Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý chất thải y tế cho các bệnh viện ở Tp Mỹ Tho - Tỉnh Tiền Giang

CHƯƠNG 1 MỞ ĐẦU 1.1– SỰ CẦN THIẾT CỦA LUẬN VĂN. Bản Đồ Thành Phố Mỹ Tho Thành phố Mỹ Tho thuộc tỉnh Tiền Giang nằm giữa hai thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Cần Thơ, cách Thành phố Hồ Chí Minh 70 km về phía Tây Nam, nằm trọn vẹn trên ngã ba sông Tiền có tuyến Quốc lộ 1A chạy qua, đây là hệ thống giao thông đường bộ lớn nhất cả nước. Tp Mỹ Tho với dân số 251 071 người (2005-2007 nguồn số liệu phát triển kinh tế xã hội của Tp Mỹ Tho năm 2001- 2005) gồm 11 phường và 4 xã, có

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2621 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý chất thải y tế cho các bệnh viện ở Tp Mỹ Tho - Tỉnh Tiền Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
diện tích là 49.98km2. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1%/năm. Trên địa bàn Tp có 7 bệnh viện và 15 trung tâm y tế cấp phường xã. Với 1106 giường bệnh đang đổ ra mỗi ngày khoảng 5000 kg chất thải rắn các loại trong đó lượng chất thải nguy hại chiếm khối lượng tương đối cao. Để quản lý khối lượng chất thải như vậy, Tp đã sử dụng phương pháp đốt và được đặt ở Bệnh viện Lao & Phổi. Lò đốt ở đây hàng ngày phải làm việc hết công suất để có thể tiêu hủy số lượng chất thải như vậy. Tuy nhiên, cho đến nay mặc dù đã hình thành và hoạt động được vài năm và tốn vài tỷ đồng cho việc đầu tư trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng song công tác quản lý chất thải y tế ở TP Mỹ Tho đang còn phải đối mặt với nhiều vấn đề chưa được giải quyết một cách triệt để. Một số khó khăn : Khó khăn trong việc quản lý hệ thống thu gom Hệ thống quản lý của các cơ quan nhà nước còn yếu về nhân lực và trang thiết bị. Thiếu đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý giỏi và công nhân lành nghề Chưa thực hiện được việc thu phí một cách chặt chẽ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do công tác quản lý chất thải Y tế chưa được quy hoạch dài hạn với các vấn đề: Quy họach tổng thể hệ thống quản lý chất thải Y tế. Xây dựng chương trình xã hội hóa toàn hệ thống quản lý chất thải bao gồm chương trình thu phí quản lý chất thải rắn Y tế (thu gom, vận chuyển,xử lý) đến phường xã. Xây dựng chương trình phân loại tại nguồn. Xây dựng hệ thống quản lý mạnh kết hợp với chương trình đào tạo và huấn luyện chuyên môn của cán bộ và công nhân. Hoàn thiện các văn bản pháp luật phục vụ cho công tác quản lý và vận hành hệ thống. Những bất cập trên là khó tránh khỏi trong quá trình phát triển kinh tế và xã hội nhưng cũng là vấn đề cần các nhà lãnh đạo phải giải quyết trong thời gian tới. Do vậy, để giải quyết những bất cập trên cần phải đi sâu vào phân tích hiện trạng công tác quản lý chất thải y tế của Tp Mỹ Tho. Tuy đã có một số đề tài đã nghiên cứu và nêu ra một số biện pháp khắc phục nhưng vẫn còn một số khó khăn. Cho nên, với đề tài này nhằm củng cố một số ý kiến về giải quyết hiện trạng quản lý chất thải y tế trên địa bàn Tp Mỹ Tho. 1.2- MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI . Đánh giá hiện trạng công tác quản lý môi trường tại các bệnh viện và trung tâm y tế trên địa bàn thành phố Mỹ Tho. Đề xuất các biện pháp thích hợp trong điều kiện của thành phố. 1.3- NỘI DUNG THỰC HIỆN. Giới thiệu tổng quan về chất thải y tế (chất thải rắn, nước thải) Nêu lên hiện trạng về công tác quản lý chất thải y tế tại các bệnh viện và trung tâm y tế của thành phố Mỹ Tho Dự báo diễn biến về tải lượng chất thải y tế của thành phố. Đề xuất các giải pháp với điều kiện thành phố. 1.4- PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Về địa lý :Thành phố Mỹ Tho – Tiền Giang Về đối tượng: Chất thải Y tế (nước thải và chất thải rắn) 1.5- PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN. Phương pháp chủ yếu được áp dụng để thực hiện đề tài này là: Phương pháp tổng hợp số liệu: Thừa kế thông tin và số liệu từ các nhà khoa học, các cơ quan môi trường, trung tâm nghiên cứu… Phương pháp phân tích hệ thống . Phương pháp khảo sát tình hình thực tế. CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI Y TẾ VÀ CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ 2.1 – GIỚI THIỆU VẾ CHẤT THẢI Y TẾ. 2.1.1- Khái niệm chất thải y tế: Chất thải y tế là chất thải phát sinh trong các cơ sở y tế, từ các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, xét nghiệm, chuẩn đoán, các hoạt động trong công tác phòng bệnh, các hoạt động nghiên cứu và đào tạo về y sinh học. (Nguồn :Môi trường bệnh viện – Cục bảo vệ môi trường). 2.1.2- Tính chất của chất thải y tế. Chất thải y tế có ở dạng rắn lỏng và khí. Chất thải y tế thường bao gồm cả các loại chất thải có đặc tính và tác động tới môi trường sức khỏe giống như các chất thải thông thường khác. Tuy nhiên, một phần trong chất thải y tế là các loại hình chất thải có các đặc tính riêng biệt và có nguy cơ cao gây rủi ro về môi trường và sức khỏe công đồng . Vì thế mà chất thải y tế được xếp vào nhóm chất thải nguy hại. Chất thải nguy hại là chất thải có chứa các hợp chất hoặc các chất có một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ,dễ ăn mòn, làm ngộ độc, dễ lây nhiễm và các đặc tính nguy hại khác), hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khỏe con người . Do có các đặc tính và tiềm năng gây rủi ro về môi trường và sức khỏe mà các loại chất thải y tế nguy hại đòi hỏi phải được thu gom, phân lập và tiêu hủy theo quy trình đặc biệt và đảm bảo an toàn có áp dụng các công nghệ phức tạp và thường là tốn kém để tránh thoát thải ra môi trường nên ngoài. Thông thường, chất thải y tế nguy hại có một trong các thành phần như : máu, dịch cơ thể, chất bài tiết, các bộ phận hoặc cơ quan tổ chức của cơ thể người được cắt bỏ trong điều trị, động vật đã sử dụng cho thí nghiệm nghiên cứu, bơm kiêm tiêm, các vật sắc nhọn, dược phẩm, hóa chất, các đồng vị phóng xạ dùng trong y tế… 2.1.3 – Phân loại chất thải y tế . Việc phân loại và xác định chất thải y tế của đa số các nước trên thế giới, kể cả các nước trong khu vực cũng như hướng dẫn của tổ chức y tế thế giới (WHO) đều bao gồm các loại chính như sau: Nhóm chất thải lâm sàng :bao gồm 5 phân nhóm khác nhau là: Nhóm A :Chất thải nhiễm khuẩn: vật liệu thấm máu, dịch, băng gạc, bông băng, túi đựng dịch, dẫn lưu… Nhóm B : Các vật sắc nhọn: các loại kim tiêm, lưỡi dao mổ, dao lam dùng trong y tế, ống thuốc tiêm vỡ… Nhóm C: Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao phát sinh từ các phòng xét nghiệm như găng tay, lam kính, bệnh phẩm… Nhóm D : Chất thải dược phẩm bao gồm dược phẩm quá hạn, bị nhiễm khuẩn, thuốc gây độc tế bào kể cả các lọ thuốc đã được sử dụng nhưng còn tồn lưu dư lượng, và hóa chất có tính gây độc đối với tế bào. Nhóm E: Bệnh phẩm. Nhóm này bao gồm các mô và cơ quan người, động vật, một phần nào đó trên cơ thể bị cắt bỏ do phẫu thuật ( cần lưu ý là đối với nhóm chất thải này thì ngay cả khi chúng không chứa nguồn lây nhiễm nhưng cũng vẫn có khả năng gây tác động tâm lý rất mạnh). Nhóm chất thải phóng xạ : Nhóm chất thải phóng xạ phát sinh từ các hoạt động chuẩn đoán, hóa trị liệu và nghiên cứu như ống tiêm, bơm tiêm, giấy thấm,gạc sát khuẩn có sử dụng hoặc bị nhiễm các đồng vị phóng xạ. Chất thải phóng xạ rắn gồm: các vật liệu sử dụng trong các xét nghiệm, chuẩn đoán, điều trị như ống tiêm, kim tiêm, bơm tiêm, chai lọ phóng xạ… Chất thải phóng xạ lỏng gồm: dung dịch có chứa nhân phóng xạ phát sinh trong quá trình chuẩn đoán, điều trị như nước tiểu người bệnh, các chất bài tiết, nước súc rửa các dụng cụ có chứa chất phóng xạ. Chất thải phóng xạ khí gồm: các chất khí dùng trong lâm sàng như xe, các khí