Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và giải pháp

Lời mở đầu Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô ảnh hưởng vô cùng quan trọng tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Thông qua các công cụ của mình NHTW điều chỉnh chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy kinh tế –XH phát triển. Nét đổi mới trong điều hành chính sách tiền tê quốc gia những năm gần đây là chuyển mạnh từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp và đặc biệt là công cụ nghiệp vụ thị trường mở. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở dần bộc lộ

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những ưu điểm nổi bật trong điều hành CSTT của NHTW.Nó tác động trực tiếp tới dự trữ của các NHTM và ảnh hưởng gián tiếp tới các mức lãi suất từ đó làm thay đổi lượng tiền cung ứng. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động, chính xác, có tính an toàn cao đồng thời là công cụ dễ đảo chiều vì vậy nó đã trở thành một công cụ đắc lực trong điều hành CSTT của NHTW. Xuất phát từ chính những mặt tích cực của công cụ nghiệp vụ thị trường mở mà sau khi ra đời nó đã được sử dụng ở rất nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam nghiệp vụ thị trường mở bắt đầu được vận hành vào ngày 12/7/2000, bởi vậy đối với nước ta nó còn là một công cụ khá mới mẻ và hấp dẫn. Nhận thấy điều đó nên em mạnh dạn chọn đề tài “Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở của NHNN Việt Nam và giải pháp”. Do kiến thức còn hạn hẹp, thời gian hạn chế nên đề tài của em còn nhiều thiếu sót song với mục đích là học hỏi và để hiểu biết thêm em vẫn muốn đưa ra những ý kiến của mình.Chính vì vậy em rất mong được sự giúp đỡ, chỉ bảo của các thầy giáo, cô giáo cũng như việc bỏ qua những thiếu sót, hạn chế để đề tài của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Nội dung. ChươngI: Cơ sở lý luận về công cụ nghiệp vụ thị trường mở I. Khái niệm về nghiệp vụ thị trường mở. 1. Sơ lược về sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở lần đầu tiên được áp dụng bởi Ngân hàng Anh quốc từ trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất.Do lãi suất tái chiết khấu là công cụ chủ yếu trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng ngày càng tỏ ra kém hiệu quả,đòi hỏi Ngân hàng Anh phải tìm kiếm công cụ có hiệu quả hơn. Từ đó nghiệp vụ thị trường mở ra đời. Cùng với Ngân hàng Anh,NHTW Thụy sĩ và Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ cũng sử dụng nghiệp vụ thị trường mở như công cụ bổ sung cho chính sách táichiết khấu. Đầu tiên nghiệp vụ thị trường mở chỉ được sử dụng như công cụ bổ trợ cho chính sách tái chiết khấu, làm cho lãi suất tái chiết khấu trở nên hiệu quả. Nhưng nghiệp vụ thị trường mở đã bộ lộ rõ hiệu quả và tầm quan trọng của nó, vì vậy nó được sử dụng như một công cụ chính sách tiền tệ độc lập. Ngày nay, nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng như một công cụ chính sách tiền tệ hiệu quả nhất ở hầu hết Ngân hàng trung ương các nước, từ những quốc gia phát triển cho đến những quốc gia đang phát triển, ở Châu Âu, Châu á, Châu Mỹ La Tinh và các nước Đông Âu. 2. Khái niệm về nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ được thực hiện bởi NHTW mà nội dung cụ thể của nó là việc mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở. Thông qua việc mua bán giấy tờ có giá trên thị trường làm lượng tiền biến thiên hoặc theo chiều tăng hoặc theo chiều giảm phù hợp với yêu cầu can thiệp của NHTW. Muốn tăng lượng tiền cung ứng thì NHTW mua các giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng trên thị trường mở, muốn giảm thì NHTW bán các giấy tờ có giá. Theo luật NHNN Việt Nam tháng 12/1997: Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mà NHNN thực hiện mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. II. