Đánh giá chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua

Lời nói đầu Từ Đại hội Đảng VI (1986), thực hiện chủ trương đường lối đổi mới, mở cửa nền kinh tế theo phương châm “Đa phương hóa, đa dang hóa các quan hệ chính trị, kinh tế, đối ngoại, kết hợp chặt chẽ giữa việc khai thác có hiệu các nguồn lực trong nước là chính với việc huy động tối đa các nguồn lực bên ngoài”, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến hoạt động đến đầu tư nước ngoài. Việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài đầu tiên (29/12/1987) với những quy định thông thoáng hấp dẫn như m

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột luồng gió mới thổi vào nền kinh tế Việt nam lúc đó đang trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng, các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu chọn Việt Nam làm điểm dừng chân của mình. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư nước ngoài, nhằm cải thiện tốt hơn môi trường đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài, năm 1990 và năm 1992, Luật đầu tư nước ngoài đã 2 lần được sửa đổi, bổ sung và đến năm 1996, để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội, tình hình xu thế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Luật đầu tư nước ngoài mới đã được quốc hội thông qua ngày 12/11/1996. Sau đó là một loạt các văn bản mới nhằm hướng dẫn, bổ sung theo hướng khuyến khích thu hút các nhà đầu tư. Qua 17 năm thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã tiến những bước dài trên bước đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới và thúc đầy phát triển nền kinh tế trong nước với tốc độ tăng GDP hàng năm vào loại cao trên thế giới (8,5 - 9%). Đánh giá các động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, một yếu tố không thể phủ nhận được đó là vai trò quan trọng của đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài “không chỉ góp phần để nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm qua mà còn là điều kiện cơ sở cần thiết cho cả quá trình phát triển trong những năm tiếp theo” (Trả lời phỏng vấn Báo Đầu tư của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt ). Hiểu được điều đó càng không thể không khẳng định công lao to lớn của Đảng và Nhà nước ta. Vấn đề quản lý Nhà nước nói chung và việc ban hành các chính sách nói riêng đối với đầu tư nước ngoài đã và đang là một vấn đề được quan tâm, nhiều hội thảo xung quanh đầu tư trực tiếp và quản lý Nhà nước về đầu tư đã được tổ chức, thu hút nhiều nhà kinh tế Việt Nam và thế giới, các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Đánh giá chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua và phương hường giải pháp hoàn thiện" làm tiểu luận môn học Kinh tế quốc tế. Tiểu luận được viết thành 3 chương: Chương I: Những lý luận chung về chính sách đầu tư nước ngoài ở Việt Nam Chương II: Thực trạng chính sách đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các chính sách đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy giáo TS. Nguyễn Thường Lạng và bạn bè đã hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi để hoàn thiện bài tiểu luận này. Nhưng do khuôn khổ có hạn và trình độ còn nhiều hạn chế, bài tiểu luận này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong được sự đóng góp ý kiến của tất cả các thầy cô và các bạn. Chương I Những lý luận chung về chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1. Cơ sở lý thuyết về đầu tư - đầu tư nước ngoài. 1.1. Đầu tư. 1.1.1. Khái niệm đầu tư. Đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những nguồn lực ở hiện tại (tiền, sức lao động, trí tuệ.v.v...) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho chủ đầu tư trong tương lai. Như vậy, theo khái niệm trên, đầu tư là hoạt động kinh tế gắn với việc sử dụng vốn dài hạn nhằm mục đích sinh lợi. Đầu tư là một bộ phận của sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng tiềm lực của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng. Vốn đầu tư bao gồm có các dạng sau: - Tiền tệ các loại - Hiện vật hữu hình: tư liệu sản xuất, tài nguyên - Hàng hoá hữu hình: sức lao động, cán bộ, thông tin, biểu tượng uy tín hàng hoá.v.v.. - Các phương tiện khác: cổ phiếu, đá quý.v.v.... 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của đầu tư. Đầu tư có hai đặc trưng cơ bản sau: tính sinh lợi và thời gian kéo dài. - Tính sinh lợi là đặc trưng hàng đầu của đầu tư. Không thể thể coi là đầu tư, nếu việc sử dụng tiền vốn không nhằm mục đích thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn khoản tiền đã bỏ ra ban đầu. Như vậy đầu tư khác với: + Việc mua sắm, cất trữ, để dành + Việc mua sắm nhằm mục đích tiêu dùng vì trong việc này tiền của không sinh lời. + Việc chi tiêu vì lý do nhân đạo và tình cảm. Đặc trưng thứ hai của đầu tư là kéo dài thời gian, thường từ hai năm đến 70 năm hoặc có hạn thường trong vòng một năm không gọi là đầu tư. Đặc điểm này cho phép phân biệt hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh. Kinh doanh thường được coi là một giai đoạn đầu tư. Như vậy, đầu tư và kinh doanh thống nhất tính sinh lời nhưng khác nhau ở thời gian thực hiện. 1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn điều hành hoạt động sử dụng vốn. Về thực chất. FDI là sự đầu tư của các Công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn. 1.2.2. Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo luật đầu tư của mỗi nước. - Quyền quản lý xây dựng phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài quản lý và điều hành. - Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại hoàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các doanh nghiệp khác. - Nguồn vốn đầu tư không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu mà còn có thể được bổ xung, mở rộng từ nguồn lợi nhuận thu được từ chủ đầu tư nước ngoài. - Việc các chủ đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào trong nước để biến sinh lợi, thì qua đó bên phía chủ nhà tiếp nhận vốn có cơ hội tiếp thu công nghệ kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý hiện đại ở nước ngoài. Đây là một đặc điểm chú trọng cho các nước đang phát triển trong quá trình phát triển và hội nhập nền kinh tế trên thế giới. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà các chủ đầu tư được tự mình ra quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả cao, không có ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. 1.2.3. Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thực tiễn, FDI có nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Những hình thức được áp dụng phổ biến là: + Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng + Doanh nghiệp liên doanh + Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tuỳ từng điều kiện cụ thể và tuỳ vào từng quốc gia khác nhau mà các hình thức trên được áp dụng khác nhau. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, Chính phủ nước sở tại còn lập ra các khu vực ưu đãi đầu tư trong lãnh thổ nước mình như: khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế, hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (B.O.T), xây dựng - chueyẻn giao (B.T), xây dựng - chuyển giao - vận hành (B.T.O). 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn dtttt nước ngoài. Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế có vai trò rất lớn với các nước trên thế giới, vì vậy việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan. Cụ thể như sau: 1.2.4.1. Hệ thống luật Hệ thống luật là một trong những nhân tố sẽ kìm hãm hay thúc đẩy gia tăng của hoạt động đầu tư nước ngoài. Bởi lẽ, trong hệ thống luật đầu tư, nước sở tại sữ nêu rõ quan điểm của mình trên lĩnh vực đầu tư về hình thức đầu tư, đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan như thế nào.v.v... Đồng thời các nhà đầu tư nước ngoài còn xem xét những luật liên quan như luật thuế, luật cho thuê đất đai.v.v... Những nội dung của hệ thống luật càng đồng bộ, chặt chẽ tiên tiến, cởi mở phù hợp với thông lệ quốc tế thì khả năng hấp dẫn thu hút nguồn vốn FDI càng cao. 1.2.4.2. ổn định về chính trị. Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro, vượt khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư. những bất ổn về kinh tế - chính trị không chỉ làm cho dùng vốn FDI bị chững lại và thu hẹp, mà còn làm cho quá trình huy động ngồn vốn trong nước bị giảm mạnh. Ngoài ra các cuộc xung đột nội chiến hay sự hoài nghi thiếu thiện cảm và gây khó dễ của giới lãnh đạo, nhân dân đối với vốn đầu tư nước ngoài đều là nhân tố tác động tâm lý tiêu cực của các chủ đầu tư nước ngoài. Bởi vậy, ổn định chính trị không chỉ trong thời gian ngắn mà còn là cần giữ vững lâu dài, để cho các nhà đầu tư yên tâm hoạt động. 1.2.4.3. Sự phát triển cơ sở hạ tầng. Sự phát triển cơ sở hạ tầng luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai các dự án đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng bao gồm: cầu, cảng, đường xá, hệ thống điện nước dồi dào phương tiện nghe nhìn hiện đại.v.v.. Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ cho hoạt động FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến luồng FDI. Khi đó càng tạo cho các chủ đầu tư nước ngoài an tâm về sở hữu và quyền chủ động định đoạt mua bán đất đai mà họ có được bằng nguồn vốn đầu tư của mình. Dịch vụ thông tin và tư vấn đầu tư có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cập nhật và đáng tin cậy, để cho các nhà đầu tư tiếp xúc lựa chọn bên đối tác và sẽ ảnh hưởng hoạt động kinh doanh. 1.2.4.4. Chính sách tiền tệ. Mức độ ổn định của chính sách tiền tệ là một nhân tố quan trọng góp phần ổn định hoạt động xuất nhập khẩu và thu lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài, nhất là trong chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoại. Việc nguồn vốn FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước coa hơn mức lãi suấ quốc tế thì sức hút với dòng vón chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư là cao làm giảm lợi nhuận của các nhà đầu tư. Ngoài ra, một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn, một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó bảo đảm hơn, mức độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm. 1.2.4.5. Sự phát triển của nền hành chính quốc gia. Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian, chi phí và đã làm mất cơ hội đầu tư. Đồng thời, với nhân tố này còn gắn liền với trình độ khả năng tính trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong việc thẩm định dự án, kiểm tra và xử lý việc phát sinh trong hoạt động đầu tư. Do vậy, Bộ máy hành chính phải thật gọn nhẹ với những thủ tục, hành chính có tính chất đơn giản, công khai và nhất quán. Điều đó sẽ làm tăng tính hoạt động của đầu tư một cách không thông suốt và chính xác. 1.2.4.6. Đặc điểm thị trường nước nhận vốn. Đây có thể nới là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó được thể hiện ở quy mô, dung lượng của thị trường, sức mua của các tầng lớp dân cư trong nước, khả năng mở rộng quy mô đầu tư.v.v.... đặc biệt là sự hoạt động của thị trường nhân lực. Mặt khác, với giá nhân công rẻ sẽ là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là với những dự án đầu tư vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Ngoài ra, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ học vấn, khả năng quản lý.v.v... cũng có ý nghĩa nhất định. Bởi vậy, lợi thể về thị trường sẽ có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. 