thoát ra từ các kho chứa chất phóng xạ. Nhóm chất thải hóa học: Chất thải hóa học bao gồm các hóa chất có thể không gây nguy hại như đường, axít béo, axit amin, một số loại muối…và hoá chất có thể gây nguy hại như Forman dehyde, hóa chất quang học, các dung môi, hóa chất dùng để tiệt khuẩn y tế và dung dịch làm sạch, khử khuẩn, các hóa chất dùng trong khử trùng tẩy uế, thanh trùng… Nhóm các bình chứa khí nén có áp suất : Nhóm này bao gồm các bình chứa khí nén có áp suất như bình đựng oxy,CO2, bình gas, các bình chứa khí một lần… Đa số các bình chứa khí nén này thường dễ nổ, dễ cháy nguy cơ tai nạn cao nếu không được tiêu hủy đúng quy cách. Nhóm chất thải sinh hoạt: Nhóm này có đặc điểm chung như chất thải sinh hoạt thông thường từ hộ gia đình gồm giấy loại, vải loại,vật liệu đóng bao, đóng gói, thức ăn còn thừa, thực phẩm thải bỏ và các chất thải ngoại cảnh như các loại lá, hoa quả rụng… Dưới đây là bảng trình bày kết quả phân loại chất thải rắn tại 2 bệnh viện đã có đốt rác y tế và chưa có hệ thống xử lý nước. Bảng 1-Kết quả phân loại chất thải rắn tại 2 bệnh viện đã có lò đốt rác và chưa có hệ thống xử lý nước: STT Thành Phần Khối lượng (kg) Phần Trăm(%) 1 1-Bệnh viện tỉnh Quảng Nam 1.1 Phân loại lần 1 (a) chất thải Giấy, bao bì 1,48 14,8 Thực phẩm 0,715 7,15 (b) Nhóm A- Chất thải nhiễm khuẩn :bông băng, vật liệu thấm máu, dịch, chất bài tiết, bột y tế.. 2,512 25,12 (c) Plastic, cao su, găng tay, dây truyền, dịch 2,624 26,24 (d) Nhóm B - Các vật sắc nhọn : kim tiêm, ống tiêm, chai lọ, ống tiêm thủy tinh, dao mổ… 1,92 19,2 (e) Nhóm C - Chất thải có nguy cơ gây ô nhiễm cao từ phòng xét nghiệm : lam kính, ống nghiệm (f) Nhóm D- Dược phẩm, hóa chất, dung môi (g) Nh óm E - Mô phôi, phủ tạng, nhau thai, bào thai… 0,749 7,49 (h) Chất phóng xạ (i) Các thành phần khác Tổng 10 100 2.2 Phân loại lần 2 (a) chất thải Giấy, bao bì 1,378 13,78 Thực phẩm 0,826 8,26 (b) Nhóm A- Chất thải nhiễm khuẩn :bông băng, vật liệu thấm máu, dịch, chất bài tiết, Bột y tế.. 2,722 27,22 (c) Plastic, cao su, găng tay, dây truyền, dịch 2,514 25,14 (d) Nhóm B - Các vật sắc nhọn : kim tiêm, ống tiêm, chai lọ, ống tiêm thủy tinh, dao mổ… 1,84 18,4 (e) Nhóm C - Chất thải có nguy cơ gây ô nhiễm cao từ phòng xét nghiệm : lam kính, ống nghi ệm 0,058 0,58 (f) Nhóm D- Dược phẩm, hóa chất, dung môi (g) Nhóm E - Mô phôi, phủ tạng, nhau thai, bào thai… 0,662 6,62 (h) chất phóng xạ (i) Các thành phần khác Tổng 10 100 2 Bệnh viện đa khoa Hải Dương 2.1 phân loại lần 1 (a) chất thải Giấy, bao bì 1,636 16,36 Thực phẩm 0,734 7,34 (b) Nhóm A- Chất thải nhiễm khuẩn :bông băng, vật liệu thấm máu, dịch, chất bài tiết, bột y tế.. 2,914 29,14 (c) Plastic, cao su, găng tay, dây truyền, dịch 2,214 22,14 (d) Nhóm B - Các vật sắc nhọn : kim ti êm, ống tiêm, chai lọ, ống ti êm thủy tinh, dao mổ… 1,773 17,73 (e) Nhóm C - Chất thải có nguy cơ gây ô nhiễm cao từ phòng xét nghiệm : lam kính, ống nghiệm (f) Nhóm D- Dược phẩm, hóa chất, dung môi (g) Nhóm E - Mô phôi, phủ tạng, nhau thai, bào thai… 0,729 7,29 (h) Chất phóng xạ (i) Các thành phần khác T ổng 10 100 2.2 Phân loại lần 2 (a) chất thải Giấy, bao bì 1,585 15,85 Thực phẩm 0,863 8,63 (b) Nhóm A- Chất thải nhiễm khuẩn :bông băng, vật liệu thấm máu, dịch, chất bài tiết, bột y tế.. 2,798 27,98 (c) Plastic, cao su, găng tay, dây truyền, dịch 2,514 25,14 (d) Nhóm B - Các vật sắc nhọn : kim tiêm, ống tiêm, chai lọ, ống tiêm thủy tinh, dao mổ… 1,625 16,25 (e) Nhóm C - Chất thải có nguy cơ gây ô nhiễm cao từ phòng xét nghiệm : lam kính, ống nghiệm (f) Nhóm D- Dược phẩm, hóa chất, dung môi (g) Nhóm E - Mô phôi, phủ tạng, nhau thai, bào thai… 0,615 6,15 (h) Chất phóng xạ (i) Các thành phần khác T ổng 10 100 (Nguồn :Xây dựng kế hoạch cải thiện môi trường đối với các bệnh viện ) Kết quả phân loại chất thải rắn tại các bệnh viện trong bảng 1 cho thấy các bệnh viện này đã thực hiện tốt khâu phân loại, thu gom rác y tế. vì vậy, lượng rác y tế nguy hại thực sự cần thiêu đốt là không nhiều, giảm được chi phí thiêu đốt. 2.1.4- Thành phần của chất thải y tế. Chất thải rắn y tế phát sinh trong bệnh viện chủ yếu là do các hoạt động chuyên môn và phụ thuộc vào số giường bệnh, số bệnh nhân nằm điều trị và còn một lượng chất thải sinh hoạt phát sinh từ nhân viên y tế trong bệnh viện. Đối với các bệnh viện ở Việt Nam, do đặc điểm có một số lượng đáng kể người nhà bệnh nhân, người thăm hỏi, một vài dịch vụ khác như nhà hàng ăn uống, sách báo…mà số lượng người vãng lai này khá lớn, nhiều khi tương đương số lượng bệnh nhân nằm viện. Chính vì hiện trạng này làm cho lượng phát sinh chất thải rắn trong bệnh viện tăng lên, đặc điểm thành phần chất thải rắn bệnh viện cũng thay đổi theo. Kết quả này dẫn tới sự quá tải của các hệ thống thu gom và xử lý chất thải vốn được thiết kế theo số giường bệnh. Sự quá tải này cũng là nguyên nhân dẫn đến quản lý, thu gom, phân loại và xử lý thiếu nghiêm ngặt và không tuân thủ các quy định bắt buộc, do đó dẫn đến tình trạng một tỷ lệ chất thải rắn y tế nguy hại có thể bị lẫn vào chất thải rắn chung và phát tán ra môi trường bên ngoài, trở thành nguồn gây ô nhiễm và có khả năng gây ra các rủi ro về môi trường và sức khỏe. Thành phần vật lý: Đồ bông vải sợi: gồm bông gạc, băng, quần áo cũ, khăn lau, vải trải… Đồ giấy: hộp dựng dụng cụ, giấy gói, giấy thải từ nhà vệ sinh… Đồ thủy tinh: chai lọ, ống tiêm, bơm tiêm thủy tinh, ống nghiệm… Đồ nhựa: hộp đựng, bơm tiêm, dây truyền máu, túi đựng hàng… Đồ kim loại: kim tiêm, dao mổ, hộp đựng, … Bệnh phẩm, máu mủ dính ở băng gạc… Rác rưởi, lá cây, đất đá… Thành phần hóa học: Những chất vô cơ: kim loại, bột bó, chai lọ thủy tinh, sỏi đá, hóa chất, chất thử. Những chất hữu cơ: đồ vải sợi, giấy, phần cơ thể, đồ nhựa. Nếu phân tích nguyên tố thì gồm những thành phần: C, H, O, N, S, Cl và một số phân tro. Thành phần sinh học: Máu, những loại dịch tiết, những loại động vật làm thí nghiệm, bệnh phẩm, và đặc biệt là các vi trùng gây bệnh. Các vi sinh gây bệnh trong nước thải bệnh viện : Nước thải bệnh viện được xếp vào nước thải sinh hoạt trong đó chứa đựng các chất thải trong quá trình sống của con người. Nước thải sinh hoạt bao gồm 99,9% nước và 0,1% rắn ; trong đó có khoảng 58% là chất hữu cơ phân bổ chủ yếu ở dạng keo, không tan, 42% là chất vô cơ và một lượng lớn các vi sinh vật. Nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải bệnh viện thay đổi tùy thuộc vào điều kiện hoạt động cụ thể của từng bệnh viện, nhưng phần lớn đều ở mức khá cao, đặc biệt là đối với một số vi khuẩn. Nước thải bệnh viện chứa nhiều mầm bệnh có khả năng lây nhiễm cao như: Samonella, Shigella, Vibro, Coliform, tụ cầu, liên cầu, Pseudomonas… nguy cơ nhiễm virus chủ yếu là virus đường tiêu hóa, virus bại liệt SCHO, Coxcachu…nhiễm các loại kí sinh trùng, amip, trứng giun và các loại nấm hạ đẳng. Bảng 2- Thành phần rác y tế. Thành phần rác thải y tế Tỷ lệ (%) Có thành phần chất nguy hại Các chất hữu cơ 52.9 Không Chai nhựa PVC,PE,PP 10.1 Có Bông băng 8.8 Có Vỏ hộp kim loại 2.9 Không Chai lọ thủy tinh, xy lanh thủy tinh, ống thuốc thủy tinh 2.3 Có Kim tiêm, ống tiêm 0.9 Có Giấy loại,catton 0.8 Không Các bệnh phẩm sau mô 0.6 Có Đất, cát,sành sư &các chất rắn khác 20.9 Không Tổng cộng 100 Tỷ lể phần chất thải nguy hại 22.6 (Nguồn :Quản lý chất thải nguy hại- Nguyễn Đức Khiển) 2.2- ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT THẢI Y TẾ ĐẾN MÔI TRƯỜNG. 