Đánh giá hiệu quả kinh tế của tiến bộ kỹ thuật thâm canh lúa SRI tại xã Đức Giang, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang

Tài liệu Đánh giá hiệu quả kinh tế của tiến bộ kỹ thuật thâm canh lúa SRI tại xã Đức Giang, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang: BỘGIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA TIẾN BỘ KỸ THUẬT THÂM CANH LÚA SRI TẠI XÃ ĐỨC GIANG, HUYỆN YÊN DŨNG, TỈNH BẮC GIANG Họ và tên : NGỤY THỊ NGỌC LAN Chuyên ngành đào tạo : Kinh tế nông nghiệp Lớp : KT 50C Niên khóa : 2006 – 2009 Giáo viên hướng dẫn : GS.TS. PHẠM VÂN ĐÌNH HÀ NỘI, 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi. Số liệu và kết quả nghiên cứu là trung thực v... Ebook Đánh giá hiệu quả kinh tế của tiến bộ kỹ thuật thâm canh lúa SRI tại xã Đức Giang, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2038 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá hiệu quả kinh tế của tiến bộ kỹ thuật thâm canh lúa SRI tại xã Đức Giang, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à chưa từng được sử dụng trong bất cứ luận văn, luận án nào. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đều đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2009 Sinh viên Ngụy Thị Ngọc Lan LỜI CẢM ƠN Trước hết cho cá nhân tôi được gửi lời cảm ơn đến toàn thể các thầy cô giáo trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn đã trang bị cho tôi những kiến thức cơ bản và có định hướng đúng đắn trong học tập cũng như trong tu dưỡng đạo đức. Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới GS – TS Phạm Vân Đình, giảng viên khoa Kinh tế và PTNT đã giành nhiều thời gian trực tiếp chỉ bảo tận tình, hướng dẫn tôi hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này. Tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ công nhân viên công ty TNHH thuốc thú y Việt Nam, đặc biệt là các nhân viên phòng kinh doanh - thị trường, phòng kế toán, phòng hành chính đã giúp đỡ nhiệt tình trong thời gian tôi thực tập tại công ty. Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và thực tập tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2009 Sinh viên Ngụy Thị Ngọc Lan MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Một số kết quả thử nghiệm SRI ở các nước 18 Bảng 3.1: Tình hình phân bổ và sử dụng đất đai xã Đức Giang 26 Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động của xã qua 4 năm (2005-2008) 27 Bảng 3.3: Cơ sở hạ tầng của xã năm 2007 29 Bảng 3.4: Kết quả sản xuất kinh doanh của xã từ năm 2005 - 2007 31 Bảng 4.1: Diện tích thực hiện của các xã trong dự án 38 Bảng 4.2: Diện tích thực hiện của các xã ngoài vùng dự án 39 Bảng 4.3: So sánh diện tích, năng suất, sản lượng của các vụ lúa qua 3 năm tại xã Đức Giang 40 Bảng 4.4: Cơ cấu các nhóm hộ điều tra 42 Bảng 4.5: Một số tình hình cơ bản của hộ điều tra năm 2008 42 Bảng 4.6: Tình hình đầu tư phân bón trên 1 sào lúa so với YCKT của các nhóm hộ sản xuất theo kỹ thuật SRI năm 2008 49 Bảng 4.7: Chi phí đầu tư phân bón cho 1 sào lúa qua 2 năm ở các nhóm hộ 50 Bảng 4.8: Kết quả thực hiện các biện pháp BVTV ở các nhóm hộ nông dân 51 Bảng 4.9: Tình hình đầu tư cho công tác bảo vệ thực vật ở các nhóm hộ 52 Bảng 4.10: Tình hình đầu tư lao động cho 1 sào lúa bình quân của các nhóm hộ qua 2 năm 54 Bảng 4.11 : Ảnh hưởng của biện pháp canh tác đến sự phát triển của dịch hại 58 Bảng 4.12: Tổng chi phí đầu tư cho 1 sào lúa năm 2008 của các nhóm hộ 60 Bảng 4.13: Kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất 1 sào lúa của các nhóm hộ điều tra năm 2008 (Tính theo giá năm 2008) 62 Bảng 4.14: Kết quả và hiệu quả kinh tế của các giống lúa điều tra năm 2008 (Tính cho 1 sào lúa theo giá năm 2008) 64 Bảng 4.15: Kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất 1 sào lúa của các nhóm hộ điều tra năm 2008 (Tính theo giá năm 2008) 66 Bảng 4.15: Kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất 1 sào lúa của các nhóm hộ điều tra năm 2008 (Tính theo giá năm 2008) 68 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1: Thực trạng sử dụng giống lúa ở các nhóm hộ năm 2008 46 Biểu đồ 2: Cơ cấu sử dụng lao động của các nhóm hộ 55 1 MỞ ĐẦU 1.1 Sự cần thiết của đề tài Trên thế giới, cây lúa nước được 250 triệu nông dân trồng, là lương thực chính của 1,3 tỉ người nghèo nhất trên thế giới, là sinh kế chủ yếu của nông dân. Là nguồn cung cấp năng lượng lớn nhất cho con người, bình quân 180 - 200 kg gạo/ người/ năm tại các nước châu Á , khoảng 10 kg/ người/ năm tại các nước châu Mỹ ( Ở Việt Nam, lúa cũng là một cây trồng chiến lược trong nền kinh tế quốc dân và trong nông nghiệp nói riêng, sản lượng lúa không ngừng tăng lên hàng năm (năm 1990 là 19,224 triệu tấn, năm 1995 là 24,963 triệu tấn, năm 2000 là 32,529 triệu tấn, năm 2005 là 35,79 triệu tấn, năm 2007 là 37 triệu tấn) ( www. mofa. gov.vn ). Lúa gạo là sản phẩm không thể thiếu trong nhu cầu cuộc sống của con người. Nó là lương thực chính nuôi sống con người. Sản phẩm thóc gạo còn là nguồn thức ăn cho chăn nuôi. Sản phẩm phụ của cây lúa như rơm rạ còn được sử dụng để sản xuất nấm, làm phân bón. Đối với một số nước đang phát triển thì lúa gạo còn là nguồn thu ngoại tệ lớn nhờ xuất khẩu. Tại Việt Nam, Theo tổng kết của Xuân Bách, báo Nhân dân số ngày 2/8/2007, trong sáu tháng đầu năm 2007, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt hơn 2,3 triệu tấn, kim ngạch 731 triệu USD. Tuy nhiên hiện nay thế giới đang phải đối mặt với vấn đề thiếu đất cho sản xuất nông nghiệp do chuyển đổi diện tích đất sản xuất nông nghiệp cho các mục đích khác. Theo dự đoán của FAO trong vài thập kỷ tới, thế giới có hàng tỷ người thiếu đói lương thực, nhu cầu gạo tiêu dùng thế giới năm 2002 là 410,9 triệu tấn, năm 2003 là 414,2 triệu tấn, năm 2004 là 418 triệu tấn. Vì vậy sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng cần phát triển theo hướng thâm canh tăng sản lượng trong điều kiện bị thu hẹp về diện tích. Ứng dụng hệ thống các biện pháp thâm canh tổng hợp đối với cây lúa cấy (gọi tắt là SRI - System of Rice intensification) đang là một hướng đi mới trong sản xuất lúa. Biện pháp này có kỹ thuật đơn giản, dễ làm, tiết kiệm giống, nước tưới, công và thuốc bảo vệ thực vật, làm tăng năng suất cây trồng, tăng chất lượng và đạt hiệu quả kinh tế. Trên thế giới, đã có nhiều nước áp dụng kỹ thuật này (Madagasca, Indonesia, Campuchia, Srilanka…) đều cho năng suất lúa cao hơn từ 30% - 150% so với đối chứng. Ở Việt Nam, kỹ thuật này cũng đã được TS Hoàng Văn Phụ - Đại học Thái Nguyên- nghiên cứu từ năm 2005 cũng cho kết quả năng suất cao hơn đối chứng từ 45% - 60%.Tuy nhiên, việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất còn nhiều hạn chế như các mô hình điểm, mô hình trình diễn còn nhỏ lẻ, manh mún, tâm lý e ngại, sợ thua lỗ của người nông dân khiến cho kỹ thuật mới này chưa phát huy được hết tính ưu việt của nó. Mặt khác, trong điều kiện diễn biến thời tiết ngày càng trở nên khó dự đoán thì việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm tăng khả năng chịu đựng của cây trồng là việc làm rất cần thiết. Để thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về “Chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao khoa học & công nghệ phục vụ phát triển kinh tế xã hội miền núi tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2005 – 2010”, tỉnh Bắc Giang đã tiến hành chuyển giao kỹ thuật tiến bộ trên toàn tỉnh. Là một huyện miền núi nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Bắc Giang, Yên Dũng đã mạnh dạn áp dụng các kỹ thuật tiến bộ mới vào sản xuất. Với thế mạnh là huyện có diện tích sản xuất lúa lớn nhất tỉnh, đất đai màu mỡ cùng với những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, giao thông, thuỷ lợi…Yên Dũng đã tiến hành thử nghiệm kỹ thuật cấy lúa mới SRI tại một số xã Đức Giang, Nham Sơn, Xuân Phú, Quỳnh Sơn, Tiến Dũng … và thu được những kết quả đáng mừng : năng suất lúa trung bình của vùng dự án đạt 69,4 tạ/ha, tăng 13,9 tạ/ha so với cấy theo phương pháp thông thường. Đặc biệt, lãi thuần rất cao, đạt trên 14,6 triệu đồng/ha, gấp 1,7 lần kỹ thuật cấy thông thường, tạo cơ sở nhân rộng mô hình trên toàn huyện. Tuy nhiên trong quá trình nhân rộng mô hình đã gặp phải rất nhiều khó khăn như bất lợi về thời tiết sâu bệnh nên hiệu quả của mô hình không cao khiến người dân chưa hoàn toàn tin tưởng, ruộng và hệ thống tưới tiêu nước của nhiều hộ không đáp ứng được yêu cầu của kỹ thuật SRI nên không được áp dụng, năng suất lúa cao nhưng giá trị sản xuất lại thấp... Tại sao lại như vậy? Liệu kỹ thuật SRI có mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn kỹ thuật truyền thống tại địa phương không? Người dân đã thực hiện đúng qui trình kỹ thuật được hướng dẫn chưa? Việc áp dụng kỹ thuật này trong thực tế có những khó khăn nào? Có thể làm gì để khắc phục điều này? Việc áp dụng kỹ thuật SRI có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của người dân tại địa phương không? Đánh giá hiệu quả kinh tế của kỹ thuật SRI sẽ giúp cho người nông dân có cơ sở để phân tích và đánh giá được hiệu quả mà kỹ thuật SRI đem lại, làm cơ sở để lựa chọn kỹ thuật phù hợp nhất trong sản xuất. Hiện nay trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về SRI nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về hiệu quả kinh tế của SRI. Từ những lý do trên em đã tiến hành chọn nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế của tiến bộ kỹ thuật thâm canh lúa SRI tại xã Đức Giang, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang” 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Đánh giá hiệu quả kinh tế của tiến bộ kỹ thuật SRI trong trồng lúa từ đó làm cơ sở đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế ứng dụng kỹ thuật SRI tại xã Đức Giang, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về thâm canh lúa, hiệu quả kinh tế về thâm canh lúa. - Đánh giá thực trạng áp dụng tiến bộ kỹ thuật SRI trong trồng lúa tại xã Đức Giang và hiệu quả kinh tế của việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật này. - Đề xuất một số định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật SRI vào trồng lúa. 1.3 Đối tượng nghiên cứu - Nghiên cứu các vấn đề kinh tế, kỹ thuật có liên quan đến hiệu quả kinh tế của việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật SRI trong trồng lúa. - Đối tượng trực tiếp là hộ nông dân thuộc chương trình áp dụng tiến bộ kỹ thuật SRI tại xã Đức Giang, huyện Yên Dũng, Tỉnh Bắc Giang. 1.4 Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung Đánh giá hiệu quả kinh tế của kỹ thuật thâm canh lúa tổng hợp SRI. Từ đó làm cơ sở cho việc đề ra giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế trong áp dụng kỹ thuật này trong thời gian tới ở địa phương. - Phạm vi về không gian Nghiên cứu việc áp dụng kỹ thuật cấy lúa SRI tại xã Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. - Phạm vi về thời gian Số liệu thứ cấp: dữ liệu trong 4 năm từ 2005 – 2008. Khảo sát thực tế năm 2008. 