc các ngôi nhà nằm cạnh bờ sông hay bị tràn bờ khi lụt lội... Nguy cơ tinh thần (moral-hazard) liên quan tới một số khía cạnh mang tính con người có thể làm ảnh hưởng đến hậu quả, thông thường nguy cơ tinh thần được dùng để chỉ thái độ hay cách cư xử của người tham gia bảo hiẻem và người được bảo hiểm. 1.4: Phân loại rủi ro: Rủi ro có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân, có thể gây ra hậu quả hoặc không. Mức độ có thể nghiêm trọng hoặc không nghiêm trọng, tổn thất có thể về vật chất hoặc về tinh thần... Vì vậy cần phân loại rủi ro. Trong bảo hiểm nói chung: Rủi ro thường được chia thành những loại sau: 1.4.1: Căn cứ về mặt giá trị: Rủi ro được chia thành hai loại là: - Rủi ro tài chính. - Rủi ro phi tài chính. a. Rủi ro tài chính: Là rủi ro mà ta có thể xác định hậu quả bằng tiền cũng như ấn định một số giá trị của hậu quả. Ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này khi xem xét trường hợp thiệt hại vật chất gây ra do trộm cắp tài sản, hoặc mất lợi nhuận kinh doanh sau một vụ cháy. Người ta cũng có thể tính đựơc thiệt hại về tài chính khi xảy ra thương tích đối với con người . Việc tính toán có thể do toà án nơi đưa ra phán quyết về việc bồi thường thiệt hại thực hay qua thương lượng giữa các luật sư và Công ty Bảo hiểm. Trong cả hai trường hợp trên, hậu quả của tình huống d._.kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm * Xem xét các kết quả các xét nghiệm * Khám trực tiếp Sơ đồ quá trình đánh giá tình trạng sức khoẻ Bị bệnh loại trừ Không bị bệnh loại trừ Thu phí bảo hiểm đầu tiên Phát hành hợp đồng Phòng QLHĐ lưu Phòng khai thác Khách hàng Giấy yêu cầu BH Từ chối Bảo Hiểm (Thông báo từ chối) Cung cấp thêm thông tin Chấp nhận Từ chối Bảo Hiểm (Thông báo từ chối) Công ty đánh giá rủi ro Mục đích bảo hiểm Có khả năng tài chính Đánh giá sức khoẻ Tóm lại:Các bước đánh giá rủi ro sẽ theo trình tự sau (Từ chối không cần đánh giá tiếp) Có Có III. Kết quả của công tác đánh giá rủi ro Chỉ tiêu quan trọng để đánh giá kết quả của công tác đánh giá rủi ro đó là: Số lượng hợp đồng khai thác mới, tỷ lệ bồi thường, tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng và một số chỉ tiêu khác như: Lòng tin của khách hàng đối với Công ty, sự hiểu biết của người dân về Bảo hiểm nhân thọ và thái độ của họ đối với mỗi sản phẩm của Công ty. Những chỉ tiêu này thường rất khó xác định và tính toán. Trước khi xem xét kết quả của công tác đánh giá rủi ro chúng ta sẽ phân tích một số số liệu thống kê về các đối tượng tham gia bảo hiểm theo các tiêu thức như: độ tuối, giới tính, nghề nghiệp để từ đó đánh giá được nhu cầu bảo hiểm của các đối tượng này cũng như thấy được đánh giá rủi ro tác động đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm như thế nào.(Xem biểu) Biểu 1: Cơ cấu hợp đồng người lớn và trẻ em theo độ tuổi người tham gia bảo hiểm. Số liệu trên địa bàn Hà Nội từ 01/8/1996 đến 31/12/1999 Độ tuổi Hợp đồng người lớn Hợp đồng trẻ em Số người tham gia Cơ cấu (%) Số người tham gia Cơ cấu (%) 18-30 4844 26 3306 20 31-35 3003 16 3966 24 36-40 4692 25 5950 36 41-45 2440 13 2314 14 46-50 1688 9 660 4 51-55 1313 7 165 1 56-60 750 4 165 1 Tổng 18730 100 16526 100 Qua số liệu thống kê ở bảng trên ta thấy những người tham gia bảo hiểm của hai sản phẩm: Bảo hiểm và tiết kiệm và An sinh giáo dục bao gồm những người trong độ tuổi từ 18-60,độ tuổi này được chia làm bảy đoạn: từ 18-30 tuổi, từ 30-35 tuổi, từ 36-40 tuổi,từ 41-45 tuổi, từ 46-50 tuổi, từ 51-55 tuổi, từ 56-60 tuổi.Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm có ảnh hưởng rất lớn đến việc có tham gia bảo hiểm hay không, vì ở mỗi độ tuổi khác nhau thì khả năng tài chính, tình trạng sức khoẻ và nhu cầu tham gia bảo hiểm cũng khác nhau. Thật vậy:Với số liệu thống kê ở trên thì số người tham gia trong độ tuổi từ 36-40 (đối với hợp đồng trẻ em) là cao nhất, chiếm 36%. Tiếp đến là ở độ tuổi từ 31-35 chiếm 24%, ở độ tuổi từ 18-30 là 20%. