Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex

Lời mở đầu T rong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, các ngành các lĩnh vực đều có đóng góp nhất định và luôn tự cải thiện để vươn tới sự hoàn thiện. Bảo hiểm là ngành dịch vụ, có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế càng phát triển đời sống càng cao thì nhu cầu của con người càng phong phú, đa dạng, trong đó có nhu cầu bảo đảm an toàn, an tâm, ổn định trong cuộc sống. Bảo hiểm góp phần đảm bảo ổn định tài chính cho các cá nhân, gia đình cho mọi tổ chức doanh nghiệ

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3755 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p để khôi phục đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh và còn thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế. Ngày nay, bảo hiểm đã đi vào cuộc sống của từng người, từng hộ gia đình, bảo hiểm ngày càng phát triển cùng với sự gia tăng của các nghiệp vụ bảo hiểm. Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới qua quá trình thực hiện đã cho thấy những tác dụng tích cực, giúp cho chủ phương tiện xe cơ giới an tâm và ổn định được tài chính phục hồi kinh tế khi có tổn thất xảy ra góp phần phát triển kinh tế chung. Công tác giám định bồi thường trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng đã đóng góp một phần lớn vào hiệu quả của toàn nghiệp vụ. Tuy nhiên, so với nhiều ngành nghề khác thì bảo hiểm vẫn đang còn là một ngành nghề non trẻ và đầy tiềm năng. Trong quá trình triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm cũng như nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới chúng ta vẫn đang gặp phải không ít khó khăn và thách thức đòi hỏi chúng ta phải học tập và nghiên cứu rất nhiều. Nhận biết được điều đó trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex, em đã chọn đề tài: “Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex” để nghiên cứu nhằm mục đích đi sâu tìm hiểu phân tích đánh giá công tác giám định bồi thường, rút ra kinh nghiệm. Cùng với kiến thức đã học góp phần phát triển và hoàn thiện công tác này nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội và góp phần vào sự phát triển của Công ty. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận đề tài được chia thành 3 chương : Chương I: Lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và Công tác giám định bồi thường trong BH vật chất xe cơ giới tại công ty pjico. Chương II: Thực trạng Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex. Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Pjico. Chương I Lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và Công tác giám định bồi thường trong bh vật chất xe cơ giới tại công ty pjico I. khái quát chung về Bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1. Đặc điểm giao thông vận tải đường bộ ở Việt Nam và vai trò của Bảo hiểm vật chất xe cơ giới Ngành giao thông vận tải là một trong những ngành then chốt của hệ thống phát triển kinh tế xã hội ở nước ta, là bàn đạp để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra, ngành giao thông vận tải còn là điều kiện cho các ngành khác và cho nền kinh tế phát triển. Do đặc thù địa lý, kinh tế, xã hội thì giao thông đường bộ vẫn là hình thức phổ biến nhất và được Đảng và nhà nước ta quan tâm phát triển hàng đầu. Giao thông đường bộ hiện đang giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tính tới năm 2005 mạng đường bộ Việt Nam dài 221.115 km. Trong đó quốc lộ chiếm 15.824 km ( 7,16%); đường liên tỉnh và tỉnh lộ là 19.916 km ( 9,00%); đường huyện lộ 37.947 km (17,16%); đường địa phương chung 134.463 km (60,8%); đường đô thị 5.944 km (2,69%); đường chuyên dùng 7021 km (3.18%). Xe cơ giới chiếm một số lượng lớn và một vị trí quan trọng trong ngành giao thông vận tải góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Vận chuyển bằng xe cơ giới đem lại hiệu quả và những ưu điểm phù hợp với Việt Nam hơn các phương tiện khác như: - Xe cơ giới có tính cơ động và linh hoạt cao, tốc độ vận chuyển cao, hoàn thành quá trình vận chuyển một cách triệt để,chi phí hợp lý. - Chi phí cho việc xây dựng đường xá, bến bãi phục vụ cho xe cơ giới ít tốn kém hơn các phương tiện khác như máy bay, tàu hỏa, tàu thuỷ. - Việc sử dụng xe cơ giới phù hợp với điều kiện hạ tầng cơ sở giao thông vận tải ở nước ta hơn bất kì loại phương tiện nào khác. Thực tế cho thấy số xe cơ giới lưu hành trên toàn quốc hàng năm tăng đáng kể Các loại xe cơ giới chủ yếu được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam bao gồm xe ô tô, xe mô tô. Bảng 1.1: Tình hình gia tăng phương tiện giao thông đường bộ (2001-2005) Năm Số lượng xe ô tô Số lượng xe mô tô 2001 486.000 6.478.000 2002 532.681 8.395.835 2003 701.065 10.368.478 2004 842.123 11.925.632 2005 910.150 13.245.736 (Nguồn : Tạp chí Giao Thông Vận Tải tháng 12/2005) Bên cạnh những ưu điểm vận chuyển bằng xe cơ giới cũng có những nhược điểm như độ an toàn thấp, khả năng dẫn đến tai nạn cao, tổn thất về người và của lớn và khó khắc phục. Trong những năm gần đây cùng với sự gia tăng của số phương tiện tham gia giao thông, số vụ tai nạn giao thông cũng tăng lên đáng kể gây tổn thất lớn về người và tài sản. Trong đó số người chết vì tai nạn giao thông cũng tăng lên đến mức báo động. Bảng 1.2: Tình hình tai nạn giao thông (2001-2005) Năm Số vụ tai nạn Số người chết Số người bị thương 2001 23.500 7.599 27.538 2002 25.040 10.477 29.188 2003 27.004 6.733 12.800 2004 28.750 9.698 15.156 2005 30.615 7.768 20.053 (Nguồn: Tạp chí Giao thông vận tải số tháng12/2005) Theo thống kê tính đến tháng 12 năm 2004 đã xảy ra 28.750 vụ tai nạn, trong đó có 9.698 người bị chết và 17.156 người bị thương. Như vậy mức độ gia tăng tai nạn hàng năm từ 6,5% đến 30,3%, trong đó số người chết tăng từ 5% đến 35%, số người bị thương tăng 6% từ năm 2001-2002. Nhưng đặc biệt giảm hơn 120% từ 2002-2003. Sau đó tiếp tục tăng qua các năm 2004 và 2005 Nguyên nhân chủ yếu của những vụ tai nạn nói trên là do người điều khiển phương tiện giao thông phóng nhanh vượt ẩu, vi phạm luật lệ an toàn giao thông, bị ảnh hưởng của bia rượu khi sử dụng phương tiện giao thông, chất lượng đạo đức lái xe chưa cao. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như xe cũ, chất lượng kém, do mạng lưới đường xá còn chật hẹp, do hệ thống các biển báo giao thông, đèn tín hiệu còn thiếu… Trong số đó nguyên nhân của những vụ tai nạn giao thông do lỗi của người điều khiển phương tiện giao thông chiếm 79,4%. Vì vậy để đấu tranh và khắc phục những rủi ro ,tai nạn thường ngày trong cuộc sống cũng như trong sản xuất con người đã dùng nhiều biện pháp khác nhau như né chánh rủi ro ngăn ngừa tổn thất, hạn chế tổn thất ,các biện pháp tài trợ rủi ro và chấp nhận bảo hiểm Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cá nhân. Theo quan điểm của các nhà kinh tế thì bảo hiểm chính là sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm với người được bảo hiểm về những tổn thất, mất mát của đối tượng bảo hiểm do những rủi ro đã được thoả thuận gây ra, với điều kiện bên mua bảo hiểm đóng cho nhà bảo hiểm một khoản gọi là phí bảo hiểm. Bảo hiểm ra đời chính là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của hoạt động sản suất kinh doanh. Ngày nay khái niệm “ bảo hiểm” đã trở nên gần gũi gắn bó với con người, với hoạt động sản suất kinh doanh. Đối với các chủ phương tiện và những người điều khiển phương tiện xe cơ giới trong quá trình tham gia giao thông dù đã rất cẩn thận nhưng cũng không thể tránh khỏi những tai nạn bất ngờ xảy ra. Khi xảy ra tai nạn chủ phương tiện cơ giới sẽ phải gánh chịu những tổn thất do mình gây ra, trong đó có tổn thất về trách nhiệm do mình gây ra đối với người thứ ba, tổn thất về vật chất xe cơ giới, tổn thất về con người. Những rủi ro đó có thể sẽ gây khó khăn lớn cho cuộc sống cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Vì vậy việc bù đắp tài chính kịp thời là một nhu cầu cấp thiết của các chủ phương tiện. Để khắc phục những rủi ro trên một trong những biện pháp hữu hiệu nhất đó là tham gia bảo hiểm. Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm ở nước ta đã triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm như: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba (bắt buộc theo Nghị định số 115/CP ngày 17/12/1997 của Chính phủ), bảo hiểm vật chất xe cơ giới, bảo hiểm con người, hàng hoá, hành khách trên xe .… 2. Tác dụng của Bảo hiểm vật chất xe cơ giới 2.1. Bồi thường những tổn thất do rủi ro gây ra, góp phần ổn định đời sống sản xuất và kinh doanh Chủ phương tiện giao thông vận tải khi tham gia bảo hiểm sẽ nộp cho nhà bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm, các khoản phí này sẽ hình thành quỹ tiền tệ tập trung. Các Công ty Bảo hiểm sử dụng quỹ này để chi trả cho hoạt động quản lý kinh doanh và phần lớn là chi bồi thường cho người được bảo hiểm khi có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Như vậy, khi có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm chủ phương tiện giao thông vận tải sẽ được bồi thường. Điều đó sẽ giúp cho các chủ phương tiện giao thông vận tải khắc phục được những khó khăn về mặt tài chính, giúp họ ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh của mình. Đây chính là tác dụng đặc trưng của bảo hiểm. 2.2. Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình mà khách hàng chỉ có thể nhận được khi gặp rủi ro dẫn đến tổn thất. Nếu rủi ro xảy ra dẫn đến tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm thì nhà bảo hiểm sẽ bồi thường cho khách hàng. Mục tiêu lớn nhất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là tạo ra lợi nhuận. Theo đó, các doanh nghiệp bảo hiểm muốn có lợi nhuận cao thì chi phí phải giảm, mà khoản chi cho bồi thường là khoản chi lớn nhất của các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp đã đề ra các biện pháp nhằm giúp khách hàng của mình đề phòng và hạn chế tổn thất có thể xảy ra. Các doanh nghiệp bảo hiểm phối hợp với các cơ quan chức năng tăng cường giáo dục cho nhân dân ý thức chấp hành luật lệ giao thông, tham gia vào các hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về an toàn giao thông đến từng người dân. Ngoài ra các doanh nghiệp bảo hiểm còn dùng nguồn quỹ nhàn rỗi của mình vào việc xây dựng, cải tạo hệ thống đường xá, lắp đặt các hệ thống đèn tín hiệu, dải phân cách nhằm hạn chế các tai nạn giao thông đáng tiếc có thể xảy ra. 2.3.Góp phần tăng nguồn vốn đầu tư và phát triển kinh tế Như chúng ta đã biết, người tham gia bảo hiểm đóng một khoản phí bảo hiểm tạo thành nguồn quỹ bảo hiểm lớn, ngoài việc chi trả, bồi thường nguồn quỹ này còn là một nguồn vốn lớn đầu tư phát triển kinh tế kinh tế đất nước. ở một số nước phát triển như Mỹ, nguồn vốn mà các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào nền kinh tế thường cao, đứng thứ hai chỉ sau các ngân hàng thương mại và cung cấp khoảng 10% tổng quỹ đầu tư của thị trường tiền tệ và vốn. 2.4.Bảo hiểm đóng góp tích lũy cho ngân sách nhà nước thông qua thuế 2.5.Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức, giúp họ yên tâm trong cuộc sống, trong sinh hoạt sản xuất kinh doanh, bảo hiểm thể hiện tính cộng đồng, tương trợ, nhân văn sâu sắc. 2.6.Bảo hiểm thu hút một số lao động nhất định, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội. 3. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm vật chất xe cơ giới 3.1.Đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới Đối tượng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới là toàn bộ các loại xe cơ giới có giá trị, có đủ điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho việc lưu hành xe, có giấy phép lưu hành xe do cơ quan oông an cấp và hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xét trên phương diện kỹ thuật bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có thể bảo hiểm toàn bộ vật chất thân xe hoặc tiến hành bảo hiểm từng bộ phận của chiếc xe. Hiện nay : Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex quy định về các nhóm tổng thành của xe ôtô như sau: -Tổng thành động cơ: bao gồm bộ li hợp, chế hoà khí, bơm cao áp, bầu lọc gió, bơm hơi, hệ thống điện. -Tổng thành hộp số: hộp số chính, hộp số phụ, lăng… -Tổng thành trục trước: gầm cầu xe, may ơ, hệ thống treo nhíp, má phanh, trục láp…. -Tổng thành hệ thống lái: trục lái, vô lăng lái, hộp tay lái, bộ trợ lực tay lái, thanh kéo ngang, thanh kéo dọc… -Tổng thành lốp : Toàn bộ lốp lắp vào xe, lốp trang bị dự phòng trên xe,… -Tổng thành cầu sau: vỏ cầu và ruột cầu. -Tổng thành thân vỏ: Ba-đờ- xốc, khung xe, két nước, nắp ca bô, chắn bùn cabin, tổng bơm, bộ điều hoà lực phanh, đường ống dẫn khí, dẫn dầu, thùng chứa nguyên liệu, kính, gương, ghế ngồi, các trang thiết bị khác… Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là hình thức bảo hiểm tự nguyện, chủ xe khi tham gia bảo hiểm sẽ được bồi thường cho những tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm. 3.2. Phạm vi bảo hiểm vật chất xe cơ giới : Phạm vi bảo hiểm là phạm vi giới hạn những rủi ro mà theo thoả thuận nếu những rủi ro đó xảy ra thì nhà bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm bồi thường cho chủ phương tiện. Công ty Pjico bồi thường cho chủ xe những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm trong những trường hợp sau: - Tai nạn do đâm va, lật dổ. - Cháy nổ, bão, lụt, sét đánh, động đất, mưa đá. - Mất cắp toàn bộ xe ô tô, môtô. - Xe môtô, ô tô bị mất cắp toàn bộ trong các trường hợp sau (nếu có tham gia và đóng phí phần rủi ro mất cắp) : = Mất tại nhà có dấu vết cạy phá và mất tại bãi giữ xe công cộng hợp pháp có thẻ giữ xe. = Mất tại trụ sở cơ quan có bảo vệ trông coi. = Bị cướp có vũ trang. Tất cả trường hợp mất cắp trên phải có chứng cứ hợp pháp và có kết luận của Công An có thẩm quyền. - Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây ra. Công ty Bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại như: - Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật… - Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp mà nguyên nhân không phải do tai nạn gây ra. - Mất cắp bộ phận xe. Để tránh những nguy cơ trục lợi bảo hiểm, hành vi vi phạm đạo đức pháp luật (Hay gọi là các rủi ro loại trừ) các Công ty Bảo hiểm không bồi thường những thiệt hại tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân sau: - Hành động cố ý của chủ xe, lái xe - Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và các thiết bị kỹ thuật an toàn để lưu hành theo qui định của Luật an toàn giao thông đường bộ như : + Xe không có giấy phép lưu hành. + Lái xe không có bằng lái hoặc không có giấy tờ hợp lệ. + Lái xe sử dụng các rượu bia và các chất kích thích khác khi điều khiển xe. + Xe chở chất cháy nổ ,chất nổ trái phép ; + Xe quá trọng tải hoặc quá số hành khách theo qui định ; + Xe đi vào đường cấm ; + Xe đi đêm không đèn; + Xe dùng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa. Những thiệt hại gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh; Thiệt hại do chiến tranh Cũng cần lưu ý rằng trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe mới.Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm sang chủ xe mới thì Công ty bảo hiểm sẽ hoàn trả lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ có yêu cầu. 4.Giá trị Bảo hiểm và số tiền Bảo hiểm Giá trị bảo hiểm của chiếc xe là giá trị thực tế của chiếc xe đó trên thị trường tại thời điểm người đó tham gia bảo hiểm .Việc xác định đúng giá trị của chiếc xe đó khi tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở chính để xác định đúng giá trị khi giải quyết bồi thường. Tuy nhiên giá trị thực tế của chiếc xe thì luôn luôn biến động trên thị trường do đó rất khó để xác định giá trị cuả chiếc xe - Loại xe. - Năm sản xuất. - Mức độ sử dụng xe (cũ, mới). - Thể tích làm việc của xi lanh. Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm mà các Công ty Bảo hiểm hay áp dụng căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao. Cụ thể: Giá trị bảo hiểm = Giá trị ban đầu - Khấu hao Số tiền bảo hiểm là số tiền người tham gia bảo hiểm chấp nhận tham gia hoặc người bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm xác định dựa trên giá trị bảo hiểm và sự phân tích chủ quan của người tham gia hoặc người bảo hiểm. Nguyên tắc của bảo hiểm là số tiền bảo hiểm không được vượt quá giá trị bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm vô tình hoặc cố ý vi phạm các Công ty Bảo hiểm sẽ có những chế tác phù hợp tuỳ vào mức độ thực tế. 5. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là nhân tố đầu tiên quyết định sự lựa chọn của khách hàng. Vì vậy việc xác định chính xác phí bảo hiểm sẽ bảo đảm cho hoạt động của Công ty đồng thời làm tăng tính cạnh tranh cho Công ty trên thị trường bảo hiểm. Công thức tính phí cho mỗi đầu xe P = f + d Trong đó P: Phí bảo hiểm mồi đầu xe f: Phí thuần d: Phụ phí Căn cứ vào tình hình tổn thất năm trước. Căn cứ vào số liệu thống kê Công ty Bảo hiểm sẽ thực hiện tính toán phí thuần cho mỗi đầu xe như sau: Trong đó : i = Si : Số vụ tai nạn xảy ra năm thứ i Ti : Thiệt hại bình quân một vụ tai nạn năm i Ci : Số xe hoạt động năm i Theo công thức trên việc xác định phụ phí bao gồm chi phí quản lý, phí đề phòng hạn chế tổn thất. Ngoài ra khi xác định phí bảo hiểm các Công ty Bảo hiểm còn căn cứ vào những nhân tố sau: - Loại xe: Do mỗi loại xe có đặc điểm kỹ thuật khác nhau, mức độ rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm khác nhau. Thông thường các Công ty Bảo hiểm đưa ra những biểu phí phù hợp cho hầu hết các loại xe thông dụng thông qua việc phân loại xe thành các nhóm. Việc phân loại này được dựa trên cơ sở tốc độ tối đa, khả năng sửa chữa phụ tùng thay thế. Đối với những xe hoạt động không thông dụng có mức rủi ro cao thì phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản. - Tính chất hoạt động của xe tham gia bảo hiểm: Đối với các loại xe hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh vận tải doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có một biểu phí riêng như kinh doanh vận tải hành khách, kinh doanh vận tải hàng hoá….Còn đối với các loại xe sử dụng với mục đích đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của chủ phương tiện sẽ có một biểu phí riêng. Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn tham gia bảo hiểm các Công ty Pjico áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung theo số lượng tham gia bảo hiểm. Ngoài ra các Công ty Pjico còn áp dụng chế độ giảm này cho các đơn vị tham gia nhiều năm và không có khiếu nại gì trong các năm… Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ thì chủ xe chỉ đóng phí cho những ngày hoạt động theo công thức sau: Số tháng xe hoạt động Phí bảo hiểm =Phí bảo hiểm cả năm * 12 Trong trường hợp khách hành đã nộp phí cả năm nhưng vì lý do nhất định xe ngừng hoạt động một thời gian, Công ty Pjico sẽ hoàn trả lại phí của thời gian ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính theo công thức: Số tháng xe không hoạt động Phí hoàn lại= Phí đã đóng* Tỷ lệ hoàn lại * 12 Thông thường tỷ lệ phí hoàn lại là 80% Nếu chủ xe muốn huỷ hợp đồng khi chưa hết thời hạn thì Công ty hoàn trả lại phí cho thời gian còn lại với điều kiện chủ xe chưa có lần nào được trả tiền bảo hiểm trong thời gian hợp đồng. 6. Hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng là một thoả thuận giữa nhà bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Theo đó người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm cho nhà bảo hiểm còn nhà bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường và trả tiền bảo hiểm cho người tham gia khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm gây tổn thất đối với xe của người tham gia. Một hợp đồng được gọi là có giá trị pháp lý khi thoả mãn các điều kiện sau: - Mục đích của các bên là thiết lập mối quan hệ pháp lý. - Lời đề nghị của một bên và việc chấp nhận của bên kia. - Khả năng pháp lý của các bên để thực hiện hợp đồng. Như vậy hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới phải tuân thủ theo các điều kiện chủ yếu, thiếu bất kỳ một điều kiện nào hợp đồng coi như không có hiệu lực, hoặc không thi hành được. Hợp đồng bảo hiểm thiệt hại vật chất cũng phải đảm bảo đúng nguyên tắc của một hợp đồng của một hợp đồng bảo hiểm bao gồm: Những nguyên tắc ngầm định: - Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm. - Nguyên tắc trung thực tuyệt đối Những nguyên tắc hiển thị rõ ràng - Nguyên tắc bồi thường: Số tiền bồi thường không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế. - Nguyên tắc thế quyền. Nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới : - Tiêu đề: Tên, địa chỉ của Công ty - Chủ thể bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm). - Đối tượng bảo hiểm. - Số tiền bảo hiểm , mức phí , cách thức nộp phí bảo hiểm . - Các điều khoản về giải quyết bồi thường. - Các quy định về giải quyết tranh chấp ( nếu có). - Thời hạn bảo hiểm . - Chữ ký của hai bên. 7. Quyền lợi và trách nhiệm các bên liên quan trong hợp đồng bảo hiểm a. Quyền và trách nhiệm của bên tham gia bảo hiểm - Bên tham gia bảo hiểm có quyền + Lựa chọn DNBH để mua bảo hiểm ; + Yêu cầu DNBH giải thích các điều kiện ,điều khoản bảo hiểm cấp đơn hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm + Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng theo luật định nếu như DNBH cố ý cung cấp thông tin sai sự thật để giao kết hợp đồng, không chấp nhận giảm phí nếu rủi ro được bảo hiểm thay đổi theo chiều hướng có lợi cho DNmà bên tham gia đã yêu cầu giảm phí... + Yêu cầu DNBH trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường khi sự kiện bảo hiểm xảy ra ; + Chuyển nhượng HĐBH theo thoả thuận trong HĐ hoặc theo quy định của pháp luật ; + Các quyền khác theo quy định của pháp luật . -Bên tham gia baaor hiểm có trách nhiệm : + Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến HĐBH + Đóng phí đầy đủ theo thời gian và phương thức đã thoả thuận trong HĐBH + Thông báo cho DNBH về việc xảy ra sự kiện BH theo như thoả thuận trong hợp đồng , việc thông báo phải được thực hiện nhanh chóng +áp dụng các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất để hạn chế tối đa hậu quả của rủi ro b. Quyền lợi và trách nhiện của DNBH - DNBH có quyền lợi + thu phí bảo hiểm theo thoả thuận trong HĐBH + Yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến HĐBH + đơn phương đình chỉ thực hiện HĐ nếu bên tham gia bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng để được bồi thường hoặc được trả tiền bảo hiểm +Từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối thanh toán tiền bồi thường cho khách hàng trong những trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm + Yêu cấu khách hàng áp dụng các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất - DNBH có trách nhiệm + Giải thích cho khách hàng về các điều kiện, điều khoản BH, quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia bảo hiểm + Cấp đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm cho bên tham gia bảo hiểm ngay sau khi giao kết hợp đồng +Bồi thường hoặc trả tiền bảo cho bên tham gia bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn bảo hiểm đã quy định +Giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường + Phối hợp với bên tham gia bảo