Đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại Công ty cổ phần chứng khoán sài gòn SSI

Tài liệu Đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại Công ty cổ phần chứng khoán sài gòn SSI: MỞ ĐẦU Thị trường chứng khoán Việt Nam trong những năm gần đây có sự phát triển vượt bậc cả về lượng và chất. Điều này thể hiện trước hết ở quy mô của thị trường tăng mạnh, nếu như năm 2006 mức vốn hóa của thị trường chứng khoán chiếm khoảng 22.7% GDP thì năm 2007 đã tăng lên trên 43% GDP( chỉ tính riêng đối với cổ phiếu)“Nguồn Báo Chứng khoán Việt Nam tháng 1,2 năm 2008” Và đi cùng với sự phát triển của thị trường là sự ra tăng nhanh chóng của các công ty chứng khoán trong những năm gần đây. ... Ebook Đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại Công ty cổ phần chứng khoán sài gòn SSI

doc127 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại Công ty cổ phần chứng khoán sài gòn SSI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tính đến cuối năm 2007 Sở Giao Dịch Chứng Khoán TP HCM đã có 62 công ty Chứng khoán thành viên và Trung tâm giao dịch Chứng khoán Hà Nội có 61 công ty chứng khoán thành viên. Sự ra đời của các công ty chứng khoán này trước hết đáp ứng nhu cầu quá tải trong việc khối lượng giao dịch tăng cao. Ngoài các dịch vụ chính của mình như là môi giới, tư vấn, bảo lãnh phát hành.. thì một số công ty chứng khoán đã tiến hành hoạt động tự doanh chứng khoán cho chính công ty của mình. Với mục tiêu đem lại lợi nhuận cho công ty cũng như đóng vai trò là những nhà tạo lập thị trường để mang lại sự ổn định cho thị trường. Trong năm 2007 vừa qua đã có một số công ty có lợi nhuận từ hoạt động tự doanh chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số lợi nhuận. Điều đó khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của hoạt động này. Vì vậy để hiểu rõ thêm phương pháp, quy trình tiến hành hoạt động tự doanh, tôi đã quyết định chọn đề tài :” Đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty cổ phần chứng khoán sài gòn SSI” để làm đề tài cho nghiên cứu chuyên đề tốt nghiệp của mình. Có thể nói công ty cổ phần chứng khoán sài gòn SSI là một công ty chứng khoán lớn, đã thành lập và ra đời cùng với thị trường chứng khoán. Do đó nhận thấy tiềm năng và cơ hội đầu tư sinh lời của thị trường, họ đã tiên phong trong việc tiến hành hoạt động tự doanh của mình. Vì vậy để hiểu rõ thêm vai trò của hoạt động tự doanh trong các công ty chứng khoán, thì chúng ta sẽ đi vào nội dung chính của đề tài. Chương I: Đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty chứng khoán: Những vấn đề lý luận chung. Chương II: Thực trạng đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty cổ phần chứng khoán sài gòn SSI Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động đầu tư Chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh của công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn (SSI) Để hoàn thành tốt đề tài này, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của Thầy giáo – T.S Phạm Văn Hùng cũng như sự giúp đỡ của các anh, chị trong phòng tự doanh, phòng tư vấn đầu tư của CTCPCK Sài Gòn (SSI). Hà Nội, ngày 22 tháng 04 năm 2008 Chương I Đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty chứng khoán: Những vấn đề lý luận chung. I. Đầu tư chứng khoán và nội dung đầu tư chứng khoán. 1. Khái niệm. Đầu tư là việc chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác (lao động, vốn...) trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác hoặc sử dụng một tài sản) nhằm thu về những kế quả có lợi cho tương lai, đó là sự gia tăng thu nhập và tiêu dùng trong tương lai, sự gia tăng vốn, tài sản vật chất, trí tuệ, nguồn nhân lực. Đối tượng của đầu tư bao gồm: đầu tư vào tài sản vật chất (gồm tài sản cố định sản xuất kinh doanh, tài sản lâu bền) và tài sản phi vật chất (gồm đầu tư vào các loại giấy tờ có giá, thương hiệu, công nghệ, phát minh, sáng chế...). Hoạt động đầu tư vào các tài sản phi vật chất như các loại giấy tờ có giá, cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ…Vậy hoạt động đó chính là hoạt động đầu tư chứng khoán. Đầu tư chứng khoán là quá trình phân tích chứng khoán để đưa đến quyết định đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu,chứng chỉ quỹ, chứng khoán phái sinh nhằm đạt được một mức tỷ suất lợi nhuận hợp lý phù hợp với mức độ rủi ro của khoản đầu tư/ danh mục đầu tư trong một thời kỳ. 2. Các hình thức đầu tư chứng khoán. 2.1. Phân loại theo thời gian đầu tư. * Đầu tư ngắn hạn là hình thức đầu tư diễn ra trong một thời gian ngắn. Nghĩa là họ tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua việc giao dịch đặt lệnh trong 5 phiên, 10 phiên, 20 phiên hay 1 tháng. Đó là hình thức đầu tư mà người đầu tư chứng khoán thường phải thường xuyên bám sát diễn biến, sự vận động của các cổ phiếu blue-chip đóng vai trò chi phối thị trường. Họ thường thông qua các xu huớng biến động giá cũng như khối lượng giao dịch hàng ngày để đưa ra các giao dịch mua, bán hay giữ cổ phiếu. Trong hình thức đầu tư chứng khoán ngắn hạn người ta thường nhắc đến một khái niệm đó là hình thức đầu tư chứng khoán theo kiểu “lướt sóng”. Đó là hình thức đầu tư giao dịch mua bán chứng khoán liên tục, tạo ra sự lên, xuống nhanh chóng của một hay nhiều mã chứng khoán với mục tiêu là thu được lợi nhuận tối đa. Đầu tư theo kiểu "lướt sóng" phải mất nhiều công sức theo dõi cập nhật thông tin không chỉ chung của cả thị trường mà của từng mã chứng khoán, phân tích, dự đoán về triển vọng đầu tư; khi có dấu hiệu chững lại thì kịp bán ra để chuyển sang mã chứng khoán khác đang có triển vọng tăng giá... Cứ như thế, nhà đầu tư sẽ tìm cách thu được lợi nhuận cao nhất. * Đầu tư dài hạn. Đó là hình thức đầu tư và lắm giữ chứng khoán trong một thời gian tương đối dài từ 6 tháng, 1 năm , 2 năm và có thể lâu hơn nữa. Vì xuất phát từ quan điểm của nhà đầu tư nhìn về xu hướng phát triển của thị trường trong một thời gian dài, cũng như sự phát triển của các công ty. Những nhà đầu tư kiểu này thương quan tâm đến tình hình phát triển của nền kinh tế thế giới, của nền kinh tế trong nước, của chiến lược phát triển của thị trường chứng khoán, cũng như tình hình phát triển của ngành và công ty mà họ đang chuẩn bị tiến hành hoạt động đầu tư. Họ thường xác định rõ mức độ rủi ro và mức sinh lời dự kiến trong một khoảng thời gian nhất định. Đầu tư dài hạn thì kỳ vọng ở sự phát triển của thị trường nói chung và đặc biệt là của công ty niêm yết mà mình đã đầu tư nói riêng. Đầu tư theo kiểu này đỡ phải đầu tư thời gian công sức hơn. Tuy nhiên, rất khó thu được lợi nhuận lớn, thường chỉ đạt lợi nhuận bình quân, bởi tốc độ tăng giá của các loại chứng khoán cao, thấp rất khác nhau, trong khi loại này tăng thì loại kia bị giảm. 2.2. Phân loại theo trường phái đầu tư. * Trường phái đầu tư (Investor): Người đầu tư cơ bản là người mua chứng khoán với mục đích kiếm lợi nhuận sau một thời gian dài từ 1-2 đến 10-15 năm. Những người này xem xét rất kỹ bản báo cáo tài chính của công ty mà họ muốn bỏ tiền vào. Theo Philip Fisher, một trong những “thuyết giáo gia” của lĩnh vực đầu tư thì có đến …15 câu hỏi cần thiết mà người đầu tư muốn quyết định mua cổ phần hay không phải trả lời. Nào là sản phẩm, dịch vụ, ban quản lý, sự nghiên cứu sự phát triển, lợi nhuận, chiến lược phát triển, nhân sự, kế toán… Sau khi xem xét từ mọi khía cạnh, người đầu tư nhận thấy phần ưu điểm có vượt trội hơn phần yếu điểm của công ty hay không rồi mới quyết định. Một trong những nhà đầu tư kiểu này được biết nhiều nhất là tỷ phú Warrant Buffet. Đầu tư kiểu này trùng khớp với mục đích của thị trường chưng khoán lẫn những công ty muốn được niêm yết để có vốn được gọi là kiểu phân tích căn bản (fundamental analysis). *Trường phái đầu cơ (Speculator). Đây là trường phái mua bán chứng khoán trong một thời gian rất ngắn từ vài ngày đến vài giây. Ngày nay thì Internet đã, đang và sẽ làm những cuộc cách mạng lớn. Riêng đối với chứng khoán Internet đã tạo ra những “triệu phú tại gia”, Từ bất kì nơi đâu trên thế giới, từ thợ thuyền đến tri thức, từ hưu trí đến thất nghiệp, học sinh đến công nhân…Không nhân viên, không văn phòng, không lệ thuộc vào bất cứ ai, vừa tự do về thời gian, vừa tự do về không gian. Họ thông qua Internet họ có thể giao dịch, mua bán chứng khoán một cách nhanh chóng và trực tuyến. 2.3 Phân loại theo hình thức đầu tư. * Hình thức đầu tư chứng khoán trực tiếp. là quá trình nhà đầu tư mua cổ phiếu của một hay nhiều công ty cổ phần đơn lẻ, tự tạo cho mình danh mục đầu tư cá nhân. Đầu tư trực tiếp được ví như việc nhà đầu tư tự nắm lấy số phận trong tay mình, tự lựa chọn và đưa ra quyết định của riêng mình. Việc này đòi hỏi nhà đầu tư phải có thời gian và kinh nghiệm. Lợi điểm của nó thể hiện ở chỗ nhìn chung các khoản phí thấp hơn. * Hình thức đầu tư gián tiếp. Là nhà đầu tư mua một hay nhiều gói hàng hỗn hợp của một hay nhiều quỹ đầu tư. Tùy theo mức độ rủi ro của các gói hàng hỗn hợp có thể bao gồm cổ phiếu các công ty, trái phiếu các loại, chứng chỉ quỹ, tiền mặt, ngoại tệ…theo tỷ lệ thay đổi linh hoạt vào từng thời kỳ. Đầu tư gián tiếp kể như phó thác số phận vào tay các chuyên gia làm việc cho ngân hàng hay công ty đầu tư nào đó, thích hợp cho những ai ít có điều kiện bám sát thị trường. Cái giá phải trả cho các “quản trị viên tiền tệ” này chắc chắn sẽ cao hơn, nhưng mức độ rủi ro lại được giảm xuống. 3. Nội dung của đầu tư chứng khoán. 