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới dự trữ của các NHTM và ảnh hưởng gián tiếp tới các mức lãi suất từ đó làm thay đổi lượng tiền cung ứng. 1. Tác động vào dự trữ của các Ngân hàng. Khi NHTW mua bán chứng khoán trên thị trường mở sẽ ảnh hưởng ngay lập tức tới dự trữ của các NHTM. - NHTW thực hiện mua chứng khoán sẽ làm tăng dự trữ của các NHTM từ đó dẫn đến tăng khả năng cho vay của hệ thống Ngân hàng, kết quả là tăng khối lượng tiền cung ứng. - NHTW thực hiện bán chứng khoán trên thị trường làm giảm khối lượng dự trữ và khả năng cho vay của hệ thống Ngân hàng cũng dẫn đến khối lượng tiền cung ứng giảm. 2. Tác động tới lãi suất Khi NHTW mua bán chứng khoán tác động tới quan hệ cung cầu về chứng khoán từ đó tác động đến giá cả của nó. Và khi giá chứng khoán thay đổi dẫn tới tỷ lệ sinh lời thay đổi khiến cho lãi suất thị trường thay đổi. Chẳng hạn: NHTW bán chứng khoán làm cho cung chứng khoán tăng lên khi đó giá chứng khoán sẽ giảm xuống và kết quả là lãi suất thị trường tăng. Ngược lại NHTW mua chứng khoán thì cầu về chứng khoán tăng, cung chứng khoán chưa kịp thay đổi khiến cho giá chứng khoán tăng kéo theo lãi suất thị trường tăng. III. Vai trò của nghiệp vụ thị trường mở. Thứ nhất: Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động, nó phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHTW, NHTW có thể tạo ra những biến động có khả năng hướng dần xu hướng thị trường trên cơ sở dự báo về nhu cầu vốn khả dụng. Đồng thời việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở không phụ thuộc nhiều vào ý thích chủ quan của đối tác. Thứ hai: Công cụ này vừa chính xác,tác động nhanh và có thể sử dụng ở bất kỳ quy mô nào. Khi NHTW có thay đổi về dự trữ cơ sở tiền tệ ở quy mô nhỏ hoặc lớn thì NHTW cũng đủ khả năng thực hiện thông qua việc mua bán một khối lượng tương ứng các chứng khoán. Đồng thời việc mua bán sẽ được thực hiện ngay tức khắc. Nếu muốn thay đổi mức dự trữ hoặc cơ số tiền tệ ở mức nhỏ thì nghiệp vụ thị trường mở thực hiện mua bán ít chứng khoán và ngược lại nếu muốn thay đổi ở mức lớn thì thực hiện mua bán nhiều. Thứ ba: Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ dễ dàng đổi chiều. Khi NHTW nhận thấy sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thì ngay tức khắc có thể sửa chữa. Nếu NHTW thấy việc cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh thì có thể sửa bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán chứng khoán trên thị trường. Thứ tư : Nghiệp vụ thị trường mở có tính an toàn cao Vì các công cụ giao dịch trên thị trường mở đều là những giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao như là trái phiếu, tín phiếu kho bạc và một số giấy tờ khác. Từ chính những vai trò của nó mà sau khi ra đời nghiệp vụ thị trường mở đã được áp dụng rộng rãi ở rất nhiều nước. Tại Việt Nam nghiệp vụ thị trường mở bắt đầu được vận hành vào ngày 12/7/2000. IV. Phương thức giao dịch trên thị trường mở. Giao dịch trên thị trường mở thông qua ba phương thức: Giao dịch song phương: NHTW giao dịch trực tiếp với người mua, bán thực hiện mua hoặc bán hẳn chứng từ có giá. Giao dịch qua thị trường chứng khoán : Thông qua thì trường chứng khoán, qua các đại lý chứng khoán mà NHTW tiếp cận với người mua hoặc người bán để tiến hành mua hoặc bán. Giao dịch qua đấu thầu : Đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. - Đấu thầu khối lượng : Ngân hàng Trung ương công bố khối lượng tiền cần mua hoặc cần bán bằng phương thức đấu thầu và ấn định mức lãi suất thực hiện, NHTW công bố đIều kiện đặt thầu để các tổ chức mua, bán