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA TIẾN BỘ KỸ THUẬT THÂM CANH LÚA SRI 2.1 Cơ sở lý luận 2.1.1 Thâm canh 2.1.1.1 Khái niệm thâm canh Để tăng sản lượng nông nghiệp, có thể tiến hành theo 2 phương thức: quảng canh hoặc thâm canh. Các Mác nói: “Tái sản xuất mở rộng được thực hiện quảng canh nếu chỉ mở rộng diện tích ruộng đất và thâm canh nếu chỉ sử dụng hiệu quả hơn các tư liệu sản xuất” (Các Mác và Ăngghen: Toàn tập tập 24 - Nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva năm 1981) Như vậy quảng canh là phương thức sản xuất nhằm tăng thêm sản lượng nông nghiệp bằng cách mở rộng diện tích đất đai với cơ sở vật chất thấp kém, trình độ kỹ thuật lạc hậu, chủ yếu dựa vào việc sử dụng độ phì nhiêu tự nhiên của đất. Ngược lại, thâm canh là phương thức sản xuất tiên tiến nhằm tăng sản phẩm nông nghiệp bằng cách nâng cao độ phì nhiêu kinh tế của ruộng đất, thông qua việc đầu tư thêm vốn và kỹ thuật mới vào sản xuất nông nghiệp. Thâm canh đã và đang dần thay thế cho phương thức quảng canh do nhu cầu về lượng nông sản ngày càng tăng trong khi đó khả năng mở rộng diện tích bị thu dần và diện tích đang sản xuất ngày càng bị thu hẹp do nhiều nguyên nhân, con người phải chuyển sang nâng cao chất lượng canh tác thông qua đầu tư thêm lao động và vật tư để tăng sản lượng sản phẩm trên một đơn vị diện tích. Lênin cũng đã chỉ ra rằng: “ Hiện tượng nông nghiệp được thâm canh hoá không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, có tính chất địa phương tạm thời mà là hiện tượng phổ biến trong tất cả các nước văn minh ”. (Lênin toàn tập, tập 27. Nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva 1991) Thâm canh nông nghiệp là quá trình kinh tế rất đa dạng và phong phú đặc biệt trong điều kiện sản xuất hiện đại, thâm canh ngày càng được phát triển theo chiều sâu với hiệu quả kinh tế lớn. Vì vậy hiểu và vận dụng đúng đắn vấn đề thâm canh nông nghiệp có ý nghĩa hết sức to lớn cả về lý luận cũng như thực tiễn. 2.1.1.2. Vị trí, vai trò của thâm canh trong phát triển nông nghiệp Ngày nay thâm canh càng trở nên quan trọng đối với mỗi quốc gia. Chúng ta có: sản lượng = diện tích * năng suất. Để sản lượng tăng thì phải tăng năng suất và diện tích. Sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đã khiến cho diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Theo thống kê của Bộ Tài nguyên - Môi trường cho thấy, từ 2001 - 2005, tổng diện tích đất nông nghiệp đã bị thu hồi chuyển sang đất phi nông nghiệp tới trên 366.000ha, bình quân mỗi năm diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi trên 73.000ha ( Bên cạnh đó là sự gia tăng không ngừng về dân số. Do vậy vấn đề tăng năng suất trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Thâm canh sẽ giúp giải quyết vấn đề này. 2.1.1.3 Chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về thâm canh nông nghiệp Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng dến thâm canh nông nghiệp. Đảng ta cho rằng: Thâm canh là đường lối cơ bản và lâu dài để phát triển sản xuất nông nghiệp. Thấu suốt quan điểm đó, Nghị quyết Trung ương V (khoá III) đã chỉ rõ “ Kết hợp hoàn thiện quan hệ sản xuất với việc phát triển sức sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp, kết hợp chặt chẽ việc phát triển hợp tác hoá với thuỷ lợi hoá dần dần và cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật, tiến tới một bước cơ giới hoá nhằm hướng mở rộng diện tích bằng tăng vụ và khai hoang, đồng thời ra sức thực hiện thâm canh tăng năng suất (Nghị quyết BCH Trung ương đảng lần thứ V (khoá III) BCH Trung ương Đảng Lao động Việt năm 1961) Trên cơ sở phân tích những sai lầm và thiếu sót trong chỉ đạo sản xuất nông nghiệp nói chung và trong thâm canh nói riêng, Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ VI (khoá IV) đã chỉ rõ: “Bảo đảm cho nông nghiệp, kể cả lâm nghiệp ngư nghiệp thật sự là mặt trận hàng đầu, được ưu tiên đáp ứng yêu cầu về vốn đầu tư, về năng lượng, vật tư và lao động kỹ thuật, tập trung trước hết vào những vùng trọng điểm nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao” (văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội 1987). Đồng thời từ thực trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta qua những năm đổi mới Đảng ta đã có quan điểm, phương hướng và có giải pháp cụ thể đó là: " Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới nhất là công nghệ sinh học để nâng cao năng suất, tăng chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước " và " tập trung thâm canh kết hợp mở rộng diện tích " (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khoá VII. Báo Nhân dân ngày 1/7/1993). Và từ năm 1993 phải hướng vào một số chủ trương đổi mới " Phát triển mạnh về lúa ... đi mạnh vào thâm canh tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, không phát triển sản xuất oẻ những nơi kém hiệu quả và có hại xấu đến môi trường " (Nguyễn Công Tạn: Chuyển mạnh sản xuất Nông nghiệp hàng hoá theo cơ chế thị trường. Tạp chí Quản lý kinh tế nông nghiệp tháng 3+4 năm 1993). Trong những năm gần đây, nhất là từ Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ra đời (5/11/1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân giữ một vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân đã mở ra cho nông nghiệp một bước phát triển mới tạo ra cho người nông dân cơ hội phát triển trong điều kiện người nông dân được làm ăn lâu dài trên mảnh đất của mình được xác định là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ trong sản xuất theo hướng chuyên môn hoá kết hợp với kinh doanh tổng hợp, điều đó đã mang lại một số thành tựu to lớn trong sản xuất nông nghiệp, đồng thời nhà nước khuyến khích các hộ nông dân tổ chức đổi mới và xây dưng hợp tác xã kiểu mới trên cớ sở tự nguyện góp cổ phần để tạo vốn cho các hộ, áp dụng các thành tự khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao trong ngành nông nghiệp thu nhập của các hộ không ngừng tăng lên. Đại hội Đảng lần thứ 9 đã xác định vị trí của nông nghiệp hơn bao giờ hết nông nghiệp phải trở thành mặt trận hàng đầu từng bước vững chắc đưa nông nghiệp đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, phát triển nông nghiệp lấy thâm canh làm nền tảng. Muốn phát triển nông nghiệp phải phát triển thêm một số ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiệp chế biến, tạo điều kiện đưa hàng loạt các lĩnh vực khoa học kỹ thuật vào sản xuất. “ Nông nghiệp phải được ưu tiên đáp ứng những nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ,về vật tư lao động kỹ thuật … mở rộng và hoàn thiện các hệt thống thuỷ lợi ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật , đặc biệt là công nghệ sinh học đưa vào phổ biến , ổn định các loại giống mới đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu về phân bón ,thuốc trừ sâu tăng thêm sức kéo, đảm bảo đầy đủ công cụ thường, công cụ cải tiến thực hiện từng bước và có trọng điểm cơ giới hoá …" (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX). Trong sản xuất nông nghiệp trình độ thâm canh phải không ngừng được nâng cao bên cạnh đó là phải khai hoang, mở rộng diện tích tăng vụ và tiến hành thâm canh tăng năng suất trên mảnh đất vừa khai hoang nó là vấn đề vừa phát triển nông nghiệp theo chiều sâu và chiều rộng “ Phát triển nông nghiệp phải lấy thâm canh tăng vụ làm hướng chính đồng thời mở rộng diện tích một cách có hiệu quả ".(Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX). Tuy nhiên các chủ trương chính sách của chúng ta đều nhằm mục tiêu an ninh lương thực quốc gia đẩy mạnh xuất khẩu trong nông sản đặc biệt là gạo, quan tâm đến vùng sâu,vùng xa, vùng dân tộc thiểu số để giải quyết xoá đói giảm nghèo đồng thời khuyến khích trồng các cây khác có giá trị cao tạo điều kiện cho nông dân có thu nhập khá và dùng tiền để mua lương thực. 2.1.1.4 Khái niệm và đặc điểm của thâm canh lúa ở Việt Nam *Khái niệm thâm canh lúa Thâm canh lúa là phương thức sản xuất tiên tiến nhằm tăng năng suất, chất lượng lúa bằng cách nâng cao độ phì nhiêu kinh tế của ruộng đất, thông qua việc đầu tư thêm vốn và kỹ thuật mới vào sản xuất nông nghiệp. * Đặc điểm thâm canh lúa ở Việt Nam Việt Nam là một nước nông nghiệp, sản xuất lúa chiếm phần lớn tỷ trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng do chiến tranh kéo dài, xuất phát điểm thấp nên nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn còn lạc hậu, manh mún vì vậy thâm canh lúa của Việt Nam có những điểm khác biệt so với những nước khác trên thế giới. Đặc biệt, từ sau khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (5/11/1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp sản xuất lúa của nước ta đã có những thay đổi đáng mừng. Năng suất không ngừng tăng lên. Thâm canh lúa cũng có nhiều điểm khác biệt so với trước đây: - Hộ nông dân từ chỗ lệ thuộc chuyển sang làm chủ từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm; từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa nên nông dân yên tâm đầu tư thâm canh và thâm canh có hiệu quả trên ruộng đất của mình. Họ tự quết định và định đoạt về kết quả và hiệu quả sản xuất do họ làm ra. Tuy nhiên, do trình độ nhận thức của người nông dân chưa cao nên họ vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lúa gạo thế giới. Sản phẩm làm ra có giá bán rẻ, người nông dân có thu nhập thấp, cuộc sống còn nhiều khó khăn. - Khi hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ thì mọi việc họ phải tự lo liệu, từ vốn sản xuất, áp dụng quy trình sản xuất, kỹ thuật canh tác... nên quan hệ liên kết, liên doanh, hợp tác giữa các loại hộ và các thành phần kinh tế được mở rộng và hết sức đa dạng, họ không thể tiến hành thâm canh đơn độc. Do vậy một mặt bản thân nông hộ phải vươn lên để sản xuất hàng hóa, tìm cách thu hút đầu tư gắn với các tổ chức của Nhà nước, các thành phần kinh tế khác để phát triển nông nghiệp nói chung và thâm canh lúa nói riêng. Mặt khác các tổ chức dịch vụ của Nhà nước và các tổ chức khác cũng phải chuyển hướng kịp thời theo cơ chế kinh doanh và có thể cạnh tranh với nhau để tranh thủ khách hàng là hộ nông dân. - Do người nông dân trở thành người tự chủ hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, nên họ nhanh nhạy hơn, ứng dụng TBKHKT vào sản xuất nông nghiệp tốt hơn, gắn sản xuất với hiệu quả sản xuất. Nhưng trong thực tế đa số người nông dân vận dụng quan hệ thị trường còn yếu kém, họ vẫn chưa chủ động tìm tòi học hỏi các TBKHKT, áp dụng một cách thụ động nên chưa đạt được kết quả như mong muốn. - Điều kiện tự nhiên của Việt Nam phân bố không đều, ba miền khác nhau có những kiểu khí hậu khác nhau. Bảy vùng kinh tế khác nhau có những điều kiện đất đai, khí hậu, lao động... khác nhau nên thâm canh lúa ở mỗi vùng cũng khác nhau. Do đó, khi qui hoạch vùng thâm canh cần qui hoạch cụ thể cho từng vùng. - Nhìn chung thì người nông dân hiện nay vẫn là người sản xuất nhỏ đang bước đầu đi vào sản xuất hàng hóa lớn, hàng năm liên tục phải hứng chịu thiên tai, dịch bệnh, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp kém, thiếu vốn đầu tư, trình độ nhận thức có hạn... Với khả năng trên bản thân nông dân đi lên trong thâm canh sẽ gặp những khó khăn nhất định, nhà nước cần có chính sách kinh tế hỗ trợ cho nông dân như: chính sách đầu tư cho nông nghiệp, chính sách đất đai, chính sách ổn định giá đầu vào, chính sách bảo hiểm, chính sách bảo hộ... giúp cho nông dân yên tâm đầu tư thâm canh, để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. * Các yếu tố ảnh hưởng đến thâm canh lúa - Nhân tố về tự nhiên Nhân tố này bao gồm các yếu tố như : Đất đai, khí hậu, thời tiết thuỷ văn, giống cây trồng… đây là các yếu tố mà con người có thể tác động vào để cải tạo nó như có thể tạo ra các giống cây trồng có chất lượng tốt. Con người có thể điều tiết nước trong quá trình sản xuất, có thể cải tạo được chất lượng đất, sử dụng cây trồng hợp lý cho từng loại đất… song cũng có những yếu tố mà con người không thể tác động vào được như thời tiết, khí hậu…. Trước sức ép của sự gia tăng dân số cùng với sự kém phát triển của