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng ở độ tuổi từ 36-40 thường là những người có hai con và kinh tế khá ổn định, hơn nữa con cái họ đã bước vào đi học cấp I, cấp II. Vì vậy nhu cầu lo xa cho tương lai con cái của họ sẽ cao hơn so với những người trong độ tuổi từ 31-35, những người mà có thể con cái của họ còn nhỏ kinh tế chưa dư dật hoặc việc tham gia hợp đồng bảo hiểm trẻ em đối với họ là chưa cần thiết... Còn những người trong độ tuổi từ 18-30 thường là những người mới lập gia đình hoặc chưa có gia đình. Nếu đã có gia đình thì nhu cầu tham gia loại hình bảo hiểm trẻ em đối với họ sẽ thấp hơn những nhu cầu khác như: Sắm sửa, xây dựng nhà cửa, và một số nhu cầu sinh hoạt khác. ở độ tuổi từ 46-60 hầu hết con cái mọi người đều đã trưởng thành, chỉ có một số ít người có con hoặc cháu đang đi học. Vì vậy số lượng người tham gia loại hợp đồng bảo hiểm trẻ em ở độ tuổi này đương nhiên rất thấp. Đối với hợp đồng người lớn: Số lượng người tham gia trong độ tuổi từ 18-30 lại là cao nhất, chiếm 26%. Thứ hai là những người trong độ tuổi từ 36-40, chiếm 34%, tiếp theo là những người trong độ tuổi từ 31-35 chiếm 16%. Cuối cùng những người ở độ tuổi từ 41-60 có nhu cầu tham gia loại hợp đồng này giảm dần theo mức tăng của tuổi. Sở dĩ nhưng vậy là vì ở độ tuổi từ 18-40 con người ta còn sung sức và còn khả năng tích lũy lớn. Do đó phần lớn họ tham gia loại hình bảo hiểm mang tính chất tích kiệm hay bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.Hơn nữa ở độ tuổi này xác suất rủi ro thấp nên phí bảo hiểm cũng thấp, điều này rất hấp dẫn người tham gia. Một cách khái quát có thể thấy là những người trong độ tuổi từ 18-45 là những người có công ăn việc làm và đời sống ổn định, do vậy tỷ lệ tham gia các loại hình bảo hiểm của Bảo Việt nhân thọ thường cao hơn những người trong độ tuổi từ 46-60. Bởi lẽ ở độ tuổi từ 46-60 thì mức phí bảo hiểm khá cao (Do thời gian tham gia bảo hiểm ngắn, xác suất rủi ro về sức khoẻ cao, một số bệnh ngoài phạm vi bảo hiểm như: suy tim, suy thận, cao huyết áp... thường xuất hiện khá phổ biến ở độ tuổi này. Để rõ hơn ảnh hưởng của công tác đánh giá rủi ro đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm chúng ta sẽ tiếp tục đánh giá đối tượng tham gia bảo hiểm theo tiêu thức nghề nghiệp. Dưới đây là số liệu thống kê qua hơn ba năm hoạt động của Bảo Việt nhân thọ Hà nội. Biểu 2: Cơ cấu hợp đồng người lớn và trẻ em theo nghề nghiệp của người tham gia bảo hiểm nhân thọ Số liệu trên địa bàn Hà nội từ 01/8/1996 đến 31/12/1999 Nghề nghiệp Hợp đồng người lớn Hợp đồng trẻ em Số người tham gia Cơ cấu (%) Số người tham gia Cơ cấu (%) Tổng 18688 100 15664 100 Công nhân 984 5,2 1061 6,37 Giáo viên 2311 12,23 155 0,93 Nông dân 58 0,3 98 0,59 Nội trợ 616 4,49 118 0,71 Nghỉ hưu 174 0,92 240 1,44 Nghệ sĩ 675 3,57 57 0,34 Thương nhân 657 3,47 862 5,18 Tu sĩ 17 0,09 0 0 Bác sĩ 887 4,69 707 4,24 Báo chí 1234 652 227 1,36 Bộ đội 251 1,33 211 1,27 Cán bộ công nhân viên khác: 10824 57,19 11928 71,56 Số liệu ở bảng trên cho ta biết số người tham gia bảo hiểm là nông dân là rất thấp, đa phần người tham gia bảo hiểm nhân thọ là cán bộ công nhân viên, bác sĩ, nhà báo, hoặc một số nghề nghiệp khác. Điều đó chứng tỏ những người có thu nhập ổn định hoặc có kiến thức xã hội cao thì khả năng tham gia bảo hiểm nhân thọ cao còn nông dân là những người có thu nhập chủ yếu dựa vào hạt thóc, lại không ổn định. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm nhân thọ là nông dân tất yếu rất thấp. Khách hàng chính của Công ty hiện hay là cán bộ công chức nhà nước và những người có nghề nghiệp mang lại thu nhập cao. Qua việc phân tích đối tượng tham gia bảo hiểm theo hai tiêu thức trên phần nào cũng đưa ra được những cơ sở có giá trị để lãnh đạo Công ty, để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn hơn. Chẳng hạn như đối với đối tượng tham gia là nông dân thì nên chăng Công ty có kiến nghị lên Chính phủ để có chính sách hỗ trợ hợp lý thu hút đối tượng này tham gia hoặc đưa ra những chiến lược Marketing đối với khách hàng mục tiêu để thuyết phục những khách hàng có nhu cầu bảo hiểm nhưng có vẻ "khó