Dân số và sự tác động của nó tới thị trường lao động ở Việt Nam

Lời nói đầu Trước đây người ta thường nghiên cứu lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực dân số riêng biệt. Nhưng vài thập niên gần đây chúng ta lại thấy chúng có quan hệ với nhau. Dân số có tác động rất lớn đối với sự phát triển đất nước và ngược lại, từ đó người ta lại nghiên cứu vấn đề dân số và phát triển nằm trong một tổng thể chung. Từ năm 1986, gắn liền với Đại hội VI của Đảng. Nhà nước ta đã chuyển nền kinh tế từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường và cũng bắt đầu từ đây thị tr

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Dân số và sự tác động của nó tới thị trường lao động ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường lao động bắt đầu ra đời. Tuy mới ra đời nhưng người ta lại thấy tầm quan trọng của nó cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia, mà muốn hiểu được thị trường lao động thì chúng ta phải lồng ghép nó vào vấn đề dân số vì dân số quyết định tới người lao động. Nước ta hiện tại nền kinh tế vẫn còn đang thấp kém so với khu vực và trên thế giới. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy sự phát triển kinh tế xã hội phụ thuộc rất lớn vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên nguồn vốn và tiến bộ khoa học, kỹ thuật, trong đó nguồn lao động có ý nghĩa quan trọng và quyết định. Nhân tố con người là nhân tố hàng đầu. Để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo lạc hậu, sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới thì chúng ta phải phát huy mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người, nguồn lao động đóng vai trò quan trọng và quyết định mà nguồn lao động lại nằm trong bộ phận của dân số, nguồn lao động là một bộ phận của thị trường lao động. Cho nên em chọn đề tài này. Đây là một đề tài rộng lớn mang tầm chiến lược của Đảng của Nhà nước vì thế khi thực hiện đề tài này em không tránh khỏi những sai lầm do tầm hiểu biết và ít khi viết một đề tài rộng lớn như thế này. Em mong thầy bỏ quan và góp ý giúp em để lần sau em viết tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I- Một số vấn đề cơ bản về dân số và thị trường lao động I- Các vấn đề về dân số 1. Khái niệm về dân số. Có nhiều quan điểm khác nhau định nghĩa về dân số, dưới đây là hai khái niệm chính: a. Theo giáo trình dân số học của NXB Thống kê Hà Nội năm 1995. Dân số là tập hợp người sinh sống trong một vùng lãnh thổ nhất định, đây là một trong những định nghĩa rộng rãi. b. Theo Giáo trình Dân số và phát triển của NXB Nông nghiệp, khi đưa ra khái niệm về dân số, trước hết lại đưa ra những khái niệm: thế nào là một dân cư hay cư dân của một vùng, cùng với qui mô của nó; vấn đề đưa ra nữa là dân số được nghiên cứu ở trạng thái tĩnh và trạng thái động và những thành phần gây nên sự biến động ấy. 2. Quy mô và cơ cấu dân số. Nói đến dân số thì người ta phải nói tới qui mô và cơ cấu của nó từ đó mới hiểu và đem so sánh được dân số giữa các nước khác nhau, các vùng khác nhau, vì vậy để hiểu biết được dân số thì phải nghiên cứu qui mô và cơ cấu dân số đó. Sau đây là một số khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng tới qui mô và cơ cấu dân số. 2.1. Qui mô dân số. Tức là tổng số dân. ở đây, mỗi con người không phân biệt già trẻ, nam, nữ đều là một đơn vị nghiên cứu. 2.2. Cơ cấu dân số. Tuy tất cả các thành viên của một dân cư đều có đặc điểm chung là họ sống trên một lãnh thổ nhưng họ thường khác nhau về giới tính và độ tuổi. Vì vậy để hiểu biết hơn về tổng dân cư nếu chia nó thành nhóm nam và nữ hoặc khác nhau về độ tuổi, tức là nghiên cứu vấn đề cơ cấu dân số. Qui mô, cơ cấu dân số trên một lãnh thổ không ngừng biến động do có người được sinh ra, có người chết đi, có người di cư đến và có người di cư đi. Vì vậy mức sinh, mức chết. Di cư là yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới qui mô và cơ cấu dân số. 3. Dân số hoạt động kinh tế. Thông