2.2.1-Tác động của nước thải y tế. Nguồn tiếp nhận nước thải của các bệnh viện và trung tâm y tế là hệ thống cống thoát nước và sau đó được đổ ra sông. Đây là nguồn tiếp nhận nước thải và chất thải nói chung của hàng loạt các loại hoạt động kinh tế-xã hội khác. Nếu hoạt động không được tốt thì chẳng những môi trường bên trong bệnh viện bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các loại nước thải ô nhiễm mà các nguồn nước xung quanh khu vực bệnh viện cũng bị ảnh hưởng. Hiện nay, nguồn nước cấp cho các đô thị ở Việt Nam được lấy 70% từ nguồn nước mặt và 30% từ nguồn nước ngầm. Song nguồn nước mặt phần lớn là bị ô nhiễm, mức ô nhiễm cao gấp từ 2-3 lần có nơi từ 10-20 lần TCCP. Theo kết luận của một số nhà chuyên môn thì nguồn nước mặt bị ô nhiễm hiện nay là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thủy sản. Các quần thể sinh vật sống dưới nước khó có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường nước bị ô nhiễm bởi kim loại nặng, chất hữu cơ, chất phóng xạ và các hóa chất độc hại khác. Tác động đầu tiên ở đây là sự ngập úng gây mất vệ sinh môi trường bệnh viện. Khi gặp mưa lớn và kéo dài sẽ gây ra sự ngập úng, những vị trí thấp ở một số bệnh viện do hệ thống thoát nước không đảm bảo. Sự tích tụ của chất bẩn và chất độc hại lâu ngày trong bệnh viện sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến vệ sinh môi trường chung của bệnh viện. Các sản phẩm hóa chất, dược phẩm được thải thẳng vào hệ thống cống thải sẽ gây nên các ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động của hệ thống xử lý nước thải (nhất là với các hệ thống sử dụng công nghệ phân hủy sinh học) hoặc gây ảnh hưởng độc hại tới các hệ sinh thái tự nhiên tiếp nhận nguồn nước này. 2.2.2-Tác động của chất thải rắn y tế. Chất thải rắn y tế, xét về mức độ dơ bẩn và độc hại có thể quy vào loại ô nhiễm bậc nhất trong số các loại chất thải rắn của xã hội và tất nhiên nó sẽ gây ra nhiều tác động xấu đến môi trường và sức khỏe cộng đồng. Việc vận chuyển các loại chất thải rắn từ các khoa phòng của các bệnh viện đến nơi tập trung, phân loại, xử lý cũng là điều đáng được quan tâm, nhất là với một số bệnh viện cao tầng. Nếu vận chuyển chất thải từ các tầng trên xuống đất bằng các phương tiện thủ công và sử dụng cầu thang bộ làm tuyến đường vận chuyển chính thì cản trở lưu thông của các bệnh viện và sự va chạm giữa người đi bộ với dụng cụ vận chuyển chất thải. Tùy theo mức độ va chạm mà có thể dẫn đến tình trạng đổ vỡ hoặc rơi rớt chất thải rắn dọc theo cầu thang làm mất mỹ quan của bệnh viện. Khu tập trung, phân loại, xử lý chất thải rắn nếu không tổ chức có khoa học cũng sẽ gây ra nhiều vấn đề về ô nhiễm môi trường như : bốc mùi hôi thối và là mầm gây dịch bệnh. Nước và các dịch chiết tách ra từ chất thải rắn tại khu vực mày thường có mức độ ô nhiễm mạnh nên nếu không tổ chức tốt và vệ sinh thường xuyên sàn khu phân loại tiếp nhận sẽ ảnh hưởng xấu đến môi trường xung quanh. Cuối cùng là vần đề đưa chất thải rắn y tế ra môi trường bên ngoài. Các tác động đối với môi trường trong trường hợp này xuất phát từ vấn đề ô nhiễm không khí( bốc mùi hôi thối), ô nhiễm nguồn nước do nước mưa hòa tan các chất độc hại và vi trùng có trong rác. Từ đó ảnh hưởng đến đất đai và nước ngầm. Sau cùng là các dịch bệnh lan truyền do các loại côn trùng, ruồi muỗi và vi trùng phát triển từ bãi rác. 2.3- ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT THẢI BV ĐẾN SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG. Các rủi ro từ chất thải y tế : Chất thải y tế bao gồm một lượng chất thải sinh hoạt chung và một tỷ lệ nhỏ hơn (khoảng 20%) các chất thải có khả năng gây rủi ro cao. Chất thải rắn y tế nguy hại có thể tạo nên những mối nguy cơ tiềm tàng cho sức khỏe con người Các loại hình rủi ro : Việc tiếp xúc với chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc tổn thương. Khả năng gây rủi ro từ chất thải y tế có thể do một hoặc nhiều đặc trưng cơ bản sau: Các yếu tố truyền nhiễm là tác nhân nguy hại có trong rác thải y tế Các loại hóa chất dược phẩm có thành phần độc, tế bào nguy hiểm Các chất chứa đồng vị phóng xạ Các vật sắc nhọn có thể gây tổn thương Chất thải có yếu tố ảnh hưởng tâm lý xã hội Những đối tượng có thể tiếp xúc với nguy cơ : Tất cả mọi cá nhân tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại là những người có nguy cơ tiềm tàng, bao gồm những người làm việc trong các cơ sở y tế, những người làm nhiệm vụ vận chuyển các chất thải y tế và những người trong cộng đồng phơi nhiễm với chất thải do hậu quả của sự bất cẩn và tắc trách trong các khâu quản lý và kiểm sóat chất thải. Dưới đây là những nhóm đối tượng chính có nguy cơ cao đối với tác hại của chất thải y tế: Bác sĩ, y tá, hộ lý và các nhân viên hành chính của bệnh viện, những người trực tiếp thực hiện các công việc như :tiêm, thay băng… Những người thực hiện phân loại thu gom và vận chuyển chất thải y tế ngay tại nguồn về nơi tập kết của bệnh viện. Bệnh nhân điều trị nội trú và ngoại trú Khách tới thăm hoặc người nhà bệnh nhân. Những công nhân làm việc trong các dịch vụ hỗ trợ bệnh viện phục vụ cho các cơ sở khám chữa bệnh, điều trị, chẳng hạn như giặt ủi, lao công, vận chuyển bệnh nhân, vệ sinh tẩy uế. Những người làm việc trong các cơ sở xử lý chất thải ( tại các bãi đổ rác thải, các lò đốt rác) Chất thải y tế nguy hại phát sinh từ cơ sở dịch vụ y tế tư nhân quy mô nhỏ lẻ, nằm rải rác cũng là nguồn thải có tiềm năng gây rủi ro về môi trường và sức khỏe do nguồn chất thải này thường khó kiểm soát và ít khi được chú ý tới. 2.3.1-Ảnh hưởng của các loại chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn. Các vật thể trong thành phần chất thải nguy hại có thể chứa đựng một lượng rất lớn bất kì tác nhân vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm nào như tụ cầu, HIV, viêm gan B. Các tác nhân gây bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể người thông qua các cách thức sau: Qua da, qua một vết thủng, trầy xước hoặc vết cắt trên da do vật sắc nhọn gây tổn thương. Qua các niêm mạc, màng nhầy. Qua đường hô hấp do xông, hít thở phải Qua đường tiêu hóa do nuốt, ăn phải. Trong các cơ sở y tế, tính kháng đa thuốc kháng sinh của vi khuẩn đối với hàng loạt họ kháng sinh và các hóa chất sát khuẩn cũng có thể tạo ra những mối nguy hiểm do sự quản lý yếu kém của chất thải y tế. Điều này đã được chứng minh, chẳng hạn các plasmid từ các động vật thí nghiệm có trong chất thải y tế được truyền cho vi khuẩn gốc qua hệ thống xử lý chất thải. Hơn nữa, vi khuẩn E.Coli kháng thuốc đã cho thấy nó vẫn còn sống trong môi trường bùn hoạt tính mặc dù ở đó không phải môi trường thuận lợi cho loại vi sinh vạt này trong điều kiện thông thường của hệ thống xử lý và tiêu hủy chất thải y tế. Đối với những bệnh có khả năng truyền nhiễm, nguy hiểm do virus gây ra như HIV/AIDS, viêm gan B hoặc C, những nhân viên y tế, đặc biệt các y tá, hộ lý là những người có nguy cơ nhiễm cao nhất qua các vết thương do các vật sắc nhọn bị nhiễm máu bệnh nhân gây nên. Các nhân viên hành chính của bệnh viện và những người vận hành hệ thống quản lý chất thải trong phạm vi bệnh viện cũng như ngoài bệnh viện ở các trạm xử lý chất thải của địa phương, khu vực cũng có nguy cơ đáng kể, chẳng hạn như những nhân viên quét dọn vệ sinh, những người bới rác tại các bãi đổ rác mặc dù chưa có nhiều bằng chứng ghi nhận những nguy cơ này (do chưa có sự quan tâm đúng mức tới các đối tượng này). Nguy cơ của các lọai bệnh truyền nhiễm này trong số các bệnh nhân và cộng đồng không phải tiếp xúc với chất thải y tế thấp hơn nhiều. Trong một số trương hợp, một vài bệnh truyền nhiễm lây truyền và lan rộng ra cộng đồng xung quanh nhiều khi trở thành dịch, một bằng chứng ghi nhận là vụ dịch tả hoành hành ở Trung Mỹ năm 1996-1997 mà nghi can chính là do nước thải từ một bệnh viện truyền nhiễm ở Peru không được xử lý và thải ra khu vực, kết quả là gây nhiễm bệnh và bùng phát thành dịch bệnh. Tỷ lệ tổn thương hàng năm do các