3.1 Đầu tư cổ phiếu. Đầu tư cổ phiếu thường đầu tư thông qua hình thức đầu tư cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán ( Trung Tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ) hoặc đầu tư cổ phiếu trên thị trường OTC ( là thị trường chưa niêm yết). Đầu tư cổ phiếu trên sàn giao dịch bằng cách tiến hành hoạt động mua bán trực tiếp thông qua các tài khoản giao dịch chứng khoán. Có thể đầu tư các loại cổ phiếu sau: Đầu tư mua cổ phiếu của những công ty nhỏ Tiềm năng tăng giá là sự hấp dẫn các nhà đầu tư áp dụng chiến lược này. Những công ty nhỏ có xu hướng đạt được mức lợi nhuận cao hơn công ty lớn, nhất là trong thời kỳ lạm phát kéo dài và nằm ở mức cao. Tuy nhiên, cổ phiếu của các công ty nhỏ có xu hướng mất giá nhiều hơn so với cổ phiếu của các công ty lớn trong giai đoạn này. Ngoài ra, giá cổ phiếu các công ty nhỏ biến động nhiều hơn và thường không theo kịp chỉ số giá trung bình của thị trường trong dài hạn. Do đó, cổ phiếu của những công ty nhỏ không phải để mua và giữ dài hạn. Đầu tư mua cổ phiếu tăng trưởng Cổ phiếu tăng trưởng là cổ phiếu của những công ty có doanh số, thu nhập và thị phần đang tăng với tốc độ nhanh hơn bình quân trong vài năm qua và người ta mong rằng nó còn tiếp tục chứng tỏ mức tăng trưởng lợi nhuận cao. Các công ty này thường quan tâm đến việc mở rộng nghiên cứu và phát triển cho nên phần lớn lợi nhuận được giữ lại để tái đầu tư. Do vậy, cổ tức thường thấp. Các công ty tăng trưởng thường là những công ty có sản phẩm hoặc dịch vụ tân tiến, có khả năng nắm bắt và đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu và mới mẻ của xã hội (lĩnh vực tiêu dùng, công nghệ cao và sinh học…). Thông thường, các công ty tăng trưởng có tỷ số P/E cao; vốn cổ phần lớn hơn hoặc bằng tổng nợ; tăng trưởng đều đặn, không ngừng trong thu nhập tính theo đầu cổ phiếu ít nhất là 10%/năm. Đầu tư mua cổ phiếu của những công ty quen thuộc, lĩnh vực quen thuộc Đó là cổ phiếu của các công ty thường xuyên được tiếp xúc, được quan sát hay đơn giản là sản phẩm của công ty đó được nhà đầu tư thường xuyên mua. Cũng có khi chỉ vì thích sản phẩm của công ty đó hoặc do ảnh hưởng bởi danh tiếng hay mối quan hệ quen biết mà họ quyết định đầu tư vào công ty đó. Đây có thể là một sự khởi đầu tốt nhưng cần phải biết kỹ hơn về công ty dự định sẽ đầu tư. Điểm hạn chế của chiến lược này là sự chủ quan, chỉ nhắm vào các khía cạnh phiến diện về công cuộc kinh doanh của công ty mà thôi. Và nó hạn chế nhà đầu tư vào một hoặc hai ngành nghề. Đầu tư theo chiến lược này đòi hỏi sự nhạy bén trước các sự kiện mới mẻ. Nhiều công ty có vẻ xa lạ nhưng nếu chịu khó tìm hiểu thì có thể thấy đó thực sự là một cổ phiếu tốt đáng để khai thác. Qua việc nghiên cứu, cảm nhận riêng về một loại cổ phiếu có thể được xác nhận hay bị bác bỏ. Điều này sẽ giúp cho các nhà đầu tư tiết kiệm được rất nhiều. Đầu tư mua cổ phiếu thượng đẳng Cổ phiếu thượng đẳng là cổ phiếu của các công ty lớn có tiếng tăm, tiềm lực tài chính mạnh, thành tích kinh doanh vững chắc, lợi nhuận ổn định. Việc nắm giữ cổ phiếu này sẽ giảm thiểu yếu tố rủi ro, ngay cả trong thời kỳ suy thoái hay khủng hoảng kinh tế, nhưng thành tích của nó hiếm khi nổi bật. Chiến lược này phù hợp với những nhà đầu tư ngại rủi ro và muốn có thu nhập đều đặn. 3.2 Đầu tư trái phiếu. Đầu tư vào trái phiếu có độ rủi ro khá thấp so với cổ phiếu và có mức lãi suất hẫp dẫn hơn lãi suất ngân hàng. Các công cụ nợ quan trọng nhất trên thị trường vốn là trái phiếu trong nước và quốc tế. Đối với các nước trên thế giới, nguồn tài trợ này đã chứng tỏ là kênh huy động vốn dài hạn chủ yếu và hiệu quả cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng. Nó cũng cho phép các công ty huy động một lượng vốn lớn trong ngắn hạn. Thông tư 75 quy định 4 loại trái phiếu doanh nghiệp được phép phát hành tại Việt Nam. Do đó có thể đầu tư vào các loại trái phiếu sau: Trái phiếu đảm bảo: Là trái phiếu được thanh toán một phần hoặc toàn bộ bởi các tổ chức tài chính hoặc được đảm bảo bởi tổ chức phát hành hoặc tài sản của một bên thứ ba. Loại trái phiếu này hiện tại rất phổ biến tại Việt Nam Trái phiếu không đảm bảo: Là trái phiếu được phát hành mà không có bất kỳ một sự đảm bảo thanh toán nào. Đối với loại trái phiếu này, các công ty cần phải giành được sự tín nhiệm tài chính từ các công ty cung cấp dịch vụ tín nhiệm tài chính quốc tế (hoặc trong nước). Tuy nhiên, hiện tại, dịch vụ tín nhiệm tài chính này vẫn chưa xuất hiện tại Việt Nam. Trái phiếu chuyển đổi: Là trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành các cổ phiếu phổ thông của tổ chức phát hành. Các tổ chức phát hành sắp niêm yết (hoặc đã được niêm yết) trên thị trường chứng khoán có thể phát hành loại trái phiếu này. Trái phiếu kèm quyền mua (trái phiếu loại này thường được phát hành cùng với giấy phép để cho phép người mua trái phiếu được mua cổ phần với những điều kiện nhất định nhằm gia tăng mức độ hấp dẫn của việc phát hành trái phiếu ) Mới đây, Chính phủ vừa ban hành dự thảo quy chế giao dịch trái phiếu, và sẽ được áp dụng vào quý 3/2008. Theo dự thảo, toàn bộ giao dịch trái phiếu chính phủ và các trái phiếu khác đang niêm yết tại HoSE sẽ được giao dịch tập trung, niêm yết tại HaSTC. Cách thức mua bán khá mới được nêu ra trong dự án là giao dịch repo trái phiếu chính phủ: trong quá trình giao dịch, 2 bên mua và bán phải ký hợp đồng với điều khoản tới một thời hạn nhất định, người bán sẽ mua lại của người mua số trái phiếu đã bán với mức giá được ghi trong hợp đồng. Phương thức giao dịch thỏa thuận điện tử và giao dịch thỏa thuận thông thường sẽ được áp dụng. 3.3 Đầu tư chứng chỉ quỹ. Hiện nay thì đầu tư vào chứng chỉ quỹ cũng khá hấp dẫn nhờ tính chuyên nghiệp của quỹ đầu tư chứng khoán và thị giá cũng khá thấp và mức trả cổ tức cũng khá cao. Chứng chỉ quỹ là một mặt hàng ngày càng được ưa chuộng trên thị trường này. Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp trong quỹ đại chúng. Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đa dạng hóa đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác nhau nhằm phân tán rủi ro, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. Khi muốn thành lập quỹ thì các công ty quản lý quỹ phải phát hành chứng chỉ quỹ, nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ tức là đã xác nhận sự góp vốn của mình vào quỹ chung đó. Về bản chất chứng khoán quỹ cũng giống như cổ phiếu của một công ty: là bằng chứng xác nhận quyền sở hữu, hưởng lợi nhuận trên phần vốn góp, và đặc biệt được niêm yết trên thị trường chứng khoán để mua bán giữa các nhà đầu tư. Tuy nhiên có ba điểm khác nhau giữa chúng: cổ phiếu là phương tiện huy động vốn của một công ty kinh doanh một vài ngành nghề cụ thể còn chứng chỉ quỹ là phương tiện để thành lập quỹ của một quỹ đầu tư chứng khoán mà ngành nghề hoạt động chính là "chơi chứng khoán". Thứ hai, nếu người sở hữu cổ phiếu phổ thông có quyền biểu quyết hay quản lý công ty thì nhà đầu tư sở hữu chứng khoán quỹ không có quyền tương tự, mọi quyền hành đều do công ty quản lý quỹ quyết định. 3.4 Đầu tư công cụ phái sinh. Nhắc đến chứng khoán, mọi người thường chỉ nghĩ đến cổ phiếu, trái phiếu như những công cụ đầu tư hiệu quả, trong khi thị trường chứng khoán còn rất bao la, mà cổ phiếu, trái phiếu chỉ là một vài trong số đó. Còn vô số những khái niệm và công cụ đầu tư khác phải kể đến, mà chứng khoán phái sinh chính là yếu tố quan trọng đầu tiên không thể bỏ qua.     Chứng khoán phái sinh (derivatives) là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, hoặc để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng có bốn công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn (forwards), Hợp đồng tương lai (futures), Quyền chọn mua hoặc bán (options) và Hợp đồng hoán đổi (swaps). Ngày nay khi thị trường chứng khoán biến động từng giây từng phút thì việc nắm trong tay những công cụ phái sinh là một biện pháp khôn ngoan để đối phó với rủi ro. II. Hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty chứng khoán. 1. Công ty Chứng Khoán. 1.1. Khái niệm . Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Theo luật chứng khoán 2006 quy định công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán. Giấy phép này đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty chứng khoán được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau đây: Môi giới chứng khoán, Tự doanh chứng khoán, Bảo lãnh phát hành chứng khoán, Tư vấn đầu tư chứng khoán. 