phải chấp hành, các tổ chức tín dụng cần mua hoặc cần bán tiến hành nộp thầu theo quy định. Sau khi mở thầu NHTW sẽ xác định tỷ giá trị đạt thầu và phân bổ cho từng tổ chức tham gia đặt thầu. - Đấu thầu lãi suất: Theo cách đấu thầu lãi suất thì các đơn vị đặt thầu đăng ký lãi suất đặt thầu và đi kèm là lượng tiền mua theo lãi suất đăng ký. NHTW sẽ quan tâm đến lãi suất đặt thầu và sẽ lấy từ lãi suất cao đến lãi suất thấp cho đến khi nào đạt được lượng tiền mà NHTW cần cung ứng vào lưu thông. Chương II: Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam I. Thực tế của việc sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam. Sau một thời gian chuẩn bị các yếu tố cần thiết, thị trường mở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12/07/2000.Về phương diện pháp lý có hàng loạt văn bản liên quan đến nghiệp vụ thị trường mở, đã được ban hành như quy chế nghiệp vụ thị trường mở, quy trình nghiệp vụ thị trường mở, quy định đăng ký giấy tờ có giá, quy chế quản lý vốn khả dụng, quy trình nghiệp vụ đấu thầu tín phiếu NHTW. Nghiệp vụ thị trường mở của NHNN Việt Nam là hoạt động hoàn toàn mới cả về lý luận và nội dung mà đIều kiện vận hành và phát huy hiệu quả ở nước ta không phải là dễ dàng. Từ khi ra đời nghiệp vụ thị trường mở, ban chỉ đạo nghiệp vụ thị trường mở luôn sát sao với hoạt động của thị trường do đó khắc phục những khó khăn bước đầu trong thời gian vận hành. 1. Thành viên tham gia. Thành viên tham gia vào nghiệp vụ thị trường mở phải là các tổ chức tín dụng đảm bảo một số điều kiện như sau: Phải có tài khoản tiền gửi tại NHNN, phải có đầy đủ phương tiện cho hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, phải đăng ký với NHNN để được hoạt động. Sau một thời gian hoạt động, tính đến năm 2002, thị trường mở đã có 21 thành viên, trong đó có 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh, 10 Ngân hàng thương mại cổ phần, 4 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, 1 Ngân hàng liên doanh, Quỹ tín dụng TW và 1 công ty tài chính. Đó là: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng công thương Việt Nam, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, NHTM cổ phần Đông á, NHTM cổ phần Sài Gòn thương tín, NHTM cổ phần quốc tế, NHTM cổ phần Phương Nam, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, NHTM cổ phần Quân đội, NHTM cổ phần Tân Việt, Ngân hàng Chinfon, ABN AMRO BANK, Quỹ tín dụng nhân dân TW, Công ty tài chính bưu điện,… Trong số 21 thành viên nói trên, thì chủ yếu chỉ có 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh thường xuyên giao dịch, do các Ngân hàng này nắm hơn 70% lượng hàng hoá chính thức đủ điều kiện giao dịch trên thị trường mở. 2. Hàng hoá giao dịch. Theo quyết định 85 /2000/ QĐ- NHNN 14 ngày 9/3/2000 của thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở trong điều 8 có đề nghị: Các giấy tờ có giá được giao dịch thông qua thị trường mở gồm: Tín phiếu kho bạc. Tín phiếu NHTW. Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác do thống đốc NHTW quy định trong từng thời kì cụ thể. Hàng hoá trên thị trường mở phải đảm bảo những tiêu chuẩn sau: Có thể giao dịch được. Phải là giấy tờ có giá ngắn hạn (<12 tháng). Phát hành bằng đồng Việt Nam. Phải được đăng kí tại NHTW trước thời điểm hoạt động của phiên giao dịch. Hàng hoá trên thị trường hiện nay quá thiếu thốn cả về chủng loại lẫn khối lượng.Trên thực tế chỉ có hai loại hàng hoá là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHTW được mua bán. Như vậy cho thấy hàng hoá của thị trường mở rất đơn điệu và chỉ tập trung ở các NHTM quốc doanh. 