vật sắc nhọn trong chất thải y tế và dịch vụ vệ sinh môi trường cả trong và ngoài các bệnh viện gây ra đã được cơ quan đăng ký Độc chất và Bệnh tật Hoa Kỳ(ATSDR) đánh giá. Nhiều tổn thương gây ra do kim tiêm trước khi vứt bỏ vào các thùng chứa, do những thùng chứa kim không kín hoặc được làm bằng những loại vật liệu dễ bị rách, bị xuyên thủng. Một báo cáo của Cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA) tại hội nghị chất thải y tế đã đánh giá số trường hợp nhiễm virus viêm gan B và C hàng năm bị tổn thương gây ra bởi các chất thải sắc nhọn. Trong số các nạn nhân có nhiều nhân viên y tế và nhân viên trong hệ thống quản lý xử lý chất thải. Số người bị nhiễm virus viêm gan B hàng năm ở Hoa Kỳ mà nguyên nhân do tiếp xúc với chất thải y tế vào khoảng từ 162 đến 321 ca so với tổng số 300000 trường hợp bị nhiễm mỗi năm. Trong bất kỳ một cơ sở y tế nào, y tá và những nhân viên quản lý bệnh viện là những nhóm nguy cơ chính bị tổn thương vì họ là những người tiếp xúc trực tiếp vối chất thải y tế. Tỷ lệ tổn thương nghề nghiệp hàng năm của những đối tượng này vào khoảng 10-20 phần nghìn. Tỷ lệ tổn thương nghề nghiệp cao nhất trong số tất cả các nhân viên có thể đã tiếp xúc với chất thải y tế đã được báo cáo bởi các nhân viên lao công và nhân viên xử lý chất thải, tỷ lệ hàng năm ở Mỹ là 180 phần nghìn. Các ví dụ về sự nhiễm khuẩn gây ra do tiếp xúc với chất thải y tế được liệt kê trong bảng dưới đây qua đường truyền là các dịch thể như máu, dịch não tủy, chất nôn, nước mắt, tuyến nhờn. Bảng .3- Một số ví dụ về sự nhỉễm khuẩn gây ra do tiếp xúc với các loại chất thải y tế, các loại vi sinh vật gây bệnh và phương tiện lây truyền: Loại nhiễm khuẩn Vi sinh vật gây bệnh Dạng chất thải y tế Nhiễm khuẩn tiêu hóa Nhóm Enterobacteria:Shigella, Salmonella: Vibrio cholerae: Phân hoặc chất nôn Nhiễm khuẩn hô hấp VK lao, virus sởi, Streptococus pneumoniae Các loại dịch, tiết đờm Nhiễm khuẩn mắt Virus herpes Dịch tiết của mắt Nhiễm khuẩn sinh dục Nesseria goborrhoeae, virus herpes Dịch tiết sinh dục Nhiễm khuẩn da Streptococcus spp Mủ Bệnh than Bacillus antharacis Chất tiết của da (mồ hôi, chất nhờn …) Viêm màng não Não mô cầu (Neisseria menighitidis) Dịch não tủy AIDS HIV Chất tiết sinh dục Sốt xuất huyết Các virus :Junin, Lassa. Ebola, Marburg Tất cả các sản phẩm máu và dịch tiết Nhiễm khuẩn huyết do tụ cầu Staphylococus spp Máu Nhiễm khuẩn huyết do các loại vi khuẩn khác nhau Nhóm tụ cầu khuẩn Enterobacter; Enterococcus; Streptococcus spp, Klebssiella Máu Nấm Candida Cadida albican Máu Viêm gan A Virus viem gan A Phân Viêm gan B,C Virus viêm gan B,C Máu, dịch thể (Nguồn : Môi trường bệnh việnCục bảo vệ môi trường) Cho đến thời điểm hiện nay Việt Nam vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào phản ánh được tình trạng tổn thương do nghề nghiệp của các nhân viên y tế và nhân viên các công ty môi trường đô thị cũng như người dân sống cận kề các bãi rác có lẫn rác từ các bệnh viện. 2.3.2- Ảnh hưởng của các chất thải hóa chất và dược phẩm. Nhiều hóa chất và dược phẩm được sử dụng trong cơ sở y tế là những mối nguy cơ đe dọa sức khỏe con người như độc dược, các chất gây độc gen, chất độc tế bào, chất ăn mòn, chất dễ cháy, các chất gây phản ứng, gây nổ ..v v. Các loại chất này thường chiếm số lượng nhỏ trong chất thải y tế hoặc đôi khi với tỷ lệ khá lớn như trong trường hợp các dạng thuốc, sinh phẩm quá hạn, thuốc thừa hoặc hết tác dụng cần vứt bỏ. Chúng có thể gây nhiễm độc do tiếp xúc cấp tính và gây nhiễm độc mãn tính gây ra các tổn thương như bỏng. Sự nhiễm độc này có thể là kết quả của quá trình hấp thụ hóa chất hoặc các chất dễ cháy, chất ăn mòn, các chất hóa chất gây phản ứng. Trong khi không có tài liệu khoa học nào cho thấy mức độ phổ biến của bệnh tật gây ra do chất thải hóa chất hoặc dược phẩm từ các bệnh viện đối với cộng động, thì nhiều trường hợp nhiễm độc quy mô lớn do chất thải hóa chất công nghiệp đã xảy ra. Cũng có một số thông báo về nhiều vụ tổn thương hoặc nhiễm độc do việc vận chuyển hóa chất và dược phẩm trong bệnh viện không đúng quy cách. Các dược sĩ, bác sĩ gây mê, y tá, kỹ thuật viên, các cán bộ hành chính có nguy cơ mắc các bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da do tiếp xúc với các loại hóa chất dạng chất dạng lỏng dễ bay hơi, dạng phun sương và các dung dịch khác. 2.3.3- Ảnh hưởng của các chất thải gây độc gen. Thực chất cần phải đủ thời gian để thu thập những bằng chứng về ảnh hưởng lâu dài đối với sức khỏe của các chất thải gây độc gen từ các cơ sở y tế bởi vì rất khó đánh giá ảnh hưởng lâu dài đối với sức khỏe của các chất thải gây độc gen trong y tế lên mối nguy cơ đối với con người. Một nghiên cứu được tiến hành ở Phần Lan đã tìm ra một vài dấu hiệu liên quan giữa tỷ lệ sảy thai trong 3 tháng đầu của thai kỳ liên quan tới việc tiếp xúc nghề nghiệp với các thuốc chống ung thư, nhưng các nghiên cứu tương tự được tiến hành tại Pháp và Mỹ lại không xác nhận kết quả này. (Nguồn:Môi trường bệnh viện – Cục bảo vệ môi trường) Có rất nhiều nghiên cứu được xuất bản đã điều tra khả năng kết hợp giữa nguy cơ đối với sức khỏe và tiếp xúc với thuốc chống ung thư, biểu hiện bằng sự tăng đột biến các thành phần trong nước tiểu ở những người đã tiếp xúc và tăng nguy cơ sảy thai. Mức độ tập trung các thuốc gây độc gen trong bầu không khí bên trong bệnh viện đã được xem xét trong một số nghiên cứu để đánh giá các ảnh hưởng về sức khỏe liên quan với việc tiếp xúc các yếu tố nguy cơ. Hiện vẫn chưa có những công bố khoa học nào ghi nhận những hậu quả bất lợi đối với sức khỏe do công tác quản lý yếu kém đối với các chất gây độc gen từ trong các cơ sở y tế như bệnh viện. 2.3.4- Những ảnh hưởng của chất thải phóng xạ; Nhiều tai nạn được ghi nhận do việc thanh lý, xử lý các nguyên liệu trong trị liệu hạt nhân cùng với số lượng lớn những người bị tổn thương do vô tình hay hoàn cảnh phải tiếp xúc với nguy cơ chất thải phóng xạ trong y tế. Một thông báo ở Brazil, đã phân tích và có đầy đủ tài liệu để chứng minh trường hợp ảnh hưởng của chất thải phóng xạ trong y tế tới ung thư công đồng. Sự cố này có liên quan tới việc bỏ sót chất thải phóng xạ của một bệnh viện trong khi chuyển tới đại điểm mới, do đã làm thất thoát tại địa điểm cũ một nguồn xạ trị đã được niêm phong. Sau đó một người dân chuyển đến địa điểm nơi bệnh viện đã dời đi và vô tình đã nhặt được nguồn xạ mang về nhà. Hậu quả là đã có 249 người tiếp xúc chịu phơi nhiễm với nguồn xạ này, nhiều người trong số đó hoặc đã chết hoặc gặp phải hàng loạt vấn đề về sức khỏe. Đa số các tác hại của chất thải phóng xạ trong cơ sở y tế được báo cáo qua các vụ tai nạn liên quan đến việc tiếp xúc với các nguồn phóng xạ ion hóa trong các cơ sở điều trị, như hậu quả từ các thiết bị phát tia X quang hoạt động không an toàn, do việc chuyên chở vận chuyển các dung dịch xạ trị không đảm bảo hoặc thiếu các biện pháp giám sát trị liệu. 2.4- CÁC GIẢI PHÁP TRONG QUẢN LÝ VÀ XỬ LÝ CHẤT THẢI Y TẾ. 2.4.1- Chất thải rắn 2.4.1.1- Thu gom, vận chuyển, lưu giữ: Thu gom. Theo quy định, chất thải y tế được các hộ lý và y công thu gom hàng ngày ngay tại các khoa, phòng. Tuy nhiên, tình trạng chung do các bệnh viện và trung tâm y tế không có đủ áo bảo hộ và các phương tiện bảo hộ khác cho nhân viên trực tiếp tham gia vào thu gom, vận chuyển và tiêu hủy chất thải. Lưu giữ, vận chuyển. Chất thải y tế được thu gom phân loại và vận chuyển về khu trung chuyển tại bệnh viện. Thực tế trong quy hoạch xây dựng cũng chưa có những hướng dẫn cho việc xây dựng, các tiêu chuẩn cho khu trung chuyển chất thải rắn bệnh viện. Hầu hết các điểm tập trung chất thải rắn y tế được bố trí trên một khu đất bên trong khuôn viên bệnh