1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán. * Môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đói với những hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. * Tự doanh chứng khoán Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán các chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của CTCK có thể được thực hiện trên các thị trường giao dịch tập trung (TTGDCK, SGDCK), hoặc trên thị trường OTC…Trên thị trường giao dịch tập trung, lện giao dịch của các CTCK được đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của các khách hàng. Trên thị trường OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với các đối tác hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Tại một số nước, hoạt động tự doanh của các CTCK còn được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường (ví dụ như ở Mỹ). Trong hoạt động này, CTCK đóng vai trò nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán với các khách hàng nhằm hưởng phí giao dịch và hưởng chênh lệch giá. Các loại hình tự doanh chứng khoán Hoạt động đầu tư ngân quỹ: Do chứng khoán là các tìa sản có tính thanh khoản cao nên thay vì nắm giữ lượng tiền mặt nhàn rỗi khồng thể sinh lời, các CTCK thực hiện nắm giữ các chứng khoán theo các danh mục đầu tư, hoạt động này vừa hưởng lợi lại có thể chuyển đổi sang tiền mặt khi cần. Đầu tư hưởng lợi: Bất kỳ một nhà đầu tư dù là cá nhân hay tổ chức khi đầu tư cũng đều nhằm mục đích này và lợi nhuận mang lại từ trái tức, cổ tức hay phần chênh lệch giá. Đầu tư hưởng lơi bao gồm: Hoạt động kinh doanh chênh lệch giá: Kinh doanh chênh lệch giá là việc các nhà đầu tư mua chứng khoán ở một mức giá thấp và bán chúng ở một mức giá cao hơn hoặc mua chứng khoán ở một nơi có có mức giá thấp và bán chúng ở một nơi có mức giá cao hơn, phần lợi nhuận thu về là phần chênh lệch giá. Hoạt động đầu cơ: Hoạt động đầu cơ được các nhà đầu cơ sử dụng với hi vọng kiếm được lợi nhuận thông qua hành vi chấp nhận rủi ro về giá chứng khoán. Tức là mua nhiều chứng khoán vào thời điểm giá thấp và bán chúng với giá cao trong tương lai. - Hoạt động đầu tư phòng vệ: Là hoạt động nhằm tự bảo vệ trước sự biến động của giá chứng khoán của các nhà đầu tư tham gia thị trường. Để có thể thực hiện được mục đích của mình, các nhà đầu tư phòng vệ phải sử dụng đến các công cụ phòng vệ như option, future, swap,…các công cụ này sẽ cho phép các nhà đầu tư bảo vệ mình trước những sự biến động theo chiều hướng không thuận lợi của giá chứng khoán. Hoạt động tạo lập thị trường: Nhiệm vụ của các nhà hoạt động tạo lập thị trường là tạo tính thanh khoản cho thị trường thông qua việc nắm giữ một lượng chứng khoán để sẵn sàng giao dịch với khách hàng. Hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát: Các nhà đầu tư thường chấp nhận bỏ ra một chi phí lớn để nắm được quyền kiểm soát và trong tương lai dễ dàng điều tiết và thu được những nguồn lợi cao như mong muốn. Mục đích của họ không chỉ nhằm vào các công ty đang hoạt động trên thị trường mà còn thực hiện đầu tư nắm giữ các công ty mới thành lập, hoặc các công ty sáp phá sản…để thực hiện hoạt động thâu tóm sát nhập, tận dụng ưu thế trên thị trường và thương hiệu trước đó của cá công ty bị thâu tóm, nắm quyền kiểm soát. Mục đích của hoạt động tự doanh Mục đích của hoạt động tự doanh của các CTCK nhằm thu lợi cho chính mình. Tuy nhiên, để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, pháp luật các nước đều yêu cầu các CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định ngoài các điều kiện về vốn và con người. Tách biệt quản lý: Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách bạch này bao gồm cả yếu tố con người và các quy trình nghiệp vụ. Bên cạnh đó các CTCK phải đảm bảo sự tách bạch về tài sản của khách hàng với tài sản của chính công ty. Ưu tiên khách hàng. Pháp luật của hầu hết các nước đều yêu cầu CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho các khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Bình ổn thị trường trường. Do tính đặc thù của TTCK, đặc biệt là các TTCK mới nổi bao gồm chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ thì tính chuyên nghiệp trong hoạt động tự doanh động đầu tư không cao. Điều này rất dễ dẫn đến những biến động bất thường trên thị trường. Vì vậy, bên cạnh với tư cách là một nhà đầu tư lớn và chuyên nghiệp trên thị trường, các CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của mình có thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường. Bên cạnh đó, các CTCK còn phải tuân thủ một số quy định khác như giới hạn về đầu tư, lĩnh vực đầu tư,…Mục đích của các quy định này là nhằm đảm bảo một độ an toàn nhất định cho các CTCK trong quá trình hoạt động tự doanh động, tránh những sự đổ vỡ gây thiệt hại chung cho cả thị trường. *Bảo lãnh phát hành chứng khoán Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các CTCK tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của CTCK và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng doanh thu của CTCK. *Tư vấn đầu tư chứng khoán Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau: Theo hình thức của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp gỡ khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư tín điện thoại) và tư vấn gián tiếp (thông qua các ấn phẩm sách báo) để tư vấn cho khách hàng. Theo mức độ ủy quyền của tư vấn: bao gồm tư vấn gợi ý (gợi ý cho khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của khách hàng) và tư vấn ủy quyền (vừa tư vấn vừa quyết định theo sự phân cấp, ủy quyền thực hiện của khách hàng). Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn cho người phát hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức,hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ, bản cáo bách và giúp tổ chức phát hành trong việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán ). *Các hoạt động phụ trợ khác - Lưu ký chứng khoán Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài koản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng khoán (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ) hoặc ký gửi các chứng khoán (nếu phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán. Nghiệp vụ tín dụng Đối với các TTCK phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, CTCK còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống (short sale) hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ (margin purchase). - Nghiệp vụ quản lý quỹ Ở một số TTCK, pháp luật về TTCK còn cho phép CTCK được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, CTCK cử đại diện của mình để quản lý quỹ, sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. CTCK được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư. 2. Quy trình và thủ tục thực hiện đầu tư theo phương thức tự doanh. 2.1 Quy trình thực hiện đầu tư theo phương thức tự doanh. Thực chất của hoạt động tự doanh chứng khoán là đầu tư thông qua danh mục đầu tư của mình. Cũng như các hoạt động nghiệp vụ khác, hoạt động tự doanh không có một quy trình chuẩn hay bắt buộc nào. Các CTCK, tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức của mình sẽ có các quy trình nghiệp vụ riêng, phù hợp. Tuy nhiên,trên giác độ chung nhất, bất kỳ một CTCK nào có hoạt động tự doanh cũng đều có những bộ phận chuyên gia nghiên cứu phân tích để đưa ra các dự đoán có tác động trực tiếp tới các quyết định đầu tư. Nghiên cứu đầu tư tập trung vào việc nghiên cứu và dự đoán các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến việc đầu tư như lãi suất, tỷ giá,…dự đoán khuynh hướng biến động của toàn thị trường nói chung cũng như phân tích và dự đoán sự phát triển hay tăng trưởng trong tương lai của từng ngành,khu vực kinh doanh cụ thể. Thông thường quy trình hoạt động tự doanh có thể được chia thành một số bước sau: 2.1.1 Xác định mục tiêu đầu tư. Trong việc đầu tư chứng khoán thì phải xác định rõ mục tiêu đầu tư chứng khoán là gì. Vì vậy mới có sự cố gắng để đạt được mục tiêu đề ra. Sau đây là một số mục tiêu đầu tư: - Bảo toàn số vốn so với số lượng vốn ban đầu và sức mua của nó không thay đổi nếu thị trường có biến động. - Có lợi tức dù trong hoàn cảnh nào của nền kinh tế. - Thời gian đầu tư: Không có nguy cơ rủi ro, biểu hiện là chứng khoán sẽ không bao giờ bị đáo hạn khi người đầu tư vẫn còn muốn giữ nó. - Dễ bán ngay khi được giá hoặc khi người đầu tư không muốn giữ nó nữa. - Công ty phát hành chứng khoán đang là một công ty lớn mạnh, đang tăng trưởng, có cơ sỏ vững chắc, không bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh. 2.1.2 Khai thác, tìm kiếm cơ hội đầu tư Sau khi xây dựng được mục tiêu đầu tư của công ty, bộ phận tự doanh sẽ triển khai tìm kiếm các nguồn hàng hóa, cơ hội đầu tư theo mục tiêu đã định. Công việc này đòi hỏi mỗi cán bộ tự doanh phải mất công sức khá lớn để tìm kiếm và phát hiện cơ hội đầu tư tốt nhất. 2.1.3 Phương pháp phân tích, lựa chọn cơ hội đầu tư Trong giai đoạn này, bộ phận tự doanh có thể kết hợp với bộ phận phân tích trong công ty tiến hành thẩm định, đánh giá chất lượng của các khoản đầu tư. Kết quả của giai đoạn này sẽ là những kết luận cụ thể về việc công ty có nên đầu tư hay không và đầu tư với số lượng, giá cả bao nhiêu thì hợp lý. Cụ thể có các bước phân tích sau: 2.1.3.1 Phân tích cơ bản. Phân tích cơ bản là một trong những phương pháp phân tích chứng khoán được sử dụng rất phổ biến. Các nhà đầu tư theo cách tiếp cận này thường quan tâm nhiều tới các thông số cơ bản một của công ty như tốc độ tăng trưởng doanh số và lợi nhuận, từ đó rút ra những kết luận về giá trị thực tế của cổ phiếu. Sau đó, bằng cách so sánh thị giá cổ phiếu với giá trị thực tế đó sau đó nhà đầu tư có quyết định mua hay là không. *Phân tích vĩ mô nền kinh tế: Bao gồm các vấn đề phân tích sau: Phân tích tình hình kinh tế- chính trị- xã hội trong nước và quốc tế. + Mức tăng trưởng kinh tế của các nước nắm quyền chi phối nền kinh tế thế giới. + Mức tăng trưởng kinh tế của các nước trong khu vực. + Mức tăng trưởng của các nước có tỉ trọng giao dịch thương mại lớn đối với quốc gia và trực tiếp là đối với doanh nghiệp. Như đối với Việt Nam thì thị trường lớn như Mỹ, Châu Âu, Trung Đông, Châu Phi. + Môi trường kinh tế chính tri của Việt Nam có ảnh hửơng rất lớn đến hoạt động đầu tư của tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư nước ngoài. + Chính sách tiền tệ và các chính sách tài khóa có tác động rất lớn tới quyết định đầu tư. Có thể nói trong giai đoạn từ cuối năm 2007 đến qúy I năm 2008 Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chịu ảnh hưởng khá lớn từ chính sách tiền tệ, do tình hình lạm phát tăng cao năm 2007, Nhà Nước đã xiết chặt nguồn tiền bằng rất nhiều biện pháp như nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng, hạn chế cho vay chứng khoán, phát hành 20300 tỷ tín phiếu + Chính sách pháp luật như tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính khả thi của hệ thống pháp luật, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật . Thì hiện tại ở Việt Nam thì sự ra đời của Luật chứng khoán 2006, là một điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán. Và nó cũng tạo điều kiện quan trọng cho các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức nước ngoài, các quỹ đầu._. tư nước ngoài tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam. + Phân tích yếu tố văn hóa xã hội và môi trường tự nhiên. *Phân tích ngành. Bao gồm các vấn đề sau: + Thực trạng của ngành trong nền kinh tế. + Trình độ công nghệ của ngành: công nghệ của công ty sản xuất đóng vai trò khá quan trọng vì nó là phương tiện trực tiếp tạo ra sản phẩm cung cấp ra thị trường giúp cho doanh nghiệp tồn tại. + Chiến lược phát triển của ngành : Nó cho biết sự phát triển trong tuơng lai của ngành như thế nào. Qua đó dự toán được tốc độ tăng trưởng của công ty trong ngành đấy. Qua đó phân tích được triển vọng của ngành để có thể dự đoán được tương lai. + Quy mô thị trường và thị phần của những đối tượng lớn. + Tính cạnh tranh trong ngành + Triển vọng phát triển của ngành. Điều này thể hiện thông qua chính sách vĩ mô của chính phủ trong việc phát triển ngành này như thế nào, và cơ hội của ngành này trong giai đoạn mở cửa và hội nhập. *Phân tích chung về doanh nghiệp. + Lịch sử của doanh nghiệp Đôi khi việc nghiên cứu quá khứ của một doanh nghiệp là điều rất có ích để có thể hiểu rõ được chiến lược phát triển của nó hiện nay và trong tương lai. Ngoài ngày thành lập, điều có thể tạo thuận lợi cho việc theo dõi khả năng thích ứng của doanh nghiệp, phương thức thành lập doanh nghiệp cũng là một lợi ích không nhỏ. + Nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực cũng quan trọng tương đương với khả năng tài chính của doanh nghiệp. Khả năng tài chính của doanh nghiệp có thể sẽ mất dần theo thời gian nhiều vụ đầu tư vào các hợp đồng tương lai đã làm biến mất hoàn toàn khả năng tài chính của nhiều công ty đa quốc gia, nhưng rất hiếm khi một doanh nghiệp bị mất hoàn toàn năng lực của nhân viên của nó. Mặt khác, tuy đào tạo được một nguồn nhân lực có khả năng vừa mất nhiều thời gian, vừa tốn kém hơn là thay đổi kỹ thuật sản xuất nhưng không phải khi nào máy móc cũng có thể thay thế con người. Một doanh nghiệp có hai dạng nhân lực. + HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát +Lĩnh vực kinh doanh Doanh nghiệp đó đang sản xuất - kinh doanh sản phẩm nào là chủ yếu, thể hiện qua tỷ trọng doanh thu và lợi nhuận của sản phẩm đó trên doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp chỉ có một sản phẩm chính chiếm tỷ trọng cao trong doanh thu như VIC, TSC... nhưng một số khác lại có nhiều sản phẩm chính và tỷ trọng gần như đồng đều (ví dụ: HHC), thậm chí các sản phẩm hầu như không có mối liên quan (như vừa sản xuất, vừa đầu tư tài chính). Biết được lĩnh vực kinh doanh chính của công ty giúp chúng ta có cái nhìn rõ nét hơn về những ảnh hưởng có thể có tới doanh nghiệp như môi trường kinh tế vĩ mô, luật pháp, thiên tai, đối thủ cạnh tranh... +Vốn và cơ cấu vốn - Quá trình tăng vốn của doanh nghiệp: cần tìm hiểu vốn hiện tại cũng như nhu cầu tăng vốn trong thời gian tới - Vốn chủ sở hữu, thặng dư vốn, lợi nhuận: nếu một doanh nghiệp có lợi nhuận lớn và tỷ lệ vay nợ hiện tại cao thì nhiều khả năng doanh nghiệp sẽ tăng vốn để giảm bớt chi phí vay. Hơn nữa, nếu doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu lớn hơn nhiều so với vốn điều lệ thì điều đó dễ dàng làm cho EPS của cổ phiếu đó tăng cao. +Sản phẩm, thương hiệu và hệ thống phân phối - dịch vụ * Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. +›EPS : Thu nhập trên mỗi cổ phiếu . –Tổng thu nhập sau thuế - Tổng số cổ tức của cổ phiếu  ưu đãi EPS = –                             Tổng số cổ phiếu  đang lưu hành - EPS là chỉ số cho biết khả năng sinh lợi của công ty  trên mỗi cổ phần của cổ đông đóng góp là bao nhiêu. - Nếu chỉ số EPS càng cao thì nó càng cho thấy khả năng sinh lời của công ty  càng lớn và ngược lại. - So sánh chỉ số EPS qua các thời kỳ sẽ giúp chúng ta biết được tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp đang phân tích. + P/E : Price / EPS– Thị giá hiện tại của cổ phiếu P/E = –    Thu nhập của cổ phiếu  (EPS) P/E cho biết NĐT sẵn sàng trả giá cho mỗi cổ phiếu  cao hơn  mức thu nhập hiện tại bao nhiêu lần ›- P/E là chỉ số cho biết giá cổ phiếu  đang ở mức được đánh giá cao hay thấp trên thị trường. ›- Nếu chỉ số P/E càng cao thì nó cho thấy cổ phiếu  được thị trường đánh giá cao và ngược lại. ›- So sánh chỉ số P/E giữa các công ty  cùng ngành để đánh giá giá trị của cổ phiếu  mình quan tâm. +ROE :  Lợi nhuân trên Vốn chủ sở hữu –   Lợi nhuận  sau thuế ž ROE = – Nguồn vốn chủ sở hữu ›- ROE được dùng để đo lường xem công ty tận dụng vốn của NĐT tốt đến mức nào. Hay hiểu một cách đơn giản ROE phản ánh mức độ sinh lời của một công ty , tính hiệu quả trong việc sử dụng vốn mà nhà đầu tư đã đóng góp . ›- Thông thường thì một công ty hoạt động tốt thì cần phải có ROE cao hơn mức trung bình của các công ty cùng ngành . Sở dĩ như vậy vì điều này cũng đồng nghĩa với việc công ty kiếm được nhiều tiền hơn trên đồng vốn bỏ ra để đầu tư ( so với cùng ngành ). ›- Chí số này cũng có thể so sánh với ROE trung bình toàn thị trường ›- Chỉ số này tăng cao hàng năm phản ánh tiềm năng tăng lợi nhuận  và quản lý hiệu quả của công ty . +ROA :  Lợi nhuận trên Tổng tài sản –Lợi nhuận  sau thuế ž ROA = –Tổng tài sản ›- ROA cho ta biết công ty đã thu lợi nhuận là bao nhiêu từ tổng số tài sản công ty đã sử dụng ›- ROA là một chỉ tiêu đánh giá khả năng quản lý và tận dụng cơ hội của doanh nghiệp . ›- Nhìn chung , nên tìm các công ty có ROA cao hơn bình quân của ngành hay bình quân của toàn thị trường + Chỉ số Lợi nhuận / Doanh thu ž Công ty  hoạt động có lãi nhiều không ? Một đồng DT sẽ có bao nhiêu phần là lợi nhuận  . Mức lợi nhuận  của công ty  phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược phát triển thị trường, khả năng tiết kiệm chi phí và sức mạnh cạnh tranh của công ty . Nhìn chung thì một công ty  tốt thường làm ăn có lãi nhiều hơn các công ty  cùng ngành. +Hoa lợi ( Yield ) ž Cổ tức là khoản tiền mà cổ đông được chia khi công ty làm ăn có lãi, cổ tức cao cũng có nghĩa là cổ đông bỏ túi đều đặn nhiều tiền . Tuy nhiên nhiều công ty trả cổ tức thấp và giữ lại phần lớn để tái đầu tư hiệu quả . Bởi vậy ta cũng không nên quá chú ý tới chỉ số này 2.1.3.2 Phân tích kĩ thuật Phân tích kĩ thuật là phương pháp dựa vào diễn biến giá và khối lượng giao dịch trong quá khứ và dự đoán xu thế giá trong tương lai. * Đường MACD là gì? MACD là 1 trong những chỉ số được người giao dịch tiền tệ sử dụng phổ biến nhất. Đây là chỉ số động lượng hỗ trợ trong việc xác định những xu hướng, cùng lúc đó có thể chỉ ra được sự đảo ngược hay những điều kiện vượt mua (mua quá mức chấp nhận - overbought)/ vượt bán (bán quá mức chấp nhận - oversold). MACD được tính bằng cách lấy sự khác biệt giữa 2 mức di chuyển trung bình theo luật số mũ. 2 mức di chuyển trung bình này thường được sử dụng là 26 ngày và 12 ngày. MACD có thể được sử dụng cho giao dịch như thế nào? Cách thông thường nhất để sử dụng MACD là để mua/bán 1 cặp tiền tệ khi nó vượt qua đường tín hiệu hay còn gọi là mức 0. Một tín hiệu bán xuất hiện khi MACD nằm dưới đường tín hiệu trong khi 1 tín hiệu mua xuất hiện khi MACD tập hợp trên đường tín hiệu. Overbought/Oversold (Vượt mua/vượt bán) MACD cũng có thể được sử dụng như là 1 chỉ số vượt mua/vượt bán. Khi di chuyển trung bình ngắn hạn di chuyển 1 cách đáng chú ý ra khỏi di chuyển trung bình dài hạn (ví dụ MACD tăng) thì nó giống như là những di chuyển giá tiền tệ đang bắt đầu kiệt quệ và sẽ sớm trở lại mức độ hiện thực. Biểu đồ 1.1: Đường MACD *Đường RSI là gì ? RSI có lẽ là chỉ thị phổ biến nhất được nhóm người giao dịch FX sử dụng. Nó được phát triển bởi J. Welles Wilder Jr. để đo sức mạnh hay động lực của 1 cặp tiền tệ. Chỉ số này được tính bằng cách so sánh thành tích hiện tại của cặp tiền tệ với thành tích trong quá khứ của nó, hoặc so sánh những ngày ở trên của nó với những ngày ở dưới. Mức chia độ của RSI là 0-100, nếu điểm nào trên 70 thì được xem là vượt mua trong khi điểm nào dưới 30 thì được xem là vượt bán. Khung thời gian chuẩn của cách đo này là 14 periods mặc dù 9 và 25 periods cũng thường được sử dụng. Nói chung, càng nhiều periods thì có khuynh hướng đem lại dữ liệu càng chính xác hơn. RSI có thể được sử dụng cho giao dịch như thế nào? RSI có thể được sử dụng để xác định những điều kiện vượt trội hay những sự đảo ngược của xu hướng thị trường. RSI trên 70 được xem là vượt mua và chỉ ra tín hiệu bán. RSI dưới 30 được xem là vượt bán và sẽ ngụ ý 1 tín hiệu mua. Biểu đồ 1.2: Đường RSI * Bollinger Bands Bollinger Bands rất giống với di chuyển trung bình. Những dãy được vẽ với 2 sự chênh lệch theo chuẩn trên và dưới của di chuyển trung bình. Điều này thường không dựa trên di chuyển trung bình đơn giản, mà di chuyển trung bình theo số mũ có thể được sử dụng để tăng mức nhạy cảm của chỉ số này. Một