TBKT trong nông nghiệp, con người đã khai thác quá mức, làm cho hệ sinh thái bị suy giảm, kém ổn định, dễ bị huỷ hoại bởi thiên tai và làm cho năng suất cây trồng giảm, hiệu quả thấp. Phát triển bền vững là một trong những thay đổi trong đó có sự thay đổi về nếp nghĩ và cách làm của con người trong việc khai thác tài nguyên, sự giám sát đầu tư, sự định hướng phát triển công nghệ và nguyện vọng của con người trong hiện tại và tương lai. Xem xét đánh giá về hiệu quả kinh tế trồng lúa phải trên cơ sở xem xét đánh giá thực trạng về môi trường sinh thái và trên quan điểm xây dựng một hệ sinh thái nông nghiệp bền vững. - Nhân tố vốn vật tư kỹ thuật và lao động kỹ thuật Nhóm nhân tố này bao gồm các loại vật tư, phân bón, trình độ sản xuất, trình độ thâm canh của người nông dân… Đây là nhóm nhân tố quan trọng bởi nhân tố kỹ thuật quyết định kết quả sản xuất của thâm canh. Các kỹ thuật chủ yếu trong thâm canh lúa như sau: + Kỹ thuật chọn giống: Giống quy định năng suất có thể có của cây trồng, vật nuôi và khả năng chống chịu với các điều kiện bên ngoài. Mặt khác tuỳ vào điều kiện của từng loại giống khác nhau mà đòi hỏi các quy trình kỹ thuật khác nhau sao cho phù hợp. Chính vì vậy đòi hỏi người sản xuất phải lưạ chọn các giống phù hợp với điều kiện tự nhiên và xã hội của vùng của địa phương nơi mình sinh sống và sản xuất. Kỹ thuật chọn giống ảnh hưởng trực tiếp và có tính chất quyết định năng suất tiềm năng và năng suất đạt được từ đó ta thấy chọn giống ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất. + Kỹ thuật chăm sóc: Bao gồm công chăm sóc và các biện pháp tác động đến cây lúa để cho cây lúa sinh trưởng phát triển tốt đem lại năng suất cao, phẩm chất tốt. Giống lúa tốt nhưng chăm sóc không tốt sẽ làm giảm năng suất của lúa và ngược lại. + Kỹ thuật bón phân và khâu BVTV Các loại phân bón bao gồm: Phân chuồng, phân đạm, phân lân, kali… đó là các đầu vào ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất. Nhưng các loại đất khác nhau, các loại lúa khác nhau yêu cầu một liều lượng bón khác nhau do đó đòi hỏi phải có kỹ thuật bón phân để đảm bảo có mức bón phân hợp lý phù hợp với điều kiện tự nhiên của mỗi nơi. Trong quá trình sản xuất thì lúa thường xuyên bị sâu bệnh, dịch bệnh tác động đó là một nguyên nhân làm thất thu trong sản xuất lúa. Việc phòng tránh và chữa trị là một việc có ý nghĩa vô cùng to lớn đảm bảo thành công cho các hộ sản xuất, góp phần nâng cao kết quả và hiệu quả sản xuất. - Nhân tố thị trường Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Chức năng của thị trường là thực hiện sản phẩm và thừa nhận lao động làm ra sản phẩm cân đối cung cầu và kích thích nâng cao hiệu quả sản xuất. Trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của nền kinh tế, nhu cầu về sản phẩm cây lương thực có những đòi hỏi khác nhau. Khi nền kinh tế phát triển còn thấp, thu nhập của tầng lớp dân cư còn hạn hẹp thì phát triển về chất của sản phẩm chưa đòi hỏi cao về lượng và giá cả sản phẩm. Thu nhập ngày càng tăng, nhu cầu về vật chất và tinh thần cũng thay đổi theo hướng vừa tăng số lượng, vừa nâng cao chất lượng và giá cả có tính cạnh tranh. Điều đó đúng với cả thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp. Sản xuất lúa ngày nay cũng phải thay đổi theo hướng nâng cao cả về năng suất và chất lương, không chỉ ngon mà còn phải đảm bảo các tiêu chuẩn về dinh dưỡng, độ an toàn. Tác động của thị trường trước hết là thị trường đầu ra (tiêu thụ sản phẩm) , song thị trường đầu vào (bao gồm các dịch vụ kỹ thuật công nghệ, vốn sản xuất và lao động) cũng có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả trong việc hình thành giá cả sản phẩm là nhân tố trực tiếp làm thay đổi trạng thái sản xuất, nâng cao chất lượng và khối lượng sản phẩm cây lương thực. - Đổi mới công nghệ sản xuất Đổi mới công nghệ là cải tiến trình độ kiến thức sao cho nâng cao được năng lực có thể làm ra sản phẩm nhiều hơn với một số lượng đầu vào như cũ hoặc có thể làm ra lượng sản phẩm như cũ với khối lượng đầu vào ít hơn. Trong nông nghiệp đổi mới công nghệ xảy ra ở mọi lĩnh vực của ngành, phần lớn thể hiện ở khâu tiền vốn (máy móc, hệ thống tưới tiêu, nhà xưởng…) nhưng cũng phải kể đến những tiến bộ rõ rệt về giống cây trồng năng suất cao, giống gia súc đã cải tạo, thức ăn gia súc tiên tiến, phân bón, thuốc trừ sâu hiệu quả cao. Nhiều đổi mới công nghệ trong ngành nông nghiệp thường là tiết kiệm lao động sống (trường hợp sử dụng công cụ máy móc mới) hoặc tiết kiệm đất đai (do dùng giống có năng suất cao và phân bón có hiệu quả hơn). Sự đổi mới công nghệ thường thể hiện qua hai hoạt động cơ bản: Đổi mới sản phẩm (sản phẩm mới phù hợp với thị hiếu tiêu dùng) và đổi mới quy trình sản xuất, cả hai nội dung trên đều quan trọng. Đứng trên góc độ người tiêu dùng thì thường quan tâm đến đổi mới sản phẩm, nhưng đối với người sản xuất kinh doanh thì lại quan tâm đến đổi mới của quy trình sản xuất. - Nhóm tổ chức sản xuất và chính sách Hiện nay sản xuất lúa trong nước nói chung và huyện Yên Dũng nói riêng chỉ lấy sản xuất là quan trọng mà coi nhẹ việc tiêu thụ, lấy lợi nhuận làm trọng tâm mà không xem xét khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Sản lượng tạo ra lớn nhưng giá bán không cao thì ngành sản xuất lúa không thể thu hút lao động với các ngành khác, đời sống của nông dân không được nâng cao. Nâng cao phẩm chất toàn diện mới có thể tạo nên nhãn hiệu sản phẩm từ đó tăng thêm giá trị sản phẩm. Quản lý phẩm chất ngay từ khâu giống, trồng và chăm sóc, cần tiêu chuẩn hoá sản xuất, tiêu chuẩn hoá sản phẩm, sản phẩm sạch, phẩm chất cao là yêu cầu cấp thiết và là mục tiêu của tổ chức sản xuất và quản lý sản xuất. Để nâng cao chất lượng sản phẩm lúa gạo để đủ sức cạnh tranh trên thị trường và cũng để phát huy những sản phẩm truyền thống, cần phải tổ chức quy hoạch vùng sản xuất và tổ chức các trung tâm sản xuất cây giống đạt tiêu chuẩn, ứng dụng các tiến bộ về chăm sóc, gieo trồng. Các chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, chính sách hỗ trợ vốn cho vùng nghèo, vùng núi để phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng chính sách khuyến nông, khuyến lâm… có tác dụng tích cực để phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả sản xuất cây lúa. 2.1.2 Tiến bộ kỹ thuật * Khoa học là hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội do con người tiếp nhận thông qua nghiên cứu có cơ sở lý luận và thực tiễn. Đồng thời, khoa học cũng là hoạt động của con người sản xuất ra tri thức mới. * Công nghệ là tổng hợp các kiến thức, kỹ năng, các bí quyết, các phương tiện kỹ thuật, các phương pháp được dùng để chuyển hoá các nguồn lực được sử dụng trong sản xuất hoặc các hoạt động dịch vụ. Xã hội càng phát triển càng có điều kiện nâng cao trình độ công nghệ và công nghệ càng được ứng dụng rộng rãi, có hiệu quả. * Tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp được hiểu như là tập hợp những kỹ thuật hay những tri thức tổng kết và đúc rút ra những nghiên cứu hay thực tiễn, thể hiện giữa các yếu tố đầu vào và lượng sản xuất ra. TBKT trong nông nghiệp là tập hợp các tri thức khoa học nông nghiệp được áp dụng vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Công nghệ trong sản xuất nông nghiệp được gắn liền với một trình độ phát triển nhất định về lực lượng sản xuất của một xã hội hay cộng đồng. 2.1.3 Hiệu quả kinh tế của tiến bộ kỹ thuật trong thâm canh lúa Để xác định hiệu quả thâm canh của bất cứ loại cây trồng nào trên một đơn vị diện tích thì phải xác định được mức độ đầu tư thâm canh và hiệu quả kinh tế do việc thâm canh đem lại. Nếu như đầu tư thâm canh tăng dẫn đến năng suất đạt đựơc tăng lên thì hiệu quả sử dụng đồng vốn đầu tư thâm canh có hiệu quả còn ngược lại khi mà đầu tư thâm canh tăng mà dẫn đến năng suất không tăng hoặc thâm chí giảm chứng tỏ đầu tư thâm canh không hiệu quả. Bên cạnh việc tăng lên của năng suất thì cần xem đến sự tiết kiệm về chi phí tài nguyên, mức giảm tối đa chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm. Hiệu quả thâm canh lúa là một phạm trù rộng phức tạp, để nghiên cứu hiệu quả thâm canh lúa, chúng ta cần phải xem xét về hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa. Hiệu quả kinh tế của thâm canh lúa được đánh giá trên 2 góc độ là hiệu quả phân bổ và hiệu quả kỹ thuật. Hiệu quả phân bổ là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả trong các yếu tố sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ đầu vào được tính để phản ánh giá trị thu thêm trên 1 đơn vị đầu vào hay nguồn lực. Điều đó cũng có nghĩa là để cho hiệu quả phân bổ hợp lý thì giá trị biên của sản phẩm phải bằng giá trị biên của nguồn lực sử dụng và sản xuất. Hiệu qủa kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên 1 đơn vị đầu vào nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong nhưng điều kiện cụ thể về kỹ thuật hay công nghệ áp dụng vào trong nông nghiệp. Hiệu quả kỹ thuật là nhân tố quyết định cho hiệu quả kinh tế vì nó chỉ ra rằng 1 đơn vị nguồn lực sử dụng vào sản xuất sẽ đem lại bao nhiêu đơ._.n vị sản phẩm. Ví dụ trong điều kiện sản xuất bình thường, tăng đầu tư 1kg đạm sẽ làm tăng năng suất lúa lên 0.2 kg. Có nhiều hệ thống quan điểm để đánh giá hiệu quả kinh tế nhưng bản chất của hiệu quả kinh tế là sự tương quan so sánh cả về tuyệt đối và tương đối giữa lượng kết quả và lượng chi phí bỏ ra. Do đó, hiệu quả kinh tế của TBKT trong thâm canh lúa là tương quan so sánh giữa phần kết quả và chi phí trong thâm canh lúa do áp dụng TBKT. 2.1.4 Lịch sử phát triển của kỹ thuật SRI Kỹ thuật SRI được phát triển ở Madagascar vào đầu những năm 1980 và hiện đang được phổ biến bởi tổ chức phi chính phủ (NGO) Association Tefy Saina, kỹ thuật này giúp tăng năng suất lúa một cách bền vững. Năng suất trung bình theo SRI khoảng 8 tấn/ha, gấp hơn 2 lần năng suất trung bình hiện nay của thế giới (3,6 tấn/ha). (46) Sau khi bị lãng quên trong 10 năm, những đánh giá một cách có hệ thống về SRI, được thực hiện bởi Fr. Henryde Laulanie, S.J. (1993), được bắt đầu vào năm 1994. Những đánh giá đầu tiên bên ngoài Madagascar đã được thực hiện tại Đại Học Nông Nghiệp Nanjing (Nanjing Agricultural University) năm 1999 và đã đạt được năng suất 9,2 – 10,5 tấn/ha, chỉ sử dụng khoảng 1/2 lượng nước tưới như bình thường. Năm 2000, cục nghiên cứu và phát triển nông nghiệp Indonesia đã đạt được năng suất 9,5 tấn/ha, trong những thử nghiệm SRI vào mùa mưa tại trạm Sukamandi. Từ đó về sau việc đánh giá sử dụng các biện pháp SRI đã và đang được trải rộng nhanh chóng, vì vậy hiện nay nó đang được xúc tiến thực hiện ở hơn 20 nước trên thế giới bao gồm cả 6 nước Đông Nam Á. (46) 2.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài 2.2.1 Tình hình áp dụng kỹ thuật SRI trên thế giới 2.2.1.1. Campuchia Năm 2000 - 2001: Trong mùa mưa năm 2000 với sự hỗ trợ của cán bộ CEDAC, khoảng 50 nông dân ở 4 tỉnh của Campuchia đã quyết định thử nghiệm SRI trên ruộng của họ. Thật không may, do bị ngập úng nặng, chỉ 28 nông dân đã có thể thu hoạch lúa từ ô thí nghiệm của họ. Các kết quả đã chỉ ra rằng nông dân có thể thu hoạch khoảng 5 tấn/ha, cao hơn 150% so với các biện pháp truyền thống. Tổng diện tích canh tác theo phương SRI trong mùa mưa là khoảng 1,57 ha, với tổng sản lượng là 7,906 kg (Koma, 2001). Phần lớn các nông dân đã đạt được năng suất tăng cao mà không sử dụng bất kỳ một hoá chất nông nghiệp nào và chủ yếu sử dụng các giống truyền thống. (46) Trong mùa khô năm 2000 – 2001, CEDAC đã làm việc với 13 nông dân ở 2 tỉnh Kandal và Takeo để hướng dẫn thử nghiệm SRI. Năng suất trung bình khoảng 6 tấn/ha, cao hơn 65% so với các biện pháp truyền thống. (46) Năm 2002: sau 2 lần thí nghiệm, CEDAC đã giành được sự tin tưởng của nông dân thử nghiệm SRI. Dựa vào điều này, họ đã sửa đổi thích hợp các kỹ thuật SRI để đáp ứng với nền canh tác ở nhiều địa phương khác. Họ cũng đang phát triển sự tiếp cận của họ với nông dân để xúc tiến đẩy mạnh SRI. Một cuốn sách nhỏ bằng tiếng Khmer về SRI, với những hình vẽ minh hoạ đã được xuất bản để phổ biến tới những nông dân và các NGO khác.