hiểm giải quyết yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm II. Công tác giám định bồi thường trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1.Vai trò của Công tác giám định bồi thường Giám định là quá trình xem xét phân tích đánh giá rủi ro xảy ra dẫn đến tổn thất, xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất để từ đó đo lường tổn thất. Giám định là một khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh của Công ty Bảo hiểm. Giám định là cơ sở để xem xét bồi thường một cách chính xác và thoả đáng để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Công ty Bảo hiểm. Giám định đúng, chính xác sẽ giúp cho doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường cho khách hàng đúng đắn tăng uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, ngoài ra còn giúp ngăn chặn và giảm bớt được hiện tượng trục lợi trong bảo hiểm. Bồi thường là việc nhà bảo hiểm sẽ chi trả một khoản tiền nhất định hay hiện vật cho người tham gia bảo hiểm khi có thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra. Bồi thường cũng là một khâu quan trọng trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm vì nó quyết định rất lớn đến chất lượng sản phẩm bảo hiểm. Khi làm tốt công tác này sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao uy tín của mình đối với khách hàng và nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường bảo hiểm. Công tác giám định bồi thường trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một công việc có vai trò quan trọng trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng như trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm. 2. Nội dung của Công tác giám định bồi thường Khi bị tai nạn nhà bảo hiểm yêu cầu các chủ xe hoặc lái xe một mặt phải tìm mọi cách hạn chế tổn thất, mặt khác phải nhanh chóng báo cho Công ty Bảo hiểm biết. Chủ xe không được di chuyển, tháo dỡ, sửa chữa xe mà chưa có ý kiến của nhà bảo hiểm. Khi chủ xe thông báo tai nạn cho nhà bảo hiểm biết nhà bảo hiểm sẽ tiến hành giám định, nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. 2.1. Nguyên tắc giám định bồi thường: Trong những năm gần đây, các sản phẩm về bảo hiểm xe cơ giới đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, đòi hỏi công tác giám định bồi thường phải được củng cố và nâng cao. Những nguyên tắc được xây dựng trong công tác này nhằm đảm bảo yêu cầu đó. Nội dung của nguyên tắc giám định gồm: - Việc giám định phải được tiến hành sớm nhất sau khi nhận được thông tin tai nạn (theo quy định chung 5 ngày). Nếu không tiến hành sớm được thì phải báo cáo lý do của việc chậm trễ trong biên bản giám định. - Tất cả các thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm vật chất, tài sản đều phải tiến hành giám định. - Trong trường hợp đặc biệt nếu tổ chức bảo hiểm không thực hiện được việc lập biên bản giám định, thì có thể căn cứ vào biên bản của cơ quan chức năng, ảnh chụp, hiện vật thu được, khai báo của chủ xe và kết quả điều tra. Trong quá trình giám định phải có sự có mặt và ký xác nhận của chủ xe, chủ tài sản bị thiệt hại hoặc người đại diện hợp pháp. Mục tiêu của giám định để: Xác định nguyên nhân tai nạn, từ đó xác định trách nhiệm của bảo hiểm, đánh giá, xác định thiệt hại cho việc bồi thường được nhanh chóng, giúp việc tổng hợp nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông để có biện pháp phòng ngừa. Yêu cầu của một biên bản giám định phải khách quan, tỷ mỉ, thể hiện đầy đủ, chi tiết những thiệt hại do tai nạn đồng thời đề xuất phương án khắc phục một cách hợp lý và kinh tế nhất. Các giám định viên là những người thực hiện công tác này. 2.2. Giám định viên: 2.2.1. Vai trò của giám định viên: Giám định viên bảo hiểm xuất hiện từ lâu gắn bó mật thiết với quá trình bảo hiểm. Theo thời gian, khái niệm giám định viên đã trở nên quen thuộc và công việc của họ là ghi nhận một cách khoa học mức độ thiệt hại, tổn thất, nguyên nhân gây ra tổn thất với đối tượng bảo hiểm. Vì vậy, vai trò của giám định viên càng ngày càng quan trọng trong các nghiệp vụ bảo hiểm. Các công việc của một giám định viên: + Ghi nhận thiệt hại: Khi người tham gia bảo hiểm gặp phải rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm dẫn đến tổn thất họ sẽ thông báo cho nhà bảo hiểm biết. Nhà bảo hiểm sẽ chỉ định một giám định viên đến tiến hành giám định, giám định viên sẽ ghi lại những tổn thất, mức độ tổn thất và lập thành biên bản . + Đề xuất biện pháp bảo quản và đề phòng thiệt hại: Khi thiệt hại xảy ra các giám định viên phải có nghĩa vụ can thiệp nhằm giảm thiểu tổn thất. + Tiến hành yêu cầu người thứ ba bồi thường: Trong trường hợp thiệt hại liên quan đến người thứ ba, các nhà bảo hiểm có quyền yêu cầu người thứ ba có trách nhiệm về các thiệt hại xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Những yêu cầu đó có thể được thực hiện bằng thoả thuận hoặc luật pháp và các hợp đồng bảo hiểm buộc bên mua bảo hiểm phải bảo vệ quyền yêu cầu đó của bên bảo hiểm. Công việc của giám định viên là can thiệp vào các khiếu kiện nhằm khuyến khích bên được bảo hiểm thực hiện các thủ tục cần thiết và những kháng nghị khi cần. Mặt khác, việc tham gia của giám định viên còn giúp cho việc khiếu kiện đạt kết quả tốt hơn. + Phân tích thông tin: Khi giám định viên nhận được thông tin về tổn thất của người tham gia bảo hiểm, ngoài việc ghi nhận những thiệt hại xảy ra các giám định viên còn phải thu nhận thông tin của những người liên quan, từ đó phân tích các thông tin để đưa ra một kết quả giám định chính xác nhất. Yêu cầu đối với một giám định viên là phải hiểu biết về kỹ thuật, xã hội, kinh tế, văn hoá, tâm lý… Trong trường hợp có cơ quan công an đến giám định thiệt hại xảy ra thì giám định viên phải kết hợp với cơ quan điều tra và chủ xe để thu thập tài liệu và kết luận điều tra để xác định được phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. 2.2.2.Quy chế về giám định viên bảo hiểm: ở một số nước phát triển trên thế giới giám định viên do tổ chức bảo hiểm chỉ định và lựa chọn. ở Việt Nam giám định viên chính là các nhân viên của các Công ty Bảo hiểm đã được chuyên môn hoá. Song các giám định viên vẫn phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau: Phải công minh, cẩn thận, hiểu biết thấu đáo về đối tượng được bảo hiểm. Khi tiến hành giám định, giám định viên được lựa chọn phải độc lập về lợi ích với các bên liên quan. Giám định viên do Công ty Bảo hiểm chỉ định được uỷ nhiệm có giới hạn, sự uỷ nhiệm này không được tự tiện trao cho người khác. Giám định viên phải chịu trách nhiệm về việc ghi nhận thiệt hại, mức độ thiệt hại trong biên bản mà mình lập ra. Giám định viên có thể đồng thời được hai tổ chức bảo hiểm chỉ định. Khi có sự xung đột về quyền lợi của tổ chức đã uỷ nhiệm mình trong thời gian dài nhất, để bảo vệ cho tổ chức kia, giám định viên có thể đề nghị một giám định viên khác thay thế. Giám định viên bảo hiểm phải chịu sự giám sát của tổ chức đã uỷ nhiệm họ, do vậy giám định viên phải giải quyết công việc trong khuôn khổ được ủy nhiệm và cộng tác chặt chẽ với đại diện hay thanh tra của tổ chức đã uỷ nhiệm khi cần thiết. 2.3. Quy trình giám định bồi thường gồm các bước sau: Bước 1: Tiếp nhận và xử lý sơ bộ các thông tin về tai nạn: Trong bước này nhà bảo hiểm sẽ nhận thông tin về tai nạn từ phía khách hàng, từ những người có liên quan để kiểm tra tính xác thực của thông tin nhằm xác định sơ bộ về trách nhiệm giám định và nội dung giám định. Các thông tin về tai nạn bao gồm: - Ngày, giờ, địa điểm xảy ra tai nạn Các thông tin về xe gặp nạn : biển số xe, tên, chủ xe Số giấy chứng nhận bảo hiểm, nơi cấp bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm, loại hình bảo hiểm tham gia. Bước 2: Dự kiến phương án và chuẩn bị giám định : Các giám định viên sau khi nhận được thông tin và xử lý các thông tin sẽ lựa chọn các phương án giám định phù hợp để chuẩn bị cho quá trình tiến hành giám định. Đồng thời nhà bảo hiểm hướng dẫn giúp đỡ chủ xe thu nhập và hoàn thành hồ sơ khiếu nại. Bước 3: Tiến hành giám định: Đây là khâu quan trọng nhất nhằm xác định mức độ tổn thất của xe gặp tai nạn. Chủ xe có nghĩa vụ bảo vệ xe nhằm hạn chế thiệt hại nếu có tổn thất phát sinh thêm do các nguyên nhân khách quan, người được bảo hiểm phải thông báo chính xác, cụ thể cho Công ty Bảo hiểm biết. Việc tiến hành giám định được giám định viên t._.hoả thuận trước với người được bảo hiểm về thời gian và địa điểm giám định. Quá trình giám định phải có mặt của chủ xe, người điều khiển xe, hay người đại diện hợp pháp của họ. Việc giám định phải được lập biên bản giám định, xác định các bộ phận tổn thất, mức độ tổn thất và dự trù các phương pháp xử lý thiệt hại. Đối với những xe bị tổn thất có nhiều chi tiết cấu thành, cần tiến hành giám định và lập biên bản giám định riêng cho các bộ phận cấu thành. Đồng thời quá trình giám định phải chụp ảnh về các bộ phận tổn thất để phục vụ cho quá trình đánh giá thiệt hại, chứng minh cho tổn thất và nguyên nhân gây ra tổn thất. Chụp ảnh: Phải chụp ảnh cả tổng thể và chi tiết trong đó chụp cả biển số xe, số máy, số khung, hiện trường xảy ra tổn thất, ảnh các chi tiết gãy hỏng bên trong. ảnh chụp phải bộc lộ rõ thiệt hại. Có thể chụp ảnh những chi tiết nhằm chứng minh nguyên nhân tai nạn. Sau khi chụp ảnh cần phải đưa ảnh vào hồ sơ giám định trong đó phải ghi rõ tên người chụp, chú thích… Lập biên bản giám định: Đây là một khâu công việc quan trọng đòi hỏi tỉ mỉ, không bỏ xót, bộc lộ được thiệt hại và cũng thể hiện được mối quan hệ nhân quả và hậu quả thiệt hại. Biên bản giám định có thể được thực hiện một hay nhiều lần tuỳ mức độ phức tạp. Nội dung biên bản giám định gồm: Thời gian giám định Họ tên, chức vụ, cơ quan của người tham gia giám định. Biển số xe, số khung, số máy, nhãn hiệu, loại xe, trọng tải của xe bị tai nạn. Tên chủ xe, tên người lái xe. Các nội dung khác về tổn thất như bộ phận bị thiệt hại, mức độ, kích thước (kèm ảnh chụp liên quan). Nếu như hư hỏng nhiều bộ phận thì có thể sử dụng bản phụ lục kèm theo (mẫu sau) Bản phụ lục giám định Số TT Bộ phận hư hỏng Mức độ hư hỏng Đề xuất giám định Ghi chú Sửa Thay Sau biên bản giám định và bản phụ lục giám định, phải có chữ ký của người tham gia giám định và của giám định viên. Bước 4: Chuyển giao hồ sơ cho cán bộ bồi thường cán bộ bồi thường tiến hành bồi thường: Cán bộ bồi thường sẽ căn cứ vào hồ sơ giám định và các giấy tờ có liên quan khác như: hoá đơn, chứng từ sửa chữa xe, biên bản giấy tờ để bồi thường cho người tham gia bảo hiểm. Các cán bộ bồi thường sẽ thoả thuận thống nhất với chủ xe phương án sửa chữa thiệt hại. Các thoả thụân này về cơ bản được thoả thuận qua ba phương án sau: Phương án 1: Bồi thường trên cơ sở chi phí thiệt hại: Đây là phương án chủ yếu khắc phục thiệt hại, là cách khắc phục thiệt hại kinh tế, là cơ sở cho việc bồi thường sát với thực tế thiệt hại. Có thể khắc phục thiệt hại theo các cách sau: - Cho chủ xe tự đi sửa chữa: áp dụng trong trường hợp thiệt hại nhỏ do nguyên nhân đơn giản, để quản lý được giá các cán bộ bồi thường yêu cầu chủ xe phải báo giá hoặc có sự thoả thuận với Công ty Bảo hiểm trước khi sửa chữa thay thế. - Đấu thầu sửa chữa: áp dụng với trường hợp thiệt hại nặng, khó có khả năng đánh giá đúng được chi phí sửa chữa. Việc đấu thầu phải đảm bảo đúng tính khách quan. Những người tham gia nhận thầu phải độc lập với nhau. Trước khi đấu thầu phải xem xét các bản giá phân tích và phối hợp các yếu tố: + Phương án sửa chữa và thay thế vật tư phải hợp lý, đảm bảo chất lượng và vẫn kinh tế. + Chất lượng và khả năng nơi sửa chữa: Nơi sửa chữa là nơi có khả năng thật sự, tránh tình trạng nhận bừa gây rối