di chuyển trung bình đơn giản 20 ngày được xem là dãy trung tâm và 2 sự chênh lệch theo chuẩn cho những dãy bên ngoài. Chiều dài của di chuyển trung bình và số chênh lệch có thể được thay đổi luân phiên để thích hợp hơn với những người giao dịch và tính linh động của cặp tiền tệ. Thêm vào đó sự xác định mức giá và tính linh động có liên quan thì dãy Bollinger có thể kết hợp diễn biến giá và những chỉ số khác để phát ra những tín hiệu và là tín hiệu cho những di chuyển đáng chú ý. Bollinger Bands thường được những người giao dịch sử dụng để tìm ra những di chuyển giá quá khích không thể chống cự lại được, bắt kịp những thay đổi trên thị trường, xác định những mức độ hỗ trợ/kháng cự và theo dõi sự co/nở trong tính linh động. Có rất nhiều cách để giải thích Bollinger Bands. Chỉ số vượt mua / vượt bán Biểu đồ 1.3: Dải Bollinger Bands 2.1.3.3 Định giá chứng khoán. Hiện tại các nhà phân tích chứng khoán tại Việt Nam và trên thế giới dùng khá nhiều phương pháp để tính và dự đoán giá CP, sau đây là 2 phương pháp có thể áp dụng được trong điều kiện hiện tại của TTCK Việt Nam. Ngoài ra, để đơn giản hoá vấn đề, chúng ta sẽ lấy giá cao nhất trong các giá CP tính theo các phương pháp trên làm giá trị thực của CP được phân tích. Định giá cổ phiếu phổ thông theo phương pháp chiết khấu luồng thu nhập (DCF) Phương pháp định giá chiết khấu luồng thu nhập (DCF) được dựa trên một nguyên lý cơ bản là “tiền có giá trị theo thời gian, một đồng tiền của ngày hôm nay luôn có giá trị hơn một đồng tiền của ngày mai, một đồng đầu tư vào trong doanh nghiệp (DN) này có mức sinh lời khác với một đồng đầu tư trong DN khác, do đó, giá trị của ND được xác định bằng các luồng thu nhập dự kiến mà DN đó thu được trong tương lai được quy về giá trị hiện tại bằng cách chiết khấu chúng bằng một mức lãi suất chiết khấu phù hợp với mức độ rủi ro của DN đó. Do vậy, trong phương pháp DCF có 3 thông số cơ bản nhất cần được xác định, đó là luồng thu nhập công ty sẽ thu về trong tương lai, mức lãi suất chiết khấu luồng thu nhập đó và thời hạn tồn tại dự tính của DN. Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở những nước mà TTCK phát triển, nơi thường có đầy đủ thông tin về lịch sử cũng như thông tin hiện tại và dự báo hợp lý về tình hình tài chính và rủi ro của doanh nghiệp. Hiện nay, việc áp dụng công thức này ở Việt Nam cũng được nhiều người chấp nhận bởi giá CP tính theo phương pháp này phản ánh được tương đối đầy đủ mọi mặt bản chất hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty so với các phương pháp khác và đứng trên quan điểm của nhà đầu tư thì, ngoài việc tính toán theo phương pháp này rất đơn giản, nó còn đáp ứng đúng suy nghĩ, nguyện vọng của họ khi đầu tư vào một DN. Công thức được điều chỉnh sẽ là: P = Po + E1/(1+r) + E2/(1+r)2 + E3/(1+r)3 + E4/(1+r)4 + E5/(1+r)5 Định giá CP phổ thông theo phương pháp hệ số P/E Đây là phương pháp cũng được áp dụng phổ biến ở các TTCK đã phát triển. Hệ số P/E là hệ số giữa giá CP (thị giá) và thu nhập hàng năm của một CP đem lại cho người nắm giữ. Thông thường, để dự tính giá của một loại CP, người ta thường dùng thu nhập trên mỗi CP của công ty nhân với hệ số P/E trung bình ngành hoặc của một công ty tương tự về qui mô, ngành nghề và đã được giao dịch trên thị trường. Việc áp dụng hệ số P/E để tính giá CP tại Việt nam còn gặp phải nhiều khó khăn do thiếu số liệu và TTCK chưa phát triển. Tại các thị trường đã phát triển, theo số liệu thống kê về chỉ số P/E, hệ số này từ 8-15 là bình thường, nếu hệ số này lớn hơn 20 thì công ty đang được đánh giá rất tốt và người đầu tư trông đợi trong tương lai, mức thu nhập trên một CP của công ty sẽ tăng nhanh. Trường hợp công ty có hệ số P/E thấp có thể là do thị trường không đánh giá cao công ty đó hoặc chưa hiểu biết nhiều về công ty. Khi tất cả các CP trên thị trường đều có giá quá cao so với giá trị thực của của nó thì phần bong bóng sẽ vượt quá phần thực và nhất định có ngày nổ tung, gây khủng hoảng thị trường như đã từng thấy ở các nước phát triển. 2.1.4 Thực hiện phân bổ tài sản và xây dựng danh mục đầu tư Phân bổ tài sản có nghĩa là phân chia tiền của danh mục vào các rổ đầu tư. Phân bổ tài sản được thực hiện trong từng thời kỳ phù hợp với quan điểm và phán đoán đầu tư của người quản lý danh mục. Nó liên quan tới quyết định sẽ đầu tư bao nhiêu tiền vốn của công ty vào từng loại tài sản - cổ phiếu, trái phiếu, tiền mặt hoặc phân bổ vào từng lĩnh vực kinh doanh. Khi chia số tiền vào từng loại tài sản khác nhau, người quản lý danh mục có thể tính toán cân đối giá trị của danh mục đầu tư và mức độ sinh lời của từng loại chứng khoán cấu thành. Sau khi đã đánh giá, phân tích các cơ hội đầu tư cũng như quá trình phân bổ tài sản đầu tư, bộ phận tự doanh sẽ triển khai hoạt động tự doanh động giao dịch mua, bán chứng khoán. Cơ chế giao dịch sẽ tuân theo các quy định của pháp luật và các chuẩn mực chung trong ngành. 2.1.5 Quản lý danh mục đầu tư Danh mục đầu tư rủi ro là danh mục chứa đựng tất cả các loại chứng khoán rủi ro (kể cả cổ phiếu và trái phiếu). Tuy nhiên, để đơn giản hoá về mặt lý thuyết, khi đề cập đến danh mục rủi ro người ta thường nói đến danh mục cổ phiếu. Không giống như quản lý danh mục trái phiếu đơn thuần, ở đây chỉ có hai chiến lược quản lý chủ động và thụ động mà không có chiến lược kết hợp giữa thụ động và chủ động. 2.1.5.1 Chiến lược quản lý thụ động Chiến lược mua cổ phiếu dựa theo một chỉ số chuẩn nào đó và nắm giữ lâu dài khoản đầu tư. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa chỉ đơn thuần mua và nắm giữ cổ phiếu lâu dài mà đôi khi danh mục cũng cần được cơ cấu lại khi phải tái đầu tư các khoản cổ tức nhận về và do có một số cổ phiếu bị hợp nhất hoặc trượt khỏi danh sách trong chỉ số chuẩn. Về mặt kỹ thuật, có 3 phương pháp chính xây dựng danh mục cổ phiếu thụ động như sau: - Lặp lại hoàn toàn một chỉ số nào đó: theo phương pháp này, tất cả các loại cổ phiếu nằm trong chỉ số được mua vào theo một tỷ lệ bằng tỷ trọng vốn mà cổ phiếu đó chiếm giữ trong chỉ số này. Phương pháp này giúp nhà quản lý chắc chắn thu được kết quả đầu tư gần giống với kết quả của chỉ số, nhưng có hai nhược điểm: + Vì phải mua nhiều cổ phiếu nên phải chi nhiều phí giao dịch (trong trường hợp phí giao dịch tính theo món), dẫn đến lợi suất đầu tư có thể giảm vì chi phí quá nhiều; -Phương pháp chọn nhóm mẫu: với phương pháp này, nhà quản lý chỉ cần chọn một nhóm các chứng khoán đại diện cho chỉ số chuẩn theo tỷ lệ tương ứng với tỷ trọng vốn của từng cổ phiếu đó trong chỉ số chuẩn. Phương pháp này có ưu điểm giảm chi phí giao dịch vì số lượng chứng khoán mua vào ít, nhưng không bảo đảm chắc chắn lợi suất đầu tư đạt được sẽ tương đương với lợi suất thu nhập của chỉ số chuẩn. - Phương pháp lập trình bậc 2: phương pháp này khá phức tạp, thường chỉ có các nhà đầu tư chuyên nghiệp áp dụng. Trong phương pháp này, các thông tin quá khứ về tình hình biến động giá cổ phiếu và mối tương quan giữa các loại giá cổ phiếu khác nhau được đưa vào chương trình máy tính để chọn lọc và xác định thành phần của danh mục sao cho giảm thiểu chênh lệch lợi suất của danh mục so với chỉ số chuẩn. Tuy nhiên, phương pháp này cũng nảy sinh vấn đề là khi các dữ liệu đầu vào (thông tin quá khứ về giá cả và mối tương quan giữa chúng) có sự thay đổi thường xuyên thì lợi suất danh mục sẽ có chênh lệch lớn so với chỉ số. 2.1.5.2 Chiến lược quản lý chủ động Mục tiêu của chiến lược này là nhằm thu được lợi suất đầu tư cao hơn lợi suất của danh mục thụ động chuẩn hoặc thu được mức lợi nhuận trên trung bình ứng với một mức rủi ro nhất định. Quy trình quản lý danh mục đầu tư chủ động như sau: · Xác định mục tiêu của khách hàng đặt ra: khách hàng đầu tư có thể đưa ra các yêu cầu cụ thể cho khoản đầu tư của mình, như đặt ra mục tiêu chỉ đầu tư vào loại cổ phiếu công ty nhỏ; với hệ số P/E thấp và ứng với một mức rủi ro nào đó, chẳng hạn cao hơn, bằng hoặc thấp hơn mức rủi ro của danh mục thị trường... · Lập ra một danh mục chuẩn (hay còn gọi danh mục "thông thường") để làm căn cứ so sánh cho danh mục chủ động trên đây. Chẳng hạn, ứng với các yêu cầu trên đây thì danh mục chuẩn bao gồm tất cả các loại cổ phiếu của công ty nhỏ (như trên thị trường Mỹ thì đó là những công ty có vốn tính theo giá thị trường dưới $500 triệu), với hệ số P/E thấp (dưới 80% hệ số P/E của các công ty thuộc chỉ số S&P), với tỷ trọng vốn đều nhau. · Xây dựng một chiến lược và kết cấu danh mục đầu tư tối ưu thoả mãn nhu cầu người đầu tư theo quy trình sau: */ Thực hiện phân tích những ngành và công ty riêng lẻ thoả mãn mục tiêu đặt ra, (ví dụ những công ty nhỏ thuộc ngành viễn thông), để tìm ra những cơ hội đầu tư tốt nhất. */Tính toán xác định số lượng cổ phiếu trong danh mục sao cho đạt mức đa dạng hoá cao nhất trong phạm vi giới hạn của khoản tiền đầu tư. */ Sau khi xác định số lượng và chủng loại cổ phiếu cần mua, bước tiếp theo là phân bổ khoản đầu tư. Số tiền đầu tư được phân bổ theo nguyên tắc: những ngành nghề có xu hướng phát triển tốt thì được phân bổ một tỷ trọng lớn hơn, trong đó cần tập trung vào những cổ phiếu có tiềm năng hoặc cổ phiếu tạm thời bị định giá thấp. · Theo dõi, đánh giá các biến động của cổ phiếu trong danh mục và tái cấu trúc danh mục: 2.1.6: Đánh giá và điều chỉnh danh mục đầu tư. Đánh giá danh mục đầu tư được tiến hành hàng tuần, hàng tháng, hàng năm để nhằm mục đích kiểm tra, theo dõi danh mục đầu tư có hiệu quả hay không. Và qua đó đưa ra các giải pháp như điều chỉnh