1.3. Một số lý thuyết về đầu tư - thương mại quốc tế. Lý thuyết thương mại quốc tế của Hecksher - Ohlin cho rằng: một nước sẽ chuyên hoá vào sản xuất và xuất khẩu hàng hoá mà việc sản xuất của nó sử dụng nhiều nhân tố sản xuất tương đối rẻ và sẵn có của nước đó và nhập khẩu hàng hoá mà việc sản xuất nó sử dụng nhân tố sản xuất tương đối đắt và kham hiếm của nước đó. Khi nguồn lực sản xuất (lao động, vốn, kỹ thuật) của một nước thay đổi thì sẽ dẫn đến sự thay đổi cơ cấu sản xuất và xuất nhập khẩu của nước đó. Sự di chuyển nguồn lực giữa các nước là một trong nước nguyên nhân chính gây ra sự thay đổi của các nguồn lực sản xuất sẵn có của các nước. Khi đó, một hình di chuyển vốn cũng làm tăng khối lượng của nhân tố vốn. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến x và sau đó đến thương mại quốc tế có thể diễn ra theo hai hướng: tác động thay thế và tác động bổ sung. - Tác động thay thế: mô hình kiểu Hecksher -Ohlin -Samuelson) một nước có hàng rào thương mại mang tính hạn chế cao đối với hàng hoá nhập khẩu sẽ làm tăng thu nhập đối với vốn nguồn lực tương đối khan hiếm của nước ngày. Theo tác động Rybczynski, sản xuất của hàng hoá sử dụng nhiều vốn (trước đây được nhập khẩu nếu có thuế) sẽ tăng và sản xuất hàng hoá sử dụng nhiều lao động (trước đây được xuất khẩu) sẽ giảm. Như vậy, theo hướng này, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ làm giảm khối lượng xuất nhập khẩu. - Tác động bổ xung: tác động này diễn ra trong mô hình kiểu Riardo khi các nước có công nghệ khác nhau. Ví dụ: giả sử hai nước có năng suất lao động như nhau nhưng một nước có năng suất vốn cao hơn. Nước có năng suất vốn cao hơn sẽ xuất khẩu hàng hoá nhiều vốn. Khi vốn di động trên phạm vi quốc tế nó sẽ tìm đến nơi nào đó có mức thu nhapạ cao nhất và vì vậy sẽ chảy vào nước có năng suất vốn cao hơn. Theo tác động Rybcznski, dòng vốn này sẽ làm tăng sản xuất hàng hoá sử dụng nhiều vốn (hàng xuất khẩu nước đó) và giảm sản xuất hàng sử dụng nhiều lao động (hàng nhập khẩu của nước đó). Vì vậy, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào sẽ làm tăng quy mô buôn bán giữa các nước. 2. Chính sách Nhà nước với vấn đề đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 2.1. Tính tất yếu đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Hiện nay trên thế giới đã và đang tồn tại một cách khách quan những nước giầu và nước nghèo, hay nói một cách khác là nước chậm phát triển và nước phát triển. Nguyên nhân chính là do đâu? Khi có sự cách biệt về khả năng kinh tế, về tài chính giữa các nước thì lúc này các nước phát triển bắt đầu xảy ra tình trạng dư thừa vốn, công nghệ và lợi nhuận giảm. Còn các nước chậm phát triển lại rơi vào tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ mới, thiếu kinh nghiệm quản lý. Vì vậy để tránh tình trạng ứ đọng vốn, công nghệ của họ ra nước ngoài nhằm mục đích sinh lời và kéo dài tuổi thọ của công nghệ. Trong khi đó các nước đang phát triển mới chỉ có được công nhân dồi dào và nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú chưa được khai thác triệt để do chưa có vốn và công nghệ thích hợp để khai thác tốt hai nguồn lực này, đây là một môi trường đầu tư đầy triển vọng của các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình tìm kiếm cơ hội đầu tư nhằm làm tăng lợi nhuận cho mình trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Hơn nữa do các nước phát triển rất dồi dào sản phẩm công nghệ cao, có chất lượng tốt, mẫu mã đa dạng phong phú, bao bì đẹp, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cao cho nên tính cạnh tranh trên thị trường giữa các sản phẩm hết sức gay gắt. Sự cạnh tranh này nhiều lúc không cân sức vì trên thị trường nếu chúng ta chỉ nhìn vào sản phẩm thì không thể biết đối thủ cạnh tranh mạnh hay yếu, mà phải nhìn vào chiến lược kinh doanh của đối thủ cạnh tranh thì mới biết được. Vì vậy, để tránh rủi ro trên thị trường nội địa thì buộc các doanh nghiệp phải tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Hình thức đầu tư ra nước ngoài bên cạnh việc hạn chế rủi ro thì nó còn nhằm tăng vòng quay của vốn, tận dụng được công nghệ hạng 2 ở trong nước (nước phát triển). Trong quá trình đầu tư, các nhà đầu tư cố gắng hạ thấp chi phí để đạt được lợi nhuận cao nhất. Muốn làm được điều đó buộc họ phải đầu tư ra nước ngoài để mở rộng cơ hội tối đa hoá lợi nhuận khi đầu tư vào những nước chậm phát triển họ tiết kiệm được rất nhiều chi phí như chi phí đổi mới công nghệ, chi phí thanh lý công nghệ, chi phí lao động chất xám, chi phí lao động phổ thông, trong khi đó lại được ưu đãi về thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu....). Đồng thời lợi nhuận còn được đảm bảo bởi các chính sách kinh tế của các nước nhận đầu tư. Việt Nam, xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu. Hơn 70% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp: năng suất lao động thấp, tích luỹ nội bộ thấp, sử dụng viện trợ nước ngoài không có hiệu quả. Ngoài ra, nước ta vừa ra khỏi chuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc nên nhiều tàn dư mà ta chưa khắc phục được. Trước những khó khăn thách thức đó, Đảng và Nhà nước ta đề ra nhiều mục tiêu quan trọng trong giai đoạn 2001 – 2010 nhằm nâng cao đời sống người dân, xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển nền kinh tế vững mạnh. Trong chiến lược 10 năm đầu thế kỷ 21, Đảng ta vẫn kiên định đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước tạo lập nền tảng cho việc hình thành một nước công nghiệp trong giai đoạn sau. Sự lựa chọn chiến lược này là một tất yếu được rút ra từ quá trình phát triển và đổi mới hơn 10 năm qua, từ một tầm nhìn về triển vọng phát triển đất nước gắn với xu thế thời đại. Trong đó, vai trò của vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển đất nước, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế Việt Nam. Điều đó được biểu hiện rõ bằng gia tăng nguồn vốn, kỹ thuật – công nghệ, đóng góp vào ngân sáh Nhà nước đáng kể. Trong những năm tới, việc thu hút nguồn vốn FDI vẫn được Nhà nước quan tâm là một xu thế tất yếu phù hợp với xu thế của thế giới và yêu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam. 2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong đầu tư nước ngoài. Nhận thức được tầm quan trọng của việc thu hút vốn ĐTNN, Đảng và Nhà Nước ta đã từng bước xây dựng các chính sách ĐTNN theo hướng vừa khuyến khích, thu hút các nhà ĐTNN vào Việt Nam nhằm tạo đà phát triển kinh tế vừa theo hướng bảo vệ quyền lợi, lợi ích cho các doanh nghiệp trong nước. Đồng thời xuất phát từ chính sách đổi mới nền kinh tế mở cửa và hội nhập với nước ngoài, ngày 19/12/1987 lầu đầu tiên Quốc hội nước ta đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài cho phép các tổ chức cá nhân là người nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam. Qua 4 lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996 và tháng 4 năm 2000, môi trường đầu tư đã cải thiện thông thoáng hơn, giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, mở rộng quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh . Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư theo dưới hình thức sau đây: Công ty liên doanh: là dạng Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập với sự tham gia của một bên là một hay nhiều pháp nhân trong nước và bên kia là một hay nhiều thành viên nước ngoài. Vốn hoạt động do hai bên đóng góp, thời gian hoạt động từ 30 đến 50 năm. Công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài: là dạng Công ty trách nhiệm hữu hạn do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh , thời gian hoạt động từ 50 đến 70 năm. Hợp đồng hợp tác kinh doanh : là dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa hai bên hay nhiều bên để cùng nhau tiến hành hoạt động kinh doanh trên cơ sở phân định trách nhiệm, quyền lợi nghĩa vụ rõ ràng và không thành lập một pháp nhân mới. Xây dựng, khai thác, chuyển giao (BOT): là hình thức hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng một công trình, trong đó có nhà đầu tư bỏ vốn để kinh doanh và khai thác công trình trong một thời gian nhất định đủ để thu hồi vốn và các lợi nhuận thoả đáng sau đó chuyển giao công trình cho Nhà nước khi chấm dứt hợp đồng mà không đòi hỏi bất cứ khoản tiền nào. Nhìn chung, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được đánh giá là có độ hấp dẫn cao, phù hợp với thônglệ quốc tế. Hiện nay, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang được tiếp tục điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với thực tiễn điều kiện ở Việt Nam. 2.3.Nguyên tắc ban hành các chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhà nước ban hành các chính sách về hoạt động đầu tư nước ngoài, cần phải tuân theo các nguyên tắc sau: + Các chính sách của Nhà nước nhằm thực hiện một cách tốt nhất định hướng của Luật ĐTNN là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vào công cuộc phát triển kinh tế; vừa mở cửa ra bên ngoài, nhằm tranh thủ mọi nguồn lực quốc tế nhưng không coi nhẹ đầu tư cho sản xuất trong nước; mở cửa cho bên ngoài nhưng không quên những biện pháp "che chắn" cần thiết để bảo hộ sản xuất trong nước, bảo đảm an ninh quốc phòng, đẩy mạnh xuất khẩu và tham gia phân công lao động quốc tế trong khu vực và thế giới một cách có lợi nhất. + Các chính sách phải nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước ta trong hợp tác đầu tư với nước ngoài là thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các công ty nước ngoài, tạo việc làm cho người lao động, góp phần khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng đất nước phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. + Các chính sách về hoạt động đầu tư nước ngoài phải đảm bảo giữ vững độc lập, chủ quyền của Việt Nam, đồng thời tôn trọng quyền của các nhà đầu tư, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi. Chương II thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài của Việt nam trong giai đoạn hiện nay 2.1. Tình hình ĐTNN tại Việt Nam những năm qua: 2.1.1. Kết quả thu hút vốn ĐTNN: 2.1.1.1. Tình hình thực hiện của khu vực ĐTNN: Sau cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực từ năm 2001 đến nay, ĐTNN vào nước ta đã có xu hướng phục hồi. Năm 2003 vốn thực hiện tăng 8,1% so với năm 2001. Năm 2004 vốn ĐTNN thực hiện ước đạt 2,75 tỷ, tăng 7,5% so với năm 2003. Trong bối cảnh vốn đăng ký cấp mới trong những năm gần đây đạt thấp, việc gia tăng vốn đầu tư thực hiện thể hiện công tác thúc đẩy hoạt động của các dự án cấp phép theo tinh thần Nghị quyết 09 của Chính Phủ và Chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính Phủ đã được triển khai có hiệu quả. Các chỉ tiêu kinh tế xã hội khác( doanh thu, xuất khẩu, nộp ngân sách, tạo việc làm…) đều tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, thể hiện môi trường đầu tư và kinh doanh ở nước ta hiện nay ngày càng được cải thiện, tạo điều kiện để các dự án sau khi được cấp phép triển khai có hiệu quả. Việc tăng cường thu hút ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu cảu khu vực ĐTNN tăng nhanh: trong thời kỳ 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ USD( không tính xuất khẩu dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước đ; trong 3 năm 2001-2003, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 14,6 tỷ USD, riêng gần năm 2003 đạt 6,34 tỷ USD, chiếm 31,4% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Xuất khẩu của ĐTNN chiếm tới 84% giá trị xuất khẩu mặt hàng điện tử, 42% đối với mặt hàng dày dép và 25% hàng may mặc. Tỷ trọng xuất khẩu so với doanh thu của doanh nghiệp ĐTNN cũng đã tăng nhanh: bình quân thời kỳ 1991-1995 đạt 30%; thời kỳ 1996-2000 đạt 48,7%; trong 4 năm 2001-2004 đạt khoảng 60%. Cơ cấu ĐTNN có chuyển biến tích cực, nhất là việc gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Trong 10 tháng đầu năm 2004 tổng vốn thực hiện của khu vực ĐTTTNN( FDI) đạt được 2.37 tỷ USD, tăng 5.3% so với cùng kỳ năm 2003 và đạt 86% so với dự kiến vốn thực hiện của cả năm ( mục tiêu năm 2005 là 2.75 tỷ USD). Doanh thu của khu vực ĐTNN trong 10 tháng đầu năm 2004 dạt 14 tỷ USD, tăng 30.8% so với cùng kỳ. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu( không kể dầu thô) của khu vực ĐTNN 10 tháng đầu năm 2004 lên đến 7.06 tỷ USD, tăng 36,2% so với cùng kỳ năm 2003. Tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu của khu vực ĐTNN 10 tháng đầu năm 2004 lên 8,8% tỷ USD, tăng 22,2% so với cùng kỳ. Tổng thu ngân sách từ khu vực ĐTNN( không kể thu từ hoạt động xuất nhập khẩu) trong 10 tháng đầu năm lên 659 triệu USD, tăng 37,3% so với cùng kỳ. Trong 10 tháng đầu năm các doanh nghiệp ĐTNN tạo thêm việc làm cho 12 nghìn lao động, đưa tổng số lao động trực tiếp lên 73 vạn ngưòi. Như vậy sau 17 năm thực hiện Luật ĐTNN ( từ năm 1988 đến hết tháng 10/2004) đến cuối tháng 10 năm 2004 cả nước đã cấp giấy phép đầu tư cho 5.995 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký kể cả tăng vốn là 56,9 tỷ USD, trong đó có 4.965 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 44,76% tỷ USD. Phân theo ngành: Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm 67,1% về số dự án và 57,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ, chiếm 19,2% về số dự án và 34,7% về vốn đầu tư đăng ký, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 13,7% về số dự án và 7,5% về vốn đầu tư đăng ký. Phân theo hình thức đầu tư: Hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 71,7% về số dự án và 45,7% về tổng vốn đăng ký; hình thức liên doanh chiếm 24,5% về số dự án và 42,6% về tổng vốn đăng ký; còn lại thuộc lĩnh vực hợp doanh và BOT. Phân theo nước: Trong số 66 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, các nước Châu á chiếm trên 76% số dự án và trên 70% vốn đăng ký; các nước Châu Âu chiếm gần 16% số dự án và gần 24% vốn đăng ký; Hoa Kỳ chiếm 4,2% số dự án và 2,8% vốn đăng ký; còn lại là các nước ở khu vực khác. Riêng 5 nền kinh tế đứng đầu trong đầu tư vào Việt Nam là Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hông Kông đã chiếm 63,4% về số dự án và 62,2% tổng vốn đăng ký. Việt Kiều từ 15 nước khác nhau chủ yếu là từ CHLB Đức, Liên Bang Nga và Pháp đã đầu tư 118 dự án với vốn đầu tư đăng ký 362,66 triệu USD chỉ bằng 0,8% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước. Phân theo địa phương: Các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộccác vùng kinh tế trọng điểm vẫn là nhựng địa phương dãan đầu thu hút ĐTNN theo thứ tự như sau: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hải Phòng. Riêng vùng trọng điểm phía Nam( TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu) chiếm 56,1% tổng vốn ĐTNN của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc ( Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh) chiếm 25,2% tổng vốn ĐTNN đăng ký của cả nước. Hiện tại các dự án ĐTNN đầu tư vào các KCN, KCX( không kể các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng KCN) còn hiệu lực, chiếm 33% về số dự án và 29,8% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước. 2.1.1.2. Tình hình cấp mới và tăng vốn của khu vực ĐTNN: Tính đến 20/10/2004 đã có 579 dự án được cấp Giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký 1.740,1 triệu USD, bằng 98% về số dự án và tăng 17,2% về vốn đăng ký mới so với cùng kỳ năm 2003. Đồng thời trong 10 tháng đầu năm 2004 đã có 388 dự án với tổng vốn đăng ký tăng thêm 1.496,77 triệu USD, tăng 66,9% so với cùng kỳ năm 2003 về vốn đăng ký tăng thêm. Trong tổng số các