(46) 2.2.1.2 Những kinh nghiệm SRI ở Myanmar Thử nghiệm SRI gần đây đã bắt đầu ở Myanmar thông qua những nỗ lực của quỹ phát triển Metta (Metta Development Foundation), NGO nội địa đầu tiên ở Myanmar, với sự trợ giúp từ IIRR, một NGO quốc tế đóng ở Philippines. IIRR đang khuyến khích đánh giá SRI từ 1994. Trong năm 2000, Metta bắt đầu những thử nghiệm tại những cách đồng thực nghiệm của họ, tuy nhiên việc gieo cấy đã được làm muộn hơn 1 tháng so với điều kiện tối ưu của vụ đó và gây ra năng suất rất thấp 1,97 – 2,73 tấn/ha.(Kabir,2001) [44],[47]. 2.2.1.3 Một số nước khác Ở Nam Á, Đông Nam Á, SRI đã được phổ biến ở Sri Lanka và Bangladesh, Ấn Độ và Nêpan, cùng với những thử nghiệm ở Indonesia, Philippines. Ở châu Phi những thử nghiệm cũng đã được làm ở Gambia với năng suất dao động giữa 5,4 – 8,3 tấn/ha và những thí nghiệm của nông dân với SRI tiến hành ở Sierra Leone. Ở Châu Mỹ La Tinh hai báo cáo đầu tiên về SRI là ở Cuba: Năng suất đạt 9,1 và 9,56 tấn/ha. Những thử nghiệm cũng đang bắt đầu ở Peru. Theo nguyên lý cơ bản của SRI, các phương pháp này sẽ cho kết quả tốt trong bất kỳ môi trường nào, mặc dù kết quả sẽ biến đổi. Kết quả cũng có thể khác nhau đối với việc sử dụng các giống lúa khác nhau, cho đến nay tất cả các giống lúa đều đã phản ứng tích cực với phương pháp quản lý này. Nhưng một vài giống cho năng suất cao hơn các giống khác, năng suất cao nhất tất nhiên là đến từ những giống lúa lai cao sản, ví dụ như năng suất đạt 17,8 tấn/ha với giống BG 358 ở Sri Lanka [43],[47]. Tuy nhiên năng suất tối đa không phải là mục tiêu, đặc biệt là từ triển vọng một nền nông nghiệp bền vững. Hơn nữa những gì mà mọi người nhận thấy về hiệu quả tích cực của các phương pháp SRI là chúng góp phần vào việc nâng cao hơn các yếu tố năng suất và làm tăng thêm hiệu suất của đất, lao động và nước, điều này làm giảm áp lực trên đất và nguồn nước cơ bản , và sẽ góp phần vào đa dạng hoá hơn các hệ thống sản xuất, làm cho biện pháp độc canh quan trọng trở lên ít cần thiết hơn và ít cạnh tranh hơn [43]. Bảng 2.1: Một số kết quả thử nghiệm SRI ở các nước Địa điểm Thời gian Người báo cáo Năng suất thường(tấn/ha) Năng suất với SRI (tấn/ha) Madagascar 1994 - 1999 Norman Uphoff 2 8 Mindanao, Philipin 1999 Celso Limas 2 4,96 Đại học nông nghiệp Trung Quốc 1999 Fr. Henri de Laulanie, S.J. 9,2 – 10,5 Sukanamdi, Indonesia 1999 2000 Sunendar Kartaatmadja 4,1- 5,4 5,9 – 6,9 6,3 – 6,9 9,5 Kandal; Takeo, Campuchia 2000 2001 Koma Saing Yang 2 3,6 5 6 Đại học Chiangmai Thái Lan 10/2001 Phrek Gypmantasiri 4,82 5,82 Gambia, 5,4 – 8,3 Cuba 9,1 – 9,56 Myikyina, Myanmar 2001 Humayan Kabir 4 5,5 Sri Lanka: - Bopitiya - Mallawalana - Namal Oya 08/2000 2001 2001 H.M. Premaratna 3,7 15,8 10,5 – 15,7 8,5 Trung Quốc : - Heilongjiong - Guiyang, Guizhou - Sichuan Agri. Univer - Wen Zhon, Zhejiang - Tian Tai, Zhejiang - Meishan, Sichuan - Leshan, Sichuan - Jianyang, Sichuan - Hunan -Taoyun, Yunnan - Yunnan Jin Xueyong Zhou Weijia Ma Jun Wu Cun Zan Zhu Defeng Liu Zhibin Tang Yonglu Xu Xiuli Yuan Longping Zhu Defeng Liu Zhibin 12,47 12,87 11,75 10,08 – 10,37 11,5 – 12,0 13,2 12,1 7,61 13,5 18,0 20,4 2.2.2 Tình hình áp dụng SRI tại Việt Nam SRI mới được giới thiệu vào Việt Nam từ năm 2003 và được thí nghiệm ở một số tỉnh đồng bằng, trung du và miền núi phía Bắc. Phương pháp canh tác SRI đã phát huy hiệu quả, qua nghiên cứu ứng dụng các chuyên gia khẳng định biện pháp canh tác lúa này phù hợp với đồng ruộng Việt Nam, kết quả thử nghiệm cho thấy năng suất lúa tăng đáng kể ( >20%) so với phương pháp canh tác lúa cổ truyền tưới ngập nước, trong khi đó chi phí đầu vào cho sản xuất giảm như giống, phân bón và tưới nước. Một số tỉnh ở vùng đồng bằng và trung du miền núi phía Bắc đã áp dụng phương pháp này. 2.2.2.1 Yên Dũng – Bắc Giang Yên Dũng là địa phương đầu tiên trong cả nước áp dụng kỹ thuật SRI, từ việc trồng thử nghiệm với diện tích hạn chế (0,6 ha). Tháng 6/2006, dự án thâm canh lúa theo phương pháp SRI đã chính thức được Sở Khoa Học và Công Nghệ tỉnh phê duyệt và triển khai thực hiện với quy mô 440 ha tại các xã Đức Giang, Nham Sơn, Tiến Dũng, Xuân Phú, Quỳnh Sơn trong các vụ xuân và vụ mùa năm 2006 và 2007. Qua đánh giá của phòng nông nghiệp huyện cho thấy, năng suất lúa trung bình của vùng dự án đạt 69,4 tạ/ha, tăng 13,9 tạ/ha so với cấy theo phương pháp thông thường. Đặc biệt, lãi thuần rất cao, đạt trên 14,6 triệu đồng/ha, gấp 1,7 lần kỹ thuật cấy thông thường. (Báo điện tử Bắc giang) 2.2.2.2 Hà Tây (cũ) Vụ mùa năm 2007, chi cục Bảo vệ thực vật (BVTV) tỉnh, trạm BVTV của tất cả 14 huyện, thành phố, thị xã của tỉnh Hà Tây (cũ) đã phối hợp với 86 Hợp tác xã nông nghiệp triển khai và mở rộng diện tích áp dụng kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến (SRI) trên diện tích 3.100 ha, tăng gần 2000 ha so với 2 vụ trước, với 41.000 hộ nông dân tham gia. Kết quả cho thấy toàn bộ diện tích nông dân áp dụng theo phương pháp SRI đều cho năng suất cao hơn phương pháp truyền thống 20% và đạt nhiều lợi ích; nông dân giảm được lượng giống , nước tưới, công chăm sóc và rất ít sâu bệnh hại nên hầu như không phải dùng thuốc BVTV. Vụ xuân năm 2007, Hà Tây (cũ) bắt đầu mở rộng diện tích; trạm BVTV của các huyện đã phối hợp với các xã; hợp tác xã thường xuyên mở lớp tập huấn và xây dựng mô hình trình diễn giúp bà con nắm bắt được phương pháp thâm canh mới, từng bước ứng dụng vào diện tích gieo cấy đại trà. Huyện Mỹ Đức là huyện ứng dụng SRI đứng đầu trong toàn tỉnh, năm 2007 đã áp dụng được 800 ha, các huyện khác xây dựng mô hình từ 100 ha đến 200 ha. ( Báo điện tử Hà tây) 2.2.2.3 Triệu Sơn – Thanh Hoá Năm 2000, khyến nông Triệu Sơn đã tiến hành thử nghiệm mô hình này ở 1 xã miền núi, 1 xã vùng bán sơn địa, và 2 xã đồng bằng, gồm: Thọ Phú, Minh Sơn, Họp Thắng và Thọ Bình. Kết quả thử nghiệm đều cho năng suất cao hơn đối chứng từ 20 – 30%, trong khi lượng phân và giống tốn ít hơn. Trên cơ sở đó, từ vụ đông xuân 2003 -2004, Trạm tiếp tục triển khai 10 điểm tại xã Triệu Thành và Bình Sơn, vụ hè thu 2004 mở thêm 20 điểm thử nghiệm và duy trì đến nay. Vụ đông xuân 2005, toàn huyện có 1.680 hộ tham gia dự án với 248 ha, đáng chú ý trạm Khuyến Nông đã xây dựng mô hình trình diễn quy mô tập trung 1 ha tại xã Dân Lý, kết quả đạt năng suất 80- 85 tạ/ha. Tại hội nghị tổng kết mô hình “ Kỹ thuật thâm canh lúa mới” tại xã Dân Lý, các đại biểu và bà con nông dân đã khẳng định lợi ích mà dự án đem lại như tiết kiệm 40% giống lúa thuần, 50% giống lúa lai Trung Quốc, tiết kiệm lao động 40% từ việc cấy thưa.(Tạp chí bảo vệ thực vật số 17, 2008) 2.3 Các công trình nghiên cứu có liên quan 2.3.1 Nghiên cứu về các phương pháp của SRI Fr. Henryde Laulanie và các đồng nghiệp của ông ở Tefy Saina đã không bao giờ coi SRI như là một công nghệ, nói cách khác là một tập hợp cố định những biện pháp được áp dụng với những kết quả không đổi trong mọi điều kiện. Hơn thế nữa họ xem xét đó như là một phương pháp, một triết lý được dựa trên những nguyên tắc quy nạp từ những quan sát thực tế (theo dõi thực nghiệm) đối với cây lúa như thế nào để có thể đạt được năng suất cao nhất. Các phương pháp của SRI gồm - Cấy mạ non: 8 – 15 ngày tuổi, chỉ với 2 lá nhỏ. Việc này đã bảo vệ, giữ gìn tiềm năng của cây lúa về sự đẻ nhánh nhánh nhiều và sự sinh trưởng của rễ. Tiềm năng này sẽ mất do cấy muộn. - Cấy một dảnh mạ, cấy khoảng cách rộng theo hình vuông: 25 x25 cm hay thậm chí rộng hơn 33 x 33cm hay 40 x 40cm thậm chí 50 x 50 cm nếu điều kiện đất tốt. Khoảng cách rộng như vậy sẽ tạo cho rễ của cây lúa có nhiều khoảng không để sinh trưởng, phát triển. - Cấy một cách cẩn thận: Vì những cây mạ non bị thương tổn rất nhỏ và có thể nhanh chóng phục hồi sự sinh trưởng của chúng. - Trong suốt thời kỳ sinh trưởng sinh thực: + Tưới nhẹ được cung cấp, giữ cho đất thông thoáng khí tốt nhất, với những thời kỳ ngắn (2 -5 ngày) để khô. + Đất được tưới ngập thích hợp và được để khô 2 -3 ngày một lần. Trong cả hai trường hợp không được giữ đất ướt sũng. Thông thường khi cây lúa bắt đầu bén rễ, hồi xanh sau khủng hoảng ban đầu, chỉ một lớp nước mỏng được duy trì trên ruộng (1- 2cm) sau đó ruộng nước được tháo cạn nước 10 – 20 ngày trước khi thu hoạch. - Khi ruộng lúa không được giữ ngập nước, việc kiểm soát cỏ dại tốt trở nên cần thiết. Việc làm cỏ nên bắt đầu 10 ngày sau khi cấy và lên được lặp lại 2 – 3 lần cách nhau 10 ngày. Mặc dù đây là phần đòi hỏi nhiều công lao nhất của SRI nhưng kết quả làm tăng năng suất đáng kể. - Sử dụng phân chuồng: Tốt nhất bón phân vài tháng trước khi trồng lúa, ví dụ trên cây trồng trước. Phân hoá học cũng cho kết quả tốt, nhưng phần lớn đối với các giống phân hoá học chưa phải là kết quả tốt nhất. Vấn đề hữu cơ đất và hoạt động của vi sinh vật là một phần chiến lược SRI đối với việc tăng năng suất. Điều băn khoăn, do dự chính là nhiều nhà khoa học và nông dân đang nghi ngại về việc tiến hành SRI là liệu đối với những kết quả đã được ghi nhận hay những biện pháp đã sử dụng nghe có vẻ thật sự là quá tốt. Với cây mạ nhỏ hơn, ít cây hơn trên một khóm và trên 1m2, với ít nước hơn cho năng suất cao hơn là trái với điều người ta nghĩ đến tự nhiên. Những nguyên tắc và biện pháp của SRI chống lại những kinh nghiệm, những kết quả nghiên cứu khoa học và biện pháp canh tác thông thường đã được chấp nhận về cây lúa. 2.3.2. Những đóng góp của SRI về môi trường và sự bền vững Nếu SRI chững tỏ được là có hiệu quả tốt như những kết quả thử nghiệm đã giới thiệu thì nó sẽ góp phần tạo nên một nền nông nghiệp bền vững và môi trường tự nhiên khoẻ mạnh hơn bởi vì: - Làm giảm áp lực đối với việc mở rộng những vùng đất trồng trọt được, bằng cách tăng hiệu xuất đất canh tác hiện nay. Ở Madagascar các nhà khoa học hy vọng điều này sẽ là yếu tố quan trọng góp phần cắt giảm sự du canh của lúa cạn xâm phạm đến những cánh rừng nhệt đới còn lại. - Làm giảm những yêu cầu, đòi hỏi của nông nghiệp về nguồn nước trên thế giới, một nguồn tài nguyên mà đang ngày càng trở nên khan hiếm. Lúa là cây tiêu thụ nước hàng đầu và những phương pháp SRI có thể cắt giảm 1/2 tới 2/3 những đòi hỏi về tưới tiêu của sản xuất lúa. - Làm giảm tác hại của hoá nông nghiệp vào đất và nước: với những phương pháp SRI, cây lúa sinh trưởng, phát triển khoẻ mạnh hơn và tự bản thân chúng có thể đối phó tốt hơn với vấn đề sâu bệnh hại. Điều này có thể làm giảm hoặc thậm chí dừng hẳn việc sử dụng thuốc trừ sâu bệnh và thuốc diệt cỏ. - Làm giảm sự thải ra khí Methane từ ruộng lúa bằng cách không giữ chúng tiếp tục ngập nước (Conway 1997). Trong khi điều này có thể làm tăng việc thải ra khí như Nitơ ôxit và một vài khí hiệu ứng nhà kính khác. Điều này sẽ được giảm thiểu nếu không sử dụng hoặc giảm phần lớn việc sử dụng phân đạm vô cơ. - Nâng cao chất lượng đất và hiệu suất sử dụng đất thông qua việc phối kết hợp các biện pháp quản lý cây trồng, đất, nước và dinh dưỡng, điều này góp phần tăng quy mô, sự năng động và đa dạng của hệ vi sinh vật đất. Sự