danh mục đầu tư, thay đổi cách thức đầu tư…. Sao cho danh mục đầu tư đạt hiệu quả cao nhất. 2.2 Mô hình tổ chức hoạt động tự doanh cổ phiếu Hoạt động tự doanh cổ phiếu của CTCK được thực hiện dưới hai mô hình tổ chức sau: Mô hình hai cấp: Là mô hình mà trong đó, trưởng phòng đầu tư hay trưởng phòng tự doanh là người trực tiếp điều hành mọi hoạt động đầu tư và quyết định danh mục đầu tư, chính sách của toàn công ty. Hoạt động tự doanh được phân chia thành hoạt động tự doanh cổ phiếu niêm yết và trên thị trường chưa niêm yết. Mỗi thị trường do một nhóm các cán bộ tự doanh phụ trách dưới sự quản lý chung của trưởng phòng đầu tư. Các phương án sẽ được trưởng phòng xem xét và đưa ra ý kiến đóng góp. Phương án cuối cùng được thực hiện khi có sự đồng ý của trưởng phòng. Hàng tuần, tháng, quý trưởng phòng tự doanh có trách nhiệm báo cáo tình hình hoạt động đầu tư tới Giám đốc công ty. Giám đốc Công ty sẽ là người quản lý chung và thẩm định các kết quả đầu tư của phòng tự doanh. Ngoài ra, mọi hoạt động đầu tư của công ty sẽ được thực hiện dưới sự giám sát của Ban kiểm soát công ty nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động tự doanh. Sơ đồ 1.1: Mô hình tự doanh 2 cấp Phòng đầu tư (tự doanh) Ban kiểm soát TD cổ phiếu chưa niêm yết TD cổ phiếu niêm yết Đặc điểm của mô hình tổ chức hai cấp này là gọn nhẹ, nâng cao Đặc điểm của mô hình hai cấp là gọn nhẹ, nâng cao tính độc lập và trách nhiệm của cán bộ tự doanh trong hoạt động tự đầu tư và kinh doanh cổ phiếu của công ty. Tuy nhiên, với mô hình này, tính chủ quan của trưởng phòng đầu tư sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả đầu tư của Công ty, do vậy cơ chế giám sát đầu tư phải rất chặt chẽ. Mô hình ba cấp: Trong mô hình này, hoạt động tự doanh của CTCK cũng được phân chia thành tự doanh cổ phiếu niêm yết và chưa niêm yết. Tuy nhiên, trưởng phòng tự doanh không phải là người quyết định hoàn toàn chiến lược cũng như danh mục đầu tư của công ty. Trưởng phòng chỉ quản lý hoạt động đầu tư của các nhóm cán bộ tự doanh cấp dưới và đóng góp ý kiến giúp Hội đồng đầu tư đưa ra các chiến lược đầu tư và chính sách quản lý danh mục của toàn công ty. Hội đồng đầu tư bao gồm Giám đốc công ty và các thành viên khác theo quy định, trong đó bao gồm cả trưởng phòng đầu tư. Hội đồng đầu tư sẽ là người cuối cùng quyết định xem một phương án đầu tư có hay không được rhực hiện thay vì quyết định của cá nhân trưởng phòng đầu tư như mô hình hai cấp. Ban kiểm soát vẫn có vai trò giám sát mọi hoạt động đầu tư mà phòng tự doanh thực hiện mô hình hai cấp. Sơ đồ 1.2. Mô hình tự doanh 3 cấp Hội đồng đầu tư Ban kiểm soát Phòng đầu tư (tự doanh) TD cổ phiếu chưa niêm yết TD cổ phiếu niêm yết *Tự doanh trái phiếu Khác với thị trường cổ phiếu, ở thị trường trái phiếu, hầu hết các giao dịch mua, bán đều mang lại lợi nhuận cho cả người mua lẫn  người bán, do đó tính ổn định của nó rất cao. Quy luật cung - cầu trên thị trường trái phiếu cũng không giống như thị trường cổ phiếu vì nó phụ thuộc vào nguồn vốn nhàn rỗi nhiều hay ít của các tổ chức tài chính, ngân hàng trong từng thời điểm. Vì tính riêng biệt này mà nhiều người dễ lầm lẫn khi đánh giá về sự phát triển của thị trường trái phiếu khi thị trường này có khối lượng giao dịch ít. Một điều đáng tiếc là do thị trường giao dịch trái phiếu quá trầm lắng, lượng nhà đầu tư không còn bao nhiêu, nên các nhà đầu tư cá nhân chưa tiếp cận được nhiều với loại hình kinh doanh này. 3. Các phương pháp đầu tư chứng khoán. * Phương pháp đầu tư theo WARREN BUFFETT Thực hiện theo các nguyên tắc : ›-  Đầu tư vào công ty chứ không đầu tư vào cổ phiếu ( tờ giấy ) . ›-  Đầu tư theo giá trị thực : Những câu hỏi Warren Buffett đặt ra trước khi quyết định chọn công ty ( cổ phiếu ) để đầu tư ›-  Chọn thời điểm mua , bán * Phương pháp đầu tư theo BENJAMIN GRAHAMž Đầu tư theo ba chỉ tiêu chính của Benjamin Graham : ž - Chỉ tiêu lợi nhuận › - Doanh thu ( or Lượng hàng bán ). › - Chỉ tiêu lợi nhuận / Doanh thu * Phương pháp đầu tư theo William J. ONeil Đầu tư theo bảy tiêu chuẩn ( CANSLIM ) : › C : Current Quaterly Earnings Per Share ( lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu của quý gần nhất ) › A : Annual Earnings Increases ( sự gia tăng lợi nhuận hàng năm) › N : New Products, New Management, New Highs ( sản phẩm mới, sự quản lý mới, giá CP đạt  mức giá cao mới ) › S : Supply and Demand ( tình hình cung và cầu ) › L : Leader and Laggard ( cổ phiếu  dẫn đầu và cổ phiếu  tụt hậu ) › I : Institutional Sponsorship ( sự ủng hộ của các định chế tài chính và đầu tư ) › M : Market Direction ( định hướng thị trường ) 4. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty chứng khoán. Thông thường để đánh giá hiệu quả hoạt động của CTCK người ta đánh giá chất lượng các nghiệp vụ của công ty. Hiệu quả hoạt động tự doanh được đánh giá thông qua các chỉ tiêu định lượng. Việc tính toán và lựa chọn các chỉ tiêu thì việc phân tích trong từng thời kỳ là rất cần thiết. Có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả hoạt động tự doanh của CTCK, bởi chỉ tiêu này có thể ảnh hưởng đến các chỉ tiêu khác. Có thể dựa trên các chỉ tiêu cơ bản sau: Các chỉ tiêu kết quả: Vốn đầu tư thực hiện: Đó chính là khoản vốn ban đầu mà công ty chứng khoán bỏ ra để kinh doanh chứng khoán. Khoản vốn này có thể được điều chỉnh, thay đổi tăng giảm tuỳ thuộc vào mục tiêu của công ty, cũng như tuỳ vào sự thay đổi của thị trường chứng khoán. Tốc độ tăng trưởng của danh mục đầu tư: Phản ánh tỷ suất lợi nhuận của danh mục đầu tư hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm. Nó cho phép xem xét một cách rõ ràng là danh mục đầu tư này có hiệu quả hay không. Bằng cách so sánh tỷ suất lợi nhuận của danh mục với lãi suất của ngân hàng, lãi suất của trái phiếu, với tỷ suất của danh mục khác. Từ đó đưa ra quyết định cho danh mục của công ty. Các chỉ tiêu hiệu quả Lợi nhuận/Vốn đầu tư: là một chỉ tiêu quan trọng dùng để phản ánh hiệu quả hoạt động tự doanh của CTCK. Hoạt động tự doanh của công ty được đánh giá là hiệu quả nếu lợi nhuận sau thuế/ Vốn đầu tư của nó năm sau cao hơn năm trước, tức là hoạt động đầu tư có lãi. Hay cụ thể là Lợi nhuận/Vốn đầu tư càng cao càng tốt. Nó phản ánh chỉ cần bỏ ra một đồng vốn đầu tư sẽ cho tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình Các chỉ tiêu đánh giá danh mục đầu tư. * Chỉ tiêu Treynor Treynor là người đầu tiền thiết lập phương pháp đánh giá động thái danh mục đầu tư đa hợp để định lượng cả yếu tố lợi nhuận lẫn rủi ro của danh mục. Phương pháp Treynor áp dụng đối với tất cả các nhà đầu tư nói chung, không phân biệt những mức ngại rủi ro khác nhau của cá nhân từng loại nhà đầu tư. Căn cứ trên lý thuyết thị trường vốn. Treynor cho rằng những nhà đầu tư hợp lý, ngại rủi ro (nói chung) sẽ luôn ưa thích những danh mục náo có mức bù đắp rủi ro cao trong mối tương quan với mức độ rủi ro mà họ phải gánh chịu. Từ lập luận này, Treynor triển khai thành công thức đánh giá động thái của portfolio thông qua hệ số T như sau: T=(Ri-Rf)/Bj Trong đó: Ri: Tỷ suất lợi nhuận của danh mục i trong khoảng thời gian đánh giá. Rf: Tỷ suất lợi nhuận phi rủi ro bình quân (lợi suất tín phiếu kho bạc) trong cùng khoảng thời gian. Bj: Hệ số rủi ro hệ thống của danh mục. T càng lớn càng tốt. * Chỉ tiêu Sharpe. Tương tụ như Treynor, Sharpe cũng đưa ra một phương pháp định lượng để đánh giá hiệu quả của danh mục đầu tư. Phương pháp đánh giá này triển khai từ mô hình định giá tài sản vốn(CAPM) cũng do chính ông ta lập nên, về mặt lý luận, tập trung xoay quanh đường tuyến tính biểu diễn thị trường vốn (CML). Phương pháp Sharpe đánh giá hiệu quả của danh mục thông qua một hệ số, ký hiệu là S được tính bằng công thức: S= (Ri- Rf)/δi Trong đó: Ri: Tỷ suất lợi nhuận của danh mục i trong khoảng thời gian đánh giá. Rf: Tỷ suất lợi nhuận phi rủi ro bình quân trong cùng khoảng thời gian. δi: Độ lệch chuẩn của tỷ suất lợi nhuận ( thực tế ) của danh mục đó trong cùng khoảng thời gian. * Chỉ tiêu Jensen. Phương pháp đánh giá hiệu quả danh mục đầu tư của Jensen cũng được khai triển căn cứ trên mô hình định giá tài sản vốn (CAPM). Mô hình CAPM cho ta công thức: E(Rj)= Rf + Bj( E(Rm)- Rf) (1) Trong đó: E(Ri): Tỷ suất lợi nhuận ước tính của danh mục i. Rf: Lãi suất phi rủi ro trong một giai đoạn. Bj: Mức độ rủi ro hệ thống của chứng khoán hay một danh mục i. E(Rm): Lợi nhuận ước tính của danh mục thị trường. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư chứng khoán tại công ty chứng khoán. 1. Các nhân tố chủ quan Chính sách phát triển của công ty Hoạt động tự doanh có thể mang lại cho CTCK những khoản lợi nhuận lớn nhưng cũng có thể gây ra những tổn thất không nhỏ. Để thực hiện nghiệp vụ này thành công, ngoài đội ngũ nhân viên phân tích thị trường có nghiệp vụ giỏi và nhanh nhậy với những biến động của thị trường, CTCK còn phải có một chế độ phân cấp quản lý và đưa ra những quyết định đầu tư hợp lý, trong đó việc xây dựng chế độ phân cấp quản lý và ra quyết định đầu tư...là một trong những vấn đề then chốt, quyết định sự sống còn của CTCK. Ở các nước phát triển có TTCK phát triển thì nghiệp vụ tự doanh là rất phổ biến, bởi lẽ các CTCK có kinh nghiệm và quản lý tốt chẳng tội gì mà không kinh doanh chứng khoán.  