viện thành một khu trung chuyển. Các khu trung chuyển có điều kiện vệ sinh không đảm bảo, có nhiều nguy cơ gây rủi ro do vật sắc nhọn rơi vãi, côn trùng dễ dàng xâm nhập ảnh hưởng đến môi trường bệnh viện. Việc phối hợp liên ngành còn kém hiệu quả trong mọi công đoạn của quy trình quản lý chất thải bệnh viện. Chỉ mới có vài công ty bước đầu nghiên cứu sản xuất được phương tiện để thu gom và vận chuyển chất thải, tuy nhiên còn đang ở giai đoạn thí điểm chưa sản xuất đại trà. Chỉ có 18.75% trong tổng số các bệnh viện có chất thải được vận chuyển ra khỏi bệnh viện bằng xe chuyên dụng của công._. ty môi trường đô thị. 2.4.1.2- Xử lý chất thải rắn y tế Thiêu đốt chất thải rắn y tế. Một thực tế là trong nhiều năm trước đây khi đầu tư xây dựng bệnh viện chúng ta hoàn toàn chưa hạch toan được chi phí cho xử lý chất thải. Phần lớn các bệnh viện tự xây lò đốt cho mình và không theo một thiết kế mẫu nào cả. Công ty môi trường đô thị ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã đầu tư hệ thống xử lý chất thải rắn y tế bao gồm cả khâu thu gom, vận chuyển chất thải rắn y tế từ bệnh viện và vận chuyển tới xí nghiệp đốt rác để tiêu hủy. Hiện nay đã có hai lò đốt rác y tế theo mô hình tập trung lò đốt Del Monego 200 xí nghiệp đốt rác Tây Mỗ – Hà Nội và lò đốt Hoval GG-24 xí nghiệp đốt rác Bình Hưng Hòa-Thành phố Hồ Chí Minh với công nghệ nhập ngoại của nước ngoài. Một số bệnh viện như Viện Lao và Bệnh phổi, Bệnh viện C Đà Nẵng, Bệnh viện Vũng tàu với sự giúp đỡ cua 3 công ty Wamed engineering đã lắp đặt lò đốt chất thải y tế Hoval MZ2 của Thụy Sĩ có công nghệ hiện đại với nhiệt độ thiệu đốt có hiệu quả. Qua thời gian theo dõi trên 15 tháng của Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường Hà Nội lò đốt của Viện Lao và Bệnh phổi đã thiêu đốt trên 10 tấn rác y tế nguy hại với kết quả tốt đảm bảo an toàn về môi trường. Đã có một số bệnh viện lắp đặt và vận hành lò đốt do Việt Nam sản xuất như bệnh viện đa khoa tỉnh Đồng Tháp, Sóc Trăng lò đốt do trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh thiết kế và lắp đặt… Cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu thống kê cụ thể nào về các loại lò đốt hiện đang hoạt động tại các bệnh viện ở Việt Nam và hiệu quả xử lý của lò đốt thiết kế và chế tạo trong nước. Một vấn đề mà các nhà môi trường cần quan tâm là ô nhiễm thứ cấp tạo ra trong quá trình đốt chất thải y tế nguy hại cần đươc quan tâm nghiên cứu. Chôn lấp chất thải rắn y tế. Trong hầu hết các bệnh viện tuyến huyện và một số bệnh viện tuyến tỉnh, chất thải y tế được chôn lấp tại bãi rác công cộng hay chôn lấp trong khu đất của bệnh viện. Trường hợp chôn lấp trong bệnh viện chất thải được chôn lấp vào trong các hố đào và lấp đất lên, nhiều khi lớp đất phủ lên trên chất thải y tế quá mỏng không đảm bảo vệ sinh. Tại các bệnh viện không có lò đốt tại chỗ, một số loại chất thải đặc biệt như bào thai, nhau thai và bộ phận cơ thể bị cắt bỏ sau phẫu thuật được thu gom để đem chôn trong khu đất bệnh viện hoặc chôn trong nghĩa trang của địa phương. Do diện tích mặt bằng của bệnh viện bị hạn chế nên nhiều bệnh viện hiện nay gặp khó khăn trong việc tìm kiếm diện tích đất để chôn chất thải rắn y tế nguy hại. Một thực trạng là vật sắc nhọn được chôn lấp cùng với các chất thải y tế khác tại khu đất bệnh viện hay tại bãi rác công cộng, dễ gây rủi ro cho nhân viên thu gom, vận chuyển chất thải và cộng đồng. 2.4.2 – Nước thải 2.4.2.1. Thu gom,vận chuyển,lưu giữ Nguyên tắc chung: Nguyên tắc chung để thu gom nước thải y tế là: Tách nước mưa chảy tràn vào hệ thống thu riêng, phù hợp cả về bố trí hệ thống máng, rãnh, cống và bể điều hòa. Tách lượng nước sinh hoạt thông thường như nước nấu ăn và chế biến thực phẩm, nước thải khu hành chính, văn phòng … Thu gom triệt để lượng nước thải từ hoạt động chuyên môn như khám,chuẩn đoán và điều trị. Nước mưa chảy tràn : Nước mưa chảy tràn được kiểm soát và thu gom bởi hệ thống sau : Mái nhà hứng và hệ thống ống thu nước mưa từ mặt bằng mái xây dựng, thông thường hệ thống máng sắt PVC loại 120-180 mm được lắp đặt phủ đều diện thu và thoát nước. Hệ thống rãnh, cống và các hố ga thu bảo đảm thu nước chảy tràn trên mặt bằng khuôn viên bệnh viện. Hệ thống này thường được thiết kế và thi công kiểu rãnh gom quanh nhà, cống thoát nước xây gạch hay ống bê tông li tâm. Kích thước cống và ống tăng dần từ điểm thu gom đầu tiên cho tới khi đổ ra bể điều hòa hoặc lưu vực, thông thường từ 250-600 mm đối với cống bê tông. Hệ thống khống chế thủy lực chủ yếu được dựa vào nguyên tắc tự chảy theo độ dốc tự nhiên của mặt bằng bệnh viện và cách thiết kế thi công. Độ dốc trung bình khoảng 1-1.5 % đảm bảo dòng tự chảy thoát nước tốt. Hệ thống thu, dẫn thoát nước mưa chảy tràn có chi phí đầu tư cơ bản tương đối cao, thông thường khoảng gấp 5 lần chi phí hệ nước cấp, do vậy nhiều bệnh viện không nhận thức được nên đã thực hiện không hoàn chỉnh ở khâu này. Phần lớn sự hoạt động kém hiệu quả của hệ thống thoát nước mưa chảy tràn là do nhận thức và hành động chưa đúng ngay từ trong quá trình thiết kế thi công công trình cho tới cả trong quá trình vận hành và bảo dưỡng hệ thống. Nước thải chuyên môn : Nước thải từ hoạt động chuyên môn khám bệnh, chuẩn đoán và điều trị được thu bởi hệ thống ống thu được lắp đặt trong công trình nhờ hệ thống thu của chậu rửa. Cách bố trí và đường ống tăng dần từ các điểm thu cục bộ tới các ống góp và cuối cùng đưa về trạm xử lý bằng hệ thống ống dẫn riêng: Nguồn nước thải hoạt động chuyên môn của các cơ sở y tế Trạm xử lý nước thải bệnh viện Hệ thống nước thải chung Nước mưa chảy tràn Nước sinh hoạt Trước Sau xử lý trước Hình.1 – Sơ đồ nguyên tắc thu gom và xử lý nước thải bệnh viện 2.4.2.2- Xử lý nước thải y tế. Nguyên tắc và yêu cầu xử lý nước thải y tế: Nước thải y tế phải được xử lý trước khi thải ra lưu vực. Tiêu chuẩn áp dụng là TCVN 6772-2000. Bảng.4- Tiêu chuẩn và yêu cầu một số chỉ tiêu nước thải bệnh viên: STT Chỉ tiêu Đơn vị TCVN 6772-2000 1 SS mg/l 50 2 COD, mg/l mg/l 100 3 BOD5,mg/l mg/l 30 4 NH4,mg/l mg/l 1 5 Tổng N, mg/l mg/l 60 6 Tổng P, mg/l mg/l 6 7 pH - 5-9 8 Coliform,VK/100ml Vk/ 100ml 1000 (Nguồn :Môi trường bệnh viện- Cục bảo vệ môi trường ) Các phương pháp xử lý nước thải y tế có thể phân loại theo bản chất của phương pháp hoặc theo chức năng cửa phương pháp. Theo bản chất của phương pháp có 2 nhóm : Các phương pháp hóa lý: Các phương pháp chắn rác : Dùng các ghi bằng sắt hoặc bê tông có khe thông thoáng từ 2-5m m đủ để chắn rác thô. Phương pháp loại cặn cơ học: Kênh bể lắng cát thường được bố trí trong hệ thống xử lý hoặc làm hại các cơ cấu chuyển động phía sau. Thường các thông số thiết kế phải tính sao cho có thể loại được cát có kích thước tới 0.15m m tương ứng với tốc độ thủy lực là 13.2mm/s. Cyclon thuy lực : Được dùng trong trường hợp tách các loại cặn cơ học có kích thước 5-5000 µm. Lưới lọc:Dùng tách cặn cơ học, rong rêu trong trường hợp xử lý nước thải bệnh viện thường được chế tạo bằng thép không rỉ, hợp kim đồng Niken hoặc Polieste có kích thước lỗ 5-500 µm. Bể điều hòa: Nước thải có lưu lượng và mức ô nhiễm không đều và không đồng nhất theo thời gian, để ổn định chế độ làm việc chohệ thống xử lý cần ổn định nước thải đầu vào cả về lưu lượng và mức độ ô nhiễm bằng các bể chứa có dung tích được thiết kế tính toán cho cả trường hợp lưu lượng tối đa và tôi thiểu. Phương pháp làm thoáng: Làm thoáng tự nhiên có ứng dụng hạn chế trong xử lý nước ngầm nhiễm sắt hoặc mangan, nhưng ở mức độ nhất định có khả năng làm giảm một số chất tan có khả năng bay hơi cao như CO2, H2S, các chất khí cácbua hyđro mạch ngắn. Phương pháp nhiệt: Dùng trong trường hợp chưng cất nhằm mục đích tận thu