thường người ta phân chia toàn bộ dân số thành hai khối lớn theo dạng hoạt động của chúng: Khối những người tích cực đối với các hoạt động kinh tế và khối những người không tích cực đối với hoạt động kinh tế. Theo như khuyến nghị của liên hợp quốc thì hai khối này phân biệt như sau: "Dân số hoạt động kinh tế bao gồm những người không phân biệt giới tính, có thể cung cấp sức lao động cho các hoạt động sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ trong khoảng thời gian lựa chọn đối với cuộc điều tra". Dân số hoạt động kinh tế bao gồm những người đang có việc làm và những người thất nghiệp trong khoảng thời gian xem xét. Có thể tóm tắt qua bảng sau: Dân số thường trú Dân số trong tuổi lao động Dân số ngoài tuổi lao động Mất sức lao động Có khả năng lao động Đang làm việc thường xuyên Không làm việc thường xuyên Nguồn lao động Có việc làm (dân số hoạt động kinh tế) Không có việc làm (dân số không hoạt động kinh tế II- Các vấn đề về thị trường lao động 1. Khái niệm về thị trường lao động. Theo Adam Smith: thị trường là không gian trao đổi trong đó người mua và người bán gặp nhau trao đổi thoả thuận hàng hoá và dịch vụ nào đó. Như vậy thị trường lao động là sự trao đổi hàng hoá sức lao động. Vậy sự hình thành thị trường lao động khi sức lao động là hàng hoá. Theo Mác cần phải có hai điều kiện: Thứ nhất: Người lao động phải được tự do thân thể Thứ hai: Người lao động không có tư liệu sản xuất Trước năm 1986 do quan niệm người lao động có tư liệu sản xuất nên thị trường lao động nước ta chưa hình thành mà nó chỉ hình thành sau năm 1986 gắn với Đại hội VI của Đảng và được công nhận chính thức từ khi Bộ Luật lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 23/6/1996. 2. Khái niệm về cung lao động. Cung về lao động là tổng khối lượng sức lao động mà người ban có thể cung cấp trên thị trường trong một điều kiện mức tiền lương tiền công nhất định. Như vậy cung về lao động chính là lực lượng lao động hay dân số hoạt động kinh tế bao gồm: người trong độ tuổi lao động có việc làm và đang tìm việc làm nhưng không có việc làm còn gọi là thất nghiệp. Từ định nghĩa, ta thấy cung lao động phụ thuộc vào qui mô dân số, cơ cấu dân số, chất lượng của người lao động, phong tục tập quán và chính sách phát triển nguồn lực của nước đó. Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào thời gian làm việc của người lao động. 3. Khái niệm về cầu của thị trường lao động. Cầu lao động là nhu cầu của thị trường về sức lao động ở mỗi mức giá nhất định. Cầu về thị trường lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ phát triển kinh tế - xã hội, vốn đầu tư cơ cấu đầu tư và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, tiền lượng, năng suất lao động, trang thiết bị…. 4. Quan hệ cung - cầu lao động (SLĐ - DLĐ) Cung cầu - lao động là yếu tố tạo nên thị trường lao động. Do đó mối quan hệ cung - Cầu lao động cũng tuân theo qui luật mối quan hệ cung cầu trên thị trường. SLĐ E0 D C TL P2 P1 P0 B DLĐ TgW Q2 Q0 Q1 Tại E (P0, Q0) ở đó cung và cầu trên thị trường cân bằng ở mức lương P1 P0 xảy ra hiện tượng dư cung một lượng DQ khi đường cầu cố định nếu một yếu tố nào đó làm tăng (giảm) cung thì đường cung sẽ dịch chuyển sang phải (trái) lúc đó điểm cân bằng E0 sẽ thay đổi và ngược lại. III- Mối quan hệ giữa dân số và thị trường lao động. 1. Dân số và cung lao động. Ta thấy răng cung lao động chính là lực lượng lao động mà lực lượng lao động lại là một bộ phận của dân số khi qui mô dân số lớn thì làm cho nguồn lao động cũng lớn theo một tỷ lệ nào đó, lực lượng lao động cũng lớn. Theo thống kê năm 2000 nước ta có 78 triệu dân thì lực lượng lao động là 38.643.000 người. Như vậy qui mô dân số lớn thì cung lao động sẽ lớn. Nhưng chúng ta chỉ xét trên qui mô thì chưa đủ mà cần phải tính đến cơ cấu dân số theo độ tuổi nhóm tuổi. Nếu hai nước có qui mô giống nhau nhưng tỷ lệ nước nào có số người trong độ tuổi lao động lớn hoặc chuảan bị bước vào tỷ lệ lao động lớn thì hiện tại và tương lai thì lực lượng lao động lớn từ đó sẽ làm tăng cung lao động. Mặt khác sự phân bố dân cư không đồng đều ở các vùng cũng làm cho cung lao động giữa các vùng mất cân đối, lao động vừa thừa vừa thiếu. Hiện nay xảy ra hiện tượng di cư từ nông thôn ra thành thị mà những người di cư này đều nằm trong độ tuổi lao động và có tay nghề cao cho nên sẽ xảy ra hiện tượng cung lao động ở thành thị thì lớn, chất lượng tuy thấp nhưng cũng đa dạng. Cung lao động ở nông thôn thì rất tiềm năng nhưng chất lượng lao động lại thấp. Có thể nói, qui mô, cơ cấu và phân bổ dân số ảnh hưởng rất lớn đến qui mô, cơ cấu và phân bổ cung lao động. 2. Dân số và cầu lao động. Nhìn qua chúng ta chỉ thấy dân số ảnh hưởng và quyết định đến cung lao động nhưng khi đi phân tích kỹ thì ta cũng thấy rằng dân số cũng có mối quan hệ với cầu lao động. Thật vậy, một quốc gia mà có mức sinh cao, quy mô dân số lớn thì làm cho cầu lao động bị ảnh hưởng. Ta biết cầu lao động là nhu cầu của thị trường về lao động. Để nhu cầu lao động tăng thì phải có tích luỹ để đầu tư mở rộng sản xuất. ở nước ta do mức sinh cao qui mô dân số lớn nên ngân sách Nhà nước tuy ít nhưng phải chi cho nhiều việc dẫn đến số vốn đầu tư mở rộng sản xuất ít, mặt khác do vốn ít nên sự đầu tư chỉ vào những vùng có điều kiện thuận lợi mang lại hiệu quả kinh tế cao từ đó dẫn đến mất cân đối cầu lao động giữa các vùng. Xét về khía cạnh gia đình do con đông nên tỷ lệ phụ thuộc lớn, một người lao động phải làm nuôi nhiều người từ đó thu nhập chỉ bù đắp được tiêu dùng khó có tích luỹ, tiết kiệm để đầu tư mở rộng sản xuất điều đó làm cho cầu lao động tăng rất chậm trong khi đó cung lao động tăng nhanh. Vậy dân số cũng có mối quan hệ mật thiết chặt chẽ với cầu lao động. Chương II- Thực trạng dân số và thị trường lao động ở Việt Nam. I- Thực trạng dân số 1. Qui mô dân số. Khi nói đến dân số trước hết ta phải nói đến qui mô dân số vì nó có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng, nó làm cho ta biết được thu nhập bình quân đầu người (tổng GDP/DS), mật độ dân số, lương thực bình quân đầu người, điện - nước bình quân đầu người v.v… Thực tế nước ta là một nước đông dân qui mô dân số lớn, đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 2 trong khu vực Đông Nam á. Theo số liệu điều tra dân số ngày 1/4/1999 nước ta có 76.323.173 người, tăng 11,9 triệu so với kết quả điều tra 1/4/1989. Từ đó nó tác động tới lực lượng lao động rất lớn hiện nay lên đến 38.645.089 người. Kết quả điều tra năm 1999 cho thấy mức sinh đã giảm mạnh so với trước đây. Điều đó làm cho tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm thấp dưới 2%, tuy nhiên do qui mô lớn nên mỗi năm qui mô nước ta tăng lên khoảng 1,5 triệu dân. Nếu cứ để mức tăng là 2% mỗi năm thì đến năm 2034 dân số nước ta tăng gấp đôi so với năm 1999. ở nước ta vấn đề gia đình được đặt lên rất cao cho nên khi nghiên cứu qui mô dân số phải nêu lên được qui mô hộ gia đình vì gia đình là một tế bào xã hội là một đơn vị tiêu dùng. Nhiều hàng hoá như ti vi, xe máy… thường phải gắn với tiêu dùng qui mô hộ gia đình mà thôi. Theo số liệu điều tra 1/4/1994 nước ta có 16.669 nghìn hộ đã được đăng ký tăng 3.711 nghìn hộ so với thời điểm năm 1989. Biểu đồ 1: Số lượng và tỷ lệ tăng số hộ từ 79-99. Số lượng hộ (nghìn) Tốc độ tăng % Tỷ lệ tăng hàng năm % Tổng điều tra dân số 1979 9.665.800 - - 1/4/1989 12.958.000 34,1 3,1 1/4/1999 16.669.348 28,6 2,5 Nguồn: số liệu của TĐTDS năm 1979-1989-1999 Từ việc tìm hiểu số liệu của qui mô dân số và qui mô số hộ ta thấy số người bình quân/hộ năm 1999 là 4,6 người giảm 0,3 người so với năm 1989. Tuy nhiên, việc phân bố số hộ cũng như phân bố dân số: đông ở thành thị và ít ở nông thôn. 2. Cơ cấu dân số. Nói đến cơ cấu dân số tức là ta phải làm rõ được cơ cấu dân số theo giới tính và cơ cấu dân số theo độ tuổi. 2.1. Cơ cấu dân số theo độ tuổi. Thực tiễn của nhiều nước cho thấy sự phát triển kinh tế