Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Bảo hểm TP. HCM - Chi nhánh Hà Nội (Bảo Minh)

lời mở đầu T rong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, các ngành các lĩnh vực đều có đóng góp nhất định và luôn tự cải thiện để vươn tới sự hoàn thiện. Bảo hiểm là ngành dịch vụ, có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế càng phát triển đời sống càng cao thì nhu cầu của con người càng phong phú, đa dạng, trong đó có nhu cầu bảo đảm an toàn, an tâm, ổn định trong cuộc sống. Bảo hiểm góp phần đảm bảo ổn định tài chính cho các cá nhân, gia đình cho mọi tổ chức doanh nghiệ

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Bảo hểm TP. HCM - Chi nhánh Hà Nội (Bảo Minh), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p để khôi phục đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh và còn thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế. Ngày nay, bảo hiểm đã đi vào cuộc sống của từng người, từng hộ gia đình, bảo hiểm ngày càng phát triển cùng với sự gia tăng của các nghiệp vụ bảo hiểm. Một trong số những vấn đề quan trọng hàng đầu được đặt ra trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước đó là việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông và vận tải. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông và vận tải ở nước ta hiện nay vẫn còn thấp kém chưa đáp ứng được sự gia tăng của các phương tiện giao thông. Vấn đề tai nạn giao thông đang trở thành vấn đề quan tâm của tất cả mọi người mọi nhà và toàn xã hội. Nhà nước ta đã có rất nhiều những biện pháp nhằm giảm thiểu tổn thất do tai nạn giao thông và hỗ trợ những trường hợp bị tai nạn sớm hồi phục sức khoẻ, phục hồi tài chính hoà nhập cuộc sống cộng đồng. Một trong số những biện pháp đó là việc triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại các doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó có nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới qua quá trình thực hiện đã cho thấy những tác dụng tích cực, giúp cho chủ phương tiện xe cơ giới an tâm và ổn định được tài chính phục hồi kinh tế khi có tổn thất xảy ra góp phần phát triển kinh tế chung. Công tác giám định bồi thường trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng đã đóng góp một phần lớn vào hiệu quả của toàn nghiệp vụ. Tuy nhiên, so với nhiều ngành nghề khác thì bảo hiểm vẫn đang còn là một ngành nghề non trẻ và đầy tiềm năng. Trong quá trình triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm cũng như nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới chúng ta vẫn đang gặp phải không ít khó khăn và thách thức đòi hỏi chúng ta phải học tập và nghiên cứu rất nhiều. Nhận biết được điều đó trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội em đã chọn đề tài: “Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh - Chi nhánh Hà Nội (Bảo Minh Hà Nội)” để nghiên cứu nhằm mục đích đi sâu tìm hiểu phân tích đánh giá công tác giám định bồi thường, rút ra kinh nghiệm. Cùng với kiến thức đã học góp phần phát triển và hoàn thiện công tác này nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội và góp phần vào sự phát triển của Công ty. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận đề tài được chia thành 3 chương : Chương I: Lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và Công tác giám định bồi thường. Chương II: Thực trạng Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội. Chương I Lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và Công tác giám định bồi thường I. khái quát chung về Bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1. Đặc điểm về giao thông vận tải đường bộ ở Việt Nam: Ngành giao thông vận tải là một trong những ngành then chốt của hệ thống phát triển kinh tế xã hội ở nước ta, là bàn đạp để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra, ngành giao thông vận tải còn là điều kiện cho các ngành khác và cho nền kinh tế phát triển. Song song với quá trình phát triển kinh tế của đất nước, nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá của người dân cũng tăng thì cơ sở hạ tầng giao thông vận tải nước ta cũng không ngừng được củng cố và phát triển. Các hình thức giao thông vận tải cũng ngày càng phong phú đa dạng như: giao thông đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không, đường bộ…. Do đặc thù địa lý, kinh tế, xã hội thì giao thông đường bộ vẫn là hình thức phổ biến nhất và được Đảng và nhà nước ta quan tâm phát triển hàng đầu. Giao thông đường bộ hiện đang giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tính tới năm 2002 mạng đường bộ Việt Nam dài 221.115 km. Trong đó quốc lộ chiếm 15.824 km ( 7,16%); đường liên tỉnh và tỉnh lộ là 19.916 km ( 9,00%); đường huyện lộ 37.947 km (17,16%); đường địa phương chung 134.463 km (60,8%); đường đô thị 5.944 km (2,69%); đường chuyên dùng 7021 km (3.18%). Xe cơ giới theo quy định hiện hành là tất cả các loại xe hoạt động trên đường bộ bằng chính động cơ của mình và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia. Xe cơ giới chiếm một số lượng lớn và một vị trí quan trọng trong ngành giao thông vận tải góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Vận chuyển bằng xe cơ giới đem lại hiệu quả và những ưu điểm phù hợp với Việt Nam hơn các phương tiện khác như: - Xe cơ giới có tính cơ động và linh hoạt cao, tốc độ vận chuyển cao, hoàn thành quá trình vận chuyển một cách triệt để,chi phí hợp lý. - Chi phí cho việc xây dựng đường xá, bến bãi phục vụ cho xe cơ giới ít tốn kém hơn các phương tiện khác như máy bay, tàu hỏa, tàu thuỷ. - Việc sử dụng xe cơ giới phù hợp với điều kiện hạ tầng cơ sở giao thông vận tải ở nước ta hơn bất kì loại phương tiện nào khác. Thực tế cho thấy số xe cơ giới lưu hành trên toàn quốc hàng năm tăng đáng kể Các loại xe cơ giới chủ yếu được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam bao gồm xe ô tô, xe mô tô. Bảng 1.1: Tình hình gia tăng phương tiện giao thông đường bộ (1998-2003) Năm Số lượng xe ô tô Số lượng xe mô tô 1998 443.000 5.200.000 1999 456.000 5.600.000 2000 486.000 6.478.000 2001 532.681 8.395.835 2002 701.065 10.368.478 2003 842.123 11.925.632 (Nguồn : Tạp chí Giao Thông Vận Tải tháng 3/2004) Bên cạnh những ưu điểm vận chuyển bằng xe cơ giới cũng có những nhược điểm như độ an toàn thấp, khả năng dẫn đến tai nạn cao, tổn thất về người và của lớn và khó khắc phục. Trong những năm gần đây cùng với sự gia tăng của số phương tiện tham gia giao thông, số vụ tai nạn giao thông cũng tăng lên đáng kể gây tổn thất lớn về người và tài sản. Trong đó số người chết vì tai nạn giao thông cũng tăng lên đến mức báo động. Bảng 1.2: Tình hình tai nạn giao thông (1998-2002) Năm Số vụ tai nạn Số người chết Số người bị thương 1998 19.997 6.067 22.723 1999 20.733 6.670 23.911 2000 23.500 7.599 27.538 2001 25.040 10.477 29.188 2002 27.004 30.733 12.800 (Nguồn: Tạp chí Giao thông vận tải số tháng 2/2004) Theo thống kê tính đến tháng 10 năm 2003 đã xảy ra 17.415 vụ tai nạn, trong đó có 9.698 người bị chết và 17.156 người bị thương. Như vậy mức độ gia tăng tai nạn hàng năm từ 10% đến 30%, trong đó số người chết tăng từ 5% đến 35%, số người bị thương tăng từ 5% đến 45%. Nguyên nhân chủ yếu của những vụ tai nạn nói trên là do người điều khiển phương tiện giao thông phóng nhanh vượt ẩu, vi phạm luật lệ an toàn giao thông, bị ảnh hưởng của bia rượu khi sử dụng phương tiện giao thông, chất lượng đạo đức lái xe chưa cao. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như xe cũ, chất lượng kém, do mạng lưới đường xá còn chật hẹp, do hệ thống các biển báo giao thông, đèn tín hiệu còn thiếu… Trong số đó nguyên nhân của những vụ tai nạn giao thông do lỗi của người điều khiển phương tiện giao thông chiếm 79,4%. 2. Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản suất kinh doanh hàng ngày dù con người luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng vẫn luôn có những nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Những rủi ro đó có thể do rất nhiều nguyên nhân như: do điều kiện môi trường, do tiến bộ khoa học kỹ thuật, do trình độ, kinh nghiệm của con người chưa cao….Song bất kể là do nguyên nhân nào khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống. Để đối phó với những rủi ro con người đã có nhiều những biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những hậu quả do những rủi ro gây ra. Những biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu tổn thất. Các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cá nhân. Theo quan điểm của các nhà kinh tế thì bảo hiểm chính là sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm với người được bảo hiểm về những tổn thất, mất mát của đối tượng bảo hiểm do những rủi ro đã được thoả thuận gây ra, với điều kiện bên mua bảo hiểm đóng cho nhà bảo hiểm một khoản gọi là phí bảo hiểm. Bảo hiểm ra đời chính là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của hoạt động sản suất kinh doanh. Ngày nay khái niệm “ bảo hiểm” đã trở nên gần gũi gắn bó với con người, với hoạt động sản suất kinh doanh. Đối với các chủ phương tiện và những người điều khiển phương tiện xe cơ giới trong quá trình tham gia giao thông dù đã rất cẩn thận nhưng cũng không thể tránh khỏi những tai nạn bất ngờ xảy ra. Khi xảy ra tai nạn chủ phương tiện cơ giới sẽ phải gánh chịu những tổn thất do mình gây ra, trong đó có tổn thất về trách nhiệm do mình gây ra đối với người thứ ba, tổn thất về vật chất xe cơ giới, tổn thất về con người. Những rủi ro đó có thể sẽ gây khó khăn lớn cho cuộc sống cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Vì vậy việc bù đắp tài chính kịp thời là một nhu cầu cấp thiết của các chủ phương tiện. Để khắc phục những rủi ro trên một trong những biện pháp hữu hiệu nhất đó là tham gia bảo hiểm. Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm ở nước ta đã triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm như: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba (bắt buộc theo Nghị định số 115/CP ngày 17/12/1997 của Chính phủ), bảo hiểm vật chất xe cơ giới, bảo hiểm con người, hàng hoá, hành khách trên xe .… 3. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới .Bồi thường những tổn thất do rủi ro gây ra, góp phần ổn định đời sống và sản xuất kinh doanh Chủ phương tiện giao thông vận tải khi tham gia bảo hiểm sẽ nộp cho nhà bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm, các khoản phí này sẽ hình thành quỹ tiền tệ tập trung. Các Công ty Bảo hiểm sử dụng quỹ này để chi trả cho hoạt động quản lý kinh doanh và phần lớn là chi bồi thường cho người được bảo hiểm khi có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Như vậy, khi có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm chủ phương tiện giao thông vận tải sẽ được bồi thường. Điều đó sẽ giúp cho các chủ phương tiện giao thông vận tải khắc phục được những khó khăn về mặt tài chính, giúp họ ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh của mình. Đây chính là tác dụng đặc trưng của bảo hiểm. 3.2.Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình mà khách hàng chỉ có thể nhận được khi gặp rủi ro dẫn đến tổn thất. Nếu rủi ro xảy ra dẫn đến tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm thì nhà bảo hiểm sẽ bồi thường cho khách hàng. Mục tiêu lớn nhất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là tạo ra lợi nhuận. Theo đó, các doanh nghiệp bảo hiểm muốn có lợi nhuận cao thì chi phí phải giảm, mà khoản chi cho bồi thường là khoản chi lớn nhất của các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp đã đề ra các biện pháp nhằm giúp khách hàng của mình đề phòng và hạn chế tổn thất có thể xảy ra. Các doanh nghiệp bảo hiểm phối hợp với các cơ quan chức năng tăng cường giáo dục cho nhân dân ý thức chấp hành luật lệ giao thông, tham gia vào các hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về an toàn giao thông đến từng người dân. Ngoài ra các doanh nghiệp bảo hiểm còn dùng nguồn quỹ nhàn rỗi của mình vào việc xây dựng, cải tạo hệ thống đường xá, lắp đặt các hệ thống đèn tín hiệu, dải phân cách nhằm hạn chế các tai nạn giao thông đáng tiếc có thể xảy ra. 3.3. Góp phần tăng nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế Như chúng ta đã biết, người tham gia bảo hiểm đóng một khoản phí bảo hiểm tạo thành nguồn quỹ bảo hiểm lớn, ngoài việc chi trả, bồi thường nguồn quỹ này còn là một nguồn vốn lớn đầu tư phát triển kinh tế kinh tế đất nước. ở một số nước phát triển như Mỹ, nguồn vốn mà các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào nền kinh tế thường cao, đứng thứ hai chỉ sau các ngân hàng thương mại và cung cấp khoảng 10% tổng quỹ đầu tư của thị trường tiền tệ và vốn. 3.4.Bảo hiểm đóng góp tích lũy cho ngân sách nhà nước thông qua thuế 3.5.Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức, giúp họ yên tâm trong cuộc sống, trong sinh hoạt sản xuất kinh doanh, bảo hiểm thể hiện tính cộng đồng, tương trợ, nhân văn sâu sắc. 3.6.Bảo hiểm thu hút một số lao động nhất định, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội. 4. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm vật chất xe cơ giới 4.1.Đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới Đối tượng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới là toàn bộ các loại xe cơ giới có giá trị, có đủ điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho việc lưu hành xe, có giấy phép lưu hành xe do cơ quan có thẩm quyền cấp và hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xét trên phương diện kỹ thuật bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có thể bảo hiểm toàn bộ vật chất thân xe hoặc tiến hành bảo hiểm từng bộ phận của chiếc xe. Hiện nay, Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh quy định về các nhóm tổng thành của xe ôtô như sau: -Tổng thành động cơ: bao gồm bộ li hợp, chế hoà khí, bơm cao áp, bầu lọc gió, bơm hơi, hệ thống điện. -Tổng thành hộp số: hộp số chính, hộp số phụ, lăng… -Tổng thành trục trước: gầm cầu xe, may ơ, hệ thống treo nhíp, má phanh, trục láp…. -Tổng thành hệ thống lái: trục lái, vô lăng lái, hộp tay lái, bộ trợ lực tay lái, thanh kéo ngang, thanh kéo dọc… -Tổng thành lốp : Toàn bộ lốp lắp vào xe, lốp trang bị dự phòng trên xe,… -Tổng thành cầu sau: vỏ cầu và ruột cầu. -Tổng thành thân vỏ: Ba-đờ- xốc, khung xe, két nước, nắp ca bô, chắn bùn,… cabin, tổng bơm, bộ điều hoà lực phanh, đường ống dẫn khí, dẫn dầu, thùng chứa nguyên liệu, kính, gương, ghế ngồi, các trang thiết bị khác… Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là hình thức bảo hiểm tự nguyện, chủ xe khi tham gia bảo hiểm sẽ được bồi thường cho những tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm. 4.2. Phạm vi bảo hiểm vật chất xe cơ giới : Phạm vi bảo hiểm là phạm vi giới hạn những rủi ro mà theo thoả thuận nếu những rủi ro đó xảy ra thì nhà bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường cho chủ phương tiện. Công ty Bảo Minh bồi thường cho chủ xe những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm trong những trường hợp sau: - Tai nạn do đâm va, lật dổ. - Cháy nổ, bão, lụt, sét đánh, động đất, mưa đá. - Mất cắp toàn bộ xe ô tô, môtô. - Xe môtô, ô tô bị mất cắp toàn bộ trong các trường hợp sau (nếu có tham gia và đóng phí phần rủi ro mất cắp) : = Mất tại nhà có dấu vết cạy phá và mất tại bãi giữ xe công cộng hợp pháp có thẻ giữ xe. = Mất tại trụ sở cơ quan có bảo vệ trông coi. = Bị cướp có vũ trang. Tất cả trường hợp mất cắp trên phải có chứng cứ hợp pháp và có kết luận của Công An có thẩm quyền. - Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây ra. Công ty Bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại như: - Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật… - Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp mà nguyên nhân không phải do tai nạn gây ra. - Mất cắp bộ phận xe. Để tránh những nguy cơ trục lợi bảo hiểm, hành vi vi phạm đạo đức pháp luật các Công ty Bảo hiểm không bồi thường những thiệt hại tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân sau: - Hành động cố ý. - Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và các thiết bị kỹ thuật an toàn để lưu hành, chủ xe lái xe vi phạm nghiêm trọng luật lệ an toàn giao thông. + Xe không có giấy phép lưu hành. + Lái xe không có bằng lái hoặc không có giấy tờ hợp lệ. + Lái xe sử dụng các rượu bia và các chất kích thích khác khi điều khiển xe. + Xe quá trọng tải. + Xe đi đêm không đèn. + Xe dùng để tập lái, chạy thử sau sửa chữa. Trong thời hạn bảo hiểm nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới, nếu chủ xe không chuyển quyền lợi bảo hiểm sang chủ xe mới thì Công ty sẽ hoàn trả phí. 5. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường chính xác thiệt hại thực tế cho chủ xe tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, giá trị trên thị trường luôn biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe: - Loại xe. - Năm sản xuất. - Mức độ sử dụng xe (cũ, mới). - Thể tích làm việc của xi lanh. Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm mà các Công ty Bảo hiểm hay áp dụng căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao. Cụ thể: Giá trị bảo hiểm = Giá trị ban đầu - Khấu hao Số tiền bảo hiểm là số tiền người tham gia bảo hiểm chấp nhận tham gia hoặc người bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm xác định dựa trên giá trị bảo hiểm và sự phân tích chủ quan của người tham gia hoặc người bảo hiểm. Nguyên tắc của bảo hiểm là số tiền bảo hiểm không được vượt quá giá trị bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm vô tình hoặc cố ý vi phạm các Công ty Bảo hiểm sẽ có những chế tác phù hợp tuỳ vào mức độ thực tế. 6. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là nhân tố đầu tiên quyết định sự lựa chọn của khách hàng. Vì vậy việc xác định chính xác phí bảo hiểm sẽ bảo đảm cho hoạt động của Công ty đồng thời làm tăng tính cạnh tranh cho Công ty trên thị trường bảo hiểm. Công thức tính phí cho mỗi đầu xe P = f + d Trong đó P: Phí bảo hiểm mồi đầu xe f: Phí thuần d: Phụ phí Căn cứ vào tình hình tổn thất năm trước. Căn cứ vào số liệu thống kê Công ty Bảo hiểm sẽ thực hiện tính toán phí thuần cho mỗi đầu xe như sau: Trong đó : i = Si : Số vụ tai nạn xảy ra năm thứ i Ti : Thiệt hại bình quân một vụ tai nạn năm i Ci : Số xe hoạt động năm i Theo công thức trên việc xác định phụ phí bao gồm chi phí quản lý, phí đề phòng hạn chế tổn thất. Ngoài ra khi xác định phí bảo hiểm các Công ty Bảo hiểm còn căn cứ vào những nhân tố sau: - Loại xe: Do mỗi loại xe có đặc điểm kỹ thuật khác nhau, mức độ rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm khác nhau. Thông thường các Công ty Bảo hiểm đưa ra những biểu phí phù hợp cho hầu hết các loại xe thông dụng thông qua việc phân loại xe thành các nhóm. Việc phân loại này được dựa trên cơ sở tốc độ tối đa, khả năng sửa chữa phụ tùng thay thế. Đối với những xe hoạt động không thông dụng có mức rủi ro cao thì phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản. - Tính chất hoạt động của xe tham gia bảo hiểm: Đối với các loại xe hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh vận tải doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có một biểu phí riêng như kinh doanh vận tải hành khách, kinh doanh vận tải hàng hoá….Còn đối với các loại xe sử dụng với mục đích đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của chủ phương tiện sẽ có một biểu phí riêng. Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn tham gia bảo hiểm các Công ty Bảo Minh áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung theo số lượng tham gia bảo hiểm. Ngoài ra các Công ty Bảo Minh còn áp dụng chế độ giảm này cho các đơn vị tham gia nhiều năm và không có khiếu nại gì trong các năm… Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ thì chủ xe chỉ đóng phí cho những ngày hoạt động theo công thức sau: Số tháng xe hoạt động Phí bảo hiểm =Phí bảo hiểm cả năm * 12 Trong trường hợp khách hành đã nộp phí cả năm nhưng vì lý do nhất định xe ngừng hoạt động một thời gian, Công ty Bảo Minh sẽ hoàn trả lại phí của thời gian ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính theo công thức: Số tháng xe không hoạt động Phí hoàn lại= Phí đã đóng* Tỷ lệ hoàn lại * 12 Thông thường tỷ lệ phí hoàn lại là 80% Nếu chủ xe muốn huỷ hợp đồng khi chưa hết thời hạn thì Công ty hoàn trả lại phí cho thời gian còn lại với điều kiện chủ xe chưa có lần nào được trả tiền bảo hiểm trong thời gian hợp đồng. 7. Hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng là một thoả thuận giữa nhà bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Theo đó người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm cho nhà bảo hiểm còn nhà bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường và trả tiền bảo hiểm cho người tham gia khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm gây tổn thất đối với xe của người tham gia. Một hợp đồng được gọi là có giá trị pháp lý khi thoả mãn các điều kiện sau: - Mục đích của các bên là thiết lập mối quan hệ pháp lý. - Lời đề nghị của một bên và việc chấp nhận của bên kia. - Khả năng pháp lý của các bên để thực hiện hợp đồng. Như vậy hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới phải tuân thủ theo các điều kiện chủ yếu, thiếu bất kỳ một điều kiện nào hợp đồng coi như không có hiệu lực, hoặc không thi hành được. Hợp đồng bảo hiểm thiệt hại vật chất cũng phải đảm bảo đúng nguyên tắc của một hợp đồng của một hợp đồng bảo hiểm bao gồm: Những nguyên tắc ngầm định: - Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm. - Nguyên tắc trung thực tuyệt đối Những nguyên tắc hiển thị rõ ràng - Nguyên tắc bồi thường: Số tiền bồi thường không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế. - Nguyên tắc thế quyền. Nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới : - Tiêu đề: Tên, địa chỉ của Công ty - Chủ thể bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm). - Đối tượng bảo hiểm. - Số tiền bảo hiểm , mức phí , cách thức nộp phí bảo hiểm . - Các điều khoản về giải quyết bồi thường. - Các quy định về giải quyết tranh chấp ( nếu có). - Thời hạn bảo hiểm . - Chữ ký của hai bên. II. Công tác giám định bồi thường trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1.Vai trò của Công tác giám định bồi thường Giám định là quá trình xem xét phân tích đánh giá rủi ro xảy ra dẫn đến tổn thất, xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất để từ đó đo lường tổn thất. Giám định là một khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh của Công ty Bảo hiểm. Giám định là cơ sở để xem xét bồi thường một cách chính xác và thoả đáng để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Công ty Bảo hiểm. Giám định đúng, chính xác sẽ giúp cho doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường cho khách hàng đúng đắn tăng uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, ngoài ra còn giúp ngăn chặn và giảm bớt được hiện tượng trục lợi trong bảo hiểm. Bồi thường là việc nhà bảo hiểm sẽ chi trả một khoản tiền nhất định hay hiện vật cho người tham gia bảo hiểm khi có thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra. Bồi thường cũng là một khâu quan trọng trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm vì nó quyết định rất lớn đến chất lượng sản phẩm bảo hiểm. Khi làm tốt công tác này sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao uy tín của mình đối với khách hàng và nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường bảo hiểm. Công tác giám định bồi thường trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một công việc có vai trò quan trọng trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng như trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm. 2. Nội dung của Công tác giám định bồi thường Khi bị tai nạn nhà bảo hiểm yêu cầu các chủ xe hoặc lái xe một mặt phải tìm mọi cách hạn chế tổn thất, mặt khác phải nhanh chóng báo cho Công ty Bảo hiểm biết. Chủ xe không được di chuyển, tháo dỡ, sửa chữa xe mà chưa có ý kiến của nhà bảo hiểm. Khi chủ xe thông báo tai nạn cho nhà bảo hiểm biết nhà bảo hiểm sẽ tiến hành giám định, nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. 