Chính sách phát triển của CTCK thay đổi trong từng giai đoạn hoạt động, từ đó sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của công ty. Chính sách phat triển của công ty sẽ đưa ra các chỉ tiêu cần đạt được trong giai đoạn tiếp theo với những chiến lược đầu tư khác nhau (nới lỏng hoặc thắt chặt), đồng thời cũng đưa ra những thay đổi về tổng lượng vốn cho hoạt động động đầu tư của toàn công ty. Chẳng hạn như trong những giai đoạn thị trường phát triển, hàng hóa trên thị trường dồi dào, cơ hội đầu tư nhiều, nguồn vốn mà công ty dành cho hoạt động tự doanh sẽ cao hơn trong những giai đoạn thị trường ảm đạm và ngược lại. Bên cạnh đó, với những mục tiêu phấn đấu khác nhau sẽ quyết định đến loại hình đầu tư của công ty và chính sách quản lý danh mục. Do vậy, chính sách phát triển sẽ là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của CTCK. Quy mô nguồn vốn đầu tư của CTCK Quy mô nguồn vốn đầu tư của công ty là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư của CTCK. Mặc dù quy mô vốn không tỷ lệ thuận với tỷ suất lợi nhuận đầu tư nhưng rõ ràng khi lượng vốn đầu tư càng lớn thì công ty càng có nhiều co hội để lựa chọn các phương án đầu tư. Ngoài ra, với nguồn vốn lớn cũng sẽ giúp công ty chiếm được ưu thế hơn so với các đối thủ khác. Ví dụ như với cùng một loại chứng khoán nhà đầu tư nào nắm giữ với tỷ lệ lớn hơn sẽ nhận có tác động chi phối tới giá chứng khoán đó nhiều hơn, tránh rơi vào thế bị động khi có các nhà đầu tư khác muốn làm biến đọng giá để hưởng lợi. Quy trình tự doanh Quy trình tự doanh là một quy trình trong đó phân bổ công việc, trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của từng nhân viên thực hiện kinh doanh, đầu tư chứng khoán và nhiều đối tượng khác có liên quan cũng đồng thời quy định chính sách giám sát kiểm tra hoạt động đầu tư của công ty. Chỉ khi công ty xây dựng được một quy trình chặt chẽ và khoa học thì từng cán bộ tự doanh cũng như các cấp ra quyết định ở trên mới nhận thức rõ trách nhiệm của mình, từ đó hiệu quả của hoạt động tự doanh mới có thể nâng cao. Quả vậy, nếu như quy trình tự doanh không logic, không chặt chẽ, bị trùng lắp thì rất dễ dẫn đến sự lãng phí về nhân lực, thời gian cũng như tiền bạc của công ty. Ví dụ như trong quy trình tự doanh không quy định rõ những loại chứng khoán nào thuộc quyền giao dịch của cán bộ tự doanh nào thì rất có thể các quyết định của họ sẽ là xung đột nhau, một người thực hiện mua và người kia lại thực hiện bán cùng loại chứng khoán đó. Tổ chức hoạt động tự doanh Tổ chức hoạt động tự doanh cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của CTCK. Đó là các bước thực hiện được sắp xếp một cách logic giúp cho các cán bộ tự doanh đưa ra quyết định đầu tư mua hay bán loại chứng khoán khoán nào đó một cách thích hợp nhất. Mặc dù nhiệm vụ chính của các cán bộ tự._.ng đó có sự phân công cán bộ tự doanh chuyên phụ trách về thị trường niêm yết, đăng ký giao dịch và cán bộ chuyên phụ trách về thị trường chưa niêm yết. Khi đó sẽ tiến hành phân công cán bộ tự doanh quản lý danh mục đầu tư theo ngành trên cả 2 loại thị trường. Mối cán bộ tự doanh sẽ chịu trách nhiệm tập trung quản lý đầu tư trên một số ngành nhất định thay vì đầu tư dàn trải như hiện nay. - Mặt khác, hàng tháng, quý Hội đồng đầu tư cần thẩm định các kết quả phân tích ngành của bộ phận phân tích, sau đó kết hợp với chiến lược phát triển của Công ty để tham mưu cho Ban lãnh đạo công ty những phương án đầu tư trung và dài hạn thích hợp. Bên cạnh đó, Hội đồng đầu tư cũng nên thường xuyên kết hợp với Giám đốc công ty thẩm định các kết quả đầu tư của phòng tự doanh nói chung và của từng cán bộ tự doanh. Như thế sẽ giảm bớy được gánh nặng cho Giám đốc công ty và Hội đồng đầu tư sẽ nâng cao được vai trò của mình. Từ đó, quy trình tự doanh của công ty sẽ được chuẩn hóa theo sơ đồ sau: Sơ đồ 3.1: Quy trình tự doanh chuẩn hóa. Phân tích thị trường và các yếu tố vĩ mô Báo cáo kết quả định kỳ Đánh giá kết quả đầu tư của từng cán bộ Phân bổ hạn mức ngành cho nhân viên tự doanh Phân tích ngành Cán bộ tự doanh thực hiện giao dịch Lựa chọn ngành tiềm năng Xác định mục tiêu đầu tư Trong quy trình tự doanh chuẩn hóa: Bước 1: Phân tích thị trường và các yếu tố vĩ mô. Bước này là bước phân tích tình hình kinh tế, môi trường chính trị, luật pháp, quan điểm của chính phủ về thị trường chứng khoán như việc chính phủ khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán. Để qua đó giúp công ty kết hợp xác định mục tiêu đầu tư. Bước 2: Xác định mục tiêu đầu tư. Trong bước này ngoài xác định mục tiêu đầu tư theo quan điểm chủ quan của công ty thì cần kết hợp xem xét mục tiêu này có phù hợp với chính sách của chính phủ về sự phát triển của thị trường chứng khoán hay không, có phù hợp với xu thế của thị trường hay không. Bước 3: Phân tích ngành và từ đó lựa chọn ngành tiềm năng. Sau khi xác định mục tiêu đầu tư. Bước 3 là bước xem xét ngành nào mà có khả năng đầu tư mà thỏa mãn được mục tiêu đầu tư. Thường thì mục tiêu đầu tư là tối đa hóa lợi nhuận. Do đó công ty phải phân tích được ngành có tốc độ tăng trưởng tốt ( trên 30%/ năm), có khả năng sinh lời cao. Sau đó là lựa chọn cổ phiếu trong ngành này. Bước 4: Phân bổ hạn mức ngành cho cán bộ tự doanh. Trong bước này thì việc phân bổ theo mục tiêu chung mà công ty đề ra, đó là phân bổ tỷ trọng lớn vốn đầu tư có tốc độ tăng trưởng cao. Bước 5 : Cán bộ tự doanh thực hiện giao dịch. Đây là bước cán bộ tự doanh trực tiếp giao dịch (trading) mua, bán chứng khoán trên thị trường niêm yết. Và cán bộ tự doanh phải sử dụng tài khoản của công ty chứng khoán và khách hàng ở đây lấy tên là tên công ty chứng khoán. Bước 6 : Báo cáo kết quả định kỳ. Thông thường thì hết một ngày, một tuần, một tháng, một quý… thì cán bộ tự doanh phải báo cáo tình hình danh mục đầu tư và kết quả đầu tư cho trưởng phòng tự doanh. Bước 7: Trưởng phòng tự doanh đánh giá kết quả đầu tư của cán bộ tự doanh. Sau đó nhận xét, đề xuất phương án tốt cho cán bộ tự doanh. Sau đó trưởng phòng tự doanh phải gửi kết quả về tình hình đầu tư cho giám đốc. 2.2 Nâng cao số lượng và chất lượng cán bộ tự doanh Hoạt động tự doanh có thành công hay không là phụ thuộc phần lớn vào yếu tố con người. Do vậy việc thu hút nhân tài đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển hoạt động tự doanh của công ty SSI. Vì vậy một số nội dung cấn thiết trong hoạt động nâng cao số lượng cũng như chất lượng của cán bộ tự doanh như sau: Phối hợp với các trung tâm đào tạo như UBCKNN mở lớp huấn luyện nâng cao trình độ cho nhân viên công ty. Cử cán bộ đi học các khóa đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn ở trong và ngoài nước. Tăng cường chính sách khuyến khích lao động và phong trào nghiên cứu khoa học, khuyến khích ý tưởng sáng tạo của mỗi nhân viên để phục vụ cho hoạt động tự doanh và hoạt động của công ty nói chung. Tuyển dụng thêm các cán bộ có khả năng trình độ và kinh nghiệm phù hợp với công việc của hoạt động tự doanh. Tạo không khí làm việc chuyên nghiệp, thân thiện và thoải mái để các nhân viên cảm thấy công ty như một gia đình thứ hai của mình, có như vậy họ mới làm việc hết mình vì lợi ích và sự phát triển của công ty. Linh hoạt động trong việc thuyên chuyển, điều động nhân viên phù hợp với khả năng của từng người để họ phát huy được thế mạnh của mình. 2.3 Hoàn thiện hoạt động nghiên cứu và phân tích Hoạt động nghiên cứu và phân tích chứng khoán là một hoạt động quan trọng trong công ty chứng khoán. Thông qua việc phân tích sẽ giúp tìm hiểu rõ được các doanh nghiệp mà SSI đã, đang và sẽ tiến hành đầu tư trong tương lai. Vì vậy rất cần thiết phải thành lập một tiểu ban phân tích trực thuộc phòng tự doanh hoặc và có thể thành lập phong phân tích riêng của công ty. Nhiệm vụ chính của bộ phận phân tích là đưa ra các phân tích, dự báo nhằm tham mưu cho Ban lãnh đạo và tạo ra các cơ sở tham chiếu cho những phòng ban khác của công ty. Nội dung phân tích chính thường gồm những nội dung phân tích thị trường, phân tích ngành và phân tích công ty. Đây chính là phân tích cơ bản. Phân tích thị trường: TTCK cũng chịu tác động của các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế thị trường như tổng sản phẩm quốc dân, tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất thị trường, hệ thống pháp luật…Khi đã có được những phân tích tổng quan về thị trường, Hội đồng đầu tư sẽ xem xét lại để nhằm xác định được quy mô vốn đầu tư thích hợp vào cổ phiếu, trái phiếu. Công việc này đòi hỏi bộ phận phân tích phải thường xuyên theo dõi và cập nhật tình hình phát triển kinh tế của đất nước, các chính sách về tài chính tiền tệ, đặc biệt là các chính sách liên quan đến thị trường chứng khoán để tù đó đưa ra các nhận xét và dự đoán chính xác nhất. Phân tích ngành: Phân tích ngành tác động rất lớn không chỉ đối với hoạt động tự doanh chứng khoán mà với hầu hết các hoạt động đầu tư tài chính. Thông qua đó để những người đầu tư xác định được tỷ suất lợi nhuận ngành, theo dõi sự tăng trưởng cũng như rủi ro mà các ngành gặp phải để từ đó đưa ra các phương án đầu tư vào ngành nào để thu được lợi nhuận cao hơn. Hiện nay các nhà đầu tư hay các CTCK chỉ có thể đưa ra các dự báo chung nhất về những khó khăn thách thức, những cơ hội và sự tăng trưởng của các ngành do số liệu còn chưa đầy đủ và thiếu chính xác. Kết quả phân tích ngành sẽ là cơ sở để Hội đồng đầu tư lựa chọn những ngành ưu tiên đầu tư phù hợp với chiến lược phát triển và mục tiêu hoạt động của công ty. Phân tích công ty: Đây là bước cuối cùng sau khi đã tiến hành phân tích thị trường và phân tích ngành để lựa chọn danh mục đầu tư trong tự doanh chứng khoán. Phân tích công ty giúp ta tìm ra những công ty tốt nhất trong các