bền vững của những biện pháp SRI không là một công nghệ cố định, đúng hơn là một bước tiến về những nhận thức mới và các nguyên lý đúng có thể áp dụng cho các cây trồng khác với những sự sửa đổi thích hợp sẽ được xác định cụ thể. Vì vậy ở Madagascar, mặc dù năng suất rất cao nhưng không nhìn thấy sự giảm sút năng suất qua các năm, thậm chí đất ở đây đã được mô tả và đánh giá như một vài loại đất nghèo nhất trên thế giới ( Johnson, 1994). Có thể sự cạn kiệt về dinh dưỡng đang được bù đắp bằng sự cần cù, chăm chỉ của nông dân đã làm cho năng suất đi lên chứ không giảm sút. Mặt khác, có thể độ phì nhiêu của đất đang được nâng cao bởi sự kết hợp, sự tương tác giữa đất, nước, cây trồng, dinh dưỡng và vi sinh vật nhờ các biện pháp SRI, đồng thời làm cho những chất dinh dưỡng không thể dùng được thành có thể dùng được thông qua các quá trình phân giải của vi sinh vật. Vấn đề này chưa thể được trả lời một cách chắc chắn, mặc dù những quá trình này giống như sự cố định Nitơ sinh học (Dobereiner, 1987; Baldini et al 1997) và sự hoà tan Photpho (Turner and Haygarth, 2001), đã được chứng minh bằng tài liệu với những biện pháp tương tự như các biện pháp được sử dụng trong SRI, vì vậy đây không phải là một vấn đề phỏng đoán. 3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Đức Giang, huyện Yên Dũng 3.1.1 Đặc điểm tự nhiên 3.1.1.1 Vị trí địa lý Xã Đức Giang, huyện Yên Dũng là một xã nằm ở phía Đông Nam của huyện cách trung tâm huyện gần 5km. Xã có vị trí thuận lợi để sản xuất nông nghiệp, đường tỉnh lộ 398 chạy qua giúp xã thuận lợi trong việc giao lưu buôn bán trao đổi hàng hoá cũng như ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Xã Đức Giang giáp với các địa phương sau: Phía Tây Bắc giáp xã Tiến Dũng, phía Nam giáp với xã Đồng Phúc, phía Đông Nam giáp xã Đồng Việt, phía Tây giáp xã Tư Mại. Các xã tiếp giáp Đức Giang đều là những xã có trình độ thâm canh lúa cao. Do vậy Đức Giang dễ dàng học hỏi được kỹ thuật thâm canh lúa 3.1.1.2 Khí hậu, thuỷ văn Đức Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, là vùng có nhiệt độ cao, mùa đông không lạnh lắm, mùa hè tương đối mát mẻ. Điều kiện khí hậu của Đức Giang rất phù hợp cho sản xuất lúa. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1730-1980 mm, chủ yếu tập trung từ tháng 5 đến tháng 10 với lượng mưa chiếm 85% lượng mưa cả năm, tính biến động của lượng mưa dẫn đến khó khăn trong sử dụng nguồn nước cũng như tổ chức sản xuất nông nghiệp và đời sống. 3.1.2 Đặc điểm về kinh tế, xã hội 3.1.2.1 Đặc điểm về đất đai Theo số liệu thống kê của UBND xã Đức Giang năm 2007 tổng diện tích tự nhiên của xã là 1010,77 ha được sử dụng theo nhiều mục đích khác nhau. Trong đó, diện tích sử dụng vào sản xuất nông nghiệp là 485,14 ha chiếm 48% tổng diện tích đất tự nhiên. Qua 3 năm diện tích đất nông nghiệp của xã giảm bình quân 1% do quá trình xây dựng đường giao thông, hệ thống mương máng thủy lợi. Tình hình phân bổ đất đai ở xã Đức Giang được thể hiện qua bảng 3.1, số liệu trong bảng cho thấy: Diện tích đất nông nghiệp vẫn chiếm phần lớn tổng diện tích đất tự nhiên của toàn xã. Nhìn chung không có sự biến động nhiều trong việc sử dụng đất. Tuy diện tích đất trồng lúa giảm dần trong 3 năm ( từ 515,48 ha năm 2006 xuống còn 498,7 ha năm 2008) nhưng cơ cấu sử dụng đất thì gần như không đổi, diện tích trồng lúa vẫn chiếm khoảng trên 60% tổng diện tích đất tự nhiên. Điều này giúp cho sản xuất nông nghiệp được ổn định, người nông dân yên tâm đầu tư lâu dài cho sản xuất lúa. 3.1.2.2 Đặc điểm về dân số và lao động Đức Giang là một xã thuần nông với 80% dân số làm nông nghiệp, còn lại 20% dân số gồm: Cán bộ công nhân viên nhà nước, tiểu thương và công nhân. Qua bảng 3.2 cho thấy tổng số hộ của xã tăng qua các năm. Năm 2005 tổng số hộ của xã là 1784 hộ, đến năm 2008 là 1845 hộ. Tổng số nhân khẩu của xã cũng tăng năm 2006 là 7455 khẩu, đến năm 2008 là 7587 khẩu. Lao động nông nghiệp có xu hướng giảm (năm 2005 là người, đến năm 2008 là người) trong khi đó lao động phi nông nghiệp có xu hướng tăng lên. Điều này là do Đức Giang là một xã gần trung tâm huyện nên rất có điều kiện để phát triển các ngành nghề, dịch vụ khác. Trong vài năm gần đây nhiều hộ gia đình đã chuyển từ làm ruộng sang buôn bán, dịch vụ, làm công nhân (như: sửa chữa ô tô, xe máy, làm thợ mộc, cơ khí, sản xuất đá, may mặc, bán hàng quán….). Lao động là lực lượng quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Đây là lực lượng lao động chính tham gia tạo ra của cải, vật chất. Vì vậy, chất lượng và số lượng lao động ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người dân nơi đây. Từ số liệu của bảng 3.2 cho thấy tỷ lệ bình quân lao động/hộ là 1,6 người. Nhìn chung qua 4 năm tỷ lệ bình quân nhân khẩu/hộ không biến động đáng kể. Số lượng, cơ cấu lao động có sự biến đổi qua các năm, đời sống của người dân trong xã từng bước được thay đổi, ngành nghề ngày càng đa dạng hơn, tỷ lệ lao động thất nghiệp trong xã giảm đi đáng kể, nhất là từ khi tỉnh có chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng, chuyển từ cây lúa sang cây trồng khác có năng suất và thu nhập cao hơn. Bảng 3.1: Tình hình phân bổ và sử dụng đất đai xã Đức Giang Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tốc độ phát triển (%) Số lượng (ha) Cơ cấu (%) Số lượng (ha) Cơ cấu (%) Số lượng (ha) Cơ cấu (%) 07/06 08/07 BQ Tổng diện tích đất tự nhiên 825,1 100 825,1 100 825,1 100 100 100 100 I. Đất nông nghiệp 703,15 85,22 695,6 84,3 675,79 81,9 98,93 97,15 98,04 Đất cấy lúa 515,48 62,47 506,53 61,39 498,7 60,44 98,26 98,45 98,36 II. Đất chuyên dùng 107,06 13,04 120,62 14,62 141,62 17,16 112,67 117,41 115,01 III. Đất chưa sử dụng 14,89 1,74 8,88 1,08 7,69 0,93 59,64 86,6 71,86 ( Nguồn: Ban thống kê xã Đức Giang) Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động của xã qua 4 năm (2005-2008) Chỉ tiêu ĐVT 2005 2006 2007 2008 1. Tổng số hộ Hộ 1757 1784 1824 1845 2. Tổng số nhân khẩu Khẩu 7365 7455 7519 7587 3. Tổng số lao động LĐ 2613 2854 2895 3014 - Lao động NN LĐ 1768 1720 1716 1699 - Lao động phi NN LĐ 845 1134 1179 1315 4 Một số chỉ tiêu BQ - BQ nhân khẩu/hộ Khẩu/hộ 4.19 4.18 4.12 4.11 - BQ lao động/hộ LĐ/hộ 1,5 1,6 1,6 1,6 ( Nguồn: Ban thống kê xã Đức Giang) 3.1.2.3 Đặc điểm cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng xã Đức Giang được xây dựng bao gồm: Hệ thống giao thông, hệ thống thuỷ lợi, hệ thống điện, hệ thống trường học, trạm y tế và thông tin liên lạc. Hiện trạng công trình và mức độ phục vụ đời sống dân sinh được phản ánh như sau: - Hệ thống điện: Hệ thống điện của xã Đức Giang đã được hoà mạng với mạng điện quốc gia, hiện nay xã có 2 trạm biến áp, đường dây cao thế đã về tận xã. Tỷ lệ dùng điện lưới của nhân dân trong xã đạt 100% nhu cầu sử dụng của người dân trong xã đã được đảm bảo. - Hệ thống đường giao thông trên địa bàn xã: Đường liên xã dài 8 km, đường liên thôn dài 25 km và đường thôn xóm dài 32 km hệ thống đường liên thôn xóm đã được quy hoạch rộng rãi (đường liên thôn rộng 6 m, đường liên xóm rộng 4 m) đường liên xã đã được rải nhựa, còn đường liên thôn xóm hầu hết được rải bê tông nên rất thuận lợi cho việc đi lại. - Hệ thống thông tin liên lạc: Xã có hệ thống thông tin liên lạc thông suốt từ xã đến thôn đã thực hiện công tác tuyên truyền những đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những quy định của địa phương đến tận người dân. Từ đó góp phần nâng cao dân trí và phục vụ kịp thời cho các sự kiện chính trị, các ngày lễ lớn, cuộc vận động học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tổ chức kiểm tra xét công nhận gia đình văn hoá, gia đình thể thao… - Hệ thống thuỷ lợi: Xã được hai trạm bơm của xã Tư Mại và Đồng Việt, cùng với hệ thống kênh mương tưới tiêu dài 7 km phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Ruộng đồng của người dân nhìn chung có đủ nước tưới, tránh được tình trạng mất mùa do thời tiết gây ra, cũng như tiêu thoát nước khi lũ lụt ngập úng, tuy nhiên vẫn còn một số thôn chưa chủ động tười tiêu được do địa hình không bằng phẳng, cao thấp không đều. - Về giáo dục: Sự nghiệp giáo dục xã nhà luôn được quan tâm đúng mức đã góp phần tích cực động viên nhân dân cho con em mình đến tuổi đều được đến trường. Trang thiết bị dạy và học ngày càng được đầu tư nhiều hơn. Riêng trường tiểu học đã đạt chuẩn quốc gia. Hội khuyến học, hội cha mẹ phụ huynh học sinh đã có nhiều hoạt động tích cực góp phần năng cao chất lượng giáo dục của xã - Công tác y tế: Cơ sở hạ tầng phục vụ y tế của xã đã được đầu tư mua sắm thêm các trang thiết bị cần thiết phục vụ bà con trong xã. Năm 2007 đã tổ chức khám và chữa bệnh cho 3425 lượt người. Trong đó, điều trị tại trạm 2530 lượt, số bệnh nhân chuyển tuyến trên 161 người. Tỷ lệ trẻ em dưới 6 tuổi tiêm phòng đủ 6 loại vác xin đạt 95%, tiêm viêm gan B đạt 95%, tỷ lệ bà mẹ mang thai đến khám và tiêm phòng đạt 90%. Đánh giá chung về tình hình cơ sở hạ tầng của xã đã được xây dựng và đổi mới nhiều. Trước năm 2000 hệ thống cơ sở hạ tầng của xã rất nghèo nàn và lạc hậu không bảo đảm phục vụ cho sản xuất và đời sống của nông dân, đến nay nhờ sự đầu tư của Nhà nước và sự nỗ lực đóng góp của nhân dân các công trình trong xã đã tăng lên đảm bảo chất lượng để phục vụ tốt nhất cho nhu cầu của người dân trong xã. Bảng 3.3: Cơ sở hạ tầng của xã năm 2007 Chỉ tiêu đvt Số lượng Ghi chú I. Giao thông 1. Đường liên xã km 8 Đường rải nhựa 2. Đường liên thôn km 25 Đường rải nhựa 3. Đường liên xóm km 32 Đường bê tông II. Công trình điện 1. Trạm biến áp cái 2 840 KVA/cái 2. Đường dây cao thế km 10,6 3. Đường dây hạ thế km 15,2 4. Đường dây khu dân cư km 40 III. Công trình thuỷ lợi 1. Trạm bơm trạm 2 1580m3/h 2. Kênh tưới tiêu km 7 Bê tông IV. Công trình phúc lợi-văn hoá 1. Bưu điện văn hóa xã cái 1 2. Trường học cái 1 - Trường mẫu giáo cái 1 - Trường cấp I cái 1 - Trường cấp II cái 1 3. Trạm y tế cái 1 4. Máy điện thoại cái 1568 5. Tỷ lệ dân được nghe truyền thanh % 100 6. Tỷ lệ hộ có máy thu hình % 95 (Nguồn: Ban thống kê xã Đức Giang) 3.1.2.4 Tình hình phát triển kinh tế Cùng với quá trình triển khai và thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng của tỉnh, nhiều hộ nông dân trong xã đã mạnh dạn vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất các giống cây trồng, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại. Năm 2007 tổng giá trị sản xuất của xã đạt 62873 triệu đồng, tốc độ phát triển bình quân qua 3 năm là 11,4%/năm. Điều quan trọng là ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và thương mại có mức tăng trưởng khá cao, bình quân là 6,02% và 11,64%. Mặc dù với tỷ trọng còn thấp nhưng sự phát triển này cho thấy trong cơ cấu kinh tế xã đang dần hoàn thiện. Năm 2007, giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm 61,12% tổng giá trị sản xuất trong xã bình quân mỗi năm tăng 5,18%, trong đó ngành trồng trọt tăng mạnh 11,47% còn ngành chăn nuôi giảm đáng kể 16,33%. Như vậy, có thể nói tình hình cơ bản của xã thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng theo hướng phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ - thương mại. Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu nói chung và trong nông nghiệp nói riêng để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và vững chắc. 3.2 Phương pháp nghiên cứu 3.