2.1. Nguyên tắc giám định bồi thường: Trong những năm gần đây, các sản phẩm về bảo hiểm xe cơ giới đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, đòi hỏi công tác giám định bồi thường phải được củng cố và nâng cao. Những nguyên tắc được xây dựng trong công tác này nhằm đảm bảo yêu cầu đó. Nội dung của nguyên tắc giám định gồm: - Việc giám định phải được tiến hành sớm nhất sau khi nhận được thông tin tai nạn (theo quy định chung 5 ngày). Nếu không tiến hành sớm được thì phải báo cáo lý do của việc chậm trễ trong biên bản giám định. - Tất cả các thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm vật chất, tài sản đều phải tiến hành giám định. - Trong trường hợp đặc biệt nếu tổ chức bảo hiểm không thực hiện được việc lập biên bản giám định, thì có thể căn cứ vào biên bản của cơ quan chức năng, ảnh chụp, hiện vật thu được, khai báo của chủ xe và kết quả điều tra. Trong quá trình giám định phải có sự có mặt và ký xác nhận của chủ xe, chủ tài sản bị thiệt hại hoặc người đại diện hợp pháp. Mục tiêu của giám định để: Xác định nguyên nhân tai nạn, từ đó xác định trách nhiệm của bảo hiểm, đánh giá, xác định thiệt hại cho việc bồi thường được nhanh chóng, giúp việc tổng hợp nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông để có biện pháp phòng ngừa. Yêu cầu của một biên bản giám định phải khách quan, tỷ mỉ, thể hiện đầy đủ, chi tiết những thiệt hại do tai nạn đồng thời đề xuất phương án khắc phục một cách hợp lý và kinh tế nhất. Các giám định viên là những người thực hiện công tác này. Nội dung của nguyên tắc bồi thường: Nguyên tắc bồi thường là các quy định khi tiến hành bồi thường cho chủ xe của Công ty Bảo hiểm: Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế: Số tiền bảo hiểm Số tiền bồi thường = Thiệt hại thực tế * Giá trị thực tế xe Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế. Theo nguyên tắc tránh trục lợi bảo hiểm, Công ty Bảo hiểm chỉ chấp nhận số tiền bảo hiểm bằng hoặc thấp hơn giá trị thực tế của xe. Tuy nhiên, có trường hợp người tham gia bảo hiểm vô tình hoặc cố ý tham gia với số tiền lớn hơn giá trị bảo hiểm. Trong trường hợp này số tiền bồi thường chỉ bằng giá trị thiệt hại thực tế theo nguyên tắc “ Số tiền bồi thường không vượt quá thiệt hại thực tế”. Ví dụ: Xe ô tô có giá trị thực tế 220 triệu nhưng người tham gia bảo hiểm với số tiền 250 triệu khi tổn thất toàn bộ xảy ra chỉ bồi thường 220 triệu. Có những trường hợp Công ty Bảo hiểm chấp nhận số tiền bảo hiểm cao hơn giá trị thực tế. Trường hợp này được gọi là “giá trị thay thế mới”, chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao theo các chính sách, điều kiện bảo hiểm chặt chẽ Trường hợp tổn thất bộ phận: Khi tổn thất bộ phận xảy ra, chủ xe sẽ được giải quyết bồi thường theo một trong hai nguyên tắc trên. Tuy nhiên các Công ty Bảo hiểm thường giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng tỷ lệ giá trị tổng thành xe. Ví dụ: Chủ xe A tham gia bảo hiểm toàn bộ theo giá trị thực tế một chiếc xe Toyota giá trị thực tế trên thị trường Việt Nam là 300 triệu đồng. Trong thời hạn bảo hiểm xe bị tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm thiệt hại như sau: Thân vỏ: 70 triệu đồng Động cơ: 50 triệu đồng. Theo quy định của các Công ty Bảo hiểm tỷ lệ giá trị tổng thành như sau: Tỷ lệ tổng thành thân vỏ 53,5% động cơ 15,5%. Như vậy trong trường hợp này Công ty Bảo hiểm sẽ bồi thường như sau: Thân vỏ = 300 * 53% = 170 triệu đồng, lớn hơn phạm vi bảo hiểm nên sẽ bồi thường 70 triệu đồng Động cơ = 300 * 15,5% = 46,5 triệu đồng. Bồi thường 46,5 triệu đồng. Trường hợp tổn thất toàn bộ: Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi bị mất cắp, mất tích hoặc bị thiệt hại nặng đến mức không thể sửa chữa được hoặc chi phí sửa chữa phục hồi bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Nếu tổn thất toàn bộ, chủ xe sẽ được bồi thường theo giá trị ghi trong đơn bảo hiểm. Ví dụ: Chủ xe A có chiếc xe Toyota giá trị thực tế 200 triệu đồng tham gia bảo hiểm toàn bộ với số tiền bảo hiểm là 200 triệu đồng. Theo quy định của Công ty chỉ được coi là tổn thất toàn bộ ước tính khi giá trị thiệt hại bằng hoặc lớn hơn 90% giá trị thực tế xe. Trong thời hạn bảo hiểm xe bị tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, chi phí sửa chữa như sau: Thân vỏ thiệt hại 100% chi phí sửa chữa 100 triệu đồng. Động cơ thiệt hại 100% chi phí sửa chữa 40 triệu đồng. Tổng cộng thiệt hại 140 triệu đồng Giá trị thiệt hại này nhỏ hơn 90% giá trị thực tế xe (140/200=0,7) nên không được bồi thường toàn bộ ước tính mà chỉ được bồi thường bộ phận như trên. Các Công ty Bảo hiểm thường quy định khi giá trị thiệt hại so với giá trị thực tế của xe đạt tới hoặc vượt qua một tỷ lệ giới hạn nhất định nào đó thì được coi như là tổn thất toàn bộ ước tính tuy nhiên giới hạn bởi bảng tỷ lệ cấu thành xe. Ngoài những nguyên tắc như trên khi tính toán và chi trả bồi thường, các Công ty Bảo hiểm còn phải chú ý các nguyên tắc sau: Tạm ứng bồi thường phải dựa trên cơ sở sau: - Chủ xe có đơn yêu cầu - Thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm và phải ước tính giá trị thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm. Căn cứ vào đó đề xuất tạm ứng theo quy định bằng văn bản, khi xét bồi thường phải đối trừ hoặc thu hồi tạm ứng. - Những bộ phận thay thế mới thì khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị của bộ phận được thay thế ngay trước lúc xảy ra tai nạn. Nếu tổn thất xảy ra trước (hoặc sau) ngày 16 của tháng thì thời gian khấu hao sẽ không tính tháng đó (hoặc tính cả tháng đó). - Trong trường hợp thiệt hại xảy ra có liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba, Công ty Bảo hiểm bồi thường cho chủ xe và yêu cầu chủ xe bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho Công ty Bảo hiểm kèm theo toàn bộ hồ sơ và chứng từ có liên quan. Cụ thể: Xe tham gia bảo hiểm vật chất đâm va với một xe khác có tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự gây thiệt hại thì sẽ được bồi thường vật chất thân xe trước. Đối với trách nhiệm dân sự chỉ bồi thường phần chênh lệch giữa số tiền bồi thường trách nhiệm dân sự và số tiền bồi thường vật chất. - Trong trường hợp bảo hiểm trùng theo nguyên tắc số tiền bồi thường mà chủ xe nhận được không vượt quá giá trị thực tế. Thông thường các Công ty Bảo hiểm giới hạn trách nhiệm bồi thường của mình theo tỷ lệ số tiền bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận của Công ty mình so với tổng số tiền ở tất các giấy chứng nhận bảo hiểm. 2.2. Giám định viên: 2.2.1. Vai trò của giám định viên: Giám định viên bảo hiểm xuất hiện từ lâu gắn bó mật thiết với quá trình bảo hiểm. Theo thời gian, khái niệm giám định viên đã trở nên quen thuộc và công việc của họ là ghi nhận một cách khoa học mức độ thiệt hại, tổn thất, nguyên nhân gây ra tổn thất với đối tượng bảo hiểm. Vì vậy, vai trò của giám định viên càng ngày càng quan trọng trong các nghiệp vụ bảo hiểm. Các công việc của một giám định viên: + Ghi nhận thiệt hại: Khi người tham gia bảo hiểm gặp phải rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm dẫn đến tổn thất họ sẽ thông báo cho nhà bảo hiểm biết. Nhà bảo hiểm sẽ chỉ định một giám định viên đến tiến hành giám định, giám định viên sẽ ghi lại những tổn thất, mức độ tổn thất và lập thành biên bản . + Đề xuất biện pháp bảo quản và đ._.ề phòng thiệt hại: Khi thiệt hại xảy ra các giám định viên phải có nghĩa vụ can thiệp nhằm giảm thiểu tổn thất. + Tiến hành yêu cầu người thứ ba bồi thường: Trong trường hợp thiệt hại liên quan đến người thứ ba, các nhà bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ ba có trách nhiệm về các thiệt hại xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Những yêu cầu đó có thể được thực hiện bằng thoả thuận hoặc luật pháp và các hợp đồng bảo hiểm buộc bên mua bảo hiểm phải bảo vệ quyền yêu cầu đó của bên bảo hiểm. Công việc của giám định viên là can thiệp vào các khiếu kiện nhằm khuyến khích bên được bảo hiểm thực hiện các thủ tục cần thiết và những kháng nghị khi cần. Mặt khác, việc tham gia của giám định viên còn giúp cho việc khiếu kiện đạt kết quả tốt hơn. + Phân tích thông tin: Khi giám định viên nhận được thông tin về tổn thất của người tham gia bảo hiểm, ngoài việc ghi nhận những thiệt hại xảy ra các giám định viên còn phải thu nhận thông tin của những người liên quan, từ đó phân tích các thông tin để đưa ra một kết quả giám định chính xác nhất. Yêu cầu đối với một giám định viên là phải hiểu biết về kỹ thuật, xã hội, kinh tế, văn hoá, tâm lý… Trong trường hợp có cơ quan công an đến giám định thiệt hại xảy ra thì giám định viên phải kết hợp với cơ quan điều tra và chủ xe để thu thập tài liệu và kết luận điều tra để xác định được phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. 2.2.2.Quy chế về giám định viên bảo hiểm: ở một số nước phát triển trên thế giới giám định viên do tổ chức bảo hiểm chỉ định và lựa chọn. ở Việt Nam giám định viên chính là các nhân viên của các Công ty Bảo hiểm đã được chuyên môn hoá. Song các giám định viên vẫn phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau: Phải công minh, cẩn thận, hiểu biết thấu đáo về đối tượng được bảo hiểm. Khi tiến hành giám định, giám định viên được lựa chọn phải độc lập về lợi ích với các bên liên quan. Giám định viên do Công ty Bảo hiểm chỉ định được uỷ nhiệm có giới hạn, sự uỷ nhiệm này không được tự tiện trao cho người khác. Giám định viên phải chịu trách nhiệm về việc ghi nhận thiệt hại, mức độ thiệt hại trong biên bản mà mình lập ra. Giám định viên có thể đồng thời được hai tổ chức bảo hiểm chỉ định. Khi có sự xung đột về quyền lợi của tổ chức đã uỷ nhiệm mình trong thời gian dài nhất, để bảo vệ cho tổ chức kia, giám định viên có thể đề nghị một giám định viên khác thay thế. Giám định viên bảo hiểm phải chịu sự giám sát của tổ chức đã uỷ nhiệm họ, do vậy giám định viên phải giải quyết công việc trong khuôn khổ được ủy nhiệm và cộng tác chặt chẽ với đại diện hay thanh tra của tổ chức đã uỷ nhiệm khi cần thiết. 