tính" hoặc vì lý do nào đó mà chưa muốn "móc hầu bao" của mình để tham gia bảo hiểm. Nhưng điều quan trọng hơn là qua việc đánh giá này Công ty có thể tránh được những thiệt hại về tài chính khi mà kỹ thuật về nghiệp vụ của Công ty còn đang trên đà thử nghiệm. Nghiên cứu đối tượng tham gia bảo hiểm theo tiêu thức giới tính chúng ta cũng thấy tỷ lệ tham gia bảo hiểm nhân thọ giữa nam và nữ có sự chênh lệnh khá lớn. Đa số những người tham gia bảo hiểm nhân thọ là phụ nữ. Biểu 3: Cơ cấu hợp đồng người lớn và trẻ em theo giới tính của người tham gia. Số liệu trên địa bàn Hà nội từ 01/8/1996 đến 31/12/1999 Giới tính Hợp đồng người lớn Hợp đồng trẻ em Số người tham gia Cơ cấu (%) Số người tham gia Cơ cấu (%) Tổng 19018 100 16868 100 Nam 6139 32 8101 48 Nữ 12879 68 8767 52 Qua số liệu thống kê trên ta nhận thấy tỷ lệ số người tham gia bảo hiểm là Nữ cao hơn Nam bởi vì nữ giới thường có tâm lý lo xa cho gia đình hơn, con cái đối với họ vô cùng quan trọng. Đây chính là lợi thế mà mỗi cán bộ khai thác cần sử dụng những "ngón đòn nghệ thuật" để "đánh đòn tâm lý" làm được như vậy chắc chắn kết quả khai thác sẽ khả quan hơn rất nhiều. Trên đây là những con số thống kê sơ bộ nhưng ít nhiều cũng cho ta thấy được đôi nét bao quát về đối tượng đã và sẽ tham gia bảo hiểm nhân thọ. Đồng thời phần nào thấy được ảnh hưởng của công tác đánh giá rủi ro đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm, từ đó tiến hành các biện pháp hữu hiệu để không ngừng tăng cường hiệu quả hoạt động của Công ty. Những chỉ tiêu quan trọng thể hiện kết quả của công tác đánh giá rủi ro ở Bảo Việt nhân thọ. 1- Số lượng hợp đồng khai thác mới qua các năm. Biểu 4: Tình hình khai thác bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt trên địa bàn Hà nội. Số liệu trên địa bàn Hà nội từ 01/08/1996 đến 31/12/1999 Loại hợp đồng 1996 1997 1998 1999 Tổng Số HĐ Cơ cấu (%) Số HĐ Cơ cấu (%) Số HĐ Cơ cấu (%) Số HĐ Cơ cấu (%) Trẻ em 255 45,77 4302 65,28 8298 46,62 7562 47 20409 1,2,3,4 năm 100 1 100 5 năm 193 34,63 1994 30,08 8790 49,38 7401 46 18363 10 năm 109 19,6 320 4,64 715 4,0 520 3 1646 15 năm 26 0,25 26 Niên kim 188 1,38 188 Trọn đời 185 1,37 185 Tổng 557 100 6616 100 17800 100 15982 100 40908 Số lượng hợp đồng khai thác mới là chỉ tiêu rất quan trọng thể hiện hoạt động kinh doanh của Công ty có tốt hay không. Số lượng hợp đồng khai thác mới tăng nhanh sẽ làm tăng doanh thu của Công ty, đây là điều mà bất kỳ một doanh nghiệp nào khi bước vào kinh doanh đều mong muốn. Số liệu ở bảng trên cho chúng ta thấy là: qua 5 tháng triển khai bảo hiểm nhân thọ (từ 8/1996 đến 12/1996) số hợp đồng khai thác được của Công ty là 557 hợp đồng, trong đó số hợp đồng trẻ em chiếm 45,77% ; hợp đồng 5 năm chiếm 34,63% ; hợp đồng 10 năm chiếm 19,6%. Những con số này nói lên rằng, khách hàng hưởng ứng loại hợp đồng trẻ em là nhiều hơn cả, có lẽ là do tính nhân đạo và ý nghĩa to lớn về nhiều mặt của nó. Đặc biệt là trong năm 1996 không có rủi ro xảy ra trong phạm vi Công ty nói riêng mà cả nước nói chung, đây là một kết quả khả quan đối với công tác đánh giá rủi ro. Trong năm 1997, chỉ có duy nhất quý I là số hợp đồng của cả ba loại đều giảm đi, tổng số hợp đồng khai thác mới trong 3 tháng đầu năm chỉ được 140 hợp đồng. Từ quý II trở đi số lượng hợp đồng trẻ em và hợp đồng 5 năm tăng lên rất nhanh, riêng hợp đồng 10 năm lúc tăng, lúc giảm nhưng xu hướng là giảm về tỷ trọng. Số hợp đồng trẻ em và hợp đồng bảo hiểm thời hạn 4 năm tăng nhanh đã làm cho tổng số hợp đồng của riêng quý II là 940 hợp đồng.Trong 2 quý cuối năm, số lượng hợp đồng khai thác mới tăng vọt nâng tổng số hợp đồng cả năm lên tới 6616 hợp đồng. Trong năm hoạt động thứ hai này ta có thể thấy: tỷ trọng hợp đồng trẻ em đã và đang tăng lên rất nhanh trong tổng số hợp đồng đang có hiệu lực tại Công ty. Nếu như trong năm 1996 tỷ lệ này là 45,77% thì trong năm 1997 là 62,28% (tăng 19,51%).Tỷ trọng số hợp đồng 10 năm giảm nhiều từ 19,6% năm 96 xuống còn 4,64% vào năm 97. Kết quả này một phần có thể do tâm lý của khách hàng chưa