các chất đắt tiền trong nước thải công nghiệp hoặc nước thải y sinh học . Phương pháp oxy hóa :Dùng các tác nhân oxy hóa khác nhau như không khí, oxy,clo các hợp chất chứa Clo, Ozon, KMnO4… Đặc biệt là kỹ thuật sử dụng Clo hay hợp chất chứa clo còn dùng rộng rãi trong khử trùng xử lý nước thải bệnh viện. Kỹ thuật hấp phụ: Là kỹ thuật xử lý các chất hữu cơ hòa tan gây ra màu lạ, thường người ta dùng than hoạt tính. Than hoạt tính có thể đưa vào sau công đoạn tạo bông hoặc bố trí trước khi thải ra dưới dạng cột hấp phụ hay bể hấp phụ. Tuyển nổi:Kỹ thuật tuyển nổi thường được áp dụng trong trường hợp tách các chất lỏng nhẹ hơn nước ra khỏi nuớc. Lọc: Kỹ thuật lọc thường được thực hiện sau bước keo tụ và lắng. Nhóm phương pháp vi sinh: Xử lý hiếu khí cặn lơ lửng: Nước sau khi được chỉnh tới pH thích hợp, thêm N, P vào nếu cần sao cho tỷ lệ hữu cơ theo chỉ số BOD5/N/P=100/5/1 là thích hợp. Bể phốt: Là bể thổi khí, quá trình sục khí phản ứng được thực hiện trong bồn, cặn lơ lửng được lắng tiếp theo. Trong bể xảy ra các quá trình sinh học, các vi khuẩn hiếu khí nhân lên và phát triển rất mạnh, trong điều kiện đủ oxy, đủ chất dinh dưỡng là các hợp chất hữu cơ có trong nước thải, với đặc điểm sinh lý, dinh dưỡng của vi khuẩn mỗi ngày một còn có thể chuyển hóa một lượng thức ăn gấp 40 lần trọng lượng tế bào vi khuẩn nên hợp chất hữu cơ bị phân hủy và giảm thiểu rất nhanh. Xử lý hiếu khí cặn cố định: Lớp vi sinh được nuôi cấy trên các vật liệu mang cò bề mặt càng phát triển càng tốt. Lọc sinh học : Cấu tạo tương tự bể lọc cát nhưng có bố trí luồng khí thổi từ dưới lên, vật liệu lọc thô hơn để tăng diện tích giá thể bám. Bể lọc nhỏ giọt: Nước thải được rải đều và phân bố trên toàn bộ bề mặt lớp vật liệu lọc bằng một cơ cấu lọc nhỏ giọt. Xử lý yếm khi căn lơ lửng : Ưu điêm của phương pháp này : Chịu được nồng độ hữu cơ cao(BOD5 từ 1500-15000 mg/l) Lượng bùn thải ít Chi phí vận hành thấp thậm chí còn đem lại hiệu quả kinh tế cao Xử lý yếm khí cặn cố định: Lớp vi sinh được cố định trên hạt vật liệu xốp và được tuần hoàn từ trên xuống dưới nhờ hệ thống bơm. Hồ sinh học: Có thể dùng các ao hồ đủ rộng để xử lý nước thải y tế. Nếu hồ nông và có độ sâu trung bình <0.7m thì quá trình xảy ra là hiếu khí. Nếu hồ có độ sâu hơn thì phía trên là quá trình phân hủy hiếu khí, phía dưới là quá trình phân hủy kỵ khí. 2.4.3.- Khí thải . Một số thiết bị được lắp đặt thêm hệ thống xử lý khí thải. Tùy thuộc thành phần rác đem đốt như rác có PVC, Plastic, những loại mà trong thành phần khi cháy có chứa nhiều Cl, NO, SOx có thể tạo thành acid HOCl, HCl, HNO3 do vậy các chất này cần được xử lý sơ bộ để không gây ô nhiễm thứ cấp. Lò đốt đa vùng thường cấu tạo hai buồng đốt sơ cấp hay nhiệt phân và buồng đốt thứ cấp hay buồng oxy hóa với nhiều giai đoạn cháy khác nhau ở cả trong hai buồng đốt : Buồng đốt sơ cấp gồm hai diễn biến : Giai đoạn 1 : Chất thải rắn được sấy khô Giai đoạn 2 : Cháy và khử khí (cácbon hóa) Buồng đốt thứ cấp gồm 3 diễn biến: Giai đoạn 1 : Phối trộn Giai đoạn 2 : Đốt cháy khử khí Giai đoan 3 : Oxy hóa hoàn toàn Sự cân bằng năng lượng giữa hai buồng đốt này là vấn đề quan trọng nhất, chúng phải có nội thất, kích cỡ phù hợp để thực hiện một mức độ nạp chất thải nhất định trong mỗi buồng đốt. nếu qúa nhiều năng lượng được tạo ra trong buồng đốt chính thì khí cháy tạo ra sẽ tăng lên và dẫn đến tốc độ cao hơn. Thiết bị xử lý và làm mát khí thải: Trong những trường hợp đặc biệt có yêu cầu rất cao về kiểm soát ô nhiễm thứ cấp kiểm soát chất lượng khói thải, lò đốt được trang bị them hệ thống xử lý khói thải. Công nghệ xử lý tiên tiến hiện nay thường có hai phương pháp xử lý : Xử lý khô và xử lý ướt. Xử lý khô : Phương pháp này sử dụng hóa chất ở dạng bột như CaO để trung hòa các chất ô nhiễm trong khí thải, và một túi lọc ( lọc sợi hoặc lọc tĩnh điện) để loại bỏ các muội và bụi. Trước khi xử lý, khói thải được làm mát đến nhiệt độ 170-2500 C theo nguyên lý trao đổi nhiệt “ không khí- Khói thải” hoặc “ Nước – Khí thải”. Ở giai đoạn này có thể kết hợp thu hồi nhiệt để sử dụng. sau đó phun vôi trực tiếp vào dòng khí thải, vôi sẽ phản ứng với các khí hơi axít để tạo muối trơ. Các muối này cùng với tro và bụi bị bộ lọc giữ lại. Phương pháp xử lý khô đơn giản, kinh tế và đạt hiệu quả cao. Xử lý ướt: Khí thải sau khi ra khỏi buồng đốt sau đi vào khu vực trung hòa và tháp lọc, dung dịch lỏng (sođa) được phun trực tiếp vào dòng khí để hấp phụ loại bỏ các chất ô nhiễm như SOx, HCl, OCl, Halogen … và các kim loại nặng, kể cả thủy ngân. Đồng thời khí thải được làm mát tới nhiệt độ 700C, sau đó hút bằng quạt gió dẫn tới ống khói. Hiệu quả của phương pháp ướt cực kì cao, trị số phát tán ô nhiễm thứ cấp vào môi trường rất thấp. Tuy nhiên phương pháp này khá phức tạp và chi phí đầu tư vận hành cao. Mặc dù hiệu quả xử lý cao nhưng phương pháp xử lý ướt còn sinh ra một số nhược điểm rất lớn là dung dịch hóa chất sau khi xử lý sẽ là nguồn gây ô nhiễm ở dạng lỏng. 2.4.4. – Ngăn ngừa và giảm thiểu. Một cách có hiệu quả kinh tế, xã hội trong quản lý chất thải nói chung và quản lý chất thải y tế nói riêng là tiến hành các biện pháp tổ chức quản lý, kỹ thuật, chính sách để giảm thiểu ngay chất thải y tế từ nguồn phát sinh. Nguyên tắc: Giảm thiểu chất thải tại nguồn: Biện pháp lựa chọn thay thế vật liệu gì sao cho lượng phế thải nhỏ nhất hay lựa chọn nhà chung cấp vật tư thuốc men, lương thực… cho bệnh viện mà có lượng thải bỏ nhỏ nhất. Tại các nước công nghiệp phát triển, do khuynh hướng phát triển bền vững nên thường các nhà sản xuất phải tuân thủ luật bao bì, nội dung chính là giảm thiểu lượng bao bì phải chịu trách nhiệm với lượng bao bì do mình làm ra, theo đó người sử dụng sẽ thải bỏ vào môi trường ít đi. Tăng cường sử dụng sản phẩm thu hồi: Sử dụng các vật liệu, vật tư có khả năng thu hồi, tái sử dụng lại được. Trong bệnh viện có khá nhiều loại dụng cụ lâu bền, sử dụng nhiều lần là trong phẫu thuật, khám bệnh sơ cứu, cấp cứu, xét nghiệm chuẩn đoán… Những vật tư, dụng cụ lâu bền như các dụng cụ kết xương, dụng cụ thăm khám thường dùng lại sau khi đã rửa sạch và vô khuẩn, khử khuẩn. Mặc dầu vậy, khuynh hướng hiện nay tăng cường sử dụng các dụng cụ sử dụng một lần như kim tiêm vì tính tiện lợi của các dụng cụ này đối với thầy thuốc, vì yêu cầu của bệnh nhân nên có sự lạm dụng đối với các vật tư tiêu hao sử dụng một lần dẫn đến làm tăng chất thải y tế. Trong thực tế một số dụng cụ có thể thu hồi lại được và sử dụng vẫn hiệu quả, an toàn về mặt chất thải vì mang lại kinh tế như các loại nẹp cố định dùng trong chấn thương, đồ vải dùng trong các thủ thuật… Thực hành quản lý và kiểm sóat tốt : Bằng biện pháp này cũng góp phần giảm thiểu được lượng chất thải y tế. Các hoạt động cụ thể cần chú ý: quản lý, giám sát thường xuyên các dụng cụ, thuốc men, thực phẩm hóa chất có thời hạn sử dụng. Nhờ biện pháp theo dõi chặt chẽ nên không để bất kỳ loại vật tư, dụng cụ thuốc men hay thực phẩm nào bị hết hạn sử dụng do vậy cũng giảm thiểu lượng chất thải y tế. Các biện pháp chính. Giảm thiểu tại nguồn: Chọn các nhà cung cấp, hậu cần bệnh viện mà sản phẩm của họ ít phế thải hay giảm lượng chất thải rắn y tế nguy hại phải xử lý đặc biệt. Sử dụng các biện pháp khử trùng tẩy uế cơ lý học nhiều hơn các biện pháp hóa học sẽ giảm thiểu chất thải nguy hại. Giảm thiểu chất thải nhất là trong công tác hộ lý và khử trùng, tẩy uế. Quản lý và kiểm sóat ở bệnh viện: Tập trung quản lý thống nhất các loại thuốc, hóa chất nguy hại. Giám sát sự luân chuyển lưu hành hóa chất, dược chất ngay từ khâu nhận, nhập kho, sử dụng và tiêu hủy hay thải bỏ. Quản lý kho hóa chất, dược chất: Thường xuyên nhập hàng từng lượng nhỏ hơn nhập