dự án tăng vốn, có 5 dự án có quy mô vốn tăng thêm trên 50 triệu USD, lớn nhất là Công ty Chinfon Hải Phòng với tổng số vốn tăng thêm 161,7 triệu USD, Công ty Sun Steel tăng 147 triệu USD và 2 công ty Canon và Saigon Mas đề tăng vốn thêm 100 triệu USD. Các dự án chủ yếu tăng vốn tập trung tronglĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiém 75% tổng vốn tăng thêm. Ba địa phương thuộc vùng trọng điểm phía Nam theo thứ tự là Bình Dương, TP Hồ Chí Minh và Đồng Nai đã chiếm 65,2% tổng vốn tăng thêm. Hai địa phương của vùng trọng điểm phía Bắc: Hải Phòng và Hà Nội chiếm 21,1% tổng vốn tăng thêm. Tính chung tổng vốn đăng ký của dự án cấp mới và dự án tăng vốn trong 10 tháng đầu năm đạt 3.236,9 triệu USD, tăng 35,9 so với cùng kỳ năm 2003 và bằng 95% dự kiến kế hoạch năm 2004( 3,4 tỷ USD). Với kết quả đã đạt được trong 10 tháng đầu năm, dự báo mục tiêu đề ra về thu hút và thực hiện vốn DTNN cho năm 2004 sẽ đạt và vượt. 2.2. Những thành tựu đạt được của các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam : 2.2.1. Công tác xây dựng luật pháp, chính sách: Trong thời gian qua hệ thống pháp luật, chính sách về ĐTNN đã được cải thiện theo hướng tạo môi trường ngày càng thông thoáng, thuận lợi hơn cho hoạt động ĐTNN. Riêng từ năm 2000, sau khi Quốc Hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ĐTNN, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 07 năm 2000 quy định chi tiết thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam. Ngày 19/03/2003 Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 27/2003/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị Định 24/2000/NĐ-CP theo hướng: mở rộng lĩnh vực khuyến khích ĐTNN; xoá bỏ tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với một số sản phẩm công nghiệp cũng như hạn chế về tỷ lệ vốn góp bằng chuyển giao công nghệ và về tuyển dụng lao động; quy định cụ thể, minh bạch hơn các tiêu chí áp dụng ưu đãi đầu tư…Nghị Định 38/2003/NĐ-CP ngày 15/04/2003 của Chính Phủ về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp ĐTNN sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần để tạo cơ sở pháp lý nhằm đa dạng hóa hình thức ĐTNN, mở thêm kênh mới để thu hút nguồn vốn này; Ngoài ra Chính Phủ cũng đã có Quyết định 146/2003/QQĐ-TTg ngày 11/03/2003 về việc góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN trong các doanh nghiêp Việt Nam. Hệ thống văn bản có liên quan đến hoạt động ĐTNN cũng tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện với việc Quốc hội thông qua các luật: Luật đất đai( sửa đổi, Bộ Luật lao động9 sửa đổi), Luật Xây dựng, Luật thuỷ sản, Luật Thuế TNDN, Luật Thuế GTGT…. Thủ tướng Chính Phủ cũng đã ban hành Quyết định số 53/2004/QQĐ_TTg ngày 05/04/2004 về một số chính sách khuyến khích đầu tư tại Khu công nghệ cao. Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội cũng đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi Thuế Thu nhập cá nhân có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 theo hướng giảm thuế đối với người có thu nhập cao.Ngoài ra còn ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực từ 01/01/2004 đã quy định danh mục lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư cũng nhu thuế suất và các mức ưu đãi thống nhất cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đồng thời bổ sung một só tiêu chí áp dụng ưu đãi mới nhằm khuyến khích các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ, kỹ thuật cao và sử dụng nhiều lao động. Ngoài một số hạn chế cần được nghiên cứu giải quyết trong thời gian tới, việc ban hành các văn bản nói trên là bước tiến quan trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và ĐTNN. Tại kỳ họp thứ 4 tháng 11 năm 2003 Quốc hội đã thông qua Chương trình xây dựng pháp luật năm 2004 trong đó có việc c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0205.doc