2.3. Quy trình giám định bồi thường gồm các bước sau: Bước 1: Tiếp nhận và xử lý sơ bộ các thông tin về tai nạn: Trong bước này nhà bảo hiểm sẽ nhận thông tin về tai nạn từ phía khách hàng, từ những người có liên quan để kiểm tra tính xác thực của thông tin nhằm xác định sơ bộ về trách nhiệm giám định và nội dung giám định. Các thông tin về tai nạn bao gồm: - Ngày, giờ, địa điểm xảy ra tai nạn Các thông tin về xe gặp nạn : biển số xe, tên, chủ xe Số giấy chứng nhận bảo hiểm, nơi cấp bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm, loại hình bảo hiểm tham gia. Bước 2: Dự kiến phương án và chuẩn bị giám định : Các giám định viên sau khi nhận được thông tin và xử lý các thông tin sẽ lựa chọn các phương án giám định phù hợp để chuẩn bị cho quá trình tiến hành giám định. Đồng thời nhà bảo hiểm hướng dẫn giúp đỡ chủ xe thu nhập và hoàn thành hồ sơ khiếu nại. Bước 3: Tiến hành giám định: Đây là khâu quan trọng nhất nhằm xác định mức độ tổn thất của xe gặp tai nạn. Chủ xe có nghĩa vụ bảo vệ xe nhằm hạn chế thiệt hại nếu có tổn thất phát sinh thêm do các nguyên nhân khách quan, người được bảo hiểm phải thông báo chính xác, cụ thể cho Công ty Bảo hiểm biết. Việc tiến hành giám định được giám định viên thoả thuận trước với người được bảo hiểm về thời gian và địa điểm giám định. Quá trình giám định phải có mặt của chủ xe, người điều khiển xe, hay người đại diện hợp pháp của họ. Việc giám định phải được lập biên bản giám định, xác định các bộ phận tổn thất, mức độ tổn thất và dự trù các phương pháp xử lý thiệt hại. Đối với những xe bị tổn thất có nhiều chi tiết cấu thành, cần tiến hành giám định và lập biên bản giám định riêng cho các bộ phận cấu thành. Đồng thời quá trình giám định phải chụp ảnh về các bộ phận tổn thất để phục vụ cho quá trình đánh giá thiệt hại, chứng minh cho tổn thất và nguyên nhân gây ra tổn thất. Chụp ảnh: Phải chụp ảnh cả tổng thể và chi tiết trong đó chụp cả biển số xe, số máy, số khung, hiện trường xảy ra tổn thất, ảnh các chi tiết gãy hỏng bên trong. ảnh chụp phải bộc lộ rõ thiệt hại. Có thể chụp ảnh những chi tiết nhằm chứng minh nguyên nhân tai nạn. Sau khi chụp ảnh cần phải đưa ảnh vào hồ sơ giám định trong đó phải ghi rõ tên người chụp, chú thích… Lập biên bản giám định: Đây là một khâu công việc quan trọng đòi hỏi tỉ mỉ, không bỏ xót, bộc lộ được thiệt hại và cũng thể hiện được mối quan hệ nhân quả và hậu quả thiệt hại. Biên bản giám định có thể được thực hiện một hay nhiều lần tuỳ mức độ phức tạp. Nội dung biên bản giám định gồm: Thời gian giám định Họ tên, chức vụ, cơ quan của người tham gia giám định. Biển số xe, số khung, số máy, nhãn hiệu, loại xe, trọng tải của xe bị tai nạn. Tên chủ xe, tên người lái xe. Các nội dung khác về tổn thất như bộ phận bị thiệt hại, mức độ, kích thước (kèm ảnh chụp liên quan). Nếu như hư hỏng nhiều bộ phận thì có thể sử dụng bản phụ lục kèm theo (mẫu sau) Bản phụ lục giám định Số TT Bộ phận hư hỏng Mức độ hư hỏng Đề xuất giám định Ghi chú Sửa Thay Sau biên bản giám định và bản phụ lục giám định, phải có chữ ký của người tham gia giám định và của giám định viên. Bước 4: Chuyển giao hồ sơ cho cán bộ bồi thường cán bộ bồi thường tiến hành bồi thường: Cán bộ bồi thường sẽ căn cứ vào hồ sơ giám định và các giấy tờ có liên quan khác như: hoá đơn, chứng từ sửa chữa xe, biên bản giấy tờ để bồi thường cho người tham gia bảo hiểm. Các cán bộ bồi thường sẽ thoả thuận thống nhất với chủ xe phương án sửa chữa thiệt hại. Các thoả thụân này về cơ bản được thoả thuận qua ba phương án sau: Phương án 1: Bồi thường trên cơ sở chi phí thiệt hại: Đây là phương án chủ yếu khắc phục thiệt hại, là cách khắc phục thiệt hại kinh tế, là cơ sở cho việc bồi thường sát với thực tế thiệt hại. Có thể khắc phục thiệt hại theo các cách sau: - Cho chủ xe tự đi sửa chữa: áp dụng trong trường hợp thiệt hại nhỏ do nguyên nhân đơn giản, để quản lý được giá các cán bộ bồi thường yêu cầu chủ xe phải báo giá hoặc có sự thoả thuận với Công ty Bảo hiểm trước khi sửa chữa thay thế. - Đấu thầu sửa chữa: áp dụng với trường hợp thiệt hại nặng, khó có khả năng đánh giá đúng được chi phí sửa chữa. Việc đấu thầu phải đảm bảo đúng tính khách quan. Những người tham gia nhận thầu phải độc lập với nhau. Trước khi đấu thầu phải xem xét các bản giá phân tích và phối hợp các yếu tố: + Phương án sửa chữa và thay thế vật tư phải hợp lý, đảm bảo chất lượng và vẫn kinh tế. + Chất lượng và khả năng nơi sửa chữa: Nơi sửa chữa là nơi có khả năng thật sự, tránh tình trạng nhận bừa gây rối trong công việc + Giá trị nhận thầu phải thấp song phải đảm bảo chất lượng sau khi sửa chữa. * Chú ý: Có nhiều trường hợp tất cả các phương án dự thầu đều giá cao, nên vẫn phải xem xét khảo giá để có quyết định đúng đắn để tránh tranh chấp. Công ty Bảo hiểm tiến hành làm việc với các bên liên quan (xưởng sửa chữa) để thoả thuận nơi sửa chữa, dự kiến sơ bộ mức độ sửa chữa và vật tư thay thế. Trong quá trình sửa chữa Công ty Bảo hiểm tham gia vào một số bước: - Kiểm tra, chuẩn hoá sơ bộ: Đây là nhiệm vụ của cán bộ kỹ thuật xưởng, Công ty Bảo hiểm chỉ theo dõi đối chiếu với biên bản giám định. Khi cần thiết mới tham gia bổ xung. - Lập hợp đồng và dự toán: Căn cứ vào dự toán hoạt động thoả thuận phân xưởng và chủ xe về giá, mức độ sửa chữa và yêu cầu xưởng sửa chữa thông báo cho Công ty Bảo hiểm để tiến hành. - Tháo, kiểm tra, phân loại chi tiết: Phải có mặt giám định mặt để chứng kiến, lập biên bản và chụp ảnh chi tiết. Đồng thời cũng thông báo cho chủ xe về hư hỏng không thuộc trách nhiệm bảo hiểm và yêu cầu chủ xe, xưởng sửa chữa khi có phát sinh trong quá trình sửa chữa phải thông báo ngay cho Công ty Bảo hiểm. - Nghiệm thu quyết toán hợp đồng: Chủ xe chịu trách nhiệm chính về nghiệm thu chất lượng và bảo hành với xưởng sửa chữa. Công ty Bảo hiểm chỉ lưu bằng văn bản để sử dụng khi có sự tranh chấp về chất lượng sửa chữa. Công ty Bảo hiểm tham gia nghiệm thu về nội dung sửa chữa và vật tư thay thế để làm cơ sở quyết toán hợp đồng. - Thu hồi đồ cũ: Nhằm tránh trục lợi bảo hiểm, nhằm quay vòng vật tư gian lận bảo hiểm, sửa chữa vật tư cũ song hưởng giá mới. Khi thu hồi vật tư ta phải chú ý vật tư phải đúng với chi tiết bị thiệt hại trong vụ tai nạn, đúng dấu hiệu riêng ghi trên tổng thành hoặc trên chi tiết. Đối với vật tư có giá trị không cao, việc thu không thuận tiện, khó có khả năng sử dụng lại để trành tình trạng trục lợi bảo hiểm thì có thể áp dụng phương pháp đối trừ. Phương án 2: Bồi thường trên cơ sở đánh giá thiệt hại: Phương án này chỉ nên vận dụng trong phạm vi hạn chế, thường đối với những thiệt hại bộ phận trên thị trường không có để thay thế. Để đánh giá thiệt hại chủ xe gặp tai nạn ở đâu cần giải quyết nhanh để giữ uy tín đối với khách hàng. Trình tự thực hiện như sau: - Chủ tài sản bị thiệt hại có ý kiến đề xuất bằng văn bản. - Dự kiến sơ bộ với chủ xe về phương án sửa chữa thiệt hại. - Dự toán sửa chữa, khảo sát giá. - Lập biên bản đánh giá thiệt hại. - Thống nhất với chủ xe mức độ đền bù và phương thức thanh toán. - Chủ xe cam kết chấm dứt đòi bồi thường sau khi nhận tiền bồi thường. - Tiến hành đề suất giải quyết bồi thường. Phương án 3: Bồi thường toàn bộ và xử lý tài sản thu hồi: áp dụng đối với trường hợp thiệt hại nặng. Bồi thường toàn bộ được tiến hành theo trình tự nhất định và chú ý: - Khi lập biên bản giám định ban đầu phải ghi rõ và chụp ảnh số máy số khung. - Tiến hành thoả thuận với chủ xe về phương án khắc phục hậu quả tai nạn. Nếu thấy khả năng phải bồi thường toàn bộ, chủ xe phải có đơn từ bỏ tài sản và yêu cầu bồi thường toàn bộ. - Thống nhất thời gian, địa điểm, thành phần giám định, mức độ giám định. - Tiến hành tháo dỡ những phần hư hỏng, lập biên bản giám định chi tiết, nếu cần thiết phải mời các giám định viên chuyên môn. - Lập hợp đồng đánh giá thiệt hại gồm chủ xe, Công ty Bảo hiểm và tuỳ từng trường hợp có thể mời các cơ quan liên quan khác. - Tiến hành khảo sát đánh giá giá trị xe trước lúc xảy ra tai nạn. Nếu cần thiết thì thành lập hội đồng đánh giá hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn. - Đề xuất giải quyết và yêu cầu chủ xe bàn giao, làm thủ tục chuyển giao tài sản cho Công ty Bảo hiểm. -Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà có thể không thu hồi đồ cũ tiến hành bồi thường có đối trừ giá trị thu hồi đồ cũ. Mệnh lênh sơ bộ Dự kiến phương án, chuẩn bị giám định Tiến hành giám định định Thu thập, hướng dẫn chủ phương tiện lập hồ sơ khiếu nại. định Phân loại, xác định thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm. định Cùng chủ xe đánh giá sơ bộ thiệt hại và chọn phương án Bồi thường toàn bộ Bồi thường theo đánh giá thiệt hại Sửa chữa thiệt hại Đánh giá giá trị còn lại và thiệt hại Sửa chữa thống nhất giá trị thiệt hại Lập và thống nhất dự toán sửa chữa. Hoàn chỉnh hồ sơ Bồi thường Thu thập thông tin Sơ đồ 1.1.Quy trình giám định bồi thường Sơ đồ 1.2. Quy trình bồi thường toàn bộ Dự đoán khả năng Thoả thuận cách khắc phục Chủ xe từ bỏ tài sản Lập phương án khắc phục chi tiết Lập hội đồng giám định Quyết định phương án Thanh lý Hoàn chỉnh hồ sơ Sửa chữa lại Giải quyết Đối trừ giá trị còn lại Thu hồi tài sản Chuyển giao TS Xử lý TS thu hồi Bồi thường Giám định ban đầu 2.4. Hồ sơ khiếu nại bảo hiểm: Việc chi trả số tiền bồi thường chỉ được thực hiện khi Công ty Bảo hiểm nhận được giấy tờ cần thiết trong hồ sơ khiếu nại bồi thường. Hồ sơ khiếu nại bồi thường gồm các giấy tờ sau: - Thông báo tai nạn của chủ xe. - Giấy tờ xe: Giấy đăng ký xe, giấy tờ liên quan đến chuyển quyền sở hữu xe (nếu có), Giấy phép lưu hành xe, bằng lái xe. - Giấy chứng nhận bảo hiểm. Các kết luận của cơ quan công an như: biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn giao thông, sơ đồ hiện trường, các biên bản hoặc thông báo giải quyết tai nạn, kết luận của toà án (nếu có), biên bản giải quyết tai nạn, biên bản đền bù trách nhiệm dân sự, các chứng từ liên quan đến thiệt hại: Hoá đơn xuất; các biên bản xác nhận; đánh giá và xác định thiệt hại, các chứng từ khác nếu cần thiết. chương ii thực trạng Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Chi nhánh bảo minh hà nội I.vài nét về Công ty Bảo hiểm thành phố hồ chí minh và Chi nhánh bảo minh hà nội 1. Quá trình hình thành và phát triển: Nền kinh tế phát triển, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện về cả vật chất và tinh thần. Do đó nhu cầu bảo hiểm cũng ngày càng phong phú, đòi hỏi phải có một thị trường bảo hiểm đa dạng đáp ứng những nhu cầu đó. Cuối năm 1993, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị định 100- CP về kinh doanh bảo hiểm. Sau khi Nghị định này ra đời xu thế thị trường bảo hiểm thay đổi, hàng loạt các Công ty Bảo hiểm bắt đầu thâm nhập vào thị trường bảo hiểm Việt Nam. Thị trường bảo hiểm ngày càng trở nên sôi động với sự góp mặt của nhiều Công ty Bảo hiểm. Trên thị trường đã có sự cạnh tranh giữa các Công ty Bảo hiểm nhằm giành khách hàng và tăng doanh thu phí. Nhiều vấn đề bất cập cũng nảy sinh trong giai đoạn này đã ảnh hưởng đến hoạt động của các Công ty Bảo hiểm. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức tham gia bảo hiểm, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Luật kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội thông qua ngày 09/12/2000, có hiệu lực thi hành ngày 01/04/2001. Sau khi luật này được ban hành, Chính phủ và Bộ Tài Chính đã ban hành những văn bản thi hành Luật nhằm phát huy tối đa hiệu quả của Luật kinh doanh Bảo hiểm . Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh) là một doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Bộ Tài chính, được thành lập theo quyết định số 1164/TC/QĐ/TCCB ngày 28/11/1994 của bộ trưởng Bộ Tài chính. Bảo Minh là một Công ty Bảo hiểm gốc, ra đời dựa trên cơ sở là một Chi nhánh của Bảo Việt tại thành phố Hồ Chí Minh, chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995, được phép hoạt động trên phạm vi Việt Nam và quốc tế, đảm nhận kinh doanh mọi loại hình nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Bảo Minh có đội ngũ nhân viên khoảng trên 1000 người đã được huấn luyện và đào tạo trong và ngoài nước. Với lực lượng nòng cốt là những người đã có kinh nghiệm nhiều năm trong ngành bảo hiểm, Bảo Minh có khả năng thực hiện tốt trong mọi lĩnh vực từ công tác khai thác, cho đến công tác giám định, giải quyết khiếu nại và bồi thường. Sau 9 năm hoạt động, Bảo Minh đã thiết lập được mạng lưới phục vụ trải rộng khắp toàn quốc, bao gồm 38 Chi nhánh tại các tỉnh và thành phố trong toàn quốc và nhiều văn phòng đại diện cùng các đại lý chuyên nghiệp tại các tỉnh và hàng ngàn các đại lý, cộng tác viên. Bảo Minh có quan hệ rộng rãi với thị trường thế giới với hơn 20 thoả thuận hợp tác đã ký với các Công ty nước ngoài, Bảo Minh cũng có quan hệ tốt với các nhà môi giới bảo hiểm, Tái bảo hiểm nổi tiếng trên thế giới, có quan hệ chặt chẽ với các đại lý giám định, xét bồi thường, … Với phương châm “ Vì sự an toàn, hạnh phúc thành đạt của khách hàng và xã hội! ”, cùng với chính sách chất lượng dịch vụ, Bảo Minh đã tạo được sự tin cậy và ủng hộ của hàng chục ngàn khách hàng trong và ngoài nước trong nhiều lĩnh vực. Trong quá trình hợp tác, mở rộng hoạt động kinh doanh, Bảo Minh đã liên doanh bảo hiểm trong cả hai lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm nhân thọ và các hoạt động đầu tư tài chính như: Công ty Bảo Minh - CMG (liên doanh bảo hiểm nhân thọ giữa Bảo Minh và Công ty Bảo hiểm nhân thọ hàng đầu úc), Công ty Bảo hiểm liên hiệp (UIC); liên doanh giữa bảo hiểm phi nhân thọ Bảo Minh và hai Công ty Bảo hiểm hàng đầu Nhật Bản (Yasuda và Mitsui), góp vốn thành lập Công ty Cổ phần Bảo hiểm bưu điện (PTI), các hình thức đầu tư kinh doanh khách sạn, tài chính khác…. Tình hình kinh doanh của Công ty đạt kết quả rất khả quan thể hiện trên các chỉ tiêu như: Tổng doanh thu , tổng chi, lợi tức , hiệu quả theo doanh thu (HDT), hiệu quả theo lợi nhuận ( HLN )… Bảng 2.1: Kết quả và hiệu quả kinh doanh của Công ty Bảo Minh (2000-2003) Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Kế hoạch Thực hiện Tổng thu (DT) Triệu đồng 498.652 655.968 901.262 906.080 1.015.390 Tổng chi (TC) Triệu đồng 492.354 647.403 886.834 847.728 947.359 Tổng lợi tức (LT) Triệu đồng 6.298 8.565 14.428 58.352 68.031 HDT =DT/TC % 101,27 101,32 101,63 106,88 107,18 HLN =LT/DT % 1,27 1.32 1,62 6,44 6,69 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Bảo Minh ) Theo bảng trên cho thấy năm 2000 tổng thu của Công ty là 498.652 triệu đồng, năm 2001 tổng thu của Công ty là 655.968 triệu đồng tăng 131,54% hay là tăng 157.316 triệu đồng so với năm 2000, năm 2002 doanh thu của Công ty đạt 901.262 triệu đồng tăng 137% so với năm 2001 và lợi nhuận đạt 14.428 triệu đồng tăng 168% hay tăng tuyệt đối 5.863 triệu đồng so với năm 2001. Năm 2003 tổng thu của Công ty là 1.015.390 triệu đồng, đạt 112% kế hoạch và tăng 113% so với cùng kỳ năm 2002; tổng chi năm 2003 là 947.359 triệu đồng (trong đó chi cho bồi thường là 305.197 tỷ đồng) tăng 11,75% so với kế hoạch và tăng 68,24% so với năm 2002 (tức là tăng tuyệt đối 60.525 triệu đồng); tổng lợi tức trước thuế năm 2003 là 68.031 triệu đồng tăng 16,58% so với kế hoạch và tăng 4,71 lần so với năm 2002 (tức là tăng tuyệt đối 53.630 triệu đồng). Vậy năm 2003 là một năm Bảo Minh kinh doanh thuận lợi, điều này chứng tỏ Bảo Minh đã vận dụng có hiệu quả các kinh nghiệm trong quản lý, thực hiện toàn diện việc chuyển đổi phương hướng kinh doanh. Như vậy từ năm 2000 đến 2003 bình quân một đồng chi phí mà Công ty bỏ ra thì thu được 1,033 đồng doanh thu hay là thu được 0,033 đồng lợi nhuận. Cụ thể năm 2000 một đồng chi phí tạo ra 0,0127 đồng lợi nhuận, năm 2001 một đồng chi phí mà Công ty bỏ ra tạo ra 0,0132 đồng lợi nhuận, năm 2002 một đồng chi phí tạo ra 0,0163 đồng lợi nhuận năm 2003 là một năm thành công của Công ty cứ một đồng chi phí bỏ ra thu được 0,0669 đồng lợi nhuận. Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội được khai trương và đi vào hoạt động chính thức từ tháng 6/1995 đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của toàn Công ty. Trong suốt 8 năm hoạt động Chi nhánh luôn luôn là đơn vị đứng đầu toàn Công ty, hiệu quả hoạt động của Chi nhánh được thể hiện qua tổng doanh thu phí đóng góp cho toàn Công ty lớn chiếm khoảng trên 30% doanh thu phí của toàn Công ty. Bảng 2.2: Kết quả và hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội (2000-2003) Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Kế hoạch Thực hiện Tổng thu (DT) Triệu đồng 168.632 225.968 300.018 303.425 327.775 Tổng chi (TC) Triệu đồng 164.968 222.703 295.667 298.208 320.125 Tổng lợi tức Triệu đồng 3.664 3.265 4.351 5.217 7.650 HDT =DT/TC % 102,22 101,46 101,47 101,74 102,38 HLN =LT/DT % 2.22 1,46 1,47 1,74 2,38 (Nguồn: Phòng kế toán Bảo Minh Hà Nội ) Từ bảng kết quả và hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh cho thấy doanh thu của Chi nhánh tăng đều các năm, năm 2000 tổng doanh thu của Chi nhánh là 168.632 triệu đồng, lợi nhuận đạt được là 3.664 triệu đồng, năm 2001 tổng doanh thu là 225.968 triệu đồng tăng 134,0% so với 2000 (hay tăng tuyệt đối 57.336 triệu đồng), năm 2002 đạt 300.018 triệu đồng tăng 132,77% so với năm 2001, lợi nhuận năm 2002 đạt 4.351 tăng so với 2001 là 133,16% (hay tăng tuyệt đối 1.086 triệu đồng). Có thể nói, năm 2003 vừa qua là một năm Chi nhánh làm ăn có hiệu quả, đóng góp của Chi nhánh vào doanh thu của toàn Công ty là 327.775 chiếm 32,28% tổng doanh thu của toàn Công ty, hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra là 101,13% và tăng so với năm 2002 là 109,2%. Lợi tức trước thuế của Chi nhánh đạt 7.650 triệu đồng tăng 175,8% so với năm 2002 và hoàn thành vượt mức kế hoạch là 119,9%. Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội luôn được coi là đơn vị xuất sắc trong toàn Công ty, là đơn vị làm ăn có hiệu quả nhất và có uy tín nhất. Trong năm 2003 cứ một đồng chi phí của Chi nhánh thì thu được 1,0238 đồng doanh thu hay 0,0238 đồng lợi nhuận. Như vậy so với bình quân 4 năm một đồng chi phí tạo ra 0,0188 đồng lợi nhuận thì năm 2003 một đồng chi phí tạo ra lợi nhuận lớn hơn về tuyệt đối là 0,0049 đồng. Hiện nay, Chi nhánh với hơn 70 cán bộ công nhân viên, cơ cấu tổ chức được chia thành 7 phòng ban, 4 phòng đại diện và đảm nhận trên 30 loại hình nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau trong đó có các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới và vật chất xe cơ giới. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh được thể hiện ở sơ đồ 2.1. Bảng 2.1: Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội Phó Giám Đốc Phó Giám Đốc Phòng bh hàng hải, hkhông Phòng bh phi hàng hải Phòng đầu tư, kỹ thuật Phòng gđịnh, bthường Phòng kế toán, tài vụ Phòng HChính, TCCB Các phòng bảo hiểm khu vực 5, 6, 7, 8 Hệ thống đại lý và các cộng tác viên bảo hiểm Giám Đốc Phòng quản lý đại lý Với mô hình tổ chức như trên Giám đốc là người ra quyết định tới toàn Chi nhánh, Giám đốc là người điều hành cao nhất về toàn bộ hoạt động của Chi nhánh, giúp việc cho Giám đốc có hai Phó Giám đốc. Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các phòng ban trong Chi nhánh như sau: Phòng bảo hiểm hàng hải hàng không: Phòng có nhiệm vụ quản lý toàn bộ các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải, hàng không của toàn Chi nhánh từ công tác khai thác, đề phòng và hạn chế tổn thất, giải quyết khiếu nại, giám định bồi thường. Hướng dẫn, chỉ đạo và khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm, quản lý kiểm tra toàn bộ các đơn bảo hiểm hàng hải và hàng không. Báo cáo tổng kết công tác bảo hiểm hàng hải hàng không của toàn Chi nhánh. Phòng bảo hiểm phi hàng hải: Phòng có nhiệm vụ khai thác toàn bộ các nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải, hàng không như: bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm máy móc, bảo hiểm thiết bị điện, bảo hiểm cháy nổ,….Hướng dẫn chỉ đạo, khai thác, các nghiệp vụ bảo hiểm. Quản lý toàn bộ đơn bảo hiểm liên quan đến các nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải, cung cấp thông tin, giấy tờ cần thiết cho phòng giám định bồi thường. Báo cáo tổng kết cuối năm về công tác khai thác, tổng doanh thu phí của các nghiệp vụ. Phòng quản lý đại lý: Phòng có nhiệm vụ quản lý các đại lý chuyên nghiệp và các đại lý cộng tác viên, tuyển dụng và đào tạo các đại lý, kiểm tra giám sát các đại lý, xử phạt với các đại lý vi phạm, định mức hoa hồng cho các đại lý, quản lý tất cả các hợp đồng đại lý,…. Phòng đầu tư, kỹ thuật: Phòng có nhiệm vụ quản lý các hoạt động đầu tư, kỹ thuật và các nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật của Chi nhánh. Phòng chịu trách nhiệm trong việc đầu tư của toàn Chi nhánh từ tìm kiếm cơ hội đầu tư, nghiên cứu tính khả thi của dự án, lựa chọn phương pháp đầu tư đến tiến hành đầu tư và thông báo kết quả đầu tư cho giám đốc Chi nhánh. Ngoài ra phòng còn quản lý các nghiệp vụ bảo hiểm liên quan đến kỹ thuật của toàn Chi nhánh như bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm máy móc, bảo hiểm thiết bị điện tử, bảo hiểm dầu khí… và chịu trách nhiệm về hệ thống máy móc thiết bị của toàn Công ty. Phòng giám định bồi thường: Phòng có nhiệm vụ là thực hiện công tác giám định bồi thườngcác nghiệp vụ bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra. Chịu trách nhiệm trong việc giám định, chi trả bồi thường cho khách hàng kịp thời, để khách hàng có thể ổn định tài chính và khắc phục những khó khăn về tài chính. Phòng hành chính, tổ chức cán bộ: - Bảo đảm việc ban hành, tiếp nhận và lưu thông các công văn, thư từ, hồ sơ, tài liệu đi đến đúng qui định của Nhà nước. Quản lý sử dụng con dấu theo đúng quy định của pháp luật, in ấn lưu chuyển tài liệu sau khi đã được lãnh đạo Công ty xét duyệt. Lưu giữ quản lý tài liệu, hồ sơ, sổ sách tạp chí… liên quan đến công việc kinh doanh bảo hiểm, các chế độ, chính sách chỉ thị hướng dẫn của Công ty - Tổ chức lao động tiền lương, thi đua, khen thưởng cán bộ và nhân viên trong toàn Chi nhánh, duy trì giờ giấc làm việc, hệ thống thông tin liên lạc, kiểm tra đôn đốc các cán bộ và nhân viên trong toàn Công ty. Phòng kế toán, tài vụ: Quản lý hoạt động tài chính kế toán của Chi nhánh, điều hành các hoạt động đầu tư của Chi nhánh, tổ chức hạch toán theo các chế độ quy định của Nhà nước, Thống kê báo cáo các hoạt động của Chi nhánh, theo dõi, kiểm tra tình hình thu chi, tình hình thực hiện hạch toán kế toán. Xây dựng kế hoạch tài chính năm. Quản lý tiền mặt các ngân chứng phiếu có giá trị, sổ sách kế toán, vốn và tài sản của toàn Chi nhánh. Lập phương án phân phối sử dụng quỹ lương quỹ thưởng. Lập Báo cáo Kế toán Tài chính định kỳ, phối hợp với các phòng liên quan hoàn chỉnh chu trình nghiệp vụ bảo hiểm. Các phòng bảo hiểm khu vực 5, 6, 7, 8: Là các đại diện của Chi nhánh tại từng khu vực cụ thể trong Hà Nội. Thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm, báo cáo về Chi nhánh, đồng thời thực hiện các nhiệm vụ mà các phòng chức năng phân bổ. 2. Mục tiêu và phương hướng phát triển trong thời gian tới - Quyết tâm thực hiện tốt định hướng đổi mới hoàn toàn phương thức quản lý theo chất lượng toàn diện: Đổi mới cơ cấu tổ chức toàn Công ty, trước mắt là văn phòng chính và trụ sở giao dịch. - Tăng cường năng lực hoạt động và đổi mới tổ chức các phòng ban Công ty và đơn vị cho phù hợp với yêu cầu mới. Nâng cao chất lượng dịch vụ theo hướng tập trung vào khách hàng. - Hoàn chỉnh các đề án công nghệ thông tin, chương trình phần mền máy kế toán, thống kê. Đẩy mạnh công tác cổ phần hóa doanh nghiệp. - Xây dựng chiến lược kinh doanh năm 2004 đến năm 2010. ii. thực trạng Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Bảo Minh Hà Nội 1. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1.1. Tình hình chung các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới: Các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới được triển khai sớm nhất tại Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội, nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của người dân. Tuy nhiên trong quá trình triển khai nghiệp vụ vẫn gặp phải một số khó khăn nhất định: Kinh nghiệm quản lý chưa cao, chủ yếu các bước triển khai nghiệp vụ được áp dụng theo các nước có thị trường bảo hiểm phát triển mà ít có sự thay đổi cho phù hợp với thị trường bảo hiểm Việt Nam. Mạng lưới đại lý còn yếu cả về chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn, chỉ hoạt động tập trung vào một số khu vực chính, chưa mở rộng ra toàn địa bàn Hà Nội, hiệu quả hoạt động thấp. Sau quá trình triển khai nghiệp vụ đã cho thấy những bất cập trong chuyên môn nghiệp vụ đòi hỏi các nhà kinh doanh bảo hiểm cũng như các nhà hoạch định chính sách cần phải có những biện pháp nhằm đưa thị trường bảo hiểm phát triển đúng với tiềm năng của nó. Các Nghị định của Chính Phủ được ban hành nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong việc kinh doanh bảo hiểm và bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Bảo Minh Hà Nội đã không ngừng hoàn thiện mình để đứng vững và vươn lên trong thị trường. Một trong những hướng triển khai của Chi nhánh đó là mở rộng và phổ cập các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, trong đó chú trọng nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tới từng người dân. Bởi cùng với sự phát triển của nền kinh tế là sự bùng nổ các loại phương tiện xe cơ giới, vận tải chuyên dụng. Với những định hướng như trên doanh thu phí bảo hiểm của Chi nhánh đã tăng đáng kể trong những năm gần đây hoàn thành và vượt mức hoàn thành các định mức kế hoạch đề ra. Thị phần của Công ty trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tăng trưởng và ổn định. Bảng 2.3. Doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại Bảo Minh và Chi nhánh Hà Nội (2000-2003) Chỉ tiêu Đơn Vị Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm2003 Kế hoạch Thực hiện DTNV Bảo Minh (DBM) Triệu đồng 126.356 148.663 181.845 197.996 255.847 DTNV của B.M Hà Nội (DHN) Triệu đồng 35.609 46.152 86.261 91.250 105.150 Tỷ lệ so với DTNV của Bảo Minh (T = DBM/DHN) % 28,18 31,04 47,43 46,08 41,09 Tỷ lệ so với tổng DT của B.M Hà Nội (T = DBM/DT* ) % 21,11 20,42 28,75 30,07 32,08 (Nguồn: Phòng bảo hiểm phi hàng hải Bảo Minh Hà Nội ) DTNV: doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới DT*: Tổng doanh thu của Chi nhánh (Theo bảng 2.2) Nhìn vào bản trên có thể thấy doanh thu nghiệp vụ xe cơ giới chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng doanh thu của các nghiệp vụ bảo hiểm. Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội luôn là đơn vị có doanh thu các nghiệp vụ chiếm tỷ lệ cao trong toàn Công ty. Trong nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới doanh thu của Chi nhánh Bảo Minh hà nội năm 2000 đạt 35.609 triệu đồng chiếm 28,18% so với doanh thu nghiệp vụ của toàn Công ty Bảo Minh và chiếm 21,11% tổng doanh thu của Chi nhánh, năm 2001 đạt 46.152 triệu đồng tăng 129,6% so với năm 2000, chiếm 31,04% so với doanh thu nghiệp vụ của toàn Công ty và chiếm 20,42% tổng doanh thu của toàn Chi nhánh. Năm 2002 doanh thu nghiệp vụ của Chi nhánh đạt 86.261 tăng 186,9% so với năm 2001, chiếm 47,43% doanh thu nghiệp vụ của Công ty và chiếm 28,75% tổng doanh thu của toàn Chi nhánh. Năm 2003 doanh thu nghiệp vụ xe cơ giới tăng lên đáng kể, đạt 105.150 triệu đồng vượt mức kế hoạch 115,23%, tăng 122% so với cùng kỳ năm 2002, chiếm 41,09% so với doanh thu nghiệp vụ của Công ty và chiếm 32,08% so với tổng doanh thu của toàn Chi nhánh. Như vậy, doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới của Chi nhánh tăng đều trong các năm và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu của toàn Chi nhánh. Điều này có được là do sự hiểu biết tầm quan trọng bảo hiểm của người dân tăng lên, đồng thời do Nghị định của chính phủ về việc bắt buộc mua bảo hiểm trách nhiệm của xe cơ giới và phần lớn do Chi nhánh Bảo Minh đã có những chính sách đúng đắn trong chiến lược phát triển kinh doanh của mình. Những chính sách đúng đắn đó là: - Chi nhánh đã thực hiện chính sách marketing, quảng cáo sâu rộng làm cho khách hàng thấy rõ những tiện ích của sản phẩm, uy tín của Chi nhánh - Chi n._.ng gì họ bằng lòng và không bằng lòng đối với việc phục vụ khách hàng của Chi nhánh. Từ đó tiếp thu và sửa chữa những cái yếu, phát huy cái tốt, hoàn thành tốt hơn công tác dịch vụ khách hàng. - Phân loại khách hàng thường xuyên để có những chính sách thích hợp, khuyến khích, ưu đãi khách hàng về phí, có thể ưu tiên đối với những khách hàng lớn và khách hàng truyền thống của Chi nhánh, Chi nhánh có thể có những ưu tiên trong chính sách của mình. - Cơ chế thị trường với quy luật cạnh tranh khốc liệt của nó buộc các Công ty Bảo hiểm bình đẳng trong kinh doanh. Vì vậy trong giao dịch khách hàng có quyền lựa chọn cho mình Công ty Bảo hiểm tốt nhất cho họ. Điều đó đòi hỏi các Công ty Bảo hiểm phải có dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt nhất trong đó chú trọng Công tác giám định bồi thường nhằm thu hút khách hàng về với Công ty. Ngoài ra, Chi nhánh cần phải đặt ra các kế hoạch hợp lý nhằm tìm kiếm khách hàng mới về Chi nhánh. - Tuyên truyền phổ biến chính sách khách hàng đến tất cả các nhân viên trong Chi nhánh, có quy trình về trách nhiệm, có sơ kết, tổng kết, có đề suất với lãnh đạo để đưa công tác khách hàng không ngừng phát triển về chất lượng phục vụ. 1.2. Công tác giám định và bồi thường Để có sự thống nhất trong quy trình giám định bồi thường bảo hiểm vật chất xe cơ giới đối với tất cả các cán bộ của Công ty, Công ty đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn công tác giám định bồi thườngvật chất xe cơ giới như: Quyết định số 138/2001/QĐ-B08BT, Quy định về quy trình bồi thường cho xe cơ giới… Các văn bản này đã cụ thể hoá các bước thực hiện của từng khâu giám định bồi thường, đơn giản hoá tối đa về mặt nội dung và ngôn ngữ sao cho phù hợp, dễ hiểu và dễ áp dụng nhất. Mặc dù vậy, đôi khi từ ngữ trong ngành cũng không phải dễ hiểu, ngay cả đối với những nhà bảo hiểm chuyên nghiệp, những thuật ngữ mang tính chuyên ngành cao càng khó hiểu đối với công chúng. Chính vì vậy trên cơ sở những nội dung cơ bản, những trình tự không thể bỏ qua, cán bộ của phòng có thể cụ thể hoá hơn nữa về các bước thực hiện, ngôn ngữ sao cho dễ hiểu nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ giám định bồi thường và cán bộ hướng dẫn khách hàng các bước từ thu nhập hồ sơ đến việc khiếu nại bồi thường. Qua quá trình làm sáng tỏ hơn về ý nghĩa của từng thuật ngữ, phòng có thể họp đưa ra ý kiến đề xuất đến Công ty về những thuật ngữ đã được đơn giản để xem xét và nếu phù hợp thì sẽ áp dụng rộng rãi đối với tất cả các Chi nhánh của Công ty tạo nên sự thống nhất từ trên xuống dưới trong toàn Công ty. 1.3. Củng cố và phát triển hệ thống đại lý, cộng tác viên: Hệ thống đại lý, cộng tác viên của Công ty có đảm bảo thì công tác khai thác của Công ty mới có thể hoàn thành tốt được kế hoạch đề ra. Công ty và Chi nhánh đã nhận thấy tầm quan trọng của hệ thống đại lý, cộng tác viên trong việc kinh doanh bảo hiểm nên đã không ngừng phát triển và mở rộng hệ thống đại lý, đồng thời nâng cao trình độ của các đại lý. Công ty, Chi nhánh đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo các đại lý. Song Công ty, Chi nhánh cần tập trung vào việc xây dựng quy trình phát triển hệ thống đại lý mới. Các đơn vị trong toàn Công ty cần phải thấy được tầm quan trọng của đại lý và thực sự quan tâm đến hoạt động của đại lý, cộng tác viên. Thực hiện tốt các quy định về quản lý tài chính đối với đại lý, công tác viên: ấn chỉ, hóa đơn, thu nộp phí… 1.4.Chương trình tái bảo hiểm: Tái bảo hiểm cũng là một công việc quan trọng trong các nghiệp vụ bảo hiểm, nếu các Công ty Bảo hiểm tính toán đúng các phương thức và tỉ lệ tái không những sẽ giúp cho Công ty tránh được phá sản khi có tổn thất quá lớn xảy ra mà còn giúp cho Công ty tăng lợi nhuận. Đối với Bảo Minh và Chi nhánh Hà Nội các chương trình Tái cũng đã được Công ty quan tâm đáng kể nhưng cũng cần phải chú ý đến một số vấn đề sau: - Tập trung hướng dẫn giúp đỡ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ kế toán, thống kê của các địa phương nắm vững nội dung của các chương trình tái, tỷ lệ nhượng tái, thu hoa hồng nhượng tái… - Thông báo kịp thời tình hình tái cho các đơn vị để làm cơ sở tính toán hiệu quả. - Tăng cường trách nhiệm của phòng tái về đòi bồi thường, hoa hồng từ tái bảo hiểm. 2. Về mặt quản lý: 2.1 Công tác cổ phần hoá và đổi mới doanh nghiệp: Theo định hướng chung của toàn quốc, đến hết năm 2005, tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước (trừ Bảo Việt) đều được tiến hành cổ phần hoá. Công ty Bảo Minh cũng đã và đang chuẩn bị cho việc cổ phần hoá này vào tháng 7/2004. Công ty cũng đã chuẩn bị được rất nhiều công việc như tái cơ cấu tổ chức, thực hiện một số phương pháp quản lý mới như khoán lương 100% theo hiệu quả kinh doanh,…Trong thời gian tới Công ty cần xúc tiến thuê tư vấn xây dựng chiến lược kinh doanh và tiếp tục tái cơ cấu tổ chức Công ty trong tình hình mới. Hoàn chỉnh dự thảo điều lệ và phương án kinh doanh khả thi của Công ty cổ phần bảo hiểm, tiếp xúc chào mời các cổ đông sáng lập. 2.2. Công tác kế hoạch thống kê: Thực hiện triệt để định hướng kinh doanh: hiệu quả là mục tiêu hàng đầu, xây dựng chỉ tiêu doanh thu thuần và khoản định mức theo chỉ tiêu này. Tăng cường kiểm tra theo dõi công tác thực hiện kế hoạch và có biện pháp trấn chỉnh kịp thời. 2.3. Công tác tài chính kế toán: - Nhanh chóng hoàn chỉnh và triển khai phần mền quản lý tài chính kế toán FAST. Xây dựng và thực hiện tốt quy trình quyết toán tài chính cho các đơn vị quyết toán nhanh các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành. - Tăng cường công tác kiểm tra quản lý tài chính, hướng dẫn chi tiêu phù hợp với sự đổi mới của Công ty. Hướng dẫn các biện pháp tiết kiệm chi phí quản lý. 2.4. Phát triển bộ máy tổ chức nhân sự : Sự thành công của việc kinh doanh bảo hiểm phụ thuộc phần lớn vào trình độ nghiệp vụ của các cán bộ trong Công ty nói chung và trong từng đơn vị nói riêng. Các cán bộ trong từng Chi nhánh cần phải am hiểu tường tận các nghiệp vụ bảo hiểm, các điều luật liên quan và có khả năng phân tích mọi điều khảo của các bộ luật, các văn bản chuyên ngành và các văn bản liên quan nhằm phục vụ cho công việc như: phân tích cho khách hàng những thắc mắc của họ, giải quyết các yêu cầu của khách hàng đúng luật, tạo nên uy tín trong khách hàng về đội ngũ nhân viên am hiểu về nghiệp vụ và các vấn đề liên quan.Chi nhánh cần phải phổ biến đến các nhân viên của mình mục tiêu, kế hoạch của Công ty và các biện pháp thực hiện nhằm giúp cho các nhân viên trong Chi nhánh đó ý thức được hành vi của mình có ảnh hưởng như thế nào đến Công ty nói chung và Chi nhánh nói riêng, để các nhân viên trong các Chi nhánh phối hợp với nhau và phối hợp với ban giám đốc hoàn thành tốt hơn các kế hoạch và mục tiêu của Công ty. Như vậy, ngoài những giải pháp mà Chi nhánh đang tiến hành làm thì Chi nhánh cần phải chú trọng thêm các yếu tố sau: - Do hành lang pháp luật về bảo hiểm chưa nhiều, các điều khoản luật vẫn đang trong giai đoạn vận dụng và hoàn thiện nhằm đi đến một bộ luật thống nhất, đầy đủ. Bộ Luật Bảo hiểm quan trọng nhất hiện nay là Luật Kinh doanh Bảo hiểm (ngày 01/ 04/ 2001) tạo cơ sở cho sự phát triển của ngành bảo hiểm. Trước tình hình đó Công ty cần phải có những nhiều hơn nữa những văn bản quy định trong nội bộ về các nghiệp vụ bảo hiểm nhằm chi tiết các nghiệp vụ tạo điều kiện cho nhân viên dễ hiểu, áp dụng dễ dàng, đúng pháp luật. - Bổ xung thêm kiến thức cho nhân viên trong toàn Chi nhánh về các lĩnh vực như: tin học, ngoại ngữ, công nghệ mới trong ngành…. Chi