quá nhiều một đợt để dẫn tới thừa hay quá hạn. Sử dụng các lô hàng cũ trước hàng mới nhập kho dùng sau Sử dụng toàn bộ thuốc, dược chất, vật tư trong kiện rồi mới chuyển sang kiện mới. Thường xuyên kiểm tra hạn sử dụng các loại thuốc, dược chất, vật tư tiêu hao ngay từ khi nhập hàng cũng như trong quá trình sử dụng. CHƯƠNG 3 MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC BỆNH VIỆN VÀ TRUNG TÂM Y TẾ TẠI TP. MỸ THO – TIỀN GIANG 3.1- ĐẶC ĐIỂM MẠNG LƯỚI Y TẾ CỦA TP MỸ THO Thống kê số liệu về mạng lưới y tế của Tp Mỹ Tho: Các số liệu về bệnh viện, trạm y tế, cơ sở y tế cho kết quả như sau: Bảng 5 : Số liệu y tế của Tp Mỹ Tho năm 2001-2005: Đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005 Cơ sở y tế Cơ sở 17 17 22 22 24 Bệnh viện Cơ sở 3 3 3 7 7 Phòng khám khu vực Cơ sở 1 1 2 2 2 Trạm y tế xã phường Giường 13 13 13 13 15 Giường bệnh Giường Tổng số Giường 781 800 913 933 935 BV khám chữa bệnh Giường 725 725 866 886 890 Số lượt người khám Ngàn lượt người 338 339 936 938 948 Lsượt người điều trị nội trú Ngàn lượt người 41 42 55 61 49 Cán bộ y tế Người Bác sĩ Người 217 305 294 288 250 Y tế Người 157 178 203 205 205 Y tá Người 235 253 278 308 310 Dược sỹ đại học Người 47 51 53 41 42 Dược sỹ trung học Người 158 167 209 193 195 Dược tá Người 53 53 58 38 42 (Nguồn: Số liệu phát triển kinh tế xã hội của TP Mỹ Tho 2005) Thành phố Mỹ Tho tính đến năm 2006 có 7 bệnh viện và 15 trung tâm y tế, một số bệnh viện nằm tập trung gần nhau như bệnh viện Đa Khoa Trung tâm Tỉnh, bệnh viện Phụ Sản, bệnh viện Y học Cổ truyền. Với đội ngũ cán bộ y bác sĩ đông đảo đã và đang từng bước khắc phục một số nhược điểm trong công tác chăm sóc sức khỏe bệnh nhân. 3.2- HIỆN TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC BỆNH VIỆN VÀ TRUNG TÂM Y TẾ THÀNH PHỐ MỸ THO 3.2.1- Phân loại chất thải bệnh viện Theo báo cáo của Trung tâm y tế dự phòng các tỉnh, đa số các bệnh viện (81.25%) đã thực hiện phân loại chất thải ngay tại nguồn nhưng việc phân loại còn nhiều phiến diện và kém hiệu quả, do nhân viên tham gia công tác này chưa được đào tạo đủ. Việc phân loại còn chưa theo đúng quy cách như các vật sắc nhọn trong chất thải rắn y tế đang còn lẫn nhiều chất thải rắn sinh họat. Còn nhiều bệnh viện(45%) chưa tách riêng các vật sắc nhọn ra khỏi chất thải rắn y tế làm tăng nguy cơ rủi ro cho những người trực tiếp vận chuyển và tiêu hủy chất thải. Bảng 6 - Phân loại chất thải tại một số bệnh viện của thành phố M ỹ Tho: Loại chất thải Túi màu vàng Túi màu đen Túi màu xanh Một số điếm cần chú ý 1.Kim tiêm X Các chất thải nếu phát sinh từ Labo Vi sinh hoặc từ khoa phòng Phóng xạ thì phải được xử lý sơ bộ 2.Kim bơm X 3.Lưỡi dao mổ X 4.Lưỡi dao cạo X 5.Kim chọc dò X 6.Các vật sắc nhọn khác X 7.Pipet, ống mao dẫn, lam kính X 8.Ống xét nghiệm X 9.Chất thải thấm máu và các dịch sinh học khác của bệnh nhân X - Luôn được loại bỏ vào túi nilông màu vàng - Xử lý bằng phương pháp thiêu đốt 10.Chất thải phát sinh từ khoa Thận nhân tạo X 11.Chất thải phát sinh từ buồng cách ly X 12.Bộ dây chuyền máu, truyền plasma (bao gồm cả túi đựng máu và plasma) x 14.Giẻ lau máu X 15.Găng y tế X 16.Catheter tĩnh mạch bằng nhựa X 17.ống hút đờm, ống thông tiểu, ống thông dạ dày X 18.Các ống dẫn lưu X 19.Lọ, ống thuốc và các vật dụng khác sử dụng trong liệu pháp hóa học X - Cần được thu gom và xử lý sơ bộ theo quy trình riêng - Với các chất thải ở mục 21 & 22 thì phải được xử lý sơ bộ ngay tại nơi phát sinh trước khi đưa ra nơi xử l ý tập trung 20.Các bệnh phẩm thừa hoặc chất thải động vật thí nghi ệm X 21.Các vật dụng nuôi cấy, lưu giữ, các tác nhân lây nhiễm và những thiết bị sử dụng trong việc cấy chuyển, tiêm chủng hoặc các loại môi trường nuôi cấy X 22.Bất kỳ loại nào trong số những loại phát sinh từ khoa phóng xạ X 23.Bông băng không thấm máu X 24.Giẻ lau X - Đựng trong túi nilông và thùng thu gom chất thải màu xanh - Chuyển tới nơi thu gom rác của thành phố theo hợp đồng của Công Ty Môi Trường Đô Thị 25.Mũ, mạng dùng một lần X 26.Phần dây truyền dịch, túi dịch truyền không dính máu X 27.Bình lọ không dính dịch cơ thể(như : vỏ của lọ thuốc không phải để sử dụng trong hóa trị liệu..) X 28.Đồ vải không thấm dịch cơ thể X 29.Chất thải phát sinh từ nhà ăn, thức uống thừa nói chung X 30.Giấy bao bì và các chất thải sinh hoạt khác X (Nguồn : Trung tâm y tế dự phòng Tiền Giang) 3.2.2 Nước thải 3.2.2.1- Nguồn gốc Nước thải sinh hoạt : Là loại nước thải, được thải ra sau khi sử dụng cho các nhu cầu về sinh hoạt trong bệnh viện : ăn uống, tắm rửa…từ các phòng làm việc, các khu vệ sinh, nhà ăn, căn tin. Thành phần và tính chất của loại nước thải này cũng giống như nước thải sinh hoạt từ các cụm dân cư đô thị khác có chứa các chất cặn bã, các chất hữu cơ hòa tan (thông qua chỉ tiêu BOD5, COD), các chất dinh dưỡng (N,P) và vi trùng với các chỉ tiêu ô nhiễm đặc trưng. Đối với bệnh viện Đa Khoa trung tâm ( tính theo tiêu chuẩn thải nước bình quân 40lít/người/ ngày và với số lượng cán bộ công nhân viên 700, số giường bệnh là 700 như vậy tính bình quân cứ mỗi giường bệnh có 3 người sử dụng nước sinh hoạt) với hàm lượng BOD5=80-120 mg/l, SS=180-250mg/l,E.coli=10-100mg/l (Nguồn :Trung tâm y tế dự phòng thành phố Mỹ Tho) Chất lượng nước thải sinh hoạt này vượt quá tiêu chuẩn cho phép và có khả năng gây ô nhiễm chất hữu cơ, làm giảm lượng oxy hòa tan (DO) vốn rất quan trọng đối với đời sống của thủy sinh vật tại nguồn tiếp nhận. Loại nước thải sinh hoạt này cần được xử lý cục bộ để đạt được tiêu chuẩn quy định trước khi dẫn vào trạm xử lý tập trung Nước thải khám và điều trị bệnh: Loại nước thải này có thể nói là loại nước thải có mức ô nhiễm hữu cơ và chứa nhiều vi trùng gây bệnh, nhất là trong các dòng nước thải của bệnh viện và trung tâm y tế. Nước thải loại này phát sinh từ nhiều khâu và quá trình khác nhau như giặt tẩy áo quần bệnh nhân, khăn lau, chăn mền, súc rửa các dụng cụ y khoa, xét nghiệm, giải phẫu…Tùy theo từng khâu và quá trình cụ thể mà tính chất nước thải và mức độ ô nhiễm khi đó sẽ khác nhau. Điều đáng lưu ý ở đây là toàn bộ nước thải của các bệnh viện và Trung tâm y tế của thành phố Mỹ Tho, đều đổ ra sông Tiền, con sông này hiện đang là nguồn tiếp nhận nước thải và chất thải nói chung của hàng loạt các loại hình kinh tế- xã hội trong vùng đổ ra mà chưa được xử lý. Diễn biến chất lượng nước sông ngày càng xấu do hậu quả của sự tiếp nhận các chất thải ô nhiệm trong vùng gây ra những tác đông xấu đối với công đồng dân cư, tạo điều kiện cho các dịch bệnh lan truyền. 3.2.2.2 - Thành phần Theo báo cáo kết quả chất thải y tế năm 2005 của Trung Tâm Y Tế Dự Phòng của thành phố Mỹ Tho đã tiến hành kiểm tra hiện trạng xử lý nước thải ở một số bệnh viện của thành phố Mỹ Tho như bảng 7. Dựa vào bảng 7 nhận thấy các chất có trong thành phần của nước thải có khả năng ảnh hưởng đến tính chất của loại nước thải . Trong 8 đơn vị thì có : 1/8 đơn vị đã có hệ thống xử lý nước thải Có 3/8 đơn vị lấy được mẫu. Không có đơn vị nào đạt tiêu chuẩn thải mức II (TCVN 7382 :2004) Không có đơn vị nào có hệ thống XLNT đạt tiêu chuẩn cho phép 2/3 mẫu không đạt tiêu chuẩn Coliform, 2/3 mẫu không đạt tiêu chuẩn NH4+, 2/3 mẫu không đạt tiêu chuẩn BOD5 Bảng 7: Bảng tổng hợp kết quả xét nghiệm nướcthải y tế các bệnh viện của thành phố Mỹ Tho năm 2005. STT Đơn vị Ngày lấy mẫu Kết quả xét nghiệm (theo TCVN 7382 : 2004) pH SS mg/l BOD5 mg/l NH4+ mg/l NO3- mg/l PO4- mg/l Coliform MNP/100ml TCVN 7382:2004 6.5-8.5 100 30 10 30 6 5000 1 BVĐK.Trung tâm Tỉnh 1/11/2005 7.70 4 7 18.67 2.1 8.6 KPHĐ 2 BV.Sản Tỉnh 1/11/2005 7.51 7 95 14.39 KPHĐ 3.1 460*105 3 BV. Yhọc cổ truyền Tỉnh 8/11/2005 7.18 99 100 7.08 KPHĐ 3.1 460*103 4 TT. Bảo Vệ SK Bà Mẹ & TE