3. Phương thức giao dịch. Các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương thức mua bán hẳn với tín phiếu NHTW, phương thức mua có kì hạn với tín phiếu kho bạc nhà nước.Nếu hình thức giao dịch là mua bán hẳn thì thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải nhỏ hơn 90 ngày (đảm bảo chứng từ đã được giao dịch trên thị trường thứ cấp, tránh tình trạng đầu tư trực tiếp cho các tổ chức khác). Đấu thầu bao gồm đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng. Đấu thầu khối lượng: NHNN sẽ thông báo cho các thành viên tham gia về mức lãi suất và khối lượng cần giao dịch. Đấu thầu lãi suất: NHNN thông báo khối lượng cần giao dịch, phương pháp chọn lãi suất trúng thầu. Ngân hàng Nhà nước chủ yếu áp dụng phương thức đấu thầu lãi suất, chỉ duy nhất có 4 phiên đấu thầu đầu tiên là áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng. Lãi suất đăng kí dao động trong khoảng 4.00 % / năm đến 5.58 % / năm. Nhìn chung lãi suất này đã phần nào phản ánh được diễn biến tình hình lãi suất của thị trường, bởi vì trong phương thức đấu thầu lãi suất NHNN đã không quy định lãi suất chỉ đạo khi xét thầu. Hình thức đấu thầu của OMO Việt Nam chỉ là đấu thầu chuẩn (chưa thực hiện đấu thầu nhanh hoặc giao dịch song phương). 3. Thực tế hoạt động nghiệp vụ thị trường mở thời gian qua. Từ khi bắt đầu giao dịch đến 31/12/2000, cứ 10 ngày NHNN tiến hành 1 phiên giao dịch trên thị trường mở. Trong tháng 8 / 2000, do lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng là dư thừa nên NHNN bán ra một lượng tín phiếu là 550 tỷ đồng (khối lượng chào bán trong tháng được mua hết toàn bộ với mức lãi suất từ 4% đến 5.35%). Từ tháng 9 đến cuối tháng 12/2000, do có sự hạn chế của NHNN ở cửa sổ chiết khấu và nhu cầu tín dụng VND tăng nhanh trong khi huy động tiền gửi tăng chậm dẫn đến khan hiếm vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng, NHNN đã mua vào (sử dụng giao dịch đảo chiều) giấy tờ có giá trong 14 phiên liên tục với doanh số 1353.5 tỷ. Từ ngày 1/1/2001, NHNN thực hiện giao dịch định kì 7 ngày / lần vào thứ 4 hàng tuần, từ đó giúp cho các thành viên chủ động theo dõi, nắm bắt kịp thời thông tin về thị trường. Từ đầu năm 2001 đến 15/2 lượng vốn khả dụng tiếp tục thiếu hụt do nhu cầu tiền mặt tăng, NHNN tiếp tục mua vào giấy tờ có giá, chủ yếu là mua kì hạn do tính đến yếu tố lượng vốn khả dụng có thể tăng lên sau dịp tết nguyên đán. Từ 21/2 đến 14/3 lượng vốn khả dụng có biểu hiện dư thừa để rút bớt phương tiện thanh toán khỏi hệ thống ngân hàng, NHNN đã thực hiện bán hẳn lượng giấy tờ có giá với giá trị 470 tỷ VND. Từ 21/3 đến 30/5/2001, do nhu cầu vốn khả dụng tăng NHNN tổ chức các phiên giao dịch trên thị trường với mục tiêu cung ứng thêm phương tiện thanh toán, đã thực hiện mua có kỳ hạn giấy tờ có giá với tổng giá trị đạt 745 tỷ đồng. Duy nhất có 1 phiên giao dịch ngày 11/4/2001 do lỗi từ phía các tổ chức tín dụng bỏ thầu không hợp lệ nên không có tổ chức nào trúng thầu mặc dù vẫn có nhu cầu về vốn khả dụng. Hai phiên giao dịch tiếp theo NHNN thực hiện giao dịch mua bán hẳn với tổng khối lượng trúng thầu đạt 60 tỷ đồng. Từ 20/6 đến 31/10/2001, NHNN lại tiến hành mua có kỳ hạn tín phiếu (với kỳ hạn 15 đến 30 ngày) tổng giá trị đạt 2308.81 tỷ đồng. Trong tháng 11/2001 do lượng vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng vẫn ở mức cao nên 4 phiên giao dịch liên tiếp không có thành viên tham gia. Đến đầu tháng 12/2001, lần đầu tiên kể từ ngày khai trương NHNN đã tiến hành giao dịch bán có kỳ hạn 1 tháng. Hai phiên đấu tháng, khối lượng chào thầu là 250 tỷ đồng, khối lượng trúng thầu chỉ đạt 150 tỷ đồng. Tính đến ngày 5/9/2002,NHNN đã tổ chức 52 phiên giao dịch. Từ tháng 5/2002 ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở NHNN quyết định tổ chức thường xuyên 2 phiên giao dịch mỗi tuần