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đánh giá hiệu quả kinh tế của kỹ thuật thâm canh lúa tổng hợp SRI do đó em đã chọn điểm nghiên cứu xã Đức Giang, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Điểm nghiên cứu đã chọn đáp ứng được yêu cầu bởi những lý do sau: - Dự án ứng dụng tiến bộ kỹ thuật SRI trong sản xuất lúa đã xây dựng mô hình áp dụng tại xã trong 2 năm (2006 - 2007) Sau 2 năm xây dựng mô hình đã thu được một số kết quả tốt đẹp. Do đó số lượng người dân đăng ký tham gia thử nghiệm mô hình ngày càng tăng Bảng 3.4: Kết quả sản xuất kinh doanh của xã từ năm 2005 - 2007 Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tốc độ phát triển (%) Giá trị (tr.đồng) Cơ cấu (%) Giá trị (tr.đồng) Cơ cấu (%) Giá trị (tr.đồng) Cơ cấu (%) 06/05 07/06 BQ Tổng giá trị sản xuất 50661 100,00 55114 100,00 62873 100,00 108,79 114,08 111,40 1. Ngành nông nghiệp 34170 67,45 35012 63,53 38426 61,12 94,16 96,21 95,18 - Trồng trọt 18897 55,30 20550 58,69 26404 68,71 106,13 117,07 111,47 - Chăn nuôi 15273 44,70 14462 41,31 12022 31,29 92,42 75,74 83,67 2. Ngành CN- TTCN 6991 13,80 7623 13,83 9752 15,51 100,22 112,15 106,02 3. Ngành DV - TM 9500 18,75 12479 22,64 14695 23,37 120,75 103,22 111,64 (Nguồn: Ban thống kê xã Đức Giang) - Đây là một đại diện của dự án ứng dụng tiến bộ kỹ thuật SRI vào sản xuất lúa. Xã đáp ứng được những điều kiện của mô hình là chủ động được nước tưới tiêu, địa hình ruộng bằng phẳng. Điểm nghiên cứu có thể chia làm hai vùng khác nhau: Vùng thứ nhất bao gồm các thôn tham gia thử nghiệm kỹ thuật SRI gồm thôn Hồng Giang, thôn Cát, thôn Trung Sơn, thôn Thanh Vân, thôn Bò, thôn Mồ. Những thôn đó được coi là vùng mục tiêu của dự án. Vùng thứ hai bao gồm những thôn mà các hộ nông dân không áp dụng kỹ thuật SRI là: cầu Hồ, cầu Hạ, cầu Thượng, cầu Cả, cầu Bến, cầu Núi, cầu Đường. Tuy nhiên các hộ nông dân ở các thôn này vẫn có thể tiếp cận với các thông tin về kỹ thuật này thông qua hệ thống khuyến nông xã hoặc thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Những thôn đó được xem như là vùng lan truyền của dự án. 3.2.3 Phương pháp thu thập tài liệu * Số liệu thứ cấp Số liệu thứ cấp là các số liệu đã được công bố, là nguồn số liệu quan trọng đảm bảo tính hiện thực khách quan cho đề tài nghiên cứu. Việc thu thập số liệu thứ cấp bao gồm số lượng giống lúa được đưa vào sản xuất trong dự án, diện tích trồng lúa, năng suất, sản lượng, giá bán… trong các năm ở các thôn đã được tiến hành. Những số liệu thứ cấp này được thu thập trực tiếp, gián tiếp bằng cách đọc tài liệu, nghe, ghi chép, chọn lọc, trực tiếp điều tra, phỏng vấn nông hộ. - Số liệu thu thập được từ tỉnh, huyện như các báo cáo tổng kết và định hướng dự án phát triển sản xuất nông nghiệp, các chủ trương chính sách, định hướng phát triển sản xuất lúa, nghị quyết, nghị định, thông tư, báo, tạp chí liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Số liệu thu thập từ xã, thôn, hộ nông dân như các báo cáo tổng kết, báo cáo hội đồng, sổ sách ghi chép theo dõi các thông tin điều tra hộ. * Số liệu sơ cấp Số liệu sơ cấp bao gồm số liệu điều tra - Chọn mẫu điều tra: Để đánh giá hiệu quả kinh tế của kỹ thuật SRI thì việc thu thập các thông tin và số liệu về tình hình sản xuất lúa ở các hộ nông dân tại các điểm nghiên cứu là cực kỳ quan trọng. Để thấy được hiệu quả của SRI thì nhóm hộ nông dân áp dụng kỹ thuật mới và nhóm hộ nông dân không áp dụng kỹ thuật mới cần được phỏng vấn để thu thập các số liệu và thông tin cần thiết. Ngoài ra nhóm hộ nông dân không áp dụng kỹ thuật SRI cũng cần được phỏng vấn để tìm hiểu những ý kiến của họ hay những khó khăn cản trở họ áp dụng. Với quan điểm đó, chúng tôi điều tra 200 hộ bao gồm 100 hộ trồng theo kỹ thuật mới, 100 hộ trồng kỹ thuật cũ. Trong đó, các hộ được phân thành 3 nhóm hộ theo tiêu chí kỹ thuật là nhóm hộ khá có năng suất trên 70 tạ/ ha, nhóm hộ trung bình có năng suất từ 55 tạ/ ha đến 70 tạ/ ha và nhóm hộ kém có năng suất từ 40 đến 55 tạ / ha, tiêu chí tuổi chủ hộ là nhóm hộ trẻ có tuổi chủ hộ dưới 35 tuổi và nhóm hộ trung niên có tuổi chủ hộ trên 35 tuổi. Theo tiêu chí trình độ học vấn là nhóm hộ 1 có trình độ học vấn từ cấp 1 trở xuống, nhóm 2 là nhóm hộ có học vấn từ cấp 1 đến cấp 2, và nhóm 3 là từ cấp 3 trở lên. - Phương pháp điều tra: Thiết kế biểu mẫu điều tra sau đó đi phỏng vấn. - Nội dung điều tra: Nội dung của câu hỏi phỏng vấn đối với các hộ trồng lúa gồm hai phần. Phần thứ nhất được thiết kế để thu thập các thông tin chung của hộ và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ (lao động gia đình, diện tích đất đai, nguồn vốn), các hoạt động sản xuất kinh doanh và kết quả của chúng, các nguồn thu nhập của hộ… Phần thứ hai tập trung thu thập các thông tin về tình hình sản xuất lúa của hộ (diện tích, tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào, năng suất). Phần thứ ba tậ._.g khoảng cách cấy đã làm giảm công gieo mạ. Công gieo mạ trong SRI giảm còn bằng 0,5 so với kỹ thuật truyền thống. Việc cấy mạ non sẽ làm tăng công làm đất vì khi cây mạ còn non sẽ rất dễ bị tổn thương, rễ cây ngắn nên yêu cầu làm đất rất kỹ, mặt ruộng phải được làm phẳng. Chế độ nước tưới và khoảng cách rộng của kỹ thuật SRI sẽ làm cỏ dại phát triển mạnh nên công làm cỏ sẽ tăng. Bù lại công phun thuốc diệt cỏ, trừ sâu sẽ giảm. Việc thực hiện chế độ nước tưới của SRI sẽ giúp giảm công tưới nước. Kỹ thuật SRI làm tăng năng suất do đó sẽ làm tăng công thu hoạch. Tóm lại, dùng phương pháp SRI sẽ làm giảm khoảng 2 - 3 công lao động/sào (tương đương 100000 - 150000 đ/sào). * Chi phí thuốc BVTV Ưu điểm của phương pháp thâm canh lúa theo kỹ thuật SRI không những chỉ là các chỉ tiêu về sinh trưởng và các yếu tố cấu thành năng suất mà nó còn hạn chế được sự phát sinh gây hại của một số đối tượng sâu bệnh hại chính trên lúa. Bảng 4.11 : Ảnh hưởng của biện pháp canh tác đến sự phát triển của dịch hại Đối tượng Cấy SRI Canh tác truyền thống (Đ/c) - Sâu đục thân - Sâu cuốn lá nhỏ - Tập đoàn rầy - Bệnh khô vằn - Bệnh đen lép hạt ++ + + - + ++ ++ ++ ++ + - + Không xuất hiện Nhiễm sâu bệnh ở mức nhẹ ++ +++ Nhiễm sâu bệnh trung bình Nhiễm sâu bệnh nặng Có thể nói các chế độ canh tác của SRI đã cơ bản tạo ra sự khác biệt đối với các ruộng canh tác theo phương thức cũ. Đặc biệt bệnh khô vằn không phát sinh do được bón cân đối N-P-K từ đầu ở các thời kỳ nên cây mạ, cây lúa khoẻ, cứng cáp làm tăng khả năng chống chịu. Hạn chế được sâu bệnh đồng nghĩa với giảm được chi phí thuốc BVTV. * Chi phí nước SRI điều tiết nước theo nhu cầu sinh lý và theo từng giai đoạn sinh trưởng của cây lúa. Mức nước chỉ khoảng 1cm – 2cm, để nước theo từng giai đoạn do vậy tiết kiệm được nước tưới. Tổng lượng nước yêu cầu của SRI chỉ còn bằng 38% so với chế độ nước truyền thống. Điều này rất có ý nghĩa đối với vùng cao, vùng thiếu nước, giảm sức ép lên các công trình thủy lợi vốn đã cũ nát. Chênh lệch về chi phí giữa các nhóm hộ được thể hiện trong bảng 4.11 Qua bảng 4.11 ta thấy kỹ thuật SRI giảm bớt chi phí cả về lao động lẫn vật tư. Mức giảm chủ yếu là do giảm lao động. Cụ thể như sau: Hộ khá sản xuất theo kỹ thuật SRI giảm 131550 đ/sào so với hộ theo kỹ thuật truyền thống. Lao động giảm 103830 đ/sào,trong đó giảm về các công làm mạ (giảm 50000 đ/ sào), cấy (giảm 50000 đ/sào), chăm sóc (giảm 76000 đ/sào), nhưng tăng công làm đất (tăng 50000 đ/sào), tăng công thu hoạch (18000 đ/sào) và các công khác như xới đất, tưới tiêu nước (4170 đ/sào). Vật tư giảm 9484 đ/sào trong đó giống giảm 16500 đ/sào, kali giảm 51800 đ/sào, thuốc BVTV giảm 3000 đ/sào và tăng phân hữu cơ 8335 đ/sào, tăng phân đạm 46570 đ/sào, phân lân cũng tăng 1330 đ/sào Hộ trung bình giảm chi phí cho lao động là 72000 đ trong đó giảm về các công làm mạ (giảm 50000 đ/ sào), cấy (giảm 50000 đ/sào), chăm sóc (giảm 26500 đ/sào), nhưng tăng công làm đất (tăng 50000 đ/sào), tăng công thu hoạch (7500 đ/sào). Tăng chi phí về vật tư là 3830 đ/sào trong đó giống giảm 15700 đ/sào, kali giảm 23620 đ/sào, thuốc BVTV giảm 3000 đ/sào và phân hữu cơ giảm 9370 đ/sào, tăng phân đạm 21600 đ/sào, phân lân cũng tăng 35320 đ/sào. Bảng 4.12: Tổng chi phí đầu tư cho 1 sào lúa năm 2008 của các nhóm hộ ĐVT: 1000 đ Chỉ tiêu Nhóm hộ sản xuất theo phương pháp SRI Nhóm hộ sản xuất theo phương pháp truyền thống Hộ khá Hộ TB Hộ kém Hộ khá Hộ TB Hộ kém I. Lao động 765.17 685 493.5 869 757 600 1. Làm đất 100 100 50 50 50 50 2. Làm mạ 50 50 50 100 100 100 3. Gieo cấy 50 50 50 100 100 100 4. Chăm sóc 293 242.5 187 369 272 200 5. Thu hoạch 168 142.5 100 150 135 100 6. Công khác 104.17 100 56.5 100 100 50 II.Vật tư 436.345 444.5 425.62 454.07 440.67 460.76 1. Giống 11.7 11.8 12.4 27.5 27.5 32.88 2. Phân hữu cơ 183.335 160.53 169.35 175 169.9 178.95 3. Đạm 108 81.02 59.40 61.43 59.42 57.83 4. Lân 60.81 92.55 57.50 62.14 57.23 54.78 5. Kali 58.2 81 106.79 110 104.62 111.32 6. Thuốc BVTV 15 18 20 18 22 25 III. Tổng 1201.52 1129.9 919.12 1333.07 1197.67 1060.76 ( Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra) - Hộ kém giảm chi phí cho lao động là 106500 đ trong đó giảm về các công làm mạ (giảm 50000 đ/ sào), cấy (giảm 50000 đ/sào), chăm sóc (giảm 13000 đ/sào), các công khác như xới đất, tưới tiêu nước tăng 6.5000 đ/sào . Giảm chi phí về vật tư là 35140 đ/sào trong đó giống giảm 22000 đ/sào, kali giảm 4530 đ/sào, thuốc BVTV giảm 3000 đ/sào và phân hữu cơ giảm 9600 đ/sào, tăng phân đạm 1570 đ/sào, phân lân cũng tăng 2720 đ/sào. Tóm lại kỹ thuật SRI giúp giảm ở chủ yếu ở chi phí lao động. Mức chi phí về vật tư của 2 nhóm hộ không khác biệt nhau nhiều. 4.3.1.2 Về kết quả và HQKT Kết quả và HQKT của phương pháp SRI được thể hiện trong bảng sau Qua bảng trên ta thấy năng suất lúa trung bình của các nhóm hộ sản xuất theo kỹ thuật có cao hơn năng suất của các nhóm hộ sản xuất theo kỹ thuật SRI nhưng sự khác biệt này không quá lớn. Tuy nhiên trong 100 hộ SRI điều tra thì có 36% là hộ khá, 33% là hộ trung bình. Trong khi đó tỷ lệ này ở hộ truyền thống là 22% và 38%. Như vậy có thể nói sản xuất theo kỹ thuật SRI cho năng suất cao hơn. Các nhóm hộ sản xuất theo kỹ thuật SRI có lợi nhuận lớn hơn các nhóm hộ sản xuất theo kỹ thuật truyền thống. Trong đó nhóm hộ kém có lợi nhuận cao nhất do nhóm hộ kém đã mạnh dạn trồng nhiều giống lúa HTS1 tuy có năng suất thấp hơn nhưng giá bán lại cao hơn rất nhiều. Các chỉ tiêu về HQKT của nhóm hộ sản xuất theo SRI cũng cao hơn rất nhiều so với nhóm hộ sản xuất theo kỹ thuật tryền thống. Tóm lại các nhóm hộ sản xuất theo phương thức SRI có chi phí thấp hơn, lợi nhuận cao hơn và hiệu quả kinh tế cao hơn nhóm hộ sản xuất theo kỹ thuật truyền thống. Bảng 4.13: Kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất 1 sào lúa của các nhóm hộ điều tra năm 2008 (Tính theo giá năm 2008) ĐVT: 1000 đ Chỉ tiêu Nhóm hộ sản xuất theo kỹ thuật SRI Nhóm hộ sản xuất theo kỹ thuật truyền thống So sánh Hộ khá Hộ TB Hộ kém BQ (I) Hộ khá Hộ TB Hộ kém BQ (II) (I) – (II) Kết quả sản xuất 1. Năng suất (kg/s) 251.72 213.21 184.13 216.35 244.62 207 184.13 211.92 4.44 2. Năng suất (tạ/ ha) 69.93 59.23 51.15 60.10 67.95 57.5 51.15 58.87 1.24 3. Giá trị sản xuất (GO) 1708.17 1192.97 1448.68 1449.94 1463.94 1257.26 1243.91 1321.70 128.24 4. Chi phí trung gian (IC) 436.345 444.5 425.62 435.49 454.07 440.67 460.76 451.83 -16.34 5. Giá trị gia tăng (VA) 1271.825 748.47 1023.06 1014.45 1009.87 816.59 783.15 869.87 144.58 6. KHTSCĐ và CPPB khác (A) 50 45 40 45.00 50 45 40 45.00 0.00 7. Thu nhập hỗn hợp (MI) 1221.825 703.47 983.06 969.45 959.87 771.59 743.15 824.87 144.58 8. Công LĐ (1000đ/sào) 765.17 656.06 493.5 638.24 879 757 600 745.33 -107.09 9. Lợi nhuận (Pr) 456.655 47.41 489.56 331.21 80.87 14.59 143.15 79.54 251.67 HQKT + GO/ IC 3.91 2.68 3.40 3.33 3.22 