tin tưởng vào sự ổn định của đồng tiền Việt Nam. Phải chăng thời hạn 10 năm còn quá dài đối với người dân, những người mà mà chưa có thói quen tiết kiệm trong một thời gian dài. Đã có nhiều khách hàng hỏi liệu sau 10 năm nữa số tiền bảo hiểm có còn có giá trị nữa hay không, nhất là trong tình hình hiện nay, dư âm của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực còn chưa lắng xuống. Riêng đối với hợp đồng trẻ em, có khi thời hạn hợp đồng dài hơn 10 năm nhưng khách hàng vẫn ủng hộ, bởi vì cha mẹ thường dành nhiều sự quan tâm lo lắng cho con cái, mong muốn con mình có sự đảm bảo cho cuộc sống và giáo dục sau này. Bước sang năm 1998, số hợp đồng các loại tăng lên rất nhanh trong quý I với số lượng 7217 hợp đồng, lớn hơn tổng số hợp đồng cuă cả hai năm 96 và 97. Còn các quý tiếp theo thì tương đương nhau và đưa tổng số hợp đồng khai thác được năm 1998lên 17800 hợp đồng, tăng 2,5 lần so với năm 1997. Tính đến 31/12/1998 số hợp đồng còn hiệu lực tại Bảo Việt nhân thọlà 22975 hợp đồng. Trong năm 1999, xét theo thời gian thì số lượng hợp đồng khai thác tăng dần vào cuối quý I, đầu quý II, sau đó tốc độ khai thác giảm dần trong các tháng cuối quý II và đầu quý II, quý IV có số lượng hợp đồng cao nhất. Có thể nói : về số tuyệt đối thì số lượng hợp đồng khai thác mới năm 1999 thấp hơn nam 1998 (năm 1999 chỉ khai thác mới được 159822 hợp đồng), nhưng do đặc điểm tình hình kinh tế cuối năm 98 và đầu năm 99 có nhiều yếu tố khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động khai thác thì kết quả đạt được là rất khả quan. 2- Số hợp đồng huỷ bỏ qua các năm. Tỷ lệ duy trì hợp đồng cũng là một tiêu thức khá quan trọng thể hiện kết quả của công tác đánh giá rủi ro có tốt hay không. Vì như ở phần trên đã trình bày chúng ta biết rằng mục đích của công tác đánh giá rủi ro là tối thiểu hoá tổn thất tài chính ngoài mức dự đoán của Công ty, tạo được lòng tin của khách hàng, phổ biến sự hiểu biết của người dân về bảo hiểm nhân thọ ... Qua thực tiễn thực hiện công tác đánh giá rủi ro có thể rút ra được một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng cao là: + Một số cán bộ khai thác không giới thiệu đầy đủ quyền lợi bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm hoặc vì mải chạy theo lợi nhuận cho nên kê khai giấy yêu cầu hộ khách hàng. Do đó khi khách hàng có điều kiện đọc kỹ điều khoản hợp đồng thì quyết định huỷ bỏ hợp đồng hoặc việc duy trì hợp đồng là rất khó khăn. + Một số khách hàng huỷ bỏ do gặp khó khăn về tài chính, hay do thời hạn hợp đồng dài dẫn đến tâm lý huỷ bỏ hợp đồng. Nguyên nhân huỷ bỏ hợp đồng này ít nhiều cũng do quá trình đánh giá về khả năng tài chính của người tham gia không được chính xác hoặc lòng tin của khách hàng vào Công ty còn chưa chắc chắn. + Sự cố Y2K cũng là một lý do dẫn đến số hợp đồng huỷ bỏ tăng lên vào quý IV năm 1999. Vì vậy cần phải nỗ lực bằng mọi cách để giảm được tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng, là điều rất có lợi cho Công ty, bởi lẽ khi khách hàng huỷ bỏ hợp đồng Công ty sẽ mất đi doanh thu, kế hoạch tài chính bị ảnh hưởng, mất đi những chi phí ban đầu để khai thác... Theo thống kê thì cứ một khách hàng mất lòng tin đối với sản phẩm thì kéo theo năm người có tâm lý tương tự. Dưới đây là số liệu cụ thể về tình hình huỷ bỏ hợp đồng của Bảo Việt trong thời gian qua. Biểu 5: Tình hình huỷ bỏ hợp đồng trên địa bàn Hà Nội. Số liệu trên địa bàn Hà Nội từ 01/01/1997 đến 31/12/1999. Năm Quý 1997 1998 1999 Số HĐ khai thác mới Số hợp đồng bị huỷ bỏ Tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng (%) Số HĐ khai thác mới Số hợp đồng bị huỷ bỏ Tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng (%) Số HĐ khai thác mới Số hợp đồng bị huỷ bỏ Tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng (%) Q I 140 10 7,14 7139 146 2,00 2919 190 6,50 Q II 940 22 2,34 5086 1020 20,00 4050 356 8,79 Q III 1777 11 0,62 2247 358 15,9 4179 344 8,23 Q IV 3759 17 0,45 3328 414 12,44 4834 460 9,50 Tổng 6616 60 0,90 17800 1938 10,88 15982 1350 8,44 Từ số liệu ở biểu trên ta nhận thấy tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng này của bảo Việt trong năm 1997 là 0,9% tỷ lệ này được đánh giá là rất tốt đối với hoạt động của công ty. Nhưng đến năm 1998 và năm 1999 thì tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng tăng lên rất nhanh tương ứng lần lượt là 10,88% và 8,44%. Sở dĩ tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng hai năm trên tăng vọt là do rất nhiều yếu tố khách quan, trong đó có một yếu tố tác động chủ yếu đó là cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đã làm cho đồng tiền của các nước nói chung và Việt nam nói riêng chở nên mất ổn định, người dân hoang mang lo sợ và huỷ bỏ hợp đồng hàng loạt. Có thể nói tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng như trên được xem là khá cao, tuy nhiên trong điều kiện kinh tế khủng hoảng như vậy thì tỷ lệ đó vẫn có thể chấp nhận được. 3- Tình hình bồi thường cho người tham gia bảo hiểm và Bảo Việt nhân thọ. Tỷ lệ bồi thường là một chỉ tiêu dùng để đánh giá hiệu quả của công tác đánh giá rủi ro, tỷ lệ bồi thường quá cao sẽ làm cho công ty mất khả năng thanh toán gây thua lỗ về tài chính. Điều đó đồng nghĩa với việc là công tác đánh giá rủi ro không đạt yêu cầu. Trong hai năm qua (1998, 1999) mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, lũ lụt nhưng Bảo Việt nhân thọ chỉ phải giải quyết trải tiền bảo hiểm cho 17 trường hợp tham gia bảo hiểm bị chết trong năm 1998 với tổng số tiền là 36,9 triệu đồng. Các loại hình bảo hiểm khác không phát sinh trường hợp giải quyết trả tiền bảo hiểm. Cũng trong năm 1998 có 31 trường hợp hợp đồng huỷ bỏ sau 2 năm và Công ty đã chi trả giá trị giải ước với tổng số tiền là 65,52 triệu đồng. Như vậy tổng số tiền chi trả bảo hiểm trong năm 1998 là 102,4 triệu đồng chỉ chiếm 0,3% tổng số phí thu được và chiếm 1,528% tổng chi. Năm 1999 Công ty đã giải quyết trả tiền bảo hiểm cho 690 trường hợp (trong đó có 26 trường hợp bị chết), một trường hợp thương tật toàn bộ vĩnh viễn, chi phí phẫu thuật 5 trường hợp và 657 trường hợp chi trả giá trị giải ước) với tổng số tiền là 2.900.646.504 đồng bằng 3,75 tổng doanh thu và bằng 19,1% tổng chi. Nói chung tỷ lệ chi trả bồi thường trung bình các năm qua đều nằm trong khuôn khổ cho phép, thể hiện chất lượng khai thác của Công ty đạt yêu cầu. Tổng số giấy yêu cầu bị từ chối trong hai năm 1998 và 1999 lần lượt là 35 và 44 trường hợp, chủ yếu là do những nguyên nhân sau: + Người tham gia bảo hiểm không đảm bảo sức khoẻ. + Người tham gia bảo hiểm không phải là bố mẹ hay người giám hộ hợp pháp hoặc không đầy đủ các giấy tờ pháp lý cần thiết để nhận bảo hiểm như quy định trong điều khoản. + Người tham gia bảo hiểm quá tuổi theo quy định. Tóm lại: Từ việc xem xét kết quả và ảnh hưởng của công tác đánh giá rủi ro ở Bảo Việt nhân thọ chúng ta đã phần nào thấy rõ được sự cần thiết phải quan tâm và hoàn thiện không ngừng công tác này để hoạt động kinh doanh của Công ty đạt hiệu quả tối đa. Tuy nhiên công tác đánh giá rủi ro luôn có tính hai mặt. Mục tiêu của Công ty là phát huy được mặt tích cực của công tác đánh giá rủi ro để phục vụ hoạt động kinh doanh của mình nhưng nhiều khi chỉ do những sơ xuất nhỏ công tác đánh giá rủi ro sẽ bộc lộ những mặt tiêu cực của nó, đi ngược lại mong muốn của Công ty như: + Mặc dù người tham gia bảo hiểm đã cam kết các thông tin kê khai trong giấy yêu cầu bảo hiểm là đầy đủ và đúng sự thật, nhưng dường như động tác kê khai này vẫn chỉ là mang tính hình thức mà lý do đầu tiên là mỗi đại lý chưa làm hết trách nhiệm trong công việc của mình. Các tiêu chuẩn để căn cứ vào đó xác định được chấp nhận bảo hiểm hay không cũng còn rất sơ sài. Bản thân người tham gia bảo hiểm cũng chưa có những nhận thức đúng đắn về việc Công ty Bảo hiểm tìm hiểu tình trạng sức khoẻ của họ chính là để đảm bảo quyền lợi cho chính họ. Có lẽ rất khó khăn để ký được một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nếu yêu cầu khách hàng đi kiểm tra sức khoẻ mới được nhận bảo hiểm vì hình như trong thâm tâm