trong công việc + Giá trị nhận thầu phải thấp song phải đảm bảo chất lượng sau khi sửa chữa. * Chú ý: Có nhiều trường hợp tất cả các phương án dự thầu đều giá cao, nên vẫn phải xem xét khảo giá để có quyết định đúng đắn để tránh tranh chấp. Công ty Bảo hiểm tiến hành làm việc với các bên liên quan (xưởng sửa chữa) để thoả thuận nơi sửa chữa, dự kiến sơ bộ mức độ sửa chữa và vật tư thay thế. Trong quá trình sửa chữa Công ty Bảo hiểm tham gia vào một số bước: - Kiểm tra, chuẩn hoá sơ bộ: Đây là nhiệm vụ của cán bộ kỹ thuật xưởng, Công ty Bảo hiểm chỉ theo dõi đối chiếu với biên bản giám định. Khi cần thiết mới tham gia bổ xung. - Lập hợp đồng và dự toán: Căn cứ vào dự toán hoạt động thoả thuận phân xưởng và chủ xe về giá, mức độ sửa chữa và yêu cầu xưởng sửa chữa thông báo cho Công ty Bảo hiểm để tiến hành. - Tháo, kiểm tra, phân loại chi tiết: Phải có mặt giám định mặt để chứng kiến, lập biên bản và chụp ảnh chi tiết. Đồng thời cũng thông báo cho chủ xe về hư hỏng không thuộc trách nhiệm bảo hiểm và yêu cầu chủ xe, xưởng sửa chữa khi có phát sinh trong quá trình sửa chữa phải thông báo ngay cho Công ty Bảo hiểm. - Nghiệm thu quyết toán hợp đồng: Chủ xe chịu trách nhiệm chính về nghiệm thu chất lượng và bảo hành với xưởng sửa chữa. Công ty Bảo hiểm chỉ lưu bằng văn bản để sử dụng khi có sự tranh chấp về chất lượng sửa chữa. Công ty Bảo hiểm tham gia nghiệm thu về nội dung sửa chữa và vật tư thay thế để làm cơ sở quyết toán hợp đồng. - Thu hồi đồ cũ: Nhằm tránh trục lợi bảo hiểm, nhằm quay vòng vật tư gian lận bảo hiểm, sửa chữa vật tư cũ song hưởng giá mới. Khi thu hồi vật tư ta phải chú ý vật tư phải đúng với chi tiết bị thiệt hại trong vụ tai nạn, đúng dấu hiệu riêng ghi trên tổng thành hoặc trên chi tiết. Đối với vật tư có giá trị không cao, việc thu không thuận tiện, khó có khả năng sử dụng lại để trành tình trạng trục lợi bảo hiểm thì có thể áp dụng phương pháp đối trừ. Phương án 2: Bồi thường trên cơ sở đánh giá thiệt hại: Phương án này chỉ nên vận dụng trong phạm vi hạn chế, thường đối với những thiệt hại bộ phận trên thị trường không có để thay thế. Để đánh giá thiệt hại chủ xe gặp tai nạn ở đâu cần giải quyết nhanh để giữ uy tín đối với khách hàng. Trình tự thực hiện như sau: - Chủ tài sản bị thiệt hại có ý kiến đề xuất bằng văn bản. - Dự kiến sơ bộ với chủ xe về phương án sửa chữa thiệt hại. - Dự toán sửa chữa, khảo sát giá. - Lập biên bản đánh giá thiệt hại. - Thống nhất với chủ xe mức độ đền bù và phương thức thanh toán. - Chủ xe cam kết chấm dứt đòi bồi thường sau khi nhận tiền bồi thường. - Tiến hành đề suất giải quyết bồi thường. Phương án 3: Bồi thường toàn bộ và xử lý tài sản thu hồi: áp dụng đối với trường hợp thiệt hại nặng. Bồi thường toàn bộ được tiến hành theo trình tự nhất định và chú ý: - Khi lập biên bản giám định ban đầu phải ghi rõ và chụp ảnh số máy số khung. - Tiến hành thoả thuận với chủ xe về phương án khắc phục hậu quả tai nạn. Nếu thấy khả năng phải bồi thường toàn bộ, chủ xe phải có đơn từ bỏ tài sản và yêu cầu bồi thường toàn bộ. - Thống nhất thời gian, địa điểm, thành phần giám định, mức độ giám định. - Tiến hành tháo dỡ những phần hư hỏng, lập biên bản giám định chi tiết, nếu cần thiết phải mời các giám định viên chuyên môn. - Lập hợp đồng đánh giá thiệt hại gồm chủ xe, Công ty Bảo hiểm và tuỳ từng trường hợp có thể mời các cơ quan liên quan khác. - Tiến hành khảo sát đánh giá giá trị xe trước lúc xảy ra tai nạn. Nếu cần thiết thì thành lập hội đồng đánh giá hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn. - Đề xuất giải quyết và yêu cầu chủ xe bàn giao, làm thủ tục chuyển giao tài sản cho Công ty Bảo hiểm. -Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà có thể không thu hồi đồ cũ tiến hành bồi thường có đối trừ giá trị thu hồi đồ cũ. 2.4. Công tác bồi thường a. Hồ sơ yêu cầu BH Khi tai nạn xảy ra, chủ xe phải gửi hồ sơ yêu cầu bảo hiểm cho công ty bảo hiểm, trong hồ sơ bao gồm các giấy tờ sau: -Giắy chứng nhận bảo hiểm : -Biên bản khán nghiệm hiện trường : -Tờ khai tai nạn của chủ xe ; -Bản kết luận điều tra tai nạn ; -Biên bản hoà giải (nếu trong trường hợp có hoà giải); -Quyết định của toà án (nếu có) -Các chứng từ liên quan đến thiệt hại của người thứ ba, bao gồm :Thiệt hại về con người, thiệt hại về tài sản.Các chứng từ phải hợp lệ b. Nội dung của nguyên tắc bồi thường: Nguyên tắc bồi thường là các quy định khi tiến hành bồi thường cho chủ xe của Công ty Bảo hiểm: Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế: Số tiền bảo hiểm Số tiền bồi thường = Thiệt hại thực tế * Giá trị thực tế xe Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế. Theo nguyên tắc tránh trục lợi bảo hiểm, Công ty Bảo hiểm chỉ chấp nhận số tiền bảo hiểm bằng hoặc thấp hơn giá trị thực tế của xe. Tuy nhiên, có trường hợp người tham gia bảo hiểm vô tình hoặc cố ý tham gia với số tiền lớn hơn giá trị bảo hiểm. Trong trường hợp này số tiền bồi thường chỉ bằng giá trị thiệt hại thực tế theo nguyên tắc “ Số tiền bồi thường không vượt quá thiệt hại thực tế”. Ví dụ: Xe ô tô có giá trị thực tế 220 triệu nhưng người tham gia bảo hiểm với số tiền 250 triệu khi tổn thất toàn bộ xảy ra chỉ bồi thường 220 triệu. Có những trường hợp Công ty Bảo hiểm chấp nhận số tiền bảo hiểm cao hơn giá trị thực tế. Trường hợp này được gọi là “giá trị thay thế mới”, chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao theo các chính sách, điều kiện bảo hiểm chặt chẽ Trường hợp tổn thất bộ phận: Khi tổn thất bộ phận xảy ra, chủ xe sẽ được giải quyết bồi thường theo một trong hai nguyên tắc trên. Tuy nhiên các Công ty Bảo hiểm thường giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng tỷ lệ giá trị tổng thành xe. Ví dụ: Chủ xe A tham gia bảo hiểm toàn bộ theo giá trị thực tế một chiếc xe Toyota giá trị thực tế trên thị trường Việt Nam là 300 triệu đồng. Trong thời hạn bảo hiểm xe bị tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm thiệt hại như sau: Thân vỏ: 70 triệu đồng Động cơ: 50 triệu đồng. Theo quy định của các Công ty Bảo hiểm tỷ lệ giá trị tổng thành như sau: Tỷ lệ tổng thành thân vỏ 53,5% động cơ 15,5%. Như vậy trong trường hợp này Công ty Bảo hiểm sẽ bồi thường như sau: Thân vỏ = 300 * 53% = 170 triệu đồng, lớn hơn phạm vi bảo hiểm nên sẽ bồi thường 70 triệu đồng Động cơ = 300 * 15,5% = 46,5 triệu đồng. Bồi thường 46,5 triệu đồng. Trường hợp tổn thất toàn bộ: Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi bị mất cắp, mất tích hoặc bị thiệt hại nặng đến mức không thể sửa chữa được hoặc chi phí sửa chữa phục hồi bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Nếu tổn thất toàn bộ, chủ xe sẽ được bồi thường theo giá trị ghi trong đơn bảo hiểm. Ví dụ: Chủ xe A có chiếc xe Toyota giá trị thực tế 200 triệu đồng tham gia bảo hiểm toàn bộ với số tiền bảo hiểm là 200 triệu đồng. Theo quy định của Công ty chỉ được coi là tổn thất toàn bộ ước tính khi giá trị thiệt hại bằng hoặc lớn hơn 90% giá trị thực tế xe. Trong thời hạn bảo hiểm xe bị tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, chi phí sửa chữa như sau: Thân vỏ thiệt hại 100% chi phí sửa chữa 100 triệu đồng. Động cơ thiệt hại 100% chi phí sửa chữa 40 triệu đồng. Tổng cộng thiệt hại 140 triệu đồng Giá trị thiệt hại này nhỏ hơn 90% giá trị thực tế xe (140/200=0,7) nên không được bồi thường toàn bộ ước tính mà chỉ được bồi thường bộ phận như trên. Các Công ty Bảo hiểm thường quy định khi giá trị thiệt hại so với giá trị thực tế của xe đạt tới hoặc vượt qua một tỷ lệ giới hạn nhất định nào đó thì được coi như là tổn thất toàn bộ ước tính tuy nhiên giới hạn bởi bảng tỷ lệ cấu thành xe. Ngoài những nguyên tắc như trên khi tính toán và chi trả bồi thường, các Công ty Bảo hiểm còn phải chú ý các nguyên tắc sau: Tạm ứng bồi thường phải dựa trên cơ sở sau: - Chủ xe có đơn yêu cầu - Thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm và phải ước tính giá trị thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm. Căn cứ vào đó đề xuất tạm ứng theo quy định bằng văn bản, khi xét bồi thường phải đối trừ hoặc thu hồi tạm ứng. - Những bộ phận thay thế mới thì khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị của bộ phận được thay thế ngay trước lúc xảy ra tai nạn. Nếu tổn thất xảy ra trước (hoặc sau) ngày 16 của tháng thì thời gian khấu hao sẽ không tính tháng đó (hoặc tính cả tháng đó). - Trong trường hợp thiệt hại xảy ra có liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba, Công ty Bảo hiểm bồi thường cho chủ xe và yêu cầu chủ xe bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho Công ty Bảo hiểm kèm theo toàn bộ hồ sơ và chứng từ có liên quan. Cụ thể: Xe tham gia bảo hiểm vật chất đâm va với một xe khác có tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự gây thiệt hại thì sẽ được bồi thường vật chất thân xe trước. Đối với trách nhiệm dân sự chỉ bồi thường phần chênh lệch giữa số tiền bồi thường trách nhiệm dân sự và số tiền bồi thường vật chất. - Trong trường hợp bảo hiểm trùng theo nguyên tắc số tiền bồi thường mà chủ xe nhận được không vượt quá giá trị thực tế. Thông thường các Công ty Bảo hiểm giới hạn trách nhiệm bồi thường của mình theo tỷ lệ số tiền bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận của Công ty mình so với tổng số tiền ở tất các giấy chứng nhận bảo hiểm. c. Công tác bồi thường Sau khi nhận được hồ sơ yêu cầu BH công ty bảo hiểm sẽ tiến hành giám định để xác định thiệt hại thực tế của bên thứ ba và bồi thường tổn thất. Thiệt hại của bên thứ bao gồm: -Thiệt hại về tài sản bao gồm: Tài sản bị mất. bị hư hỏng hoặc bị huỷ hoại -Thiệt hại về con người bao gồm thiệt hại về sức khoẻ và thiệt hại về tính mạng Thiệt hại về sức khoẻ bao gồm: + Các chi phí hợp lý cho công tác cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất hoặc giảm sút + chi phí hợp lý và phần thu nhập bị mất của người chăm sóc bệnh nhân (nếu có trong trường hợp theo yêu cầu của bác sĩ trong trường hợp bệnh nhân nguy kịch) + Khoản thu nhập bị mất hoặc giảm sút của người đó + Thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa mức thu nhập trước và sau khi điều trị do tai nạn cảu người thứ ba. +Thu nhập bị mất được xác định trong trường hợp bệnh nhân điều trị nội trú do hậu quả cảu tai nạn + Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần: Thiệt hại về tính mạnh của người thứ ba bao gồm: + Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc, cứu chữa người thứ ba trước khi chết + Chi phí hợp lý cho việc mai táng người thứ ba (những chi phí cho phần thủ tục sẽ không được thanh toán) + Tiền trợ cấp cho những người mà người thứ ba phải nuôi dưỡng (vợ chồng con cái… đặc biết trong trường hợp mà người thứ ba là lao động chính trong gia đình) III. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả công tác giám định bồi thường BH vật chất xe cơ giới Giám định tổn thất là việc xác định thiệt hại thực tế của đối tượng tham gia bảo hiểm khi rủi ro xảy ra. Căn cứ vào biên bản giám định công ty bảo hiểm xét bồi thường trực tiếp cho đối tượng tham gia bảo hiểm. Đây là một khâu hết sức quan trọng, nó có liên quan trực tiếp đến việc nhanh chóng khắc phục khó khăn và đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Việc giám định và bồi thường tổn thất phải đảm bảo nguyên tắc chính xác và kịp thời khách quan và trung thực Để đảm bảo nguyên tắc trên khi nhận được thông báo tổn thất, công ty bảo hiểm phải cử ngay nhân viên đến hiện trường nắm những thông tin cần thiết về nguyên nhân xẩy ra tai nạn, quy mô và mức độ tổn thất thời gian và địa điểm cũng như những chứng cứ có liên quan ….sau đó lập biên bản giám định. Để được bồi thường người tham gia bảo hiểm thông thường phải có một bộ hồ sơ bao gồm: Biên bản giám định - Giấy chứng nhận BH - Các loại giấy tờ cháng từ hoá đơn cần thiết có liên quan tuỳ theo từng nghiệp vụ BH Như vậy làm tốt công tác giám định tổn thất và bồi thường thể hiện rõ nhất chất lượng sản phẩm dịch vụ bảo hiểm. Đồng thời nó cũng là một biện pháp tuyên truyền quảng cáo hữu hiệu nhất trong hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm Để theo dõi và đánh giá được kết quả thực hiện công tác giám định và bồi thường người ta đưa ra các chỉ tiêu sau Số vụ tổn thất trong kỳ Số vụ tổn thất đã được giải quyết bồi thường trong kỳ Số vụ tổn thất còn tồn đọng chưa được giải quyết chuyển sang kỳ sau Số tiền bồi thường trong kỳ = số tiền bồi thường tại công ty BH(i) Số vụ tổn thất trong kỳ 5. Tỷ lệ tổn thất = 100 Số đối tượng tham gia BH trong kỳ Số vụ tổn thất đã được giải 6. Tỷ lệ giải quyết quyết bồi thường trong kỳ bồi thường = 100 Số vụ tổn thất trong kỳ Số vụ tổn thất còn tồn đọng Chưa giải quyết trong kỳ 7. Tỷ lệ tồn đọng = 100 Số vụ tổn thất trong kỳ Số tiền bồi thường 8. Số tiền bồi thường thực tế trong kỳ bình quân mỗi vụ = 100 tổn thất Số vụ tổn thất đã được giải quyết bồi thường trong kỳ Số tiền chi thực tế 9. Tỷ lệ chi trong kỳ bồi thường = 100 Tổng chi trong kỳ Số tiền bồi thường 10. Tỷ lệ bồi thường = 100 Doanh thu nghiệp vụ BH trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới Chương II: Thực trạng Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex I.Vài nét về Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex 1. Lịch sử hình thành và phát triển. Đến thời điểm 2005, ngành bảo hiểm Việt Nam đã có gần 40 năm phát triển. Nhưng trước năm 1994, ở Việt Nam vẫn là một thị trường bảo hiểm độc quyền, mới chỉ có duy nhất một doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ là Bảo Việt.Do đó thị trường bảo hiểm Việt Nam ở trong tình trạng nhiều người mua nhưng chỉ có một người bán. Điều này ngày càng không phù hợp khi mà toàn cầu hoá và khu vực hoá đang dần trở thành một xu thế chủ yếu của các quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại, trong đó Việt Nam là một trong số những quốc gia có nền kinh tế chậm phát triển phải nỗ lực hội nhập nếu không muốn bị gạt ra khỏi lề của sự phát triển. Hơn thế nữa sau gần 10 năm đổi mới (kể từ năm 1986), Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu bước đầu khả quan, nhiều công trình xây dựng, cơ sở hạ tầng được xây dựng, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện khiến cho nhu cầu bảo hiểm ngày càng nâng cao. Điều này đòi hỏi thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng phải có sự chuyển biến đột phá. Trước nhu cầu đổi mới đó, ngày 18 tháng 12 năm 1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, qua đó cho phép các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau và các nhà đầu tư nước ngoài (nếu đủ điều kiện) được phép thành lập công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, mở Công ty của các công ty bảo hiểm nước ngoài ở Việt Nam, đánh một dấu mốc quan trọng cho sự hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam với sự đa dạng hoá về lĩnh vực hoạt động và hình thức sở hữu. Chỉ một năm sau ngày Nghị định 100/CP được ban hành, các công ty bảo hiểm đã lần lượt ra đời, trong đó có công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex, đánh dấu một bước đi đầu tiên của Việt Nam trong lộ trình hoà nhập hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong khu vực và trên thế giới. Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (viết tắt là PJICO) là công ty cổ phần đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm được thành lập tại Việt Nam, do người đề xướng và chủ trì dự án là Tổng công ty xăng dầu Việt Nam Petrolimex. Ngay từ năm 1994, sau khi tiếp cận chủ trương chính sách đổi mới phát triển kinh tế của Nhà nước, Tổng công ty xăng dầu Petrolimex đã tiến hành tiếp xúc với một số công ty tham gia góp vốn cổ phần để lập nên một công ty bảo hiểm phi nhân thọ. Và sau gần một năm thai nghén, Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex đã ra đời trong sự chào đón nồng nhiệt của khách hàng trong nước và bạn bè quốc tế. Ngày 27/05/1995, Công ty đã được Bộ Tài Chính cấp giấy chứng nhận số 06-TC/GCN công nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm. Ngày 08/06/1995, Công ty được UBND thành phố cấp giấy phép thành lập số 183/GP-UB và ngày 15/06/1995, Uỷ ban kế hoạch (nay là Sở Kế hoạch - đầu tư) cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: Tên gọi đầy đủ : Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex Tên giao dịch quốc tế : Petrolimex Join-stock Insurance Company Tên viết tắt : PJICO Hình thức hoạt động : Công ty cổ phần Vốn điều lệ khi thành lập : 55 tỷ đồng (VND) Thời gian hoạt động : 25 năm Ngành nghề kinh doanh : Kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ Trụ sở chính của công ty : + Trước 15/01/2000: tại số 1 Khâm Thiên - Đống Đa - + Sau 15/01/2000: tại 22 Láng Hạ - Đống Đa - + Sau 01/04/2003: tại 105 Láng Hạ - Đống Đa - + Sau 01/04/2004: tại 22 Láng Hạ - Đống Đa - Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex được thành lập bởi 7 cổ đông sáng lập là Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam, Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ, Công ty điện tử , Công ty Thiết bị An toàn và 1.251 cổ đông thể nhân. Cơ cấu vốn đăng ký ban đầu của các cổ đông TT Đơn vị Vốn góp (Triệu đồng) Tỷ trọng (%) Số cổ phiếu 1 Tcty Xăng dầu Việt Nam (PETROLIMEX) 28.050 51 14.025 2 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VIETCOMBANK) 5.500 10 2.750 3 Cty TBH Quốc gia Việt Nam (VINARE) 4.400 8 2.200 4 Tcty Thép Việt Nam (VSC) 3.300 6 1.650 5 Cty vật tư thiết bị toàn bộ (MATEXIM) 1.650 3 825 6 Cty Điện tử (HANEL) 1.100 2 550 7 Công ty thiết bị an toàn (A-T) 275 0,5 138 8 Thể nhân 10.275 19,5 5.362 Tổng cộng 55.000 100 27.500 Mệnh giá mỗi cổ phiếu khi phát hành ban đầu là 2.000.000 đồng/cp. Bảy cổ đông sáng lập trên đều là các doanh nghiệp nhà nước, với số vốn góp chiếm 80,5% tổng số vốn góp khi thành lập, trong đó TCT Xăng dầu Việt Nam là cổ đông có vốn góp cao nhất (51%). Số còn lại là của các cá thể và phần lớn là của cán bộ công nhân viên của các cổ đông sáng lập. Xuất phát từ nhu cầu sử dụng vốn trong thực tế, khi thành lập Công ty chỉ huy động 31,2 tỷ đồng vốn cổ phần, đảm bảo cao hơn vốn pháp định quy định trong nghị định 100/C P ngày 18/03/1994. Đến ngày 15/04/2004, PJICO đã tăng mức vốn điều lệ của mình lên 70 tỷ đồng (theo giấy phép số 06/GPDC-12/KDBH), đáp ứng đúng yêu cầu về mức vốn pháp định và thời gian điều chỉnh vốn được quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực ngày 01/04/2001. Kể từ đây, PJICO bắt đầu bước sang một thời kỳ mới trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Có thể nói, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO) ra đời là phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành bảo hiểm nói riêng. Sự ra đời của PJICO và một loạt các công ty bảo hiểm khác đã phá vỡ tính độc quyền trong kinh doanh bảo hiểm, trả lại cho khách hàng những ưu đãi và quyền lợi chính đáng mà họ được hưởng trong nền kinh tế thị trường kể cả về về phương diện tài chính (phí bảo hiểm giảm) cũng như chính sách chăm sóc khách hàng thường xuyên, phục vụ tận tình chu đáo khi có tổn thất xảy ra. Khách hàng đã có thêm nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm và người cung cấp dịch vụ phù hợp cho mình. 2. Nguyên tắc và mục đích hoạt động kinh doanh của PJICO. 2.1. Nguyên tắc hoạt động của công ty PJICO. Đảm bảo chi trả đúng mức trách nhiệm. Đảm bảo, tạo điều kiện chi trả, thanh toán nhanh nhất cho khách hàng, tránh các thủ tục phiền hà gây mệt mỏi đối với khách hàng, làm giảm/mất uy tín của công ty. Căn cứ vào các số liệu thống kê, nhu cầu dự đoán, thời hạn bảo hiểm để tiến hành kế hoạch khai thác cụ thể tới từng đơn vị theo từng nghiệp vụ. Bên cạnh đó, không ngừng nghiên cứu, phát triển sản phẩm để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của đông đảo khách hàng. Mở rộng khai thác có hiệu quả các đơn vị khác trong điều kiện kinh tế thị trường bảo hiểm có sự cạnh tranh. Để có thể thực hiện được cam kết của mình đối với khách hàng, các nhà quản lý của công ty đã vạch ra tư tưởng phát triển chiến lược: Coi khách hàng là trung tâm của mọi hoạt động. Không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng toàn diện công tác dịch vụ khách hàng và tổ chức quản lý. 2.2. Mục đích kinh doanh của công ty PJICO. Kinh doanh có hiệu quả, đáp ứng kỳ vọng về lợi tức của cổ đông. Đáp ứng các nhu cầu bảo hiểm ngày càng đa dạng ngày càng tăng cảu nền kinh tế - xã hội trong cơ chế thị trường và trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tăng cường khả năng bảo hiểm, đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm trong nước, hạn chế việc chuyển phí bảo hiểm ra nước ngoài. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, liên doanh liên kết với các công ty nước ngoài. Phấn đấu trở thành một tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính phi ngân hàng hoạt động thành công dưới mô hình cổ phần. Phòng ngừa, chia sẻ rủi ro với các công ty, xí nghiệp, tập thể và cá nhân, góp phần ổn định kinh doanh, bảo toàn vốn, ổn định đời sống cho người tham gia bảo hiểm và tích cực đóng góp vào ngân sách Nhà nước. 3. Tổ chức và nhân sự 3.1. Cơ cấu tổ chức Công ty PJICO tổ chức và hoạt động theo mô hình của công ty cổ phần, dưới sự sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp 12/6/1999. Bộ máy quản lý của công ty gồm có Hội đồng Quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty. Dưới Hội đồng quản trị là ban Giám đốc gồm Tổng Giám đốc và 2 Phó Tổng Giám đốc. Tổng Giám đốc do Hội đồng quản trị bổ nhiệm, là người điều hành hoạt động của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao. Các Phó Tổng Giám đốc có trách nhiệm giúp đỡ Tổng Giám đốc điều hành, quản lý Công ty. Dưới Ban giám đốc có các phòng ban chức năng có vai trò trực tiếp quản lý nghiệp vụ và thực hiện chức năng kinh doanh. 