2.85 2.70 2.92 0.41 + VA/ IC 2.91 1.68 2.40 2.33 2.22 1.85 1.70 1.92 0.41 + MI/ IC 2.80 1.58 2.31 2.23 2.11 1.75 1.61 1.82 0.41 + Pr/ IC 1.05 0.11 1.15 0.77 0.18 0.03 0.31 0.17 0.60 + GO/ 1công LĐ 111.62 90.92 146.78 116.44 83.27 83.04 103.66 89.99 26.45 + VA/ 1công LĐ 28.51 33.88 43.12 35.17 25.83 29.11 38.40 31.11 4.06 + MI/ 1công LĐ 83.11 57.04 103.65 81.27 57.44 53.94 65.26 58.88 22.39 + Pr/ 1 công LĐ 3.27 3.43 4.05 3.58 2.84 2.97 3.33 3.05 0.54 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra) 4.3.2 Đánh giá kết quả và HQKT của phương pháp SRI theo giống lúa Giống là yếu tố quyết định phần lớn năng suất của lúa. Để đánh giá hiệu quả kinh tế của phương pháp SRI, em tiến hành tổng hợp, so sánh các chỉ tiêu kết quả sản xuất và hiệu quả kinh tế của các nhóm hộ theo các giống lúa. Theo bảng trên ta thấy giữa các giống lúa có sự khác biệt rõ ràng về chi phí và kết quả sản xuất. Giống HTS1 có năng suất, chi phí thấp nhất nhưng lại có giá trị sản xuất và lợi nhuận cao nhất ở cả hai phương pháp sản xuất. Lợi nhuận trên một đồng chi phí là 1,03 tức là một đồng chi phí bỏ ra sẽ thu về 1,03 đồng lãi. Trong khi đó với giống KD 18 là 0,86 và giống Q5 là 0,3. Tuy vậy năng suất của giống HTS1 vẫn chưa đạt được mức tiềm năng do các hộ trồng giống này không đầu tư nhiều nguồn lực cho sản xuất lúa. Nếu các hộ trồng đúng theo qui trình kỹ thuật thì năng suất có thể đạt 65 - 70 tạ /ha và lợi nhuận thu được có thể đạt 1250000 đ/sào. Giống Q5 cho hiệu quả kinh tế thấp nhất do đó cần phải giảm diện tích gieo trồng giống này trong thời gian tới và thay bằng giống KD 18, HTS1. Các giống lúa được sản xuất theo phương pháp SRI đều cho năng suất, giá trị sản xuất, lợi nhuận cao hơn sản xuất theo phương pháp truyền thống. Giống KD 18 sản xuất theo kỹ thuật SRI cho năng suất cao hơn 4,61 kg/sào (tăng 7,53 %), chi phí giảm 164890 đ/sào (giảm 6,68%) do đó lợi nhuận tăng 170590 đ/sào (tăng 73,34%). Giống Q5 sản xuất theo kỹ thuật SRI cho năng suất cao hơn 1.92 kg/sào (tăng 3,4 %), chi phí giảm 76130 đ/sào (giảm 13,25%) do đó lợi nhuận đạt được 133480 đ/sào trong khi đó nếu sản xuất theo phương pháp truyền thống thì không thu được lợi nhuận. Giống HTS1 sản xuất theo kỹ thuật SRI cho năng suất cao hơn 26,76 kg/sào (tăng 15 %), chi phí giảm 200420 đ/sào (giảm 18,93 %) do đó lợi nhuận tăng 170590 đ/sào (tăng 25,08 %). Bảng 4.14: Kết quả và hiệu quả kinh tế của các giống lúa điều tra năm 2008 (Tính cho 1 sào lúa theo giá năm 2008) ĐVT: 1000 đ Chỉ tiêu Khang Dân 18 Q5 Hương thơm số 1 SRI (I) TT (II) So sánh (I) - (II) SRI (I) TT (II) So sánh (I) - (II) SRI (I) TT (II) So sánh (I) - (II) Kết quả sản xuất 1. Năng suất (kg/s) 224.85 220.24 4.61 211.03 204.03 7 205.63 178.87 26.76 2. Năng suất (tạ/ ha) 62.46 61.27 1.19 58.62 56.70 1.92 57.12 49.69 7.43 3. Giá trị sản xuất (GO) 1573.96 1490.718 83.242 1241.42 1020.883 220.537 1700.38 1788.73 -88.35 4. Chi phí trung gian (IC) 469.76 447.46 22.3 444.12 438.99 5.13 499.81 465.79 34.02 5. Giá trị gia tăng (VA) 1104.20 1090.81 13.39 797.30 620.56 176.74 1200.56 1322.95 -122.39 6. KHTSCĐ và CPPB khác (A) 46.39 47.08 -0.69 44.08 48.00 -3.92 43.13 50.00 -6.87 7. Thu nhập hỗn hợp (MI) 1057.81 1043.31 14.5 753.22 572.46 180.76 1157.44 1272.95 -115.51 8. Công LĐ (1000đ/sào) 654.63 797.22 -142.59 619.74 701.00 -81.26 643.75 592.86 50.89 9. Lợi nhuận (Pr) 403.18 232.59 170.59 133.48 -137.02 270.5 513.69 680.09 -166.4 HQKT 0 0 0 + GO/ IC 3.35 3.33 0.02 2.80 2.33 0.47 3.40 3.84 -0.44 + VA/ IC 2.35 2.44 -0.09 1.80 1.41 0.39 2.40 2.84 -0.44 + MI/ IC 2.25 2.33 -0.08 1.70 1.30 0.4 2.32 2.73 -0.41 + Pr/ IC 0.86 0.52 0.34 0.30 -0.31 0.61 1.03 1.46 -0.43 + GO/ 1công LĐ 120.22 93.49 26.73 100.16 72.82 27.34 132.07 150.86 -18.79 + VA/ 1công LĐ 84.34 68.41 15.93 64.33 44.26 20.07 93.25 111.57 -18.32 + MI/ 1công LĐ 80.79 65.43 15.36 60.77 40.83 19.94 89.90 107.36 -17.46 + Pr/ 1 công LĐ 30.79 14.59 16.2 10.77 -9.77 20.54 39.90 57.36 -17.46 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra) Tóm lại trồng giống lúa HTS1 theo phương pháp SRI sẽ cho hiệu quả kinh tế cao nhất.Trong thời gian tới địa phương cần có những biện pháp để khuyến khích người dân chuyển đổi diện tích trồng các giống lúa có chất lượng kém sang giống lúa HTS1. 4.3.3 Đánh giá kết quả và HQKT của phương pháp SRI theo tiêu chí tuổi của chủ hộ Yếu tố tuổi của lao động cũng có ảnh hưởng đến sản xuất lúa. Lao động trung niên thường có kinh nghiệm sản xuất hơn lao động trẻ, họ cũng gắn bó với sản xuất lúa hơn do đó hộ chịu khó tìm tòi học hỏi các cách sản xuất mới. Tuy nhiên lao động trẻ lại có khả năng tiếp thu nhanh các TBKT, có sức khoẻ, có điều kiện để tiếp cận các kỹ thuật tiên tiến, các mô hình sản xuất tốt hơn. Để đánh giá kết quả và hiệu quả của phương pháp SRI theo tiêu chí tuổi của chủ hộ em tiến hành lập bảng tổng hợp 4.14 để phân tích và so sánh. Qua bảng trên ta thấy nhóm hộ sản xuất theo phương pháp SRI có năng suất, lợi nhuận cao hơn nhóm hộ sản xuất theo phương pháp truyền thống. Cụ thể là nhóm hộ trẻ (có tuổi chủ hộ từ 40 trở xuống) có năng suất cao hơn là 8,4 kg/sào (tăng so với phương pháp cũ 4 %), chi phí sản xuất cũng giảm 83720 đ/sào (giảm 7% chi phí so với cách sản xuất cũ), do vậy lợi nhuận đã tăng từ 57750 đ/sào lên 285670 đ/sào ( tăng hơn gần 4 lần). Có sự tăng cao như vậy là do nhóm hộ trẻ sản xuất theo phương pháp cũ không chú trọng nhiều đến sản xuất nông nghiệp do họ có các công việc làm thêm cho thu nhập cao hơn như làm công nhân, buôn bán, làm thuê… Nhóm hộ già (có tuổi chủ hộ trên 40) làm theo phương pháp SRI có năng suất cao hơn phương pháp cũ là 11,1 kg/sào (khoảng 3,06 tạ/ ha), tăng hơn 5,4%. Chi phí sản xuất cũng giảm đi 53800 đ/sào và lợi nhuận tăng lên 183130 đ/sào. Nhưng trong đó chi phí vật tư lại tăng 22830 đ/sào. Điều này có thể giải thích là do các hộ già đã quen với phương pháp sản xuất cũ nên khi thay đổi sang phương pháp sản xuất mới họ đã bị lúng túng, không áp dụng được đúng yêu cầu kỹ thuật nên năng suất tuy tăng nhưng chi phí vật tư lại tăng lên. Tóm lại kỹ thuật SRI làm tăng năng suất của sản xuất lúa lên khoảng 4% - 5%. Bảng 4.15: Kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất 1 sào lúa của các nhóm hộ điều tra năm 2008 (Tính theo giá năm 2008) ĐVT: 1000đ/sào Chỉ tiêu Nhóm hộ trẻ Nhóm hộ già SRI (I) TT (II) So sánh (I) - (II) SRI (I) TT (II) So sánh (I) - (II) Kết quả sản xuất 1. Năng suất (kg/s) 224.19 209.87 14.32 215.79 204.69 11.1 2. Năng suất (tạ/ ha) 62.28 58.36 3.92 59.95 56.89 3.06 3. Giá trị sản xuất (GO) 1434.81 1278.62 156.19 1466.18 1306.42 159.76 4. Chi phí trung gian (IC) 439.88 441.25 -1.37 470.76 447.93 22.83 5. Giá trị gia tăng (VA) 994.93 855.7761 139.1539 995.42 903.43 91.99 6. KHTSCĐ và CPPB khác (A) 46.30 47.5 -1.2 44.86 48.16 -3.3 7. Thu nhập hỗn hợp (MI) 948.64 808.12 140.52 950.55 855.05 95.5 8. Công LĐ 662.96 745.31 -82.35 632.19 708.82 -76.63 9. Lợi nhuận (Pr) 285.67 57.75 227.92 318.36 135.23 183.13 HQKT + GO/ IC 3.26 2.90 0.36 3.11 2.92 0.19 + VA/ IC 2.26 1.94 0.32 2.11 2.02 0.09 + MI/ IC 2.16 1.83 0.33 2.02 1.91 0.11 + Pr/ IC 0.65 0.13 0.52 0.68 0.30 0.38 + GO/ 1công LĐ 108.21 85.78 22.43 115.96 92.15 23.81 + VA/ 1công LĐ 75.04 57.41 17.63 78.73 63.73 15 + MI/ 1công LĐ 71.55 54.21 17.34 75.18 60.31 14.87 + Pr/ 1 công LĐ 21.55 3.87 17.68 25.18 9.54 15.64 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra) Nhóm hộ trẻ có năng suất, lợi nhuận cao hơn nhóm hộ già ở cả 2 phương pháp. Cụ thể là với các nhóm hộ sản xuất theo kỹ thuật SRI thì nhóm hộ trẻ có năng suất cao hơn là 8,4 kg/sào (khoảng 2,33 tạ/ ha) tương đương tăng khoảng 4%. Chi phí giảm là 111 đ/sào nhưng chi phí cho lao động tăng và lợi nhuận giảm 32690 đ/sào. Nhóm hộ trẻ có năng suất cao hơn nhưng lợi nhuận thu được thấp hơn là do nhóm hộ trẻ không chịu đổi mới về giống lúa, vẫn sử dụng các giống cũ có giá trị kinh tế thấp. Với nhóm nhóm hộ sản xuất theo phương pháp cũ thì năng suất của nhóm hộ trẻ cũng nhiều hơn năng suất của nhóm hộ già là 5,18 kg/sào (khoảng 2,5 % năng suất của nhóm hộ già), chi phí vật tư giảm 6680 đ/sào nhưng chi phí lao động tăng 36490 đ/sào, làm cho lợi nhuận giảm đi 77480 đ/sào. Sự khác nhau này là do khả năng lao động, kinh nghiệm sản xuất của các nhóm hộ gây ra. Tóm lại qua bảng trên ta thấy phương pháp SRI làm năng suất tăng lên và chi phí giảm đi. Nhóm hộ trẻ thường đầu tư nhiều cho yếu tố lao động nhưng nhóm hộ trẻ sản xuất theo kỹ thuật truyền thống có lợi nhuận ít hơn nhóm hộ già do họ còn thiếu kinh nghiệm trong khi đó nhóm hộ trẻ sản xuất theo phương pháp SRI có lợi nhuận cao hơn do họ tiếp thu với cái mới nhanh hơn. 4.3.4 Đánh giá kết quả và HQKT của phương pháp SRI theo tiêu chí trình độ văn hóa của chủ hộ Trình độ văn hóa của chủ hộ là một yếu tố có ảnh hưởng đến năng suất lúa. Hộ có trình độ văn hóa cao thì cũng dễ dàng hiểu được các kiến thức, cách làm mới hơn. Phương pháp SRI là mộ phương pháp mới, không giống với những quan niệm cũ về sản xuất lúa nên đòi hỏi người áp dụng có trình độ văn hóa khá. Ta có bảng tổng hợp kết quả và hiệu quả kinh tế theo trình độ văn hóa của chủ hộ sau. Bảng 4.15: Kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất 1 sào lúa của các nhóm hộ điều tra năm 2008 (Tính theo giá năm 2008) ĐVT: 1000đ/sào Chỉ tiêu Từ cấp 3 trở xuống Từ cấp 3 trở lên SRI (I) TT (II) So sánh (I) - (II) SRI (I) TT (II) So sánh (I) - (II) Kết quả sản xuất 1. Năng suất (kg/s) 213.38 201.98 11.4 230.70 213.47 17.23 2. Năng suất (tạ/ ha) 59.28 56.13 3.15 64.09 59.37 4.72 3. Giá trị sản xuất (GO) 1446.68 1294.37 152.31 1487.52 1299.45 188.07 4. Chi phí trung gian (IC) 469.86 450.85 19.01 442.32 437.53 4.79 5. Giá trị gia tăng (VA) 976.83 843.52 133.31 1045.19 861.92 183.27 6. KHTSCĐ và CPPB khác (A) 44.52 48.39 -3.87 47.22 47.24 -0.02 7. Thu nhập hỗn hợp (MI) 932.31 795.13 137.18 997.97 814.68 183.29 8. Công LĐ 626.03 760.53 -134.5 679.63 695.97 -16.34 9. Lợi nhuận (Pr) 306.28 34.6 271.68 318.34 118.71 199.63 HQKT + GO/ IC 3.08 2.87 0.21 3.36 2.97 0.39 + VA/ IC 2.08 1.87 0.21 2.36 1.97 0.39 + MI/ IC 1.98 1.76 0.22 2.26 1.86 0.4 + Pr/ IC 0.65 0.22 0.43 0.72 0.12 0.6 + GO/ 1công LĐ 115.54 92.99 22.55 109.44 85.43 24.01 + VA/ 1công LĐ 78.02 63.89 14.13 76.89 56.67 20.22 + MI/ 1công LĐ 74.46 60.40 14.06 73.42 53.56 19.86 + Pr/ 1 công LĐ 24.46 9.72 14.74 23.42 3.56 19.86 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra) Qua bảng trên ta thấy nhóm hộ có trình độ từ cấp 3 trở lên có năng suất cao hơn, chi phí sản xuất thấp hơn do đó lợi nhuận cũng cao hơn. Đặc biệt là các hộ sản xuất theo SRI thì hộ có trình độ văn hóa cao có lợi nhuận là cao nhất, cứ 1 đồng chi phí bỏ ra là thu về 3,36 đồng lợi nhuận. Tóm lại qua những phân tích ở trên ta thấy phương pháp SRI giúp làm tăng năng suất, giảm chi phí đó làm tăng thu nhập hỗn hợp và lợi nhuận hơn so với phương pháp cũ. Các yếu tố giống lúa, trình độ sản xuất của chủ hộ, tuổi của chủ hộ, trình độ văn hóa của chủ hộ đều có ảnh hưởng đến sản xuất lúa và việc áp dụng phương pháp SRI. Nếu sản xuất lúa HTS1 theo đúng hướng dẫn của phương pháp SRI thì sẽ thu được lợi nhuận cao nhất. Trong những năm tới việc đẩy mạnh việc chuyển đổi diện tích trồng lúa chất lượng thấp sang lúa chất lượng cao là vệc làm hết sức cần thiết. 