của đa số những người tham gia bảo hiểm, việc họ kê khai giấy yêu cầu và nộp phí bảo hiểm là một “ việc thiện “ trước hết là đối với đại lý chứ không phải quyền lợi của chính họ hay người thân. + Một số cán bộ khai thác còn mải chạy theo lợi nhuận cá nhân mà quên trách nhiệm của mình đối với Công ty, miễn làm sao ký được nhiều hợp đồng để hưởng hoa hồng mà không chú ý đến khách hàng có khả năng tài chính đến đâu ,tình trạng sức khoẻ như thế nào, nghề nghiệp ra sao... để giúp cho công tác đánh giá rủi ro ban đầu được tốt. Cho dù đã được đào tạo ban đầu lúc thi tuyển đại lý, nhưng một số đại lý vẫn chưa nắm vững về nghiệp vụ đẫn đến tình trạng giải thích cho khách hàng chưa chính xác hoặc chưa đầy đủ các quyền lợi của họ. Điều này đã gây ra sự hiểu nhầm giữa khách hàng với Công ty tạo ra sự mất lòng tin làm cho nhiều khách hàng sau khi đọc xong các quyền lợi trong điều khoản hợp đồng họ lại không tham gia dẫn đến huỷ bỏ hợp đồng. + Công ty chưa có kinh nghiệm trong việc tổ chức công tác đánh giá rủi ro mà phần lớn dựa vào sự tự giác của đại lý. Tuy nhiên, qua hơn hai năm hoạt động Công ty đã có nhiều nỗ lực để làm tốt công tác đánh giá rủi ro góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty và lòng tin đối với khách hàng. Nhờ có sự đóng góp kịp thời và thiết thực của công tác đánh giá rủi ro đã giúp cho cán bộ khai thác bảo hiểm nhân thọ đánh giá đúng đối tượng khách hàng phù hợp với khả năng tài chính của họ, giảm được số tổn thất và số lượng huỷ bỏ hợp đồng tương đối thấp khoảng 4-5%. Trong khi đó tỷ lệ huỷ bỏ trung bình của các năm đầu ở nước ngoài là trên 10%. Phần IV Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác đánh giá rủi ro tại Bảo Việt nhân thọ Hà nội Bước sang Thế kỷ 21 thị trường bảo hiểm Việt Nam trở lên sôi động hơn nhiều bởi sự góp mặt của các Công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài có các Công ty mẹ là những hãng bảo hiểm hàng đầu Thế giới với hàng trăm năm kinh nghiệm hoạt động như: hãng Manulife của Canada, AIG của Mỹ, Prudential của Anh, Allianz của Đức và một loạt các hãng khác. Thế mạnh của các Công ty này không chỉ ở kinh nghiệm hoạt động, đội ngũ cán bộ được đào tạo chính quy và bài bản mà còn ở sự hậu thuẫn bằng nguồn lực tài chính và tài sản khổng lồ của các Công ty mẹ. Vì vậy đã đến lúc sự độc quyền của Bảo Việt trong lĩnh vực Bảo hiểm nhân thọ không còn nữa, rất nhiều Công ty khác cũng triển khai loại hình bảo hiểm này, do đó đã tạo ra một môi trường cạnh tranh hết sức phức tạp về các dịch vụ phục vụ cũng như kỹ thuật nghiệp vụ Bảo hiểm nhân thọ. Trong điều kiện đó Bảo Việt Nhân thọ phải tìm ra thủ pháp cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Đặc biệt là phải hoàn thiện công tác đánh giá rủi ro ngày một tốt hơn để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm đồng thời giữ được lòng tin với khách hàng, tạo uy tín cho Công ty nhằm tạo ra khả năng cạnh tranh lâu dài trên thị trường. Nhìn lại công tác đánh giá rủi ro trong thực tế triển khai Bảo hiểm Nhân thọ của Bảo Việt chúng ta thấy công tác này mới chỉ bắt đầu và còn đang trên đà thử nghiệm. Điều này cũng chẳng có gì là lạ, bởi lẽ ngành Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam còn quá non trẻ, điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất cũng như nguồn nhân lực còn có hạn nên việc áp dụng quy trình đánh giá rủi ro như các nước trên Thế giới đang làm là rất khó. Tuy nhiên, quan tâm đúng mức và hoàn thiện công tác này không ngừng sẽ đem lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của Công ty. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác đánh giá rủi ro ở Bảo Việt Nhân thọ. 1- Hiện nay việc đánh giá rủi ro của Bảo Việt Nhân thọ chủ yếu là dựa vào giấy yêu cầu bảo hiểm. Do đó để công tác đánh giá rủi ro đạt hiệu quả, Công ty nên tổ chức một bộ phận hoặc phòng chức năng riêng để chuyên lo về công tác đánh giá rủi ro. Phải có từ hai đến ba bác sỹ để giúp Công ty trong việc kiểm tra, đánh giá tình trạng sức khoẻ cho những người tham gia bảo hiểm. 2- Vì việc kiểm tra tình trạng sức khoẻ thực tế của khách hàng hoàn toàn dựa vào những thông tin cung cấp từ khách hàng và đại lý nên Công ty cần tính đến khả năng khách hàng lừa dối đại lý hoặc thông đồng với đại lý để lừa dối Công ty. Từ đó xem xét lại vấn đề này trước khi nhận giấy yêu cầu và thu phí bảo hiểm đầu tiên, nghĩa là cần phải có quy định cụ thể các trường hợp cần phải kiểm tra sức khoẻ hoặc khả năng tài chính của người tham gia trước khi chấp nhận bảo hiểm. Ví dụ như: từ 50 tuổi trở lên hay tham gia với số tiền lớn hơn 30 triệu đồng thì cán bộ đánh giá rủi ro cần phải trực tiếp tiếp xúc với khách hàng để có những căn cứ thực tế phục vụ cho công tác đánh giá rủi ro một cách chính xác. 3- Thực tế công tác đánh giá rủi ro ở Bảo Việt do phòng Phát hành hợp đồng đảm nhiệm nên khi có nhiều hợp đồng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của công tác đánh giá rủi ro. Bởi vì theo mức độ như hiện nay, trung bình mỗi ngày Công ty có trên 100 hợp đồng mới, mà phòng chỉ có 5 nhân viên, như vậy mỗi người phải nhập trên 20 hợp đồng một ngày, thêm vào đó là những việc như phôtô bản lưu , in hợp đồng, giao, nhận hợp đồng. Những điều này làm cho nhân viên của phòng không còn nhiều thời gian để dành cho công tác đánh giá rủi ro và kiểm tra thực tế khách hàng cũng như những hoạt động của đại lý trong việc đánh giá rủi ro ban đầu. 4- Công ty cũng nên có quan hệ hợp tác với bệnh viện để tổ chức kiểm tra cho khách hàng tham gia bảo hiểm trong các trường hợp bác sỹ của Công ty không có đủ phương tiện để làm như: Xét nghiệm, kiểm tra lâm sàng, điện tâm đồ... 5- Ngoài việc tổ chức kiểm tra sức khoẻ cho những người có nghi vấn về bệnh tật, tuổi và số tiền bảo hiểm cao Công ty cần phải tổ chức chọn mẫu để kiểm tra đột xuất một số người . Ví dụ như 20% số người tham gia bảo hiểm ngoài số đã được kiểm tra để biết xác suất rủi ro trong số hợp đồng mà Bảo Việt Nhân thọ đã chấp nhận bảo hiểm. 6- Công ty cần xây dựng các tiêu chuẩn để phân loại nghề nghiệp làm cơ sở cho việc đánh giá rủi ro. Trên cơ sở có bảng phân loại nghề nghiệp sẽ biết được loại sản phẩm nào có thể bán được cho mỗi loại nghề nghiệp, điều này sẽ có lợi cho hoạt động Marketing trong quá trình khai thác. Việc phân loại nghề nghiệp sẽ đem lại sự công bằng cho khách hàng tham gia vì thông qua sự phân loại này nghề nào thì không và nghề nào thì phải thêm phí, và thêm với mức độ bao nhiêu. Hiện nay Công ty chỉ có một biểu phí duy nhất cho tất cả các đối tượng, như vậy sẽ không công bằng giữa các chủ hợp đồng. Do đó việc Công ty nên xây dựng biểu phí chi tiết cho từng đối tượng theo sự phân loại nghề nghiệp như các Công ty Bảo hiểm nhân thọ nước ngoài đang thực hiện là cần thiết. Điều này sẽ trực tiếp làm tăng sức hấp dẫn của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đối với người tham gia. 7- Xây dựng tiêu chuẩn về sức khoẻ là điều rất cần thiết đối với Bảo Việt Nhân thọ. Vì dựa vào tiêu chuẩn này để biết được trường hợp nào không phải kiểm tra sức khoẻ trước khi nhận bảo hiểm và trường hợp nào cần phải kiểm tra trước khi nhận bảo hiểm. Điều này sẽ hạn chế được chi phí khám sức khoẻ cho những đối tượng không cần thiết góp phần vào việc giảm thiểu chi phí cho hoạt động kinh doanh. 8- Khả năng thanh toán của Công ty Bảo hiểm sẽ bị đe doạ khi nhận bảo hiểm cho nhiều đối tượng có khả năng rủi ro cao. Tuy nhiên không phải vì thế mà Công ty lại không nhận bảo hiểm cho những đối tượng này. Tái bảo hiểm là biện pháp tốt nhất giúp Công ty vẫn giữ được khách hàng mà vẫn có khả năng thanh toán. Nhưng tái đi với tỷ lệ bao nhiêu lại là vấn đề của các cán bộ đánh giá rủi ro, một tỷ lệ tái hợp lý sẽ đem lại phần lợi nhuận tối đa cho Công ty. 9- Cuối cùng Công ty nên tổ chức thống kê chi tiết những thông tin từ giấy yêu cầu bảo hiểm, bản kết luận kiểm tra sức khoẻ của cán bộ đánh giá rủi ro hoặc từ các vụ bồi thường đã xảy ra để có số liệu và kinh nghiệm cho công tác đánh giá rủi ro trong tương lai. Điều này quan trọng hơn là Công ty có cơ sở để đưa ra các tỷ lệ xác suất rủi