đất nước có quan hệ rất chặt chẽ với cơ cấu dân số theo độ tuổi. ở đây người ta thường thấy rằng nếu tỷ lệ trẻ em và người già trên người trong độ tuổi lao động càng cao thì mức độ phụ thuộc càng cao tức là một người làm việc phải nuôi thêm bao nhiều người từ đó sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Từ năm 1989 đến nay tỷ lệ phụ thuộc đã giảm đi một cách đáng kể. Đây là một lợi thế rất lớn cho sự phát triển đất nước theo thống kê tỷ số phụ thuộc của nước ta ngày càng giảm. Năm 1979 1989 1999 Dự tính 2019 Chỉ số phụ thuộc 0,95 0,86 0,7 0,457 Quá trình này người ta gọi là dư lợi dân số, hay là cơ cấu dân số vùng. Vậy chúng ta phải sử dụng cơ cấu này vì nó không kéo dài vô tận. Trong các con Rồng Châu á thì thời kỳ phát triển họ đều có dân số nằm trong cơ cấu vùng này P 1 1/3 Q1 Q0 Q2 t (thời gian) Cơ cấu dân số vùng P: Chỉ số phụ thuộc P = Số trẻ + Số già Số trọng độ tuổi lao động Bảng2: Cơ cấu dân số Việt Nam qua các cuộc điều tra 1989 - 1994: 1996 - 1999 Nhóm tuổi TĐTDS 1989 1/4/1994 1/10/1996 1/4/1999 Tổng số Trong đó Tổng số Trong đó Tổng số Trong đó Tổng số Trong đó Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ <15T 39,0 41,3 36,8 36,4 39,2 34,7 35,5 37,4 33,7 34,9 36,0 33,1 15-59 53,9 52,6 55,0 53,2 55,5 55,9 55,3 56,6 56,6 56,6 56,1 56,8 60T 7,1 6,1 8,2 8,6 7,6 9,8 8,6 7,3 9,7 8,5 7,9 10,1 Cộng 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 2.2. Cơ cấu dân số theo giới tính. Như chúng ta đã biết: tỷ lệ giới tính được sử dụng bằng số đo về cơ cấu giới tính của dân số được tính bằng số lượng nam giới trên số lượng nữ giới. ở nước ta tỷ lệ giới tính không đều ở các vùng nhưng chung qui lại tỷ lệ này nằm trong khoảng từ 95 đến 103. Nói tóm lại cơ cấu giới tính nước ta ổn định Nam/Nữ gần bằng 100 tuy nhiên trong tương lai, do chính sách dân số và quan điểm trọng nam khinh nữ thì tỷ lệ này lại mất cân đối số nam giới sẽ lớn hơn nữ giới. Sau đây là hình ảnh tháp tuổi nước ta sau hơn 10 năm 80-89 Nữ Nam 70-79 Nữ Nam 60-69 50-59 40-49 30-39 20-29 10-19 0-9 3. Sự phân bố dân số. Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu đang chuyển vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá nên có sự mất cân đối giữa dân cư của các vùng. Có vùng thì mật độ dân số rất cao, có vùng thì lại thấp, mức độ dân số ở thành thị lớn hơn rất nhiều so với nông thôn. Sau đây là bảng minh hoạ Bảng 3: Phân bố phần trăm diện tích đất đai và dân số chia theo vùng Việt Nam 1999. Vùng Diện tích (%) Dân số (%) Mật độ dân số (người/km2) Đồng bằng sông Hồng 3,8 19,4 1.180 Đông Bắc 20,3 14,2 162 Tây Bắc 10,9 2,9 62 Bắc Trung bộ 15,5 13,1 196 Nam Trung bộ 10,1 8,6 195 Tây Nguyên 13,9 4,6 67 Đông Nam Bộ 13,5 16,7 285 Đồng bằng sông Cửu Long 12,0 21,1 408 Cả nước 100 100 100 Theo tổng điều tra dân số 1/4/1999 dân số thành thị chiếm 23,7%, dân số nông thôn chiếm 76,3%. Qua phân tích tình hình dân số nước ta qua các thời kỳ ta thấy được nó có những đặc điểm sau: Một là, dân số tập trung chủ yếu ở nông thôn (80%), lao động nông nghiệp lớn. Hai là, Việt Nam có dân số trẻ Ba là, dân cư phân bố không đồng đều Bốn là, dân số phát triển ở mức độ cao. Năm là, chất lượng dân số thấp. II- Thực trạng thị trường lao động Việt Nam. 1. Về cung của thị trường lao động. Như đã nói ở phần cung lao động đây chính là lực lượng lao động, nó có phạm trù nhỏ hơn nguồn lao động là những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60 và nữ từ 15-55) có khả năng làm việc. Việt Nam là nước có nguồn lao động dồi dào, tức đông về số lượng. Năm 1998 cả nước có khoảng 45,2 triệu người trong độ tuổi lao động, so với năm 1995 tăng 3,91 triệu người. Trung bình tăng 1,3 triệu người hàng năm, trong đó số lao động có khả năng lao động cũng tăng từ 83,7% năm 1995 lên 84,4% năm 1998. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng để đánh giá mức độ đáp ứng lao động là chất lượng lao động. Như vậy sự dồi dào về lao động không đồng nhất với khả năng đáp ứng nhu cầu lao động trên thị trường. Thứ nhất, về sức khoẻ, mặc dù đã có những tiến bộ trong công tác chăm sóc sức khoẻ cho người dân nhưng do xuất phát điểm là một nước nghèo, đông dân nên phần lớn dân số nước ta chưa đảm bảo về sức khoẻ, đặc biệt là trẻ em và dân số số ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa. Thứ hai, chất lượng lao động nước ta còn thấp, thể hiện rõ qua trình độ văn hoá và cơ cấu trình độ đào tạo của lao động tham gia hoạt động kinh tế. Bảng 4: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế phân theo trình độ văn hoá (%) 1996 1997 1998 Tổng Trong đó nữ Tổng Trong đó nữ Tổng Trong đó nữ Chưa biết chữ 5,8 62,3 5,1 61,6 3,8 62,4 Chưa tốt nghiệp cấp I 20,9 56,4 20,3 55,5 18,5 56,1 Đã tốt nghiệp cấp I 27,8 49,7 28,1 49,2 29,4 15,3 Đã tốt nghiệp cấp II 32,1 48,3 32,4 48,1 32,3 48,3 Đã tốt nghiệp cấp III 13,5 44,1 14,1 44,0 16,0 44,2 Theo số liệu bảng trên, tỷ lệ người chưa biết chữ đã giảm, đó là kết quả của chương trình xoá mù chữ của năm qua. Số lao động chưa tốt nghiệp cấp I mặc dù giảm nhưng vẫn cao. Trong khi đó cơ cấu lao động theo trình độ cấp I, II, III chuyển biến chậm. Xem xét cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn còn cho thấy lực lượng lao động của nước ta không những yếu kém về trình độ chuyên môm mà cơ cấu trình độ đào tạo còn bất hợp lý. Bảng 5: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo trình độ chuyên môn (%) 1996 1997 1998 Không có chuyên môn 87,69 87,71 86,7 Trình độ sơ cấp 1,77 1,51 1,46 Công nhân kỹ thuật có bằng 2,26 2,05 2,16 Công nhân kỹ thuật không bằng 2,12 2,34 2,59 Trung học chuyên nghiệp 3,84 3,80 4,05 Cao đẳng và đại học 2,28 2,51 2,97 Trên đại học 0,03 0,05 0,08 Tổng 100 100 100 Đại bộ phận lao động nước ta không có chuyên môn nghiệp vụ, tập trung chủ yếu ở nông thôn. Từ năm 1997 tỷ lệ này lại tăng lên, ở thành thị từ 4,68 triệu năm 1996 lên 5,07 triệu người năm 1998. Tỉ lệ công nhân rất thấp, thậm chí có xu hướng giảm đối với đào tạo có bằng. Sự bất hợp lý sẽ diễn ra và đang diễn ra ra, cụ thể quy mô học sinh được đào tạo nghề năm 1997-1998 chỉ tăng 2,27 lần so với năm 1991-1992. Trong khi đó quy mô đào tạo đại học lên đến 4,38 lần. Mặt khác, chất lượng giáo dục cũng đáng lo ngại, cơ sở vật chất trường lớp lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu lao động của thị trường. Kinh nghiệm của các nước cho thấy cơ cấu giữa công nhân - trung cấp - đại học theo tỷ lệ 10; 4; 1 là hợp lý, còn nước ta thì ngược lại nên xảy ra hiện tượng đông thầy nhưng ít thợ. Cơ cấu ngành nghề đào tạo của lực lượng cũng là một yếu tố xác định cung lao động, cơ cấu này được phản ánh qua các ngành nghề đào tạo, có đáp ứng ngành nghề mà nền kinh tế cần hay không, thực tế trả lời là không. Sự bất hợp lý này ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế nước ta. 2. Về cầu của thị trường lao động. Như trên đã nói cầu lao động là nhu cầu của thị trường về sức lao động, tuy nhiên nền kinh tế nước ta còn kém phát triển nên dung lượng nền kinh tế thấp, nhu cầu về lao động không lớn vì vậy nhìn chung là thừa lao động. Số người được thu hút vào hoạt động kinh tế ở nước ta tăng lên hàng năm khoảng 1 trieuẹ người. Nhưng cơ cấu lao động phân bổ theo khu vực kinh tế thay đổi rất chậm. Từ năm 1991 đến nay (2001) lao động nông lâm ngư nghiệp vẫn giữ vị trí hàng đầu, giảm từ 73,26% xuống 61,08% tổng lao động tham gia hoạt động kinh tế. Lao động trong khu vực công nghiệp chiếm tỷ lệ thấp nhất, đạt cao nhất 13,25% năm 1995 và giảm xuống còn 12,72% năm 1998 lao động trong khu vực dịch vụ mặc dù tăng lên nhưng với tốc độ rất chậm, từ 14,3% năm 1991 lên 19,01% năm 1998. Tỷ lệ lao động trong khu vực Nhà nước có xu hướng giảm dần từ 10,5% năm 1991 xuống 8,28% năm 1998. Trong khi đó lao động ngoài khu vực quốc doanh tăng từ 89,5% lên 91,72%. Sau hơn 10 năm cải cách, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng phát triển công nghiệp và dịch vụ, tuy nhiên Việt