4.4 Những mặt đạt được và những điểm hạn chế của chương trình áp dụng TBKT thâm canh lúa SRI 4.4.1 Những mặt đạt được * Về kinh tế - SRI làm tăng năng suất, giảm chi phí do đó làm tăng thu nhập cho người trồng lúa. * Về xã hội - Tăng thu nhập của người dân góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, phát triển nông thôn bền vững - Nâng cao trình độ nhận thức về khoa học kỹ thuật cho cán bộ các cấp, các ngành và người dân địa phương về kỹ thuật SRI, đồng thời tạo nên phong trào tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ mới trong đó có kỹ thuật SRI một cách mạnh mẽ và sâu rộng vào sản xuất trên địa bàn huyện. * Về môi trường - SRI hạn chế sự phát triển của cỏ dại do đó làm giảm sử dụng thuốc BVTV đã góp phần cải thiện môi trường, hạn chế lượng phân bón dư thừa trong đất, góp phần tích cực trong việc giữ gìn nguồn tài nguyên nước. Điều này đặc biệt có ý nghĩa ở những vùng cao, vùng thiếu nước. 4.4.2 Những mặt còn hạn chế - Xã Đức Giang là xã mà sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm phần lớn do đó nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa là việc làm rất cần thiết. Mặc dù sau khi áp dụng kỹ thuật thâm canh mới thì thu nhập của người trồng lúa đã được tăng lên nhưng nếu so với các ngành nghề khác thì thu nhập của người trồng lúa vẫn là thấp nhất. Điều này đã khiến cho lao động trẻ tại địa phương thường bỏ ruộng để đi làm thuê. Ruộng bỏ hoang nhiều gây lãng phí nguồn lực rất lớn. - Kỹ thuật thâm canh lúa SRI cho năng suất cao hơn kỹ thuật thâm canh lúa truyền thống nhưng một số hộ dân trồng những giống lúa có giá trị kinh tế thấp đã giảm mức thu nhập tiềm năng của hộ. - Kỹ thuật SRI có yêu cầu khắt khe về đất đai, tưới tiêu do đó một số thôn trong xã không áp dụng được. Ngoài ra, kỹ thuật này khác hoàn toàn với quan niệm cũ của người nông dân về sản xuất lúa nên người sản xuất vẫn chưa quen, việc áp dụng kỹ thuật còn không đúng với qui trình được hướng dẫn, bón phân bừa bãi không hợp lý nên chưa đạt được mức năng suất mong muốn. Tỷ lệ hộ trung bình và kém còn nhiều. - Trình độ thâm canh của một số người nông dân trong xã còn hạn chế trong khi đó các lớp tập huấn về kỹ thuật thâm canh SRI ở xã còn chưa được tổ chức nhiều. - Thị trường đầu ra cho sản phẩm lúa gạo còn không ổn định khiến nông dân không yên tâm đầu tư cho các giống lúa mới có năng suất và chất lượng cao. - Ngoài ra còn có nhiều những hạn chế khác như: trình độ quản lý của cán bộ chuyên ngành các cấp, sự quan tâm của chính quyền địa phương chưa thật sự nhiều… 4.5 Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế 4.5.1 Cơ sở thực tiễn của các giải pháp Căn cứ vào định hướng phát triển nông nghiệp của xã Cẩm La trong nghị quyết đại hội Đảng bộ xã: “Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hoá, tiếp tục thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ theo hướng tăng diện tích cây trồng có hiệu quả kinh tế cao…” Căn cứ vào thực trạng sản xuất cũng như hiệu quả kinh tế của cây dưa hấu ở các hộ nông dân đã nghiên cứu. Căn cứ vào tiềm năng của xã như: Tình hình đất đai, tiềm năng lao động, điều kiện đất đai … 4.5.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế thâm canh lúa của xã Đức Giang, huyện Yên Dũng 4.5.2.1 Giải pháp về giống Để đạt được năng suất cao ngoài việc tăng mức đầu tư cho sản xuất thì yếu tố về chất lượng giống cũng quyết định đến năng suất của cây trồng. Tại xã Đức Giang giống lúa HTS1 đã tỏ ra là một giống lúa phù hợp với điều kiện tự nhiên của xã, đáp ứng được nhu cầu của thị truờng về chất lượng, có giá trị kinh tế cao. Vì vậy chính quyền địa phương cần khuyến khích nông dân mở rộng diện tích trồng giống lúa này. 4.5.2.2 Giải pháp về kỹ thuật thâm canh Để tiến hành thực hiện mô hình thâm canh lúa ở xã cần có nhiều biện pháp khác nhau trong đó biện pháp về kỹ thuật mang một vai trò hết sức quan trọng. Các biện pháp kỹ thuật có thể được cụ thể hoá như sau: Về đất đai cần phải tương đối bằng phẳng, thuần thục, ruộng phải đủ nước quanh năm. Do đặc điểm của kỹ thuật SRI nên cần phải chủ động về nguồn nước, nước phải đạt tiêu chuẩn không bị ô nhiễm quá nặng, phải có cống cấp thoát nước để chủ động trong tưới tiêu. Do kỹ thuật SRI sử dụng cây mạ còn rất non nên cần phải làm đất tơi xốp, bằng phẳng tránh làm hư tổn bộ rễ của lúa khi cấy, phải đắp bờ ven để tránh bị thất thoát nước cũng như các chất dinh dưỡng. Bón phân chuồng từ 400 – 450 kg/sào, tuỳ thuộc vào điều kiện của từng hộ gia đình mà lượng phân chuồng nên bón nhiều hay ít nhưng tốt nhất là nên bón càng nhiều phân chuồng càng tốt bởi ngoài tác dụng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng phân chuồng còn có khả năng nâng cao độ mùn, tạo độ tơi xốp và cải tạo đất. Phân Đạm, các hộ chỉ nên bón ở mức từ 8 – 9 kg/ sào. Phân Lân, các hộ nên bón cho lúa từ 20 – 25 kg/ sào. Kali chỉ nên bón ở mức từ 8 – 9 kg/ sào. Mật độ gieo trồng vào khoảng 1 kg thóc giống/ sào , khoảng cánh cấy là 20cm x 20 cm. Như vậy, việc nắm được các kỹ thuật thâm canh các loại cây trồng trong mô hình là điều hết sức quan trọng bởi nó quyết định đến năng suất cây trồng từ đó quyết định đến kết quả và hiệu quả sản xuất. Để đảm bảo người dân thực hiện đúng qui trình kỹ thuật thì hàng năm mỗi khi bước vào mùa vụ, lãnh đạo chính quyền xã cần mở các lớp tập huấn kỹ thuật do các chuyên gia của trung tâm Khuyến nông tỉnh, trạm khuyến nông huyện, ban khuuyến nông xã chỉ dẫn. Ở đây bà con nông dân có thể nắm bắt được các kỹ thuật mới nhất, những thông tin về thị trường đầu vào, đầu ra rất bổ ích đới với bà con nông dân. Riêng đối với HTX cần nắm chắc lịch thời vụ để đôn đốc bà con sản xuất cho kịp thời vụ. 4.5.2.3 Tăng cường công tác khuyến nông và ứng dụng KHKT Hiện nay, thông qua các tổ chức như: hội nông dân, khuyến nông người nông dân có thể trực tiếp hoặc gián tiếp trao đổi, tiếp thu và rút kinh nghiệm trong quá trình sản xuất, đặc biệt là công tác khuyến nông. Để công tác khuyến nông đạt hiệu quả tốt cần đảm bảo những yêu cầu sau: - Tăng cường hơn nữa CBKN cơ sở có trình độ ở xã nhằm tuyên truyền, giúp đỡ các hộ nông dân áp dụng các biện pháp kỹ thuật về thâm canh lúa theo phương pháp SRI đảm bảo cho mô hình đạt năng suất và chất lượng cao. -Mở các lớp bồi dưỡng về kỹ thuật, tập huấn cho các hộ nông dân, xây dựng các mô hình trình diễn để hướng dẫn nông dân kỹ thuật gieo trồng. Đào tạo tay nghề, giúp cho các hộ nông dân có thể tự giải quyết các vấn đề xảy ra trong quá trình sản xuất. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ giá tạm thời cho các hộ nông dân để họ có điều kiện đầu tư vào trong sản xuất. Bao gồm giá phân bón và giá bán lúa. Đặc biệt, khủng hoảng kinh tế 2007 - 2008 khiến giá phân bón tăng cao trong khi giá bán của sản phẩm lúa gạo không tăng lên là mấy làm cho người nông dân càng tăng thêm khó khăn cho sản xuất lúa. 4.5.2.4 Giải pháp về thị trường tiêu thụ sản phẩm Trong nền kinh tế thị trường hiện nay vấn đề quan trọng nhất quyết định sự thành công của sản xuất hàng hoá là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Yếu tố chất lượng, giá cả sản phẩm và khả năng tiếp thị của các cơ sở sản xuất lại là yếu tố quyết định trong nền kinh tế thị trường, do vậy nhiệm vụ đặt ra trước mắt là: - Mở rộng và phát triển giao lưu để tìm kiếm thị trường cho các sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. - Tìm kiếm các thông tin về cung - cầu lúa trên thị trường từ đó giúp người nông dân xác định được cơ cấu giống lúa hợp lý mang lại hiệu quả kinh tế cao. - Nhanh chóng hình thành và phát triển các ngành chế biến nông sản, các tổ chức, các HTX tiêu thụ nông sản theo nguyên tắc tự nguyện, khuyến khích các hộ tự đứng ra thu mua, buôn bán nông sản hàng hoá, tăng cường thúc đẩy quá trình đô thị hoá. - Phổ biến cho người nông dân những hiểu biết cơ bản về thị trường sản xuất hàng hoá, đặc biệt là các chủ hộ để họ chủ động trong tính toán, lập kế hoạch sản xuất từ đó có sự đầu tư hợp lý vào sản xuất nhằm thu được hiệu quả kinh tế cao. 4.5.2.5 Giải pháp tăng cường hệ thống thuỷ lợi Qua quá trình điều tra hộ, em thấy điều kiện tưới tiêu cho sản xuất lúa của xã không đồng đều do đó vấn đề hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi hiện nay là vấn đề cần thiết. Kỹ thuật SRI yêu cầu rất chặt chẽ về nhu cầu nước theo giai đoạn do đó để tăng hiệu quả kinh tế của kỹ thuật SRI thì chính quyền xã cần xâydựng, tu bổ, nạo vét hệ thống kênh mương. Hoàn thiện hệ thống kênh mương sẽ giúp mở rộng diện tích áp dụng kỹ thuật SRI. 5 KẾT LUẬN 5.1 Kết luận Qua nghiên cứu và tìm hiểu thực trạng thâm canh lúa ở xã Đức Giang chúng tôi rút ra kết luận sau: Đức Giang là một xã thuần nông, sản xuất chủ yếu là canh tác lúa, do vậy nông nghiệp được xác định là ngành chủ đạo. Trong những năm gần đây xã có sự đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật như xây dựng cơ bản, hệ thống giao thông, thủy lợi, cơ khí vật tư nhằm phục vụ tốt nhất cho sản xuất và đời sống của người dân, đặc biệt nhờ đầu tư thâm canh cây trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả cao nhất là thâm canh lúa nên năng suất và sản lượng không ngùng được tăng lên. Mặc dù mới thực hiện được 2 năm nhưng phương pháp SRI đã mang lại những hiệu quả thiết thực cho người nông dân ở xã như nâng cao trình độ thâm canh của người nông dân, năng suất không ngừng tăng lên. Tuy nhiên tình hình thâm canh ở địa phương hiện nay còn có một số tồn tại cần phải khắc phục như: việc thực hiện các các biện pháp kỹ thuật giống, phân bón, bảo vệ thực vật chưa đồng bộ, chưa kết hợp hài hòa giữa các biện pháp dẫn đến năng suất lúa chưa cao so với tiềm năng của hộ nông dân, chưa triệt để phát huy thế mạnh của địa phương, chưa mạnh dạn đầu tư các giống lúa mới vào sản xuất thâm canh tăng vụ còn thấp và sản xuất nông sản mang tính hàng hóa chưa cao. Để trong những năm tới đây đầu tư thâm canh mang lại hiệu quả tốt hơn thì HTX cũng như các hộ nông dân phải thực hiện các biện pháp kỹ thuật một cách tốt nhất trên cơ sở cân đối hàm lượng N, P, K, giảm nhẹ mức tối đa diện tích lúa không được tưới tiêu, hạn chế tối đa sự phá hoại của sâu bệnh, đặc biệt là khâu giống phải làm tốt hơn, thay thế những giống cho năng suất thấp bằng nhưng giống cho năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn phù hợp với điều kiện thời tiết của địa phương và khả năng kháng bệnh cao. 5.2 Kiến nghị * Về phía hộ nông dân - Là đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất chính trên mảnh đất của mình, các hộ nông dân cần tích cực áp dụng các thành tựu về khao học kỹ thuật vào đầu tư thâm canh để tăng năng suất, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho cây lúa sinh trưởng phát triển bao gồm những việc: Chọn giống tốt, bố trí thời vụ thích hợp, cấy đúng kỹ thuật, bón phân đúng kỹ thuật, phòng trừ sâu bệnh kịp thời. - Trên cơ sở vốn, lao động và các tư liệu sản xuất khác mà mình có, các hộ lựa chọn các phương án sản xuất phù hợp mang lại hiệu quả cao. * Về phía HTX và Nhà nước - Về phía HTX + Thực hiện việc dồn điền đổi thửa tạo điều kienj cho hộ nông dân đưa tiến bô khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hàng hóa, phát triển kinh tế hộ + Tổ chức bộ máy quản lý để điều sả xuất phục vụ cho lợi ích của người dân + Tổ chức hoàn thiện hệ thống dịch vụ nhằm phục vụ cho ngưoif dân sản xuất + Đề ra phương hướng sản xuát đúng, tạo điều kiện thuận lợi nhất về cơ cấu vật chất kỹ thuật để thâm canh mang lại hiêu quả cao.. + Tổ chức truyền bá sâu rộng kiến thức khoa học kỹ thuật nông nghiêp cho nông dân để họ có thể thâm canh. - Về phía Nhà nước + Định hướng cho người nông dân thấy sự cần thiết phải thâm canh, ban hành các chính sách phù hợp để nông dân họ yên tâm sản xuất. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc38. sua 2.doc