ro khi xây dựng và điều chỉnh biểu phí cho các loại sản phẩm sát với thực tế. Làm được như vậy sẽ hạn chế được tổn thất ngoài mức dự tính của Công ty. Tuy nhiên chúng ta cũng phải thừa nhận rằng hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố khách quan chẳng hạn như: ngành Bảo hiểm Việt Nam đã có thời gian gần 40 năm hoạt động, nhưng đến tận thời điểm này việc điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm mới chỉ dừng lại ở mức Nghị định của Chính phủ, chưa có luật kinh doanh bảo hiểm, do đó phần nào hạn chế tốc độ phát triển của ngành Bảo hiểm nói chung và Bảo hiểm nhân thọ nói riêng, đồng thời cũng hạn chế những công cụ quản lý, giám sát của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Hơn nữa, môi trường đầu tư ở Việt Nam chưa phát triển, do vậy với nguồn vốn nhàn rỗi khổng lồ, các Công ty Bảo hiểm Nhân thọ không biết đầu tư vào đâu. Chính điều này là cản trở lớn nhất cho việc giảm phí của sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ để thu hút khách hàng. Trong môi trường mở, thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng phải mở để hoà nhập vào xu hướng vận động của Thế giới. Điều này hoàn toàn đúng đắn, song mở ở mức độ nào thì Nhà nước phải cân nhắc, tính toán đồng thời có phương hướng gì để bảo trợ các doanh nghiệp trong nước trong đó có Bảo Việt nhân thọ. Nhà nước cũng cần sớm thông qua luật bảo hiểm để tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm phát triển, hướng đến một thị trường bảo hiểm cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các Công ty. Đặc biệt cần phát huy vai trò điều tiết của Nhà nước thông qua các doanh nghiệp Nhà nước bằng các chính sách thuế như ban hành biểu thuế với các thuế suất theo khu vực đối với từng nghiệp vụ bảo hiểm, miễm giảm thuế, thậm chí hỗ trợ phí bảo hiểm đối với một số nghiệp vụ thực hiện chủ trương phát triển nông thôn... Thực hiện định hướng trên chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng bước sang thiên niên kỷ mới thị trường Bảo hiểm Việt Nam sẽ bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ mà các Công ty Bảo hiểm trong nước sẽ phải đứng trước nhiều thách thức nhưng có nhiều hứa hẹn. Kết luận Bảo hiểm Nhân thọ là một ngành mới ở Việt Nam và có tiềm năng phát triển rất lớn. Vì thế sự phát triển của Bảo hiểm nhân thọ là mục tiêu quan trọng của ngành bảo hiểm Việt Nam nói riêng và Nhà nước nói chung nhằm huy động lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư để đầu tư phát triển kinh tế, tạo đà cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tiến triển một cách nhanh chóng. Sự ra đời của ngành Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam chứng tỏ trình độ phát triển của xã hội đã tiến lên một bước mới đồng thời thể hiện trình độ hiểu biết của người dân về việc tự bảo vệ mình trước những rủi ro bất ngờ cũng như khả năng đáp ứng kịp thời những nguyện vọng chính đáng của họ. Nhưng làm thế nào để thúc đẩy hoạt động kinh doanh Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam nói chung và ở Bảo Việt nhân thọ nói riêng phát triển lại là vấn đề cần có sự kết hợp phát triển đồng bộ và hoàn thiện không ngừng tất cả các khâu trong quá trình kinh doanh Bảo hiểm nhân thọ: từ khâu khai thác đến công tác đánh giá rủi ro, phát hành hợp đồng, đầu tư, chi trả hợp đồng... Đặc biệt là phải chú trọng và quan tâm đúng mức tới công tác đánh giá rủi ro bằng cách mở rộng các quan hệ quốc tế tiếp cận để đúc rút kinh nghiệm và học hỏi kiến thức tiên tiến trên Thế giới trong hoạt động bảo hiểm nói chung và trong công tác đánh giá rủi ro nói riêng. Nếu được như vậy, theo tôi nghĩ Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam chắc chắn sẽ đứng vững bằng đôi chân của mình và việc đạt tới mục tiêu phát triển mạnh Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam sẽ không còn bao xa./. Mục lục Kết luận...........................................................................................89 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4254.doc
Tài liệu liên quan