3.2 .Cơ cấu nhân sự Số lượng cán bộ công nhân viên đang công tác tại công ty là trên 750 người. Đi bộ phận là các cán bộ trẻ, nhiệt tình, năng động, tận tâm với công việc và có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên. Các phòng ban tại công ty đều được trang bị đầy đủ máy vi tính nhằm thực hiện vi tính hoá trong công ty tạo điều kiện tốt nhất để phục vụ nhanh chóng cho khách hàng. Đội ngũ nhân viên phần lớn cũng được đào tạo qua các lớp tin học cơ bản. Hàng năm công ty mở các khoá học ngắn hạn để đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ cũng như trang bị thêm kiến thức ngoại ngữ, tin học cho công nhân viên chức hoạt động trong công ty. Về đời sống của cán bộ công nhân viên: thu nhập bình quân vào khoảng trên 2.500.000 đồng. Ngoài ra còn có các khoản tiền thưởng, và công ty cũng tổ chức những buổi tham quan du lịch để tạo ra sự thoải mái trong hoạt động của nhân viên để góp phần khích lệ tinh thần cũng như sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong công ty. Có thể nói với sự trẻ hoá đội ngũ nhân viên trong công ty kết hợp với sự quan tâm của toàn thể ban lãnh đạo công ty đến đời sống công nhân viên nên có thể nói chất lượng lao động của công ty được đánh giá là khá tốt. Do vậy khi khách hàng đến giao dịch đều nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình, lịch sự, chu đáo của nhân viên trong công ty, luôn kịp thời đáp ứng mọi nhu cầu khúc mắc của khách hàng cũng như nhanh chóng chia sẻ gánh nặng về tài chính cho khách hàng khi rủi ro có thể xảy ra. 4. Mục tiêu và phương hướng phát triển trong thời gian tới Công ty bảo hiểm PJICO là công ty chuyên kinh doanh mảng bảo hiểm phi nhân thọ. Những năm qua công ty đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để hoàn thành tốt kế hoạch, nhiệm vụ được giao trong một bối cảnh cạnh tranh hết sức gay gắt.Năm 2005 và cũng như trong thời gian tới đây cùng với sự phát triển nền kinh tế, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng gay gắt, sự tham gia của nhiều công ty bảo hiểm trong và ngoài nước trong thời gian tới, cũng như sự lớn mạnh của nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm, công ty sẽ phải đối mặt với nhiều thử thách và khó khăn mới. Để luôn giữ vững được uy tín trên thị trường, phát huy hơn nữa những thành tích đạt được trong thời gian qua, Công ty đã vạch ra những mục tiêu và định hướng phát triển của mình, bao gồm những nội dung sau: Từ thực tế kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh trong những năm trước, năm 2005 PJICO quyết tâm gắn liền tăng trưởng với hiệu quả đối với từng nghiệp vụ. Khâu khai thác sẽ đựơc quản lý thắt chặt hơn. Năm nay, PJICO đặt kế hoạch doanh thu là 825 tỷ, đạt mức tăng trưởng 40% so với năm 2004. Mức tăng trưởng này tuy có giảm so với các năm trước nhưng vẫn cao gấp đôi so mức tăng trưởng chung của thị trường. Với một số nghiệp vụ như bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm xe cơ giới,... tiếp tục duy trì vị trí thứ 2 về thị phần, song song với việc nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ giám định bồi thường, tập trung cho định hướng khách hàng và nâng cao giá trị gia tăng. Tiếp tục khẳng định thương hiệu PJICO là một trong những thương hiệu mạnh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, giữ vững vị trí top 3 doanh nghiệp bảo hiểm hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ Hoàn thiện nâng cao tính ưu việt của các sản phẩm hiện công ty đang triển khai. Đồng thời tìm kiếm, phát triển các sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.. Định hướng phát triển của công ty vẫn là chú trọng vào 4 nghiệp vụ chính là bảo hiểm ký thuật và tài sản, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, bảo hiểm hàng hải. Chủ trương của Công ty là trong năm nay tiếp tục hoàn thành việc phát triển mạng lưới kinh doanh trong toàn quốc để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường trong nước, chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập mở cửa thị trường bảo hiểm; giữ vững các khách hàng lớn, khách hàng truyền thống; tiếp tục mở rộng hệ thống đại lý và các kênh bán hàng khác. Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên trong các Công ty, nâng cao khả năng nắm bắt và xử lý thông tin, đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. II. Thực trạng Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Pjico 1. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1.1. Tình hình chung các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới: Các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới được triển khai sớm nhất tại Công ty Pjico , nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của người dân. Tuy nhiên trong quá trình triển khai nghiệp vụ vẫn gặp phải một số khó khăn nhất định: Kinh nghiệm quản lý chưa cao, chủ yếu các bước triển khai nghiệp vụ được áp dụng theo các nước có thị trường bảo hiểm phát triển mà ít có sự thay đổi cho phù hợp với thị trường bảo hiểm Việt Nam. Mạng lưới đại lý còn yếu cả về chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn, chỉ hoạt động tập trung vào một số khu vực chính, chưa mở rộng ra toàn địa bàn , hiệu quả hoạt động thấp. Sau quá trình triển khai nghiệp vụ đã cho thấy những bất cập trong chuyên môn nghiệp vụ đòi hỏi các nhà kinh doanh bảo hiểm cũng như các nhà hoạch định chính sách cần phải có những biện pháp nhằm đưa thị trường bảo hiểm phát triển đúng với tiềm năng của nó. Các Nghị định của Chính Phủ được ban hành nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong việc kinh doanh bảo hiểm và bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Pjico đã không ngừng hoàn thiện mình để._. tình cảnh khó khăn với khách hàng mỗi khi không may gặp tai nạn, rủi ro. Trong 10 năm qua, PJICO đã giải quyết kịp thời và thoả đáng hàng nghìn vụ tổn thất với tổng giá trị hàng trăm tỷ đồng như: bồi thường vụ cháy Kho xăng dầu K131 ngày 26/6/1997 với số tiền trên 21 tỷ đồng, vụ cháy Xí nghiệp May xuất khẩu Bình Thạnh (5,4 tỷ đồng), vụ đắm 11.000 tấn phân Urê của Vegecam Hải Phòng (1,4 triệu USD), vụ tổn thất 11 cầu trên quốc lộ 1A, vụ tổn thất cầu đường sắt Đà Rằng - Sông Cái, cầu đường sắt Bắc-Nam, cầu Đuống, các vụ tổn thất hậu quả của cơn bão số 5 tại đồng bằng sông Cửu Long và trận lũ lụt thế kỷ miền Trung cuối năm 1999, vụ đâm va giữa 2 tàu dầu Petrolimex 01 và tàu Fomosa tại Vũng Tàu tổn thất khoảng 1,6 triệu USD... Để phân tán rủi ro và đảm bảo an toàn tài chính tuyệt đối cho các dịch vụ bảo hiểm của mình, Công ty PJICO đã thiết lập mối quan hệ hợp tác quốc tế với hàng chục công ty tái bảo hiểm hàng đầu trên thế giới như Munich Re (Đức), Swiss Re, Hanover Re, Lloyd’s, Harfort Re... Xác định kinh doanh bảo hiểm là một loại hình dịch vụ đặc biệt chưa phổ biến của Việt Nam nên PJICO ngoài chức năng kinh doanh bảo hiểm còn là nhà đầu tư tài chính hàng đầu. Trong những năm qua, doanh thu từ hoạt động đầu tư của PJICO không ngừng tăng cao. Với hình thức hoạt động là một công ty cổ phần với hàng ngàn cổ đông trên khắp cả nước và một tiềm lực tài chính hùng mạnh, Công ty PJICO đang chuẩn bị kế hoạch tham gia thị trường chứng khoán trong thời gian tới. Với những thành tích đã đạt được, Công ty đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng huân chương lao động hạng ba sau đúng 5 năm ngày thành lập (15/6/1995 – 15/6/2000). Nhiều cá nhân và đơn vị trong công ty đã được tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua toàn quốc, bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Đặc biệt năm 2004, công ty PJICO đã đại diện cho lĩnh vực bảo hiểm nhận danh hiệu “Thương hiệu mạnh năm 2004”. Đây là danh hiệu thứ 3 liên tiếp mà PJICO đã nhận được trong 2 năm 2003 - 2004 (Giải thưởng Sao Đỏ năm 2003 và giải thưởng Sao Vàng Đất Việt năm 2004). b. Những mặt còn hạn chế. Tuy kết quả kinh doanh nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới trong thời gian qua đã đi vào ổn định và đạt hiệu quả kinh doanh khá tốt, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của nó và qua thực tế vẫn còn nhiều khó khăn, nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Về phía khách quan: - Trong năm 2005 nghiệp vụ này có chậm phát triển hơn so với năm 2004 mà đặc biệt là năm 2003 với mức tăng khá cao là 78,63% dự báo trong năm 2006 khó khăn này còn tăng nên nguyên nhân chủ yếu là do các yếu tố bên ngoài tác động và đó là hậu quả của giá xăng dầu tăng cao, và lạm phát cũng ở mức cao . Công ty gặp khó khăn, trong đó đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ, dẫn đến phải giảm quy mô hoạt động, khả năng tài chính cũng vì thế mà giảm sút - Thêm nữa, về phía khách hàng, do nhận thức về bảo hiểm còn rất sơ sài chưa ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc tham gia bảo hiểm trong đó có nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ. Khách hàng không muốn tham gia bảo hiểm do phải tốn nhiều chi phí và công sức - Tuy tiềm năng thị trường còn rất lớn song quá trình cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt hơn, không chỉ là sự cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nước mà còn cạnh tranh với các công ty bảo hiểm nước ngoài. Đến cuối năm 1999, Nhà nước ta đã cho phép các tập đoàn tài chính mạnh hàng đầu thế giới vào hoạt động bảo hiểm tại Việt Nam như: Tập đoàn Chinfon (Đài Loan), Allianz- AGF (Đức- Pháp), AIG (Mỹ), UIC (Bảo Minh- Nhật)...Hiện nay, Chính phủ còn bảo hộ các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam bằng cách chỉ cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài hoạt động bảo hiểm trong một số lĩnh vực hay một số sản phẩm bảo hiểm nhất định. Nhưng trong tương lai để thực hiện cam kết của Việt Nam đối với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới, Chính phủ sẽ xoá bỏ tất cả những giới hạn này mà đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập WTO. Do vậy với sức ép của các công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong nước ngày càng trở nên khó khăn, phức tạp bởi vì: + Các công ty bảo hiểm này đều thuộc các công ty bảo hiểm lớn và có uy tín trên thế giới. + Sự hoạt động của các công ty này chủ yếu tập chung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. + Các công ty đều mong muốn trở thành công ty đứng đầu tại Việt Nam mà trước hết là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. - Mặt khác, do cơ chế chính sách về Luật bảo hiểm còn chưa đầy đủ, sự quản lý vĩ mô về bảo hiểm còn chồng chéo, thiếu tính thống nhất. Ví dụ như trong Luật không qui định bắt buộc chủ xe phải mua bảo hiểm vật chất xe cơ mà nghiệp vụ này tham gia dưới hình thức tự nguyện Về bản thân công ty: - Khả năng tài chính còn hạn chế, công nghệ bảo hiểm còn lạc hậu so với các nước trên thế giới, trình độ cán bộ quản lý, giám định và kinh doanh bảo hiểm còn nhiều hạn chế. Do đó, phạm vi hoạt động của công ty chưa rộng khắp, chưa khai thác hết được thị trường bảo hiểm trong nước. - Mặt khác, do công ty mới được thành lập, còn non trẻ nên các cán bộ kinh doanh nghiệp vụ này còn chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa được đào tạo một cách chuyên sâu, các tài liệu liên quan đến nghiệp vụ còn ít ỏi chưa đáp ứng được thực tế. Bộ máy tổ chức chưa đủ, thiếu hoàn thiện từ văn phòng tới các chi nhánh, do thiếu cán bộ quản lý, thiếu cán bộ vững vàng về nghiệp vụ đặc biệt là khâu đánh giá rủi ro, giám định và bồi thường. - Về công tác giám định, bồi thường: + Chất lượng giám định còn chưa cao, chưa chính xác, đặc biệt tính pháp lý của nhiều hồ sơ còn chưa chặt chẽ. Một số cán bộ còn thiếu kiến thức, thậm chí là chưa biết giám định. Thậm chí còn cấu kết với khách hàng trục lợi bảo hiểm + Việc xử lý hồ sơ khiếu nại đòi bồi thường đôi khi còn chậm do phải chuyển qua nhiều khâu tốn rất nhiều thời gian, chưa đáp ứng được phương châm “Giải quyết nhanh, kịp thời, chính xác” khiến nhiều khách hàng còn kêu ca. Để giữ vững hơn nữa và mở rộng thị trường của mình hướng tới khách hàng tiềm năng thì công ty Bảo hiểm PJICO phải không ngừng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng để đáp ứng lòng mong mỏi và nhu cầu ngày càng đa dạng cuả khách hàng. Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng giám định bồi thường trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty pjico I. Các giải pháp chung: 1. Về mặt nghiệp vụ 1.1. Công tác khai thác và dịch vụ chăm sóc khách hàng: Trước sức ép cạnh tranh từ phía các Công ty Bảo hiểm khác, thị phần của toàn Công ty Pjico sẽ bị san sẻ. Vì vậy Công ty cần phải chủ động tìm kiếm thêm khách hàng cho mình. Sự an toàn trong hoạt động bảo hiểm phụ thuộc vào số phí thu được, mà số phí thu được lại phụ thuộc vào khả năng khai thác của các đại lý và các chính sách về khách hàng. Do vậy các biện pháp an toàn phải được thực hiện ngay trong chính sách khách hàng. Chính sách khách hàng tại Pjico nói chung và Công ty Pjico nói riêng được thực hiện như sau: - Thực hiện chính sách khách hàng khép kín. Song song với việc đảm bảo phục vụ khách hàng tất cả các vấn đề liên quan đến giám định bồi thường, nhân viên trong phòng có thể tư vấn cho khách hàng các quy trình hoặc kiến thức về bảo hiểm. Tránh tình trạng trả lời khách hàng không rõ ràng, khó hiểu. Cần tạo cho khách hàng suy nghĩ rằng quyền lợi của mình đã được quan tâm ở mức tối đa. Khi đó lợi ích của Công ty, Công ty sẽ gắn bó mật thiết với lợi ích của khách hàng, sự an toàn của khách hàng cũng là của Công ty của Công ty. Việc thực hiện tốt các công tác giám định bồi thường sẽ liên quan trực tiếp đến quyền lợi của khách hàng, của Công ty và Công ty. Thực hiện công tác giám định bồi thường tốt, nhanh chóng, chính xác giúp khắc phục tài chính cho khách hàng kịp thời Công ty sẽ thu hút được ngày càng đông hơn khách hàng đến với Công ty và Công ty do chất lượng phục vụ tốt. Qua đó Công ty sẽ nâng cao uy tín của mình trên thị trường bảo hiểm, tăng thêm thị phần, củng cố thương hiệu. Vì vậy, Công ty cần thận trọng hơn trong việc xử lý các công tác của các nghiệp vụ bảo hiểm. - Tổ chức các hội nghị khách hàng. Hàng năm, hàng quý Công ty có thể tổ chức hội nghị khách hàng. Đây là dịp tốt để Công ty tạo nên ấn tượng mình và Công ty đối với khách hàng. Ngoài ra còn giúp góp phần hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Với những khách hàng lớn, khách hàng truyền thống Công ty nên cung cấp cho họ những thông tin mới nhất về bảo hiểm, có những chính sách đãi ngộ phù hợp có thể là tặng quà nhân dịp lễ tết, khai trương cơ sở mới… để giữa khách hàng lại với Công ty. Với những khách hàng nhỏ Công ty sẽ giúp họ những kinh nghiệm nhằm phòng tránh và hạn chế rủi ro, tổn thất trong kinh doanh. Với những khách hàng mới Công ty cung cấp cho họ những kiến thức hướng dẫn họ thực hiện những quy trình cơ bản khi có rủi ro xảy ra. Hội nghị khách hàng sẽ là dịp Công ty và khách hàng thắt chặt mối quan hệ, để cho khách hàng bày tỏ những băn khoăn thắc mắc, những gì họ bằng lòng và không bằng lòng đối với việc phục vụ khách hàng của Công ty. Từ đó tiếp thu và sửa chữa những cái yếu, phát huy cái tốt, hoàn thành tốt hơn công tác dịch vụ khách hàng. - Phân loại khách hàng thường xuyên để có những chính sách thích hợp, khuyến khích, ưu đãi khách hàng về phí, có thể ưu tiên đối với những khách hàng lớn và khách hàng truyền thống của Công ty, Công ty có thể có những ưu tiên trong chính sách của mình. - Cơ chế thị trường với quy luật cạnh tranh khốc liệt của nó buộc các Công ty Bảo hiểm bình đẳng trong kinh doanh. Vì vậy trong giao dịch khách hàng có quyền lựa chọn cho mình Công ty Bảo hiểm tốt nhất cho họ. Điều đó đòi hỏi các Công ty Bảo hiểm phải có dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt nhất trong đó chú trọng Công tác giám định bồi thường nhằm thu hút khách hàng về với Công ty. Ngoài ra, Công ty cần phải đặt ra các kế hoạch hợp lý nhằm tìm kiếm khách hàng mới về Công ty. - Tuyên truyền phổ biến chính sách khách hàng đến tất cả các nhân viên trong Công ty, có quy trình về trách nhiệm, có sơ kết, tổng kết, có đề suất với lãnh đạo để đưa công tác khách hàng không ngừng phát triển về chất lượng phục vụ. 1.2. Công tác giám định và bồi thường Để có sự thống nhất trong quy trình giám định bồi thường bảo hiểm vật chất xe cơ giới đối với tất cả các cán bộ của Công ty, Công ty đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn công tác giám định bồi thườngvật chất xe cơ giới như: Quyết định số 138/2001/QĐ-B08BT, Quy định về quy trình bồi thường cho xe cơ giới… Các văn bản này đã cụ thể hoá các bước thực hiện của từng khâu giám định bồi thường, đơn giản hoá tối đa về mặt nội dung và ngôn ngữ sao cho phù hợp, dễ hiểu và dễ áp dụng nhất. Mặc dù vậy, đôi khi từ ngữ trong ngành cũng không phải dễ hiểu, ngay cả đối với những nhà bảo hiểm chuyên nghiệp, những thuật ngữ mang tính chuyên ngành cao càng khó hiểu đối với công chúng. Chính vì vậy trên cơ sở những nội dung cơ bản, những trình tự không thể bỏ qua, cán bộ của phòng có thể cụ thể hoá hơn nữa về các bước thực hiện, ngôn ngữ sao cho dễ hiểu nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ giám định bồi thường và cán bộ hướng dẫn khách hàng các bước từ thu nhập hồ sơ đến việc khiếu nại bồi thường. Qua quá trình làm sáng tỏ hơn về ý nghĩa của từng thuật ngữ, phòng có thể họp đưa ra ý kiến đề xuất đến Công ty về những thuật ngữ đã được đơn giản để xem xét và nếu phù hợp thì sẽ áp dụng rộng rãi đối với tất cả các Công ty của Công ty tạo nên sự thống nhất từ trên xuống dưới trong toàn Công ty. 1.3. Củng cố và phát triển hệ thống đại lý, cộng tác viên: Hệ thống đại lý, cộng tác viên của Công ty có đảm bảo thì công tác khai thác của Công ty mới có thể hoàn thành tốt được kế hoạch đề ra. Công ty và Công ty đã nhận thấy tầm quan trọng của hệ thống đại lý, cộng tác viên trong việc kinh doanh bảo hiểm nên đã không ngừng phát triển và mở rộng hệ thống đại lý, đồng thời nâng cao trình độ của các đại lý. Công ty, Công ty đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo các đại lý. Song Công ty, Công ty cần tập trung vào việc xây dựng quy trình phát triển hệ thống đại lý mới. Các đơn vị trong toàn Công ty cần phải thấy được tầm quan trọng của đại lý và thực sự quan tâm đến hoạt động của đại lý, cộng tác viên. Thực hiện tốt các quy định về quản lý tài chính đối với đại lý, công tác viên: ấn chỉ, hóa đơn, thu nộp phí… 1.4.Chương trình tái bảo hiểm: Tái bảo hiểm cũng là một công việc quan trọng trong các nghiệp vụ bảo hiểm, nếu các Công ty Bảo hiểm tính toán đúng các phương thức và tỉ lệ tái không những sẽ giúp cho Công ty tránh được phá sản khi có tổn thất quá lớn xảy ra mà còn giúp cho Công ty tăng lợi nhuận. Đối với Pjico và Công ty các chương trình Tái cũng đã được Công ty quan tâm đáng kể nhưng cũng cần phải chú ý đến một số vấn đề sau: - Tập trung hướng dẫn giúp đỡ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ kế toán, thống kê của các địa phương nắm vững nội dung của các chương trình tái, tỷ lệ nhượng tái, thu hoa hồng nhượng tái… - Thông báo kịp thời tình hình tái cho các đơn vị để làm cơ sở tính toán hiệu quả. - Tăng cường trách nhiệm của phòng tái về đòi bồi thường, hoa hồng từ tái bảo hiểm. 2. Về mặt quản lý: 2.1 Công tác đổi mới doanh nghiệp: Theo định hướng chung của toàn quốc, đến hết năm 2005, tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước (trừ Bảo Việt) đều được tiến hành cổ phần hoá. Công ty Pjico cũng đã và đang chuẩn bị cho việc cổ phần hoá này vào tháng 7/2004. Công ty cũng đã chuẩn bị được rất nhiều công việc như tái cơ cấu tổ chức, thực hiện một số phương pháp quản lý mới như khoán lương 100% theo hiệu quả kinh doanh,…Trong thời gian tới Công ty cần xúc tiến thuê tư vấn xây dựng chiến lược kinh doanh và tiếp tục tái cơ cấu tổ chức Công ty trong tình hình mới. Hoàn chỉnh dự thảo điều lệ và phương án kinh doanh khả thi của Công ty cổ phần bảo hiểm, tiếp xúc chào mời các cổ đông sáng lập. 2.2. Công tác kế hoạch thống kê: Thực hiện triệt để định hướng kinh doanh: hiệu quả là mục tiêu hàng đầu, xây dựng chỉ tiêu doanh thu thuần và khoản định mức theo chỉ tiêu này. Tăng cường kiểm tra theo dõi công tác thực hiện kế hoạch và có biện pháp trấn chỉnh kịp thời. 2.3. Công tác tài chính kế toán: - Nhanh chóng hoàn chỉnh và triển khai phần mền quản lý tài chính kế toán FAST. Xây dựng và thực hiện tốt quy trình quyết toán tài chính cho các đơn vị quyết toán nhanh các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành. - Tăng cường công tác kiểm tra quản lý tài chính, hướng dẫn chi tiêu phù hợp với sự đổi mới của Công ty. Hướng dẫn các biện pháp tiết kiệm chi phí quản lý. 2.4. Phát triển bộ máy tổ chức nhân sự : Sự thành công của việc kinh doanh bảo hiểm phụ thuộc phần lớn vào trình độ nghiệp vụ của các cán bộ trong Công ty nói chung và trong từng đơn vị nói riêng. Các cán bộ trong từng Công ty cần phải am hiểu tường tận các nghiệp vụ bảo hiểm, các điều luật liên quan và có khả năng phân tích mọi điều khảo của các bộ luật, các văn bản chuyên ngành và các văn bản liên quan nhằm phục vụ cho công việc như: phân tích cho khách hàng những thắc mắc của họ, giải quyết các yêu cầu của khách hàng đúng luật, tạo nên uy tín trong khách hàng về đội ngũ nhân viên am hiểu về nghiệp vụ và các vấn đề liên quan. Công ty cần phải phổ biến đến các nhân viên của mình mục tiêu, kế hoạch của Công ty và các biện pháp thực hiện nhằm giúp cho các nhân viên trong Công ty đó ý thức được hành vi của mình có ảnh hưởng như thế nào đến Công ty nói chung và Công ty nói riêng, để các nhân viên trong các Công ty phối hợp với nhau và phối hợp với ban giám đốc hoàn thành tốt hơn các kế hoạch và mục tiêu của Công ty. Như vậy, ngoài những giải pháp mà Công ty đang tiến hành làm thì Công ty cần phải chú trọng thêm các yếu tố sau: - Do hành lang pháp luật về bảo hiểm chưa nhiều, các điều khoản luật vẫn đang trong giai đoạn vận dụng và hoàn thiện nhằm đi đến một bộ luật thống nhất, đầy đủ. Bộ Luật Bảo hiểm quan trọng nhất hiện nay là Luật Kinh doanh Bảo hiểm tạo cơ sở cho sự phát triển của ngành bảo hiểm. Trước tình hình đó Công ty cần phải có những nhiều hơn nữa những văn bản quy định trong nội bộ về các nghiệp vụ bảo hiểm nhằm chi tiết các nghiệp vụ tạo điều kiện cho nhân viên dễ hiểu, áp dụng dễ dàng, đúng pháp luật. - Bổ xung thêm kiến thức cho nhân viên trong toàn Công ty về các lĩnh vực như: tin học, ngoại ngữ, công nghệ mới trong ngành…. Công ty cần kiểm tra định kỳ các nhân viên của mình về các kĩ năng nghiệp vụ của họ nhằm sắp xếp công việc phù hợp cho nhân viên của mình tạo năng suất và hiệu quả làm việc cao nhất. - Công ty nên tổ chức các buổi hội thảo về các vấn đề kinh tế, xã hội mà toàn xã hội và khách hàng của mình quan tâm cho các nhân viên trong Công ty để tạo thêm cho nhân viên những hiểu biết nhằm thực hiện công việc, tăng khả năng sáng tạo của các nhân viên trong quá trình làm việc. Và giải đáp các thắc mắc của khách hàng mình tốt hơn. Ngoài ra trong buổi hội thảo đó Công ty nên có những chuyên gia giỏi trong ngành bảo hiểm nhằm ngoài việc truyền đạt cho cán bộ trong Công ty những kiến thức mà còn giải đáp các thắc mắc của cán bộ trong Công ty về các vướng mắc trong nghiệp vụ. - Đánh giá thường xuyên việc thực hiện công việc của các cán bộ trong Công ty để lựa chọn ra những cá nhân ưu tú và sắp xếp vào các vị trí phù hợp trong Công ty, đồng thời với những cá nhân có trình độ kém Công ty sẽ tiến hành bồi dưỡng thêm kiến thức cho các nhân đó. Việc đánh giá này sẽ làm tăng thêm hiệu quả làm việc của Công ty vì các nhân viên của Công ty sẽ được làm những công việc phù hợp với khả năng và họ sẽ cố gắng để hoàn thành tốt hơn các công việc được giao. - Công ty nên có chế độ khen thưởng hợp lý đối với những nhân viên có thành tích tốt trong công tác, phải phê bình nghiêm khắc đối với các nhân viên vi phạm các quy chế của Công ty, của Công ty. Công ty có thể tổ chức một buổi họp khen thưởng và phê bình, điều này là rất tốt vì như thế sẽ thúc đẩy các nhân viên làm việc tốt hơn để đạt được những thành tích trong công việc và không vi phạm các quy định của Công ty. Tránh tình trạng bình quân hoá trong khen thưởng vì như vậy sẽ làm mất đi vai trò quan trọng nhất của khen thưởng là kích thích người lao động. - Công ty nên tổ chức các buổi dã ngoại thăm quan định kỳ, giúp cho các cán bộ trong Công ty có những thời gian thư giản thoải mái hơn đồng thời họ sẽ gần gũi và hiểu nhau hơn để cùng phối hợp làm việc tốt hơn. - Công ty và Công ty cần đặt ra chế độ thi tuyển nhân viên rộng rãi khắp toàn quốc nhằm thu hút người tài, có năng lực về làm việc trong Công ty và Công ty. - Công ty cần tự tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, cập nhật thường xuyên các kiến thức, thông tin cho cán bộ. Tổ chức các lớp huấn luyện nghiệp vụ cho nhân viên giúp họ theo kịp yêu cầu của công tác mới. II.Các giải pháp đối với Công tác giám định bồi thường 1. Các