vào ngày thứ 3 và thứ 5. Trong 52 phiên giao dịch này thì có 9 phiên thực hiện bán hẳn với tổng khối lượng trúng thầu là 900 tỷ đồng trong tổng số 2500 tỷ dự kiến bán. Và trong số 43 phiên giao dịch mua có 20 phiên không có tổ chức tín dụng nào trúng thầu, đặc biệt là trong khoảng thời gian từ 20/6 đến 15/8. Điều này cho thấy các tổ chức tín dụng không lo ngại về nguồn vốn VND ngắn hạn để đảm bảo khả năng chi trả. Tổng khối lượng trúng thầu của các phiên giao dịch mua có kỳ hạn từ đầu năm đến 5/9/2002 là 5771.53 tỷ đồng. Có thể nói NHTW đã cố gắng điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ gián tiếp, nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện tương đối linh hoạt đáp ứng được phần nào nhu cầu vốn khả dụng cũng như giải quyết được một phần vốn khả dụng dư thừa trong một số thời kỳ. II. Đánh giá hiệu quả sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở 1. Những kết quả đã đạt được. Sau khi ra đời nghiệp vụ thị trường mở đã đạt được một số hiệu quả nhất định thể hiện dưới những điểm sau: Nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần củng cố thêm vị thế, vai trò quản lý của NHNN trong nền kinh tế thị trường, phù hợp với xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá. Hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện tương đối linh hoạt, đã đáp ứng phần nào nhu cầu về vốn khả dụng, từ đó góp phần thực hiện các mục tiêu mà NHNN đặt ra. Bằng cách bơm tiền ra lưu thông, nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao sức mua của xã hội và thực hiện đúng chủ trương kích cầu của chính phủ trong điều kiện nền kinh tế có dấu hiệu giảm phát trong thời gian qua. Việc hoàn thiện các văn bản pháp lý cho hoạt động nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với thực tiễn đã góp phần cho hoạt động thị trường được thông suốt ; các giao dịch diễn ra trôi chảy đảm bảo đúng quy chế, an toàn. Công tác điều hành, tổ chức nghiệp vụ thị trường mở luôn thực hiện đúng quy định, an toàn và đã dần bám sát được tình hình diễn biến thị trường về vốn khả dụng và lãi suất. Mặc dù là một công cụ điều hành chính sách hoàn toàn mới và được vận hành lần đầu tiên ở Việt Nam nhưng nghiệp vụ thị trường mở đã thu hút được đông đảo các thành viên tham gia. Doanh số hoạt động không ngừng tăng lên, điều này thể hiện tính ưu việt của thị trường mở trong việc sử dụng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng. Trong thời gian vừa qua các thành viên tham gia và trúng thầu chủ yếu là các NHTM quốc doanh, lãi suất trúng thầu tại các phiên giao dịch phần nào phản ánh được lãi suất trên thị trường.Biến động lãi suất hình thành thông qua đấu thầu giữa các phiên đấu thầu ngày càng thu hẹp, thể hiện sự ổn định dần của thị trường. Các thông tin, tuyên truyền, tập huấn về hoạt động nghiệp vụ thị trường mở NHNN về phổ biến nghiệp vụ bước đầu đã có những chuyển động tốt, giúp các tổ chức tín dụng ngày càng quan tâm đến hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở. Tính đến cuối năm 2002 đã có 21 TCTD tham gia thị trường bao gồm: 4 NHTM nhà nước, 10 NHTM cổ phần, 1 ngân hàng liên doanh, 4 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1 công ty tài chính và quỹ tín dụng TW. Từ khi ra đời đến cuối năm 2000 NHNN đã sử dụng giao dịch đảo chiều mua giấy tờ có giá trong 14 phiên liên tục với doanh số 1353.5 tỷ đồng. Và đến cuối năm 2001 NHNN đã thực hiện 61 phiên đấu thầu với doanh số giao dịch là 5536 tỷ đồng. Trong đó có 24 phiên đấu thầu lãi suất, 37 phiên đấu thầu khối lượng, khối lượng giấy tờ có giá NHNN đã mua trị giá 466 tỷ đồng, bán là 1070 tỷ đồng. Lãi suất hình thành trên thị trường mở bám sát với lãi suất thị trường (dao động trong khoảng 4.9% đến 5.3%). Tính