nhánh cần kiểm tra định kỳ các nhân viên của mình về các kĩ năng nghiệp vụ của họ nhằm sắp xếp công việc phù hợp cho nhân viên của mình tạo năng suất và hiệu quả làm việc cao nhất. - Chi nhánh nên tổ chức các buổi hội thảo về các vấn đề kinh tế, xã hội mà toàn xã hội và khách hàng của mình quan tâm cho các nhân viên trong Chi nhánh để tạo thêm cho nhân viên những hiểu biết nhằm thực hiện công việc, tăng khả năng sáng tạo của các nhân viên trong quá trình làm việc. Và giải đáp các thắc mắc của khách hàng mình tốt hơn. Ngoài ra trong buổi hội thảo đó Chi nhánh nên có những chuyên gia giỏi trong ngành bảo hiểm nhằm ngoài việc truyền đạt cho cán bộ trong Chi nhánh những kiến thức mà còn giải đáp các thắc mắc của cán bộ trong Chi nhánh về các vướng mắc trong nghiệp vụ. - Đánh giá thường xuyên việc thực hiện công việc của các cán bộ trong Chi nhánh để lựa chọn ra những cá nhân ưu tú và sắp xếp vào các vị trí phù hợp trong Chi nhánh, đồng thời với những cá nhân có trình độ kém Chi nhánh sẽ tiến hành bồi dưỡng thêm kiến thức cho các nhân đó. Việc đánh giá này sẽ làm tăng thêm hiệu quả làm việc của Chi nhánh vì các nhân viên của Chi nhánh sẽ được làm những công việc phù hợp với khả năng và họ sẽ cố gắng để hoàn thành tốt hơn các công việc được giao. - Chi nhánh nên có chế độ khen thưởng hợp lý đối với những nhân viên có thành tích tốt trong công tác, phải phê bình nghiêm khắc đối với các nhân viên vi phạm các quy chế của Chi nhánh, của Công ty. Chi nhánh có thể tổ chức một buổi họp khen thưởng và phê bình, điều này là rất tốt vì như thế sẽ thúc đẩy các nhân viên làm việc tốt hơn để đạt được những thành tích trong công việc và không vi phạm các quy định của Chi nhánh. Tránh tình trạng bình quân hoá trong khen thưởng vì như vậy sẽ làm mất đi vai trò quan trọng nhất của khen thưởng là kích thích người lao động. - Chi nhánh nên tổ chức các buổi dã ngoại thăm quan định kỳ, giúp cho các cán bộ trong Chi nhánh có những thời gian thư giản thoải mái hơn đồng thời họ sẽ gần gũi và hiểu nhau hơn để cùng phối hợp làm việc tốt hơn. - Công ty và Chi nhánh cần đặt ra chế độ thi tuyển nhân viên rộng rãi khắp toàn quốc nhằm thu hút người tài, có năng lực về làm việc trong Công ty và Chi nhánh. - Chi nhánh cần tự tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, cập nhật thường xuyên các kiến thức, thông tin cho cán bộ. Tổ chức các lớp huấn luyện nghiệp vụ cho nhân viên giúp họ theo kịp yêu cầu của công tác mới. II.các giải pháp đối với Công tác giám định bồi thường 1. Các giải pháp đối với công tác giám định: 1.1. Biện pháp giúp cho quá trình giám định nhanh chóng hơn và hiệu quả: Khi có tai nạn xảy ra, với các tai nạn xảy ra trên địa bàn Hà Nội, khi nhận được thông báo tai nạn phòng cần phải cử ngay cán bộ đến để giám định. Muốn cho việc thực hiện này được nhanh chóng thì cần phải tạo cho cán bộ nhân viên có tác phong làm việc nhanh chóng khẩn trương. Trong một số trường hợp đại lý, cán bộ khai thác có quan hệ hợp đồng bảo hiểm với khách hàng từ lâu, tạo cho khách hàng cảm giác quen thuộc, gắn bó, nên khách hàng thường thích làm việc với những cán bộ đó. Chi nhánh nên đào tạo cho các cán bộ khai thác những hiểu biết tối thiểu trong công tác giám định và bồi thường. Có thể có trường hợp họ sẽ phối hợp với các giám định viên giám định khi có tổn thất xảy ra, điều này rất tốt cho Chi nhánh vì có thể các khai thác viên là người hiểu rất rõ khách hàng của mình và đối tượng tham gia bảo hiểm, giúp cho việc giám định được thực hiện chính xác hơn. Đặc biệt trong điều kiện thị trường cạnh tranh hiện nay, việc hiểu rõ khách hàng của mình là một việc rất cần thiết và nên làm, vì từ đó có thể tạo nên uy tín của Công ty với khách hàng. Như vậy, các lớp đào tạo cho các nhân viên khai thác về công tác giám định bồi thườnglà rất cần thiết và phải được tổ chức và hàng năm, ngoài ra cần phải có các lớp đào tạo lại nhằm củng cố tăng cường kiến thức cho các nhân viên đồng thời phổ biến thêm các kiến thức mới. Như vậy, phòng cần phải kiến nghị với Chi nhánh về phương pháp đào tạo, các chuyên gia giảng dạy… Khi tai nạn xảy ra, để trách sự ắch tắc giao thông cần phải thu hẹp hiện trường nhanh chóng, do đó cần phải giám định ngay sau khi tai nạn xảy ra và còn tránh được tình trạng chủ xe gian lận trục lợi trong bảo hiểm. Nếu tai nạn xảy ra ở xa Chi nhánh các cán bộ trong phòng không thể đến tận nơi để giám định ngay tại thời điểm, các cán bộ giám định sẽ uỷ quyền cho các Chi nhánh địa phương gần nhất, hay các tổ chức giám định chuyên nghiệp của các Công ty Bảo hiểm khác. Như vậy phòng cần phải có quan hệ rộng rãi với nhiều tổ chức, cá nhân giám định chuyên nghiệp. Chi nhánh nên trang bị thêm cho các giám định viên một số trang thiết bị cần thiết như phương tiện đi lại, máy ảnh tốt, các phương tiên liên lạc như máy điện thoại di động, máy tính cá nhân…Bởi trong một số trường hợp do máy ảnh không tốt khi chụp song ảnh không nhìn rõ hoặc phim bị hỏng không rửa được…Điều này gây nên rất nhiều khó khăn cho các giám định viên và cán bộ bồi thường vì đây chính là bằng chứng cho các thiệt hại đã xảy ra. Khi giám định, các giám định viên cần hướng dẫn tỷ mỉ cho khách hàng các thủ tục cần thiết để có thể nhận được tiền bồi thường nhanh nhất, làm sao cho khách hàng hiểu và đáp ứng đầy đủ những thủ tục cần thiết. Để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ xe khắc phục những thiệt hại, xe nhanh chóng đi vào hoạt động yêu cầu đặt ra đối với công tác giám định là phải tiến hành nhanh chóng, kịp thời chính xác…có như vậy công tác bồi thường mới được thực hiện nhanh chóng, kịp thời. 1.2. Biện pháp nhằm giải hiện tượng trục lợi bảo hiểm: Hiện tượng trục lợi trong bảo hiểm là hiện tượng rất dễ có khả năng xảy ra. Khi xảy ra trục lợi bảo hiểm thông thường với từng trường hợp sẽ có từng biện pháp giải quyết riêng. - Nếu nghi ngờ chủ xe có hiện tượng hợp lý hoá ngày tai nạn và hiệu lực bảo hiểm xe, các cán bộ giám định cần phải xem xét lại những yếu tố liên quan để làm sáng tỏ nghi ngờ của mình. Đầu tiên các cán bộ nên xem xét lại tất cả các giấy tờ liên quan xem có hợp lý và logic không, nếu đã hợp lý thì các cán bộ giám định cần phải xem xét lại hiện trường, lời khai của các nhân chứng. Các công việc cụ thể bao gồm: + Xác minh tại hiện trường dựa trên dấu vết còn lại xem có phù hợp với tai nạn và lời khai của chủ xe lái xe hay không. + Xác minh lại lời khai của nhân chứng, của thật nhiều nhân chứng vì cũng có thể các nhân chứng cũng bị chủ xe mua chuộc. + Xác minh qua các đối tượng liên quan trong vụ tai nạn như người bị thương trên xe, người thứ ba … về nơi đưa đi cấp cứu, thời gian đưa … + Xác minh hành trình của xe, xe bắt đầu hành trình ở đâu, thời điểm nào …Sau đó cần logic các yếu tố này với thời gian và địa điểm xảy ra tai nạn. Với trường hợp hợp lý hoá hiệu lực hợp đồng bảo hiểm thì các giám định viên cần xem xét lại hợp đồng và ý kiến của các đại lý bảo hiểm. - Nếu cán bộ nghi ngờ có hiện tượng lập hồ sơ khiếu nại nhiều lần thì cần phải tìm được xe liên quan trong vụ tai nạn để xác minh được việc bồi thường của xe khác đối với người thứ ba hoặc bồi thường cho xe được bảo hiểm. - Nếu cán bộ nghị ngờ có hiện tượng lập hồ sơ thay đổi tình tiết trong vụ tai nạn thì cần phải : + Đọc kĩ lời khai của lái xe, biên bản khám nghiệm hiện trường để phân tích tình huống tai nạn. + Đối chiếu bản gốc các loại giấy tờ liên quan như: giấy phép lái xe, giấy phép lưu hành… - Nếu cán bộ nghi ngờ có hiện tượng lập hồ sơ hiện trường giả thì phải bằng các giác quan đồng thời điều tra các vết tích trên hiện trường xem có phải là xe bị tai nạn không hoặc đối chiếu các yếu tố có liên quan đến nhau. - Nếu nghi ngờ hiện tượng cố ý gây tai nạn thì cần phải có biện pháp xử lý hợp lý thích hợp vì đây là hiện tượng gian lân nghiêm trọng nhất nhưng cũng khó phát hiện nhất. Phải lập các phương án điều tra tỷ mỉ, nhiều hướng điều tra đặc biệt, chú ý đến công việc lấy lời khai của nhân chứng… Ngoài các phương án riêng biệt phòng có thể phối kết hợp các biện pháp như sau: - Xiết chặt mối quan hệ với công an giao thông để giám sát chặt chẽ trong các trường hợp lái xe vi phạm an toàn giao thông và giảm thiểu tối đa sự câu kết giữa lái xe và công an. - Xiết chặt mối quan hệ với các xưởng sửa chữa ô tô có uy tín vừa để đảm bảo chất lượng sửa chữa, vừa tránh được trường hợp chủ xe câu kết với các xưởng khai tăng giá sửa chữa. Đối với trường hợp gian lận, trục lợi bảo hiểm sau mỗi lần giải quyết thành công các vụ gian lận, phòng nên tập hợp lại dưới các hình thức báo cáo theo mẫu cụ thể các dấu hiệu nghi ngờ, cách xử lý của các giám định viên. Các mẫu báo cáo thiết kế theo hai phần chính như sau: Một phần là các câu hỏi đóng dựa trên dấu hiệu nghi ngờ và cách xử lý thường gặp, một phần là các câu hỏi mở giành cho các phát hiện và các giải pháp khác đã thu được kết quả từ các giám định viên. Công việc này sẽ cho phép hệ thống lại các kinh nghiệm trong việc phát hiện và giải quyết các gian lận bảo hiểm phát sinh trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới từ đó có thể thiết lập nên một tập tài liệu mang tính tiêu chuẩn, làm căn cứ để cho các giám định viên thuận lợi hơn trong việc phát hiện trục lợi và giải quyết có hiệu quả hơn khi xử lý các tình huống tương tự sau này. Bên cạnh việc phối hợp chặt chẽ hơn việc xác minh trong khâu giám định, các bộ phận có liên quan như: kiểm tra nội bộ, pháp chế, có thể lập ra một bộ phận riêng chuyên trách trong việc xử lý các nghi ngờ gian lận. Bộ phận này có thể bao gồm một số các giám định viên của phòng giám định bồi thường, cán bộ của phòng tổ chức và bộ phận pháp chế. Đây có thể coi như là một sự chuyên môn hoá trong quá trình hoạt động của Chi nhánh. Nhờ vậy hiệu quả hoạt động trong phát hiện và xử lý bồi thường được nâng lên và có căn cứ kiểm tra có giá trị dựa trên các thông tin đã xử lý sơ bộ tại mỗi phòng. 2. Các giải pháp đối với công tác bồi thường: Bồi thường thể hiện chất lượng sản phẩm bảo hiểm vật chất xe cơ giới là khâu quyết định sự thành công của nghiệp vụ. Đối với khách hàng số tiền bảo hiểm càng nhiều càng tốt, còn đối với Chi nhánh nếu số tiền bồi thường quá lớn sẽ làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của Chi nhánh, thậm chí còn dẫn đến phá sản. Do đó vấn đề đặt ra là Chi nhánh phải thực hiện như thế nào để vừa đảm bảo số tiền bồi thường đúng, sát với thực tế, thoả mãn được khách hàng, vừa đảm bảo thu được lợi nhuận tối đa. Phòng giám định bồi thường đã có rất nhiều cố gắng trong việc giải quyết bồi thường, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế. Sau đây là một số biện pháp nhằm giúp cho việc thực hiện công tác giám định tốt hơn: 2.1. Biện pháp tránh tồn đọng hồ sơ: - Hướng dẫn chi tiết và cụ thể từng bước trong quá trình thu thập hồ sơ, chứng từ có liên quan đến vụ tai nạn để đảm bảo giải quyết bồi thường nhanh chóng, bởi một phần các vụ tồn đọng là do không có đầy đủ giấy tờ. - Với các vụ tai nạn xảy ra ở xa địa bàn Hà Nội, Chi nhánh cần kết hợp với các Chi nhánh bảo hiểm khác của Công ty để đảm bảo việc chi trả kịp thời cho khách hàng, sau đó giữa các Chi nhánh sẽ có sự đàm phán sau. 2.2. Biện pháp tránh trục lợi bảo hiểm: - Tiến hành điều tra khẩn trương, giữ bí mật về công tác điều tra không cho chủ xe biết bởi nếu có sự rò rỉ thông tin sẽ đánh động cho chủ xe có phương án đối phó kịp thời. Nếu phát hiện có trục lợi thì cần phải có biện pháp xử lý kịp thời, nghiêm minh. - Truy đòi người tham gia bảo hiểm những chi phí mà Chi nhánh đã bỏ ra trong quá trình điều tra và huỷ bỏ hợp đồng. Nếu gian lận, trục lợi trong bảo hiểm quá nghiêm trọng có thể đem ra truy tố trước pháp luật. 2.3. Biện pháp ổn định chi trả một cách hợp lý: - Thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất: + Phối hợp với công an giao thông để tổ chức các chiến dịch phòng ngừa tai nạn giao thông thông qua hoạt động thực tiễn và thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. + Với những đoạn đường nguy hiểm có thể làm đường lánh nạn, gương cầu, các thiết bị phụ trợ khác….