Không lấy được mẫu (chưa có hệ thống thu gom nước thải ) 5 BV. Mắt Không lấy được mẫu (chưa có hệ thống thu gom nước thải ) 6 BV.Da liễu Không lấy được mẫu (chưa có hệ thống thu gom nước thải ) 7 BV. K120 Không lấy được mẫu (chưa có hệ thống thu gom nước thải ) 8 Khoa XN-TT.YTDP Không lấy được mẫu (chưa có hệ thống thu gom nước thải ) (Nguồn :Trung tâm y tế dự phòng thành phố Mỹ Tho) 3.2.2.3- Thoát nước và xử lý nước thải Hầu hết các bệnh viện và các trung tâm y tế của thành phố Mỹ Tho chưa có hệ thống XLNT, nước thải từ các khu khám và điều trị bệnh cũng như nước thải sinh hoạt được đổ trực tiếp xuống cống công cộng của thành phố. Riêng bệnh viện đa khoa trung tâm đã có hệ thống xử lý nước thải bệnh viện tuy nhiên không đạt tiêu chuẩn cho phép về các chỉ tiêu như :NH4+, và PO4- vượt quá TCCP theo TCVN 7382:2004. Do vậy, tình trạng thoát nước thải bệnh viện đang còn nhiều bất cập, cần có sự liên quan của các ban ngành cũng như đầu tư vốn và trang thiết bị để xây dựng hệ thống xử lý nước và thoát nước thải y tế được tốt nhất. Vấn đề cần quan tâm là khi nước thải từ các khoa phòng và khu điều trị bệnh không được xử lý sẽ trực tiếp là nguồn gây ô nhiễm cho môi trường và gây bệnh cho sức khoẻ cộng đồng người dân thành phố cũng như các vùng lân cận. Do vậy, việc XLNT y tế cần được giải quyết nhanh chóng. 3.2.3- Chất thải rắn 3.2.3.1- Nguồn gốc phát sinh Theo thống kê của trung tâm y tế dự phòng về lượng phát thải chất thải rắn y tế của một số bệnh viện và trung tâm y tế trên địa bàn thành phố Mỹ Tho được trình bày trong bảng 7 như sau: Bảng 7 - Lượng phát thải chất thải y tế của một số bệnh viện và trung tâm y tế ở Thành phố Mỹ Tho : Đơn vị Rác sinh hoạt (kg/ngày) Rác nguy hại (kg/ngày) Trung tâm bảo vệ BM& TE 4.5 0.5 BV Đa khoa trung tâm 365 140 BV Y học cổ truyền 198 2 BV Phụ sản 13 618 BV Mắt 9.8 0.2 Công ty Dược 20 10 (Nguồn : Trung tâm y tế dự phòng Thành phố Mỹ Tho) Chất thải lâm sàng Sắc nhọn Khơng sắc nhọn Thùng đựng vật sắc nhọn Bao rác vàng Nhà chứa rác Thiêu đốt Chất thải phĩng xạ Rắn Lỏng Sắc nhọn Khơng sắc nhọn Hoạt Thùng tính đựng cao vật sắc Hoạt tính nhọn thấp Bao rác đen Lưugiữ Nhà chứa rác để phĩng xạ phân rã Lưu giữ đến khi hoạt tính phĩng xạ Pha lỗng Thiêu đốt Hệ thống XLNT chung Chất thải hĩa học Nguy hại Khơng nguy hại Trả nơi sản xuất Thiêu đốt Tái sử dụng Bình khí Trả nơi sản xuất Trả sử dụng Tiêu hủy như rác sinh hoạt Chất thải sinh hoạt Bao rác xanh Thủy tinh Thực Giấy phẩm Lon Nhơm Nhà chứa rác Tái sử dụng Chơn lấp Hình 2- Quy trình xử lý chất thải bệnh viện tại các bệnh viện và trung tâm y tế của thành phố Mỹ Tho Tuy nhiên tuỳ từng bệnh viện hay trung tâm y tế mà chúng ta có cách đánh giá khác nhau. Như bệnh viện Phụ sản lượng rác nguy hại chiếm một lượng khá lớn trong tổng số lượng rác y tế phát sinh là 618 kg/ngàycòn rác sinh hoạt chỉ có 13 kg/ngày. Còn với Trung tâm bảo vệ BM& TE chỉ có 0.5kg/ngày. Chất thải lâm sàng : Chất thải lâm sàng nhóm A : gồm vật liệu bị thấm máu bao gồm các loại bệnh phẩm vứt bỏ trong xương, đồ vải các túi hậu môn nhân tạo, dây truyền máu, các ống dây và túi đựng dịch dẫn lưu. Đây là loại chất thải rắn được đánh giá là có mức độ nguy hiểm cao vì chứa nhiều loại vi trùng gây bệnh dễ gây ra tác động xấu đến môi trường và tạo mầm cho các dịch bệnh lan truyền, nếu thải bừa bãi ra ngoài môi trường laọi chất thải rắn này cần phải được thu gom triết để và tổ chức đột cháy. Chất thải lâm sàng loại B : Là cácvật sắc nhọn bao gồm kim tiêm, lưỡi dao và cán dao mổ, các ống tiêm, vỏ ống thuốc thủy tinh, chai lọ đựng thuốc và mọi vật liệu có thể gây ra vết cắt hoặc chọc thủng có thể bị nhiễm khuẩn hoạc không nhiễm khuẩn, loại chất thải này thực tế không lớn nếu không có biện pháp xử lý hợp lý cũng có thể gây ra những tác động xấu đến môi trường nhất là các tác động phát sinh do sử dụng lại các dụng cụ thải bỏ vào các mục đích sinh hoạt khác của cộng đồng dân cư. Chất thải lâm sàng nhóm C: Là chất thải có nguy cơ lây nhiễm phát sinh từ phòng thí nghiệm bệnh phẩm sau khi sinh thiết trong ống nghiệm nuôi cấy túi đưng máu. Chất thải lâm sàng nhóm D: Là những dịch phẩm quá hạn bị nhiễm khuẩn không còn nhu cầu sử dụng. Chất thải lâm sàng nhóm E: Là các mô và các cơ quan người, động vật bao gồm tất cả các mô của cơ thể (dù nhiễm khuẩn hay không nhiễm khuẩn ) các cơ quan chân tay, nhau thai, bào thai, sinh vật thí nghiệm. Chất thải rắn sinh hoạt: Bao gồm các loại rác sinh hoạt của cán bộ công nhân viên bệnh viện và thân nhân. Có thể chia thành hai loại: Loại cứng: Vỏ đồ hộp, vỏ lon bia, vật dụng, bao bì nhựa thủy tinh. Loại mềm: thức ăn thừa, vỏ trái cây, phần loại bọ của rau quả, giấy nilon. Bảng 8 : Lượng chất thải phát sinh tại các khoa phòng của bệnh viên Đa khoa. Khoa Tổng lượng chất thải(kg/ngày) Chất thải nguy hại (kg/ ngày) Khoa hồi sức cấp cứu 1.27 0.31 Khoa nhi 0.41 0.05 Khoa sản 0.95 0.22 Khoa cận lâm sàng 0.10 0.03 Hệ nội 0.47 0.03 Hệ ngoại 0.87 0.21 Chuyên khoa TMH-RHM 0.68 0.10 (Nguồn : Tổ Chức Quản lý và xử lý chất thải y tế trong bệnh viện Tiền Giang) 3.2.3.2-Thu gom và vận chuyển Về vấn đề thu gom chất thải: Đối với chất thải lâm sàng chỉ riêng bệnh viện Đa Khoa và Bệnh viện Phụ Sản được các hộ lý và y công thu gom hằng ngày ngay tại khoa phòng, còn một số Bệnh Viện Và Trung Tâm Y Tế khác một tuần thu hồi một lần do lượng chất thải quá ít và cũng do chưa được quan tâm đúng mực. Đối với chất thải sinh họat của y tế thì bỏ chung với chất thải sinh hoạt và được thu gom hàng ngày. Khi thu gom loại chất thải rắn y tế thì được phân biệt theo các thùng có các màu riêng biệt là màu Vàng – Xanh – Đen. Trong đó, thùng màu vàng đựng vỏ rắn y tế, thùng màu xanh là rác thông thương (chất thải rắn sinh hoạt), thùng màu đen là rác bệnh phẩm. Các nhân viên trực tiếp tham gia thu gom, vận chuyện và thu gom chất thải hiện vẫn chưa có đủ áo bảo hộ và phương tiện bảo hộ khác. Về vấn đề lưu giữ chất thải: Hầu hết các điểm tập trung chất thải nằm trong khu đất của bệnh viện, vệ sinh không đảm bảo và có nguy cơ gây rủi ro do các vật sắc nhọn rơi vãi, có thể côn trùng xâm nhập ảnh hưởng đến môi trường bệnh viện tập trung chất thải không có mái che, không có hàng rào bảo vệ, vị trí gần nơi đi lại do vậy không thích hợp. Về chất thải rắn sinh hoạt ở hầu hết trong khuôn viên bệnh viện đều có thùng đựng rác, trong khuôn viên bệnh viện vệ sinh cũng được dọn dẹp thường xuyên môi trường trong bệnh viện cũng sach sẽ, yên tĩnh và thoáng mát tuy nhiên một số bệnh viện thì thùng đựng rác chủ yếu là thùng nhựa và chưa đủ tiêu chuẩn như bệnh viện Phụ sản. Vấn đề vận chuyển chất thải ngoài bệnh viện : Đối với chất thải nguy hại: Tất cả các bệnh viện ở Thành phố hợp đồng với Viện Lao & Bệnh Phổi (có lò đốt rác) nằm ở ngoại ô cách trung tâm Thành phố 5 Km, các bệnh viện chở rác đến đốt và thanh toán chi phí hàng tháng (3000 đồng/1 kg) Đối với chất thải sinh hoạt : Tất cả các bệnh viện và trung tâm y tế của Thành phố đều hợp đồng với công ty môi trường và đô thị thành phố mỗi ngày bệnh viện và trung tâm y tế đều chở rác ra bãi quy định tập trung. Nói chung nhân viên các bệnh viện và trung tâm y tế cũng như nhân viên của công ty môi trường đô thị đều chưa được đào tạo hướng dẫn về nguy cơ liên quan đến việc thu gom, vận chuyển và thiêu hủy chất thải. Do vậy, việc thực hiện trong mọi công đoạn của quy trình xử lý chất thải kém hiệu quả (đó là chưa kể đến việc nhân viên trực tiếp thu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnoi dung lv.doc
  • docloicamon.doc
  • docloimodau.doc
  • docnhan xet GVHD.doc
  • docnhiem vu.doc
  • docphu luc.doc
  • doctai lieu tham khao.doc
  • docto lot.doc
  • docviet tat muc luc.doc
Tài liệu liên quan