đến cuối tháng 12/2002 NHNN đã tổ chức được 118 phiên giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng trúng thầu đạt 7671.53 tỷ đồng. Đó là những kết quả nhất định bước đầu nghiệp vụ thị trường mở đạt được, tuy nhiên thực tế hoạt động còn bộc lộ một số tồn tại. 1. Những tồn tại Những hạn chế của nghiệp vụ thị trường mở bộc lộ ở một số điểm sau: Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động hoàn toàn mới nên một số TCTD vẫn còn nhiều bỡ ngỡ khi tham gia. Nghiệp vụ thị trường mở ra đời trong điều kiện nền kinh tế còn đang ở trình độ phát triển thấp, chưa ổn định, thị trường tài chính và thị trường tiền tệ chưa phát triển, nền kinh tế thế giới không ngừng biến động, môi trường hoạt động của các TCTD còn chứa đựng nhiều rủi ro. Hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động, mỗi phiên giao dịch chỉ có từ 1 đến 4 thành viên tham gia, chiếm tỷ lệ tương đối thấp so với tổng số các thành viên và chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các TCTD. Các thành viên tham gia chủ yếu là các NHTM quốc doanh do lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường chủ yếu tập trung tại các ngân hàng này. Hàng hoá còn nghèo nàn, không đa dạng về chủng loại và thời hạn. Luật Ngân hàng Nhà nước quy định chỉ có các loại giấy tờ có giá ngắn hạn mới được giao dịch trên thị trường mở, do vậy vô hình chung đã giới hạn và thu hẹp phạm vi hoạt động của thị trường mở này. Các TCTD vẫn chưa quan tâm đúng mức tới công tác đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trực tiếp, chuyên sâu thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. Việc đầu tư trang thiết bị kĩ thuật phục vụ cho nghiệp vụ thị trường mở còn nhiều bất cập, mặt khác do các TCTD hiện nay vẫn chỉ quan tâm đến các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống, chưa có thói quen kinh doanh trên thị trường tiền tệ, điển hình là thông qua thị trường mở. Việc dự đoán chính xác sự biến động hàng ngày của cung cầu vốn khả dụng còn gặp những khó khăn nhất định, ảnh hưởng đến mức độ chính xác của dự báo, đặc biệt là chế độ thông tin phục vụ cho công tác dự đoán, từ đó đã hạn chế đến chất lượng của dự đoán vốn khả dụng Để sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở có hiệu quả hơn thì trước hết phải tìm ra nguyên nhân của những tồn tại trên và từ đó đề ra giải pháp hợp lý. Chương III: Nguyên nhân và giải pháp I. Nguyên nhân. Thực ra những tồn tại này đã được dự báo trước khi thị trường mở bắt đầu hoạt động từ giữa năm 2000, khi mà các cơ sở kinh tế, kỹ thuật của nó chưa chín muồi. Rõ ràng nền kinh tế thị trường của chúng ta còn đang ở trình độ phát triển thấp, chưa ổn định. Thị trường tài chính và thị trường tiền tệ chưa phát triển, môi trường hoạt động kinh doanh của các TCTD còn nhiều rủi ro. Thị trường tài chính ở nước ta vẫn còn nhỏ bé về quy mô, đơn sơ về chủng loại hàng hoá và lạc hậu về cơ sở vật chất kỹ thuật. Thị trường trái phiếu chính phủ: bắt đầu từ năm 1991 trái phiếu chính phủ ra đời để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Nhưng đến năm 1994 khi trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc và trái phiếu công ty được phép phát hành rộng rãi thì thị trường trái phiếu chính phủ mới tương đối được mở rộng.Trước năm 1995 trái phiếu chính phủ phát hành trực tiếp đến công chúng qua các chi nhánh kho bạc vì vậy khối lượng trái phiếu nhỏ.Từ 6/1995 bắt đầu phát hành qua NHTW, lượng trái phiếu đã tăng lên nhưng vì lãi suất chỉ đạo không sát với thực tế, hơn nữa cũng không có thị trường thứ cấp cho công cụ này nên lượng trái phiếu lưu hành có giá trị không lớn như số lượng dự kiến phát hành. Trái phiếu chính phủ được phát hành qua một số kênh: đấu thầu qua