Nam vẫn còn là một nước có nền kinh tế nông nghiệp. Lực lượng lao động ở nông thôn vẫn còn lớn, chiếm 74,8% năm 1998, mặt khác tỷ lệ sử dụng thời gian làm việc rất thấp, chỉ chiếm khoảng 71,13% năm 1998 và còn có xu hướng giảm, như vậy thất nghiệp trá hình ở nông thôn là rất lớn, lao động ở nông thôn chịu sức ép rất lớn của vấn đề gia tăng dân số, mặt khác việc chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, công nghiệp - dịch vụ còn rất thấp và chậm. Số lao động phi nông nghiệp năm 1998 chiếm 25,2% tăng 0,4% so với năm 1997 nhưng chỉ có 67% có việc làm thường xuyên, tuy nhiên những công việc phi nông nghiệp cũng chỉ là công việc thô sơ vốn ít như: gia công mỹ nghệ, tiểu thủ công… Thiếu việc làm ở nông thôn dẫn đến tình trạng di cư từ nông thôn ra thành thị, phần lớn là tìm việc làm phi chính thức. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị có xu hướng tăng lên, tỷ lệ này cao nhất rơi vào tuổi từ 15-24 và nhóm tuổi từ 25-34, số người này chủ yếu là học sinh phổ thông chưa tốt nghiệp, sinh viên ra trường muốn có việc làm nhưng không tìm thấy việc. Bên cạnh tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, năm 1998 tình trạng thiếu việc làm trong các doanh nghiệp cũng rất phổ biến, đặc biệt trong các doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp phải cho công nhân nghỉ không lương. Tóm lại, trong giai đoạn vừa qua chúng ta đã quan tâm tới giải quyết hai vấn đề cung - cầu lao động nhưng chú trọng hơn tới biện pháp giải quyết việc làm. Điều này thể hiện tính cấp bách tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động, Tuy nhiên cùng với quá trình đổi mới kinh tế, nếu có tiếp cận cách trên sẽ không đáp ứng được nhu cầu lao động cho phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn tới. Vì vậy trong giai đoạn tới, một mặt cần tạo việc làm cho người lao động đồng thời cũng nâng cao chất lượng của nguồn lao động. Qua phân tích tình hình thực trạng về thị trường lao động ở Việt Nam chúng ta thấy được chúng có những đặc điểm nổi bật sau: Một là, thị trường lao động Việt Nam ra đời muộn, hình thành manh mún, sơ khai thiếu tổ chức. Hai là, cung lao động lớn hơn rất nhiều so với cầu lao động. Ba là, cung lao động chất lượng thấp; lao động giản đơn chiếm tỷ lệ lớn, mặt khác vẫn ở tình trạng "thừa thầy", "thiếu thợ". Bốn là, trong cơ cấu lao động theo ngành, lực lượng lao động nông thôn vẫn chiếm chủ yếu. Từ những đặc điểm cơ bản đó chúng ta thấy được những mặt được, những mặt chưa được để đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện thị trường lao động Việt Nam để góp phần phát triển kinh tế xã hội. Chương III: Những định hướng và giải pháp nhằm điều chỉnh dân số phù hợp với cung - cầu của thị trường lao động I- Định hướng mang tính chiến lược. 1. Về dân số. Như phần trước đã trình bày, dân số có ý nghĩa quyết định đến mức cung về lao động. Vì vậy để hạn chế cung lao động, chúng ta phải hạn chế mức tăng dân số bằng khống chế mức sinh, tiếp tục cuộc vận động về kế hoạch hoá gia đình, nâng cao giáo dục, đặc biệt là giáo dục cho phụ nữ. Ngoài ra chúng ta cần phải điều chỉnh lại cơ cấu và sự phân bố dân số một cách hợp lý. 2. Về thị trường lao động. Cùng với việc định hướng giải pháp cụ thể về dân số và đưa ra những giải pháp mang tính chiến lược, giải quyết tốt vấn đề dân số và điều chỉnh thị trường lao động một cách cân đối và hợp lý. Trước mặt ta phải giảm cung về số lượng lao động, nâng cao chất lượng lao động. Đồng thời cũng phải tăng về nhu cầu lao động, tức là đưa ra những giải pháp về chính sách kinh tế, qui mô cơ cấu của nền kinh tế. Nói tóm lại là chính sách giải quyết việc làm. II- Giải pháp. 1. Về dân số. 1.1. Để cuộc vận động kế hoạch hoá gia đình đạt kết quả cao cần làm tốt những công tác sau: Thứ nhất, tạo được sự ủng hộ của cấp uỷ đảng chính quyền và toàn thể các cấp. Thứ hai, hệ thống công tác dân số kế hoạch hoá gia đình được xây dựng củng cố và kiện toàn từ trung ương