giải pháp đối với công tác giám định: Khi có tai nạn xảy ra, với các tai nạn xảy ra trên địa bàn , khi nhận được thông báo tai nạn phòng cần phải cử ngay cán bộ đến để giám định. Muốn cho việc thực hiện này được nhanh chóng thì cần phải tạo cho cán bộ nhân viên có tác phong làm việc nhanh chóng khẩn trương. Trong một số trường hợp đại lý, cán bộ khai thác có quan hệ hợp đồng bảo hiểm với khách hàng từ lâu, tạo cho khách hàng cảm giác quen thuộc, gắn bó, nên khách hàng thường thích làm việc với những cán bộ đó. Công ty nên đào tạo cho các cán bộ khai thác những hiểu biết tối thiểu trong công tác giám định và bồi thường. Có thể có trường hợp họ sẽ phối hợp với các giám định viên giám định khi có tổn thất xảy ra, điều này rất tốt cho Công ty vì có thể các khai thác viên là người hiểu rất rõ khách hàng của mình và đối tượng tham gia bảo hiểm, giúp cho việc giám định được thực hiện chính xác hơn. Đặc biệt trong điều kiện thị trường cạnh tranh hiện nay, việc hiểu rõ khách hàng của mình là một việc rất cần thiết và nên làm, vì từ đó có thể tạo nên uy tín của Công ty với khách hàng. Như vậy, các lớp đào tạo cho các nhân viên khai thác về công tác giám định bồi thườnglà rất cần thiết và phải được tổ chức và hàng năm, ngoài ra cần phải có các lớp đào tạo lại nhằm củng cố tăng cường kiến thức cho các nhân viên đồng thời phổ biến thêm các kiến thức mới. Như vậy, phòng cần phải kiến nghị với Công ty về phương pháp đào tạo, các chuyên gia giảng dạy… Khi tai nạn xảy ra, để trách sự ắch tắc giao thông cần phải thu hẹp hiện trường nhanh chóng, do đó cần phải giám định ngay sau khi tai nạn xảy ra và còn tránh được tình trạng chủ xe gian lận trục lợi trong bảo hiểm. Nếu tai nạn xảy ra ở xa Công ty các cán bộ trong phòng không thể đến tận nơi để giám định ngay tại thời điểm, các cán bộ giám định sẽ uỷ quyền cho các Công ty địa phương gần nhất, hay các tổ chức giám định chuyên nghiệp của các Công ty Bảo hiểm khác. Như vậy phòng cần phải có quan hệ rộng rãi với nhiều tổ chức, cá nhân giám định chuyên nghiệp. Công ty nên trang bị thêm cho các giám định viên một số trang thiết bị cần thiết như phương tiện đi lại, máy ảnh tốt, các phương tiên liên lạc như máy điện thoại di động, máy tính cá nhân…Bởi trong một số trường hợp do máy ảnh không tốt khi chụp song ảnh không nhìn rõ hoặc phim bị hỏng không rửa được…Điều này gây nên rất nhiều khó khăn cho các giám định viên và cán bộ bồi thường vì đây chính là bằng chứng cho các thiệt hại đã xảy ra. Khi giám định, các giám định viên cần hướng dẫn tỷ mỉ cho khách hàng các thủ tục cần thiết để có thể nhận được tiền bồi thường nhanh nhất, làm sao cho khách hàng hiểu và đáp ứng đầy đủ những thủ tục cần thiết. Để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ xe khắc phục những thiệt hại, xe nhanh chóng đi vào hoạt động yêu cầu đặt ra đối với công tác giám định là phải tiến hành nhanh chóng, kịp thời chính xác…có như vậy công tác bồi thường mới được thực hiện nhanh chóng, kịp thời. 2. Các giải pháp đối với công tác bồi thường: Bồi thường thể hiện chất lượng sản phẩm bảo hiểm vật chất xe cơ giới là khâu quyết định sự thành công của nghiệp vụ. Đối với khách hàng số tiền bảo hiểm càng nhiều càng tốt, còn đối với Công ty nếu số tiền bồi thường quá lớn sẽ làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của Công ty, thậm chí còn dẫn đến phá sản. Do đó vấn đề đặt ra là Công ty phải thực hiện như thế nào để vừa đảm bảo số tiền bồi thường đúng, sát với thực tế, thoả mãn được khách hàng, vừa đảm bảo thu được lợi nhuận tối đa. Phòng giám định bồi thường đã có rất nhiều cố gắng trong việc giải quyết bồi thường, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế. Sau đây là một số biện pháp nhằm giúp cho việc thực hiện công tác giám định tốt hơn: 2.1. Biện pháp tránh tồn đọng hồ sơ: - Hướng dẫn chi tiết và cụ thể từng bước trong quá trình thu thập hồ sơ, chứng từ có liên quan đến vụ tai nạn để đảm bảo giải quyết bồi thường nhanh chóng, bởi một phần các vụ tồn đọng là do không có đầy đủ giấy tờ. - Với các vụ tai nạn xảy ra ở xa địa bàn , Công ty cần kết hợp với các Công ty bảo hiểm khác của Công ty để đảm bảo việc chi trả kịp thời cho khách hàng, sau đó giữa các Công ty sẽ có sự đàm phán sau. 2.2. Biện pháp đề phòng hạn chế rủi ro tổn thất + Phối hợp với công an giao thông để tổ chức các chiến dịch phòng ngừa tai nạn giao thông thông qua hoạt động thực tiễn và thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. + Với những đoạn đường nguy hiểm có thể làm đường lánh nạn, gương cầu, các thiết bị phụ trợ khác….để hạn chế tai nạn. Thành lập thêm những trạm cấp cứu giao thông thường trực 24/24 trên các đoạn đường có nhiều nguy hiểm và có lưu lượng xe qua lại lớn. Các biện pháp này Công ty có thể phối hợp thực hiện với các Công ty Bảo hiểm khác và các đơn vị có thẩm quyền nhằm giảm chi phí. + Trường hợp thiệt hại xảy ra thì cần phải tìm mọi cách hạn chế tổn thất xảy ra như: khaonh vùng tai nạn, cử người trông coi… + Thực hiện các cuộc nghiên cứu, điều tra về nguyên nhân tai nạn mức độ thiệt hại trong từng trường hợp sau đó có tư vấn cho khách hàng lý do tai nạn có liên quan đến xe của họ và làm thế nào để tổ chức có hệ thống lái xe an toàn. Phát hành những cuốn sách về các luật lệ giao thông, các cách thức lái xe an toàn, các cách bảo vệ, phòng tránh khỏi những rủi ro…. + áp dụng hệ thống ước tính chi phí sửa chữa bằng máy vi tính để giải quyết bồi thường hiệu quả và hợp lý hơn, kiến nghị với Công ty trang bị thêm cho phòng những hệ thống xử lý dữ liệu cần thiết. Việc ước tính chi phí sửa chữa có thể được tự động tính ngay sau khi những số liệu yêu cầu được truy nhập vào máy tính. III. Một số kiến nghị Cùng với sự phát triển chung của toàn Công ty, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới ngày càng được hoàn thiện. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường nhất là thị trường bảo hiểm đang ngày càng phát triển và cạnh tranh gay gắt, tất yếu Công ty phải không ngừng tìm ra các phương pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế, phát huy những mặt mạnh để thích ứng với với điều kiện thực tế của nền kinh tế thị trường đang ngày một biến động. 1. Kiến nghị đối với Nhà nước và các Bộ ngành có liên quan: Nhà nước cần hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, để luật bảo hiểm trở thành công cụ chính trong việc quản lý thị trường bảo hiểm hiện nay. Chúng ta cần phải hỏi ý kiến của các chuyên gia luật trong và ngoài nước trong lĩnh vực bảo hiểm, đồng thời tham khảo các bộ luật bảo hiểm của các nước khác nhằm lựa chọn và áp dụng sao cho phù hợp với thị trường và xã hội Việt Nam. Đây là một vấn đề thiết thực phản ánh tính khoa học biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, là sự cần thiết đối với các cơ quan chức năng liên quan, đồng thời với việc ban hành và hoàn thiện luật bảo hiểm thì các văn bản pháp quy của Chính phủ về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm xe cơ giới nói riêng cần tiếp tục hoàn thiện bổ xung cho phù hợp với thực tiễn của sự phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể. Bộ Tài chính và các cơ quan chức năng phải có hướng triển khai triệt để ngăn chặn khiếu nại, gian lận bảo hiểm ở nước ta. Bộ Tài chính cần có một ban thanh tra độc lập trực thuộc Vụ Bảo hiểm phối hợp với các ban ngành khác để ngăn chặn hành vi tiêu cực của các cơ quan thực hiện pháp luật như: Công an giao thông, viện kiểm soát,… để đảm bảo quyền lợi của các đơn vị cá nhân trong hoạt động bảo hiểm. Ban thanh tra còn có thể hỗ trợ giúp các Công ty Bảo hiểm trong những vụ gian lận, trục lợi có thiệt hại lớn, tính chất mức độ phạm pháp nguy hiểm có tính tổ chức. Tổ chức những lớp tập huấn ngắn hạn, dài hạn, hợp tác cùng các nước phát triển để nâng cao trình độ, khả năng của thanh tra viên, giám định viên cũng như truyền đạt các thông tin nhanh chóng trong các Công ty trên phạm vi toàn quốc. Bộ Tài chính cần có các văn bản yêu cầu sự giúp đỡ của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ trong việc phối hợp với cơ quan bảo hiểm để hạn chế việc gian lận bảo hiểm, hay cần có biện pháp để kiểm tra xử lý đối với trường hợp xe tham gia giao thông không mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. 2. Đối với Công ty pjico - Cần thường xuyên củng cố và nâng cao kiến thức chuyên môn cho cán bộ giám định, bồi thường. Tuyên truyền và nâng cao ý thức của người làm bảo hiểm tránh những sai sót từ phía cán bộ giám định bồi thường. - Phối hợp chặt chẽ với các Công ty Bảo hiểm khác, các cơ quan chức năng đặc biệt là các cơ quan thực hiện pháp luật trong công tác đấu tranh phòng chống trục lợi, gian lận trong bảo hiểm. Yêu cầu cơ quan pháp luật có các biện pháp trừng phạt nghiêm minh với đối tượng gian lận để làm gương. - Trang bị thêm các phương tiện máy ảnh, điện thoại di động, máy vi tính, phương tiện đi lại như xe máy, ô tô… phương tiện phục vụ công tác giám định bồi thường nhanh chóng chính xác. - Có chế độ khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh đối với người hoàn thành tốt nhiệm vụ, mà đặc biệt là hiện tượng trục lợi bảo hiểm - Tăng cường công tác tuyên truyền, giải thích cho khách hàng về bảo hiểm nói chung và trình tự giám định bồi thường nói riêng để có thể giải quyết nhanh nhất khi có sự cố xảy ra, tránh trường hợp vì thiếu hiểu biết dẫn đến sai lầm đáng tiếc. - Tổ chức hội nghị tổng kết Công tác giám định bồi thường trong toàn Công ty nhằm điểm ra những mặt tích cực và những mặt yếu để rút kinh nghiệm cho những năm sau. - Đối với hiện tượng gian lận cần có những quy định về xử phạt. Hàng năm có thể tổ chức hội nghị công tác phòng chống gian lận trên toàn quốc. Kết luận Công tác giám định bồi thường là một công việc quan trọng trong một nghiệp vụ, có làm tốt công tác giám định bồi thường Công ty mới giữ được chữ tín của mình với khách hàng và có thêm được nhiều hơn những khách hàng mới. Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex là một Công ty Bảo hiểm có tên tuổi trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, và được coi là một trong số ít các Công ty có chất lượng phục vụ tốt nhất. Trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới Công ty Pjico luôn luôn cố gắng phấn đấu nâng cao trình độ nghiệp vụ để ngày càng hoàn thiện hơn sản phẩm của mình. Tuy nhiên, ngành bảo hiểm vẫn còn là một ngành nghề khá non trẻ trên thị trường nước ta hiện nay. Chúng ta vẫn đang liên tục nghiên cứu, học tập và tiếp thu những kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong lĩnh vực này. Được sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các cán bộ công ty bảo hiểm pjico,và sự giúp đỡ tận tình của cô giáo: TH.S Nguyễn Hải Đường, Với đề tài:“ Công tác giám định bồi thường trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex” Do thời gian có hạn, trình độ và kiến thức còn hạn chế nên trong bài không thể không tránh khỏi những sai sót, vì vậy em rất mong ý kiến đóng góp giúp cho khoá luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm - Đại học Kinh Tế Quốc Dân 2. Giáo trình kinh tế bảo hiểm - Đại học Tài chính Kế Toán 3. Giáo trình Quản trị Kinh Doanh Bảo hiểm - Đại học Kinh Tế Quốc Dân 4. Giáo trình Thống kê Bảo Hiểm - Đại học Kinh Tế Quốc Dân 5. Quy tắc Bảo hiểm vật chất xe cơ giới – Công ty Pjico 6. Quy tắc giám định bồi thường trong Bảo hiểm xe cơ giới – Công ty Pjico 7. Báo Cáo Kết quả kinh doanh của Công ty Pjico 8. Luật Kinh Doanh bảo hiểm - Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia 9. Số liệu từ các Phòng trong Công ty Pjico 10. Tạp chí Giao thông Vận tải MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32254.doc