NHTW, phát hành thông qua thị trường chứng khoán, bán lẻ qua hệ thống kho bạc nhà nước, đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành.Trái phiếu chính phủ được nắm giữ bởi các NHTM quốc doanh và một số ít NHTM cổ phần chủ yếu để giải quyết lượng vốn tồn đọng do đó khả năng phát triển thị trường thứ cấp là rất yếu. Thị trường tiền tệ củaVN còn rất yếu kém, thiếu tính năng động và tính lỏng, chưa phải là môi trường để công cụ CSTT hoạt động có hiệu quả. Thị trường tiền tệ Việt Nam mặc dù được cấu thành bởi các bộ phận như thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, hoạt động cho vay của NHTW dưới các hình thức như tái cấp vốn, tái chiết khấu, hoạt động thị trường mở nhưng các bộ phận này hoạt động chưa linh hoạt, thiếu hiệu quả: Thị trường nội tệ liên ngân hàng hoạt động diễn ra theo hình thức các ngân hàng vay mượn lẫn nhau không qua NHTW. Các quan hệ vay mượn dựa trên mức độ tín nhiệm để thoả thuận với nhau về phương thức giao dịch, thời hạn, lãi suất và các điều kiện đảm bảo.Mặc dù đã thực hiện việc điều tiết nguồn vốn ngắn hạn cho các NHTM nhưng thị trường tiền tệ liên ngân hàng vẫn chưa thực hiện một cách hiệu quả chức năng phân phối, điều chuyển vốn khả dụng.Lãi suất thị trường liên ngân hàng thường công bố một chiều, chưa thực sự phản ánh cung cầu vốn khả dụng ngắn hạn trên thị trường. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng những năm vừa qua đã có những bước chuyển biến đáng kể: đã nối kết cung cầu ngoại tệ của các TCTD, góp phần ổn định giá cả. Song các thành viên tham gia thị trường vẫn chưa thực sự chủ động tìm kiếm các nguồn ngoại tệ khi cần thiết, giao dịch giữa các ngân hàng chủ yếu là giao dịch ngay, các giao dịch kỳ hạn và hoán đổi mang tính phòng ngừa rủi ro chưa thực hiện thường xuyên. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc: việc đấu thầu tín phiếu kho bạc thông qua NHTW đã mở ra một kênh huy động vốn mới với chi phí thấp cho ngân sách nhà nước, là nguồn cung cấp hàng hoá chủ yếu cho nghiệp vụ thị trường mở. Cho tới nay thị trường này vẫn chưa thực sự sôi động. Thị trường thứ cấp –thị trường mua bán lại tín phiếu kho bạc chưa phát triển dẫn đến việc sử dụng tín phiếu kho bạc của TCTD như một công cụ trên thị trường tiền tệ còn rất hạn chế. Các thành viên tham gia giao dịch trên thị trường tiền tệ còn nhiều hạn chế, một số tổ chức chưa quản lý vốn linh hoạt và hiệu quả, chưa chủ động tham gia thị trường tiền tệ để sinh lời nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi. Bên cạnh đó tập quán giao dịch chưa đồng nhất, còn thô sơ vẫn dựa vào giấy tờ mà chưa áp dụng các giao dịch điện tử do đó trình độ quản lý vốn, phương thức giao dịch còn hạn chế. Hoạt động giao dịch trên thị trường tiền tệ của NHTM còn ít phụ thuộc vào NHTW, công cụ CSTT không có tác động lớn với thị trường, kinh doanh vốn của NHTM chưa mang tính thị trường và độ nhạy cảm lãi suất thấp. II. Giải pháp. 1. Tạo sân chơi bình đẳng trên thị trường mở. Một trong những điều kiện tham gia nghiệp vụ thị trường mở là các thành viên phải có giấy tờ có gía để bán và chủ động được vốn khả dụng của mình nhưng các TCTD chưa đầu tư nhiều vào giấy tờ có gía ngắn hạn do nhiều nguyên nhân và thực ra họ vẫn thiếu bình đẳng trong kinh doanh. Các NHTM quốc doanh được vay theo chỉ định nên có nhiều lợi thế giao dịch trên thị trường mở nhờ được vay với giá rẻ để mua giấy tờ có giá có lãi suất lợi hơn.Các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng ít có được ưu thế này. Điều này không kích cầu tín dụng, tạo sự phân biệt đáng kể trên thị trường.Do vậy để các TCTD ngoài quốc doanh tham gia nghiệp vụ thị trường mở một cách thực sự thì phải tạo cho họ một sự bình đẳng cụ thể là giảm cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ ràng tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. 2. Đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường. Một trong những tồn tại gây ra sự đơn điệu của nghiệp vụ thị trường mở vừa qua là sự khan hiếm hàng hoá. Theo quy định hiện nay chỉ những giấy tờ có giá như tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác.Quy định này đã làm giảm khả năng phạm vi mua bán các giấy tờ có giá trị khác như trái phiếu trung và dài hạn trên thị trường mở khi mà thời gian đáo hạn của chúng dưới một năm. Các loại trái phiếu hiện có thể giao dịch ở thị trường không phải là ít:Nếu được phép giao dịch thì trái phiếu kho bạc sẽ là loại hàng hoá tốt cho thị trường mở.Bên cạnh đó các loại trái phiếu ngân hàng, trái phiếu công ty còn thời hạn dưới một năm cũng nên được chấp nhận. Loại hàng hoá cần cho thị trường mở là thương phiếu thì cho tới nay chưa phổ biến. Việc phát hành tín phiếu kho bạc vẫn được tiến hành thường xuyên nhưng vấn đề đặt ra là tạo thị trường thứ cấp cho nó. 3. Phương thức giao dịch phù hợp nhất với nghịp vụ thị trường mở. Là mua bán có kỳ hạn mà NHTW là người chủ nợ quyết định mua bán với số lượng bao nhiêu, thời hạn nào, theo phương thức nào tuỳ theo yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kì. Vì giá của giấy tờ có giá hay lãi suất giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới lãi suất thị trường.Do đó lãi suất là mục tiêu NHNN cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu. Tuỳ vào mục tiêu của chính sách tiền tệ, muốn can thiệp trực tiếp vào lãi suất thì thực hiện đấu thầu khối lượng, khi đó lãi suất cố định do NHNN chỉ định, còn khi mục tiêu của CSTT nghiêng về góc độ bơm hoặc rút tiền theo một lượng mong muốn thì thực hiện đấu thầu lãi suất. 4. Hiện đại hoá hệ thống thanh toán. Cần trang bị hệ thống thanh toán và quản lý hiện đại có phần mềm hiện đại để nối các bộ phận trong NHNN với TCTD thành viên để đảm bảo thực hiện các công đoạn giao dịch từ khi công nhận thành viên, thông báo mời thầu đăng kí giấy tờ có giá. Ngoài các biện pháp nêu trên thì công tác thông tin tuyên truyền về hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, công tác đào tạo cán bộ nghiệp vụ là những biện pháp tích cực đối với nghiệp vụ thị trường mở. Kết luận Phát huy vai trò của công cụ nghiệp vụ thị trường mở, trong thời gian qua nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành quả đáng khích lệ. Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ khá mới mẻ do vậy trong quá trình sử dụng và điều hành của NHNN còn gặp phải những khó khăn nhất định. Kinh nghiệm chưa nhiều, thời gian vận hành chưa lâu song NHNN Việt Nam đã cố gắng nỗ lực hết mình trong quá trình điều hành và ở chừng mực nào đó đã phát huy được tác dụng của công cụ phục vụ vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu CSTT. Nhìn lại chặng đường đã qua, kết quả đạt được cùng những thử thách gay go trong giai đoạn mới chúng ta cần phải cố gắng nhiều hơn nữa để ngày càng phát huy cao độ vai trò của công cụ nghiệp vụ thị trường mở. Dần đưa nghiệp vụ thị trường mở trở thành công cụ chủ đạo trong hệ thống các công cụ cuả CSTT nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra, đưa đất nước phát triển theo đúng định hướng XHCN đã đặt ra. Tài liệu tham khảo. Tài liệu giảng dạy môn nghiệp vụ ngân hàng Trung Ương. Tạp chí ngân hàng số 9 năm 2000 ; số 2,6 năm 2001. Tạp chí ngân hàng năm 2002. Thị trường tài chính tiền tệ số 3,4 năm 2000 ; số 11 năm 2001. Thị trường tài chính tiền tệ năm 2002. Lý thuyết tiền tệ ngân hàng (Miskin) Lý thuyết tiền tệ ngân hàng (HVNH) Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35430.doc
Tài liệu liên quan