để hạn chế tai nạn. Thành lập thêm những trạm cấp cứu giao thông thường trực 24/24 trên các đoạn đường có nhiều nguy hiểm và có lưu lượng xe qua lại lớn. Các biện pháp này Công ty có thể phối hợp thực hiện với các Công ty Bảo hiểm khác và các đơn vị có thẩm quyền nhằm giảm chi phí. + Trường hợp thiệt hại xảy ra thì cần phải tìm mọi cách hạn chế tổn thất xảy ra như: khaonh vùng tai nạn, cử người trông coi… - Thực hiện các cuộc nghiên cứu, điều tra về nguyên nhân tai nạn mức độ thiệt hại trong từng trường hợp sau đó có tư vấn cho khách hàng lý do tai nạn có liên quan đến xe của họ và làm thế nào để tổ chức có hệ thống lái xe an toàn. Phát hành những cuốn sách về các luật lệ giao thông, các cách thức lái xe an toàn, các cách bảo vệ, phòng tránh khỏi những rủi ro…. - áp dụng hệ thống ước tính chi phí sửa chữa bằng máy vi tính để giải quyết bồi thường hiệu quả và hợp lý hơn, kiến nghị với Chi nhánh trang bị thêm cho phòng những hệ thống xử lý dữ liệu cần thiết. Việc ước tính chi phí sửa chữa có thể được tự động tính ngay sau khi những số liệu yêu cầu được truy nhập vào máy tính. iiI. một số kiến nghị Cùng với sự phát triển chung của toàn Công ty, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới ngày càng được hoàn thiện. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường nhất là thị trường bảo hiểm đang ngày càng phát triển và cạnh tranh gay gắt, tất yếu Công ty phải không ngừng tìm ra các phương pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế, phát huy những mặt mạnh để thích ứng với với điều kiện thực tế của nền kinh tế thị trường đang ngày một biến động. 1. Kiến nghị đối với Nhà nước và các Bộ ngành có liên quan: Nhà nước cần hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, để luật bảo hiểm trở thành công cụ chính trong việc quản lý thị trường bảo hiểm hiện nay. Chúng ta cần phải hỏi ý kiến của các chuyên gia luật trong và ngoài nước trong lĩnh vực bảo hiểm, đồng thời tham khảo các bộ luật bảo hiểm của các nước khác nhằm lựa chọn và áp dụng sao cho phù hợp với thị trường và xã hội Việt Nam. Đây là một vấn đề thiết thực phản ánh tính khoa học biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, là sự cần thiết đối với các cơ quan chức năng liên quan, đồng thời với việc ban hành và hoàn thiện luật bảo hiểm thì các văn bản pháp quy của Chính phủ về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm xe cơ giới nói riêng cần tiếp tục hoàn thiện bổ xung cho phù hợp với thực tiễn của sự phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể. Bộ Tài chính và các cơ quan chức năng phải có hướng triển khai triệt để ngăn chặn khiếu nại, gian lận bảo hiểm ở nước ta. Bộ Tài chính cần có một ban thanh tra độc lập trực thuộc Vụ Bảo hiểm phối hợp với các ban ngành khác để ngăn chặn hành vi tiêu cực của các cơ quan thực hiện pháp luật như: Công an giao thông, viện kiểm soát,… để đảm bảo quyền lợi của các đơn vị cá nhân trong hoạt động bảo hiểm. Ban thanh tra còn có thể hỗ trợ giúp các Công ty Bảo hiểm trong những vụ gian lận, trục lợi có thiệt hại lớn, tính chất mức độ phạm pháp nguy hiểm có tính tổ chức. Tổ chức những lớp tập huấn ngắn hạn, dài hạn, hợp tác cùng các nước phát triển để nâng cao trình độ, khả năng của thanh tra viên, giám định viên cũng như truyền đạt các thông tin nhanh chóng trong các Công ty trên phạm vi toàn quốc. Bộ Tài chính cần có các văn bản yêu cầu sự giúp đỡ của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ trong việc phối hợp với cơ quan bảo hiểm để hạn chế việc gian lận bảo hiểm, hay cần có biện pháp để kiểm tra xử lý đối với trường hợp xe tham gia giao thông không mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. 2. Đối với Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh và Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội: 2.1. Với Công ty: Hàng năm Công ty nên mở các lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho các cán bộ, công nhân viên trong toàn Công ty về các nghiệp vụ bảo hiểm và về Công tác giám định bồi thường . Tổ chức hội nghị tổng kết Công tác giám định bồi thường trong toàn Công ty và trong từng Chi nhánh nhằm điểm ra những mặt tích cực và những mặt yếu để rút kinh nghiệm cho những năm sau. Đối với hiện tượng gian lận cần có những quy định về xử phạt. Hàng năm có thể tổ chức hội nghị công tác phòng chống gian lận trên toàn quốc. Yêu cầu các Công ty thành viên cung cấp thông tin về các vụ gian lận điển hình và các hình thức gian lận mới nhằm mục đích đề phòng cho các Công ty khác. 2.2 Với Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội: - Cần thường xuyên củng cố và nâng cao kiến thức chuyên môn cho cán bộ giám định, bồi thường. Tuyên truyền và nâng cao ý thức của người làm bảo hiểm tránh những sai sót từ phía cán bộ giám định bồi thường. - Phối hợp chặt chẽ với các Công ty Bảo hiểm khác, các cơ quan chức năng đặc biệt là các cơ quan thực hiện pháp luật trong công tác đấu tranh phòng chống trục lợi, gian lận trong bảo hiểm. Yêu cầu cơ quan pháp luật có các biện pháp trừng phạt nghiêm minh với đối tượng gian lận để làm gương. - Trang bị thêm các phương tiện máy ảnh, điện thoại di động, máy vi tính, phương tiện đi lại như xe máy, ô tô… phương tiện phục vụ công tác giám định bồi thường nhanh chóng chính xác. - Có chế độ khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh đối với người hoàn thành tốt nhiệm vụ, vi phạm…. - Tăng cường công tác tuyên truyền, giải thích cho khách hàng về bảo hiểm nói chung và trình tự giám định bồi thường nói riêng để có thể giải quyết nhanh nhất khi có sự cố xảy ra, tránh trường hợp vì thiếu hiểu biết dẫn đến sai lầm đáng tiếc./. kết luận Trong một nghiệp vụ bảo hiểm Công tác giám định bồi thường là công việc cuối cùng. Công tác giám định bồi thường là một công việc quan trọng trong một nghiệp vụ, có làm tốt công tác giám định bồi thường Công ty mới giữ được chữ tín của mình với khách hàng và có thêm được nhiều hơn những khách hàng mới. Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh là một Công ty Bảo hiểm có tên tuổi trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, và được coi là một trong số ít các Công ty có chất lượng phục vụ tốt nhất. Trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới Công ty Bảo Minh và Bảo Minh Hà Nội luôn luôn cố gắng phấn đấu nâng cao trình độ nghiệp vụ để ngày càng hoàn thiện hơn sản phẩm của mình. Tuy nhiên, ngành bảo hiểm vẫn còn là một ngành nghề khá non trẻ trên thị trường nước ta hiện nay. Chúng ta vẫn đang liên tục nghiên cứu, học tập và tiếp thu những kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong lĩnh vực này. Được sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các cán bộ Phòng Giám định bồi thường đặc biệt là trưởng phòng Lê Đức Thuận cùng sự giúp đỡ tận tình của cô giáo: TS.Phạm Thị Định, Với đề tài: “ Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh – Chi nhánh Hà Nội (Bảo Minh Hà Nội)” em hy vọng góp một phần nào vào việc nâng cao hiệu quả việc thực hiện Công tác giám định bồi thường . Do thời gian có hạn, trình độ và kiến thức còn hạn chế nên trong bài không thể không tránh khỏi những sai sót, vì vậy em rất mong ý kiến đóng góp giúp cho khoá luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Mục lục Lời mở đầu 1 Chương I: Lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và Công tác giám định bồi thường 3 I. Khái quát chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới 3 1. Đặc điểm về giao thông vận tải đường bộ ở Việt Nam 3 2. Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 5 3. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 7 4. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm vật chất xe cơ giới 8 4.1. Đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới 8 4.2. Phạm vi bảo hiểm vật chất xe cơ giới …………………………... 9 5. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm…………………………………… 11 6. Phí bảo hiểm ………………………………………………………… 11 7. Hợp đồng bảo hiểm………………………………………………….. 13 II. Công tác giám định bồi thường trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới 15 1.Vai trò của Công tác giám định bồi thường 15 2. Nội dung của Công tác giám định bồi thường 15 2.1. Nguyên tắc giám định bồi thường: 16 2.2. Giám định viên: 19 2.3. Quy trình giám định bồi thường 21 2.4. Hồ sơ khiếu nại bảo hiểm: 30 chương ii:thực trạng Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Chi nhánh bảo minh hà nội 31 I.Vài nét về Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh và Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội 31 1. Quá trình hình thành và phát triển: 31 2. Mục tiêu và phương hướng phát triển trong thời gian tới 41 ii.Thực trạng Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Bảo Minh Hà Nội 41 1. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới 41 1.1.Tình hình chung các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới: 41 1.2.Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới 45 2. Thực trạng công tác giám định bồi thường 46 2.1.Phòng giám định và bồi thường 46 2.2.Tình hình thực hiện công tác giám định 48 2.3.Tình hình thực hiện công tác bồi thường 54 2.4.Công tác giám định bồi thường với việc ngăn chặn trục lợi trong bảo hiểm 60 Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Công tác giám định bồi thường trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội 68 I.Các giải pháp chung 68 1. Về mặt nghiệp vụ 68 1.1.Công tác khai thác và dịch vụ chăm sóc khách hàng 68 1.2.Công tác giám định và bồi thường 70 1.3.Củng cố và phát triển hệ thống đại lý, cộng tác viên 70 1.4.Chương trình tái bảo hiểm 71 2. Về mặt quản lý 71 2.1.Công tác cổ phần hoá và đổi mới doanh nghiệp 71 2.2.Công tác kế hoạch thống kê 72 2.3.Công tác tài chính kế toán 72 2.4.Phát triển bộ máy tổ chức nhân sự 72 II. Các giải pháp đối với Công tác giám định bồi thường 74 1. Các giải pháp đối với công tác giám định 74 1.1.Biện pháp giúp cho quá trình giám định nhanh chóng hiệu quả 74 1.2.Biện pháp nhằm giảm hiện tượng trục lợi bảo hiểm 76 2. Các giải pháp đối với công tác bồi thường 78 2.1.Biện pháp tránh tồn đọng hồ sơ 78 2.2.Biện pháp tránh trục lợi bảo hiểm 79 2.3.Biện pháp ổn định chi trả một cách hợp lý 79 III. Một số kiến nghị 80 1.Kiến nghị đối với Nhà nước và các Bộ ngành liên quan 80 2.Kiến nghị đối với Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh và Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội 81 2.1.Với Công ty 81 2.2.Với Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội 82 Kết luận 83 Tài liệu tham khảo 87 Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm - Đại học Kinh Tế Quốc Dân 2. Giáo trình kinh tế bảo hiểm - Đại học Tài chính Kế Toán 3. Giáo trình Quản trị Kinh Doanh Bảo hiểm - Đại học Kinh Tế Quốc Dân 4. Quy tắc Bảo hiểm vật chất xe cơ giới – Công ty Bảo Minh 5. Quy tắc giám định bồi thường trong Bảo hiểm xe cơ giới – Công ty Bảo Minh 6. Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành – Học Viện Hoàng gia Anh 7. Báo Cáo Kết quả kinh doanh của Công ty Bảo Minh 8. Luật Kinh Doanh bảo hiểm- Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia 9. Số liệu từ các Phòng trong Chi nhánh Bảo Minh Hà Nội 10. Tạp chí Giao thông Vận tải ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0008.doc
Tài liệu liên quan