đến địa phương. Thứ ba, công tác tuyên truyền giáo dục được đẩy mạnh về số lượng và chất lượng, hình thức đa dạng, nội dung hấp dẫn, có đông đảo lực lượng tham gia. Các ngành y tế, giáo dục, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, xây dựng, quốc phòng và công an, các đoàn thể phụ nữ, thanh niên, nông dân, mặt trận tổ quốc… là những lực lượng nòng cốt tham gia tuyên truyền chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình. Thứ tư, nâng cao hiệu quả dịch vụ kế hoạch hoá gia đình, mở rộng và nâng cao chất lượng cho các cơ sở dịch vụ kế hoạch hoá gia đình công cộng. Thứ năm, hoàn thiện hệ thống chính sách. Thứ sáu, sử dụng hiệu quả nguồn vốn thực hiện chính sách kế hoạch hoá gia đình. 1.2. Khống chế mức sinh. Tuyên truyền vận động mọi người dân nhận thức đúng đắn về vấn đề lợi ích của việc hạn chế mức sinh, phổ biến rộng rãi các biện pháp tránh thai, các thông tin, giáo dục tuyên truyền cần được tăng cường tới mọi miền đất nước, đặc biệt là ở nông thôn. 1.3. Tiến tới cơ cấu dân số hợp lý. Hợp lý cơ cấu giới tính, tuổi, không vì mục tiêu hạn chế mức sinh mà làm mất cân đối giới tính và độ tuổi, phải khống chế mức sinh ở một rỷ lệ hợp lý. 1.4. Phân bố dân cư lao động hợp lý. Đẩy mạnh di dân, xây dựng các vùng kinh tế - xã hội - dân cư mới để gắn lao động với đất đai, tài nguyên thiên nhiên, giải quyết việc làm tốt ở nông thôn, sử dụng hợp lý thời gian nhàn rỗi của nông dân vào một công việc phụ nào đó. 2. Về thị trường lao động. 2.1. Về phía cung của thị trường lao động. Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, đặc biệt tập trung ở khu vực nông thôn, vùng nghèo, vùng ven biển, nơi đông dân nhưng trình độ dân trí lại thấp, bị chịu ảnh hưởng của các phong tục tập quán lạc hậu. Thứ hai, tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học, xoá mù chữ cho người lớn, đặc biệt tập trung cho các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa. Đối với một số thành phố lớn nên phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở, một số nơi có điều kiện thì phổ cập phổ thông trung học. Để thực hiện Nhà nước cần tăng chi ngân sách cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học và thực hiện công bằng trong chi tiêu cho giáo dục. Đối với một số tỉnh giàu, thành phố lớn nên đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục để tăng nguồn lực cho giáo dục, qua đó Nhà nước có thể ưu tiên ngân sách Nhà nước cho giáo dục ở vùng nghèo, vùng xa, vùng sâu. Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn lao động nước ta. Đây là vấn đề lớn nên có thể chia làm hai loại giải pháp. *- Về dài hạn. - Để có một nguồn lao động có chất lượng trước hết cần có thời gian. Điều này đã được Đảng và Nhà nước nhận thức rất rõ và đề ra chiến lược phát triển con người toàn diện đang được triển khai thực hiện trên cả nước. Tuy nhiên, chúng ta mới chú trọng đến số lượng, chưa đầu tư thích đáng để nâng cao chất lượng, ví dụ chất lượng dạy và học, chất lượng các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ v.v… Vì vậy cần đầu tư vào giáo dục, y tế ngay vì người ta thấy rằng giáo dục và y tế không những ảnh hưởng tới chất lượng dân số hiện tại mà cả trong tương lai. - Chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, phải cơ cấu lại hệ thống trường đại học, cao đẳng với các trường dạy nghề, đào tạo phải đáp ứng được dung lượng kinh tế đất nước. Trong công tác đào tạo phải chú trọng tới công tác dạy nghề, vừa đủ chất lượng và số lượng. Mở rộng hệ thống các trường dạy nghề và xây dựng hệ thống chiều ngang giữa trường học, trường dạy nghề và các nhà đầu tư, cũng như mối quan hệ dạy nghề với chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngay từ bây giờ, phải giới thiệu cho các em học sinh biết được các trường dạy nghề, cho các em biết được sự mất cân đối đào tạo ở nước ta giữa công nhân - trung cấp - đại học, giúp học sinh lựa chọn đúng nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu thực tế và khả năng học của bản thân, tránh tình trạng lúc nào cũng có khái niệm chỉ có vào đại học mới là con đường duy nhất mang lại hạnh phúc cho mình. * Về ngắn hạn. - Trong lĩnh vực đào tạo, Nhà nước nên đặt ưu tiên ngân sách và huy động ngoài ngân sách để củng cố các trường dạy nghề tại các địa phương, thực hiện đào tạo có mục tiêu. Các trường này cần phối hợp với các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước để xác định nhu cầu đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo để căn cứ tuyển chọn và đào tạo công nhân đáp ứng nhu cầu theo ngành nghề mà nền kinh tế đang cần. - Tiến hành các biện pháp đào tạo, đào tạo lại nghề cho lao động dôi dư do chuyển đổi sở hữu và sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước. Triền khai nhanh việc thành lập quỹ sắp xếp doanh nghiệp theo quyết định số 177/1999 QĐ-TTg. - Ngoài ra, cần nghiên cứu xây dựng quỹ đào tạo chung cho các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế, đào tạo nghề cho những người thất nghiệp. - Cần có biện pháp khuyến khích đối với các doanh nghiệp gửi công nhân đã có tay nghề đi đào tạo ngắn hạn ở nước ngoài. - Trong ngắn hạn, để giảm áp lực về cung lao động trong nước cần đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Nói tóm lại, giải pháp về cung lao động là giảm cung bằng nhiều biện pháp nhưng chung quy lại chúng ta phải giảm số lượng lực lượng lao động đồng thời nâng cao chất lượng lao động để đáp ứng nhu cầu kinh tế, tránh tình trạng thừa lao động nhưng cũng thiếu lao động. P P1 P P0 Q1 Q0 Q2 A E1 SLĐ1 DLĐ Q Q SLĐ0 E0 B ở nước ta đang xảy ra hiện tượng dư cung tại tiền lương P1 dung lượng kinh tế chỉ cần một lượng lao động là Q1 nhưng thực tế số lượng có thể cung cấp là Q2 tức là dư lao động một lượng AB. Nếu dung lượng kinh tế không đổi để đảm bảo cân bằng thị trường lao động chúng ta phải tìm cách làm giảm cung như các cách đã nói lúc đó đường cung sẽ dịch trái và lúc này sẽ tạo ra điểm cân bằng mới E1 (P;Q). 2.2. Về phía cầu thị trường lao động. Để tăng cường lao động có rất nhiều cách nhưng chủ yếu là tạo thêm việc làm cho người lao động, có các chính sách đầu tư mở rộng sản xuất, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài có chính sách đối nội, đối ngoại hợp lý nhằm phát triển kinh tế nâng cao đời sống cho người lao động. Để làm được điều đó chúng ta cần thực hiện những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình giải quyết việc làm bằng cách xây dựng hệ thống hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, điều chỉnh chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Cần nâng cao vai trò của các cấp chính quyền địa phương trong giải quyết việc làm, bao gồm trách nhiệm về đóng góp tài chính, hướng dẫn thực hiện, hướng dẫn kỹ thuật, giám sắt và đánh giá, chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện chương trình không đạt được mục tiêu. Không nên thực hiện chương trình giải quyết việc làm tràn lan khi số vốn đầu tư có hạn mà phải tập trung có trọng điểm nhằm giải quyết được việc làm cần thiết. Thứ hai, khuyến khích các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế hộ, kinh tế gia đình. Các cấp chính quyền có vai trò thông tin, giới thiệu sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ và tạo cầu nối giữa nông dân và các cơ quan hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân. Thứ ba, việc tạo việc làm phải ưu tiên những công việc sử dụng nhiều lao động nhưng chi phí thấp, để làm được cần phải nhanh chóng cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư tư nhân trong mọi lĩnh vực. Mặt khác có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ qua đó có thể tuyển lao động có trình độ khác nhau từ giản đơn đến kỹ thuật cao, vừa thực hiện chương trình chuyển giao công nghệ, kỹ thuật giữa các doanh nghiệp. Thực hiện đào tạo theo phương thức vừa học vừa ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35177.doc
Tài liệu liên quan