ngành có tiềm năng và tìm được những cổ phiếu của công ty đang bị đánh giá dưới giá trị. Việc phân tích công ty có thể rất khó bởi khả năng tiếp cận thông tin từ bên trong là rất khó. Do vậy công việc này đòi hỏi phòng phân tích phải tích cực, chủ động liên hệ trực tiếp với công ty phát hành chứng khóan, thông qua các mối quan hệ…làm sao có thể tiếp cận được nguồn thông tin từ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để có cái nhìn chính xác nhật về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Định giá chứng khoán: Nhóm phân tích cơ bản này cũng làm thêm nhiệm vụ định giá cổ phiếu, để tính xem giá trị thực của cổ phiếu là bao nhiêu, cũng là một căn cứ quan trọng để tiến hành đầu tư. Vì phương pháp đầu tư của SSI ở đây vừa mang tính ngắn hạn và vừa mang tính dài hạn. Do đó việc định giá chứng khoán là rất quan trọng. Đối với phân tích kĩ thuật cũng cần phải có một nhóm cán bộ nằm ngay trong phòng tự doanh bởi vì phân tích kĩ thuật cho biết mua chứng khoán thời điểm nào và bán chứng khoán thời điểm nào. Và đối với phân tích kĩ thuật cần chú ý các điểm sau: + Không nên chỉ sử dụng một đường giá chứng khoán để phân tích xu hướng giá. Vì nó không thể phản ánh được chính xác. + Nên kết hợp sử dụng các đường giá chứng khoán với các đường MACD, đường RSI, dải Bollinger. Bởi gì mỗi đường sẽ cho ta những kết quả khác nhau về xu hướng thị trường, mức độ biến động nhanh hay chậm của thị trường. Do đó nếu kết hợp được tất cả các đường này tốt thì sẽ nâng cao được hiệu quả đầu tư và thực hiện được đúng chiến lược mua đáy và bán đỉnh. + Trong phân tích kĩ thuật nên chú ý đến yếu tố tâm lý, hành vi của nhà đầu tư. Bởi vì thực tế đã chứng minh về tâm lý đầu tư của thị trường chứng khoán Việt Nam là hành vi đầu tư bầy đàn, cùng mua, cùng bán. Như vậy kết hợp hai nhóm làm công tác phân tích cơ bản cổ phiếu, định giá cổ phiếu và phân tích kĩ thuật sẽ phục vụ trực tiếp cho cán bộ tự doanh. Các kết quả phân tích sẽ hỗ trợ cho các cán bộ tự doanh trong việc đưa ra quyết định đầu tư. Do vậy, khi có một quy trình phân tích chặt chẽ kết hợp với sự phân bổ dân sự một cách hợp lý sẽ tạo điều kiện để các cán bộ tự doanh hoàn thành tốt trách nhiệm của mình. 2.4 Xây dựng danh mục đầu tư chứng khoán phù hợp. Danh mục đầu tư chứng khoán rất đa dạng. Tuy nhiên để một danh mục đầu tư cho tỷ suất lợi nhuận cao nhất thì phải xây dựng danh mục đầu tư phù hợp với diễn biến và xu thế thị trường. Các bước cụ thể như sau: Bước 1: Xác định quan điểm đầu tư là chủ động hay thụ động. Khi bắt tay vào xây dựng danh mục đầu tư, điều quan trọng trước tiên là phải xác định là thuộc loại nào, chủ động hay thụ động. Đây là việc làm quan trọng quyết định đến cách thức đầu tư. Nếu là chủ động thì phải luôn luôn bỏ thời gian và công sức để quản lý danh mục đầu tư và ngược lại. Bước 2: Quyết định cơ cấu danh mục đầu tư. Có những quan điểm rất khác nhau, có công ty thì thích đầu tư nhiều vào cổ phiếu, cũng có công ty thích đầu tư nhiều vào trái phiếu, có công ty thì đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu theo một tỷ lệ nhất định. Bước 3: Đa dạng hóa danh mục đầu tư. Đa dạng hóa tổ chức phát hành.Nêu danh mục toàn trái phiếu chính phủ thì không phai đa dạng hóa để giảm rủi ro vì trái phiếu chính phủ rất it khi có rủi ro. Còn nếu mua trái phiếu công ty, trái phiếu địa phương, cổ phiêu thì phải đa dạng hóa chủ thể phát hành vì loại chứng khoán này luôn luôn tiềm tàng rủi ro nhất định. 2.5 Đa dạng hóa danh mục đầu tư và phương án đầu tư Hoạt động đầu tư tự doanh chứng khoán là một hoạt động khá rủi ro do đó đòi hỏi cán bộ tự doanh phải biết đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình để hạn chế rủi ro chứng khoán. Ví dụ như ngoài đầu tư vào cổ phiếu thì tích cực đầu tư vào trái phiếu, trái phiếu là một loại chứng khoán có mức rủi ro khá thấp, đặc biệt là trái phiếu chính phủ. Hiện nay thì mức lãi suất của trái phiếu chính phủ khá hấp dẫn. Ngoài ra trong tương lai khi luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn đã hoàn thiện thì có thể đầu tư vào các công cụ phái sinh. Danh mục đầu tư vế sau: có thể còn bao gồm : + Phát hành quyền chọn mua + Mua quyền chọn bán trên cùng một chứng khoán trong danh mục. + Sử dụng quyền chọn chỉ số. + Sử dụng hợp đồng tương lai chỉ số. Chiến lược tự doanh mang tính chủ động: Danh mục đầu tư có liên quan đến nhiều yếu tố tạo lập thị trường. Việc áp dụng chiến lược này, các nhà quản lý kỳ vọng vào sự phát triển về giá trị tương lai hoặc sự phát triển đột biến để lựa chọn ngành, lĩnh vực và các chứng khoán cụ thể. Điều này đòi hỏi phải sử dụng các công cụ phân tích để có thể phát huy tính chủ động, không ngừng chuyển hóa cơ cấu tài sản và đổi mới chứng khoán. Ngược lại chiến lược tự doanh mang tính thụ động. Đó là thiết lập danh mục đầu tư theo kết cấu chỉ số mà thực chất là sao chép lại một cách thụ động mức lợi nhuận của toàn thị trường mà không kỳ vọng vào loại hình chứng khoán và lĩnh vực kinh tế cụ thể nào. Kết quả phụ thuộc vào diễn biến khách quan của thị trường. Áp dụng chiến lược tự doanh mang tính hỗn hợp trên cơ sở phối hợp cả 2 chiến lược trên là việc phát huy mang tính chủ động trong việc phân bổ tài sản. Thường xuyên thay đổi cơ cấu chứng khoán trong danh mục tự doanh sao cho đạt hiệu quả nhất. Việc phân bổ tài sản phải dựa trên mục tiêu và chiến lược xác định. Quản lý danh mục đầu tư phải linh hoạt và chủ động. 2.6 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát Để đảm bảo các quy chế, quy trình đầu tư được tuân thủ đúng đắn và đầy đủ, Công ty cần có kế hoạch tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với nghiệp vụ này. Việc kiểm tra tập chung vào các công việc sau: - Kiểm soát các khâu và phát hiện ra những hiện tượng bất thường trước, trong và sau quá trình thực hiện nghiệp vụ: kiểm tra các chứng khoán từ, hồ sơ, rà soát tính hợp pháp, hợp lệ của nghiệp vụ… - Thành viên ban kiểm tra, kiểm soát phải Là người có kinh nghiệm, nắm rõ tường tận quy chế, quy trình đầu tư, có óc quan sát tinh tế… 2.7 Mở rộng nguồn vốn cho họat động đầu tư theo nghiệp vụ tự doanh. Hiện tại nguồn vốn SSI dành cho hoạt động động đầu tư còn nhỏ so với quy mô vốn hoá của thị trường do vậy trước mắt để mở rộng nguồn vốn đầu tư cho hoạt động động này SSI có thể kết chuyển một phần nguồn vốn đầu tư trái phiếu. Vì khi thị trường tăng trưởng thì việc đầu tư vào trái phiếu sẽ không hiệu quả bằng việc đầu tư vào cổ phiếu. Đầu tư vào cổ phiếu cho một tỷ suất lợi nhuận cao hơn rất nhiều. Ngoài hai nguồn vốn hiện tại, SSI có thể mở rộng nguồn vốn đầu tư qua các kênh khác trên thị trường tài chính, đặc biệt phương án niêm yết cổ phiếu ở thị trường chứng khoán của nước ngoài như thị trường chứng khoán LonDon, thị trường chứng khoán của Mỹ… 2.8 Hoàn thiện công tác quản lý rủi ro đối với hoạt động tự doanh. Xây dựng quy trình quản lý rủi ro như sau: Bước 1: Nhận dạng rủi ro. Đây là bước đầu tiên nhằm tìm hiểu cặn kẽ về bản chất của rủi ro. Cách đơn giản và trực tiếp nhất là liệt kê từng nhân tố và các biến cố có thể gây ra rủi ro. Cách làm rõ bản chất của rủi ro là: - Thứ nhất: Nhận dạng những tác nhân kinh tế có thể gây ra rủi ro, ví dụ yếu tố lãi suất, lạm phát, tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế… - Thứ hai: Tìm hiểu xem chiều hướng có thể gây ra rủi ro, ví dụ như Ngân hàng Trung ương tăng lãi suất sẽ tác động đến giá chứng khoán. - Thứ ba: Kiểm tra lại xem biểu hiện rủi ro đang phân tích có phụ thuộc vào biến cố nào khác hay không, như công ty có biểu hiện rủi ro trong trường hợp không được tín nhiệm của khách hàng… Bước 2: Ước tính, định lượng rủi ro. Bước này sẽ đo lường mức độ phản ứng của công ty đối với các nguồn gốc rủi ro đã xác định ở trên. Cụ thể, dùng một phương pháp giả định nếu có nhân tố rủi ro thì công ty được và mất gì. Bước 3: Đánh giá tác động của rủi ro. Để đánh giá rủi ro người ta thường làm bài toán chi phí và lợi tức. Đôi khi, việc quản lý rủi ro tiêu tốn nhiều nguồn lực của công ty như tiền bạc và thời gian, do đó cần phải cân nhắc xem liệu việc quản lý rủi ro như vậy có thực sự đem lại lợi ích lớn hơn chi phí bỏ ra để thực hiện nó hay không. Bước 4: Đánh giá năng lực của người thực hiện chương trình bảo hiểm rủi ro. Bước 5: Lựa chọn công cụ và quản lý rủi ro thích hợp. Đây là bước mấu chốt cuối cùng trong việc xây dựng chiến lược quản lý rủi ro. Trong bước này nhà quản lý phải chọn một giải pháp cụ thể. Chẳng hạn, đối với các công cụ trên thị trường hối đoái, người ta có thể sử dụng hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn…làm công cụ chống rủi ro. Cụ thể quản lý rủi ro của công ty SSI cần phải thực hiện đối với danh mục đầu tư của mình như sau: Các tín hiệu bán chứng khoán nhằm quản lý rủi ro: + Bán chứng khoán ngay khi có tín hiệu không tốt về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính xấu đi của tổ chức phát hành. + Nghiên cứu bán cổ phiếu khi có tốc độ tăng lợi nhuận của công ty đó chậm lại. + Thị phần của công ty đó giảm 2 năm liên tiếp. + Công ty đó không nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới. + Bán khi có dấu hiệu của thị trường giảm giá. + Bán chứng khoán khi thị trường thay đổi xu hướng với khối lượng giao dịch tăng và các cổ phiếu hàng đầu giảm giá vơi khối lượng giao dịch lớn. 2.9 Sử dụng các chỉ tiêu đánh giá danh mục đầu tư trong hoạt động đầu tư thông qua nghiệp vụ tự doanh của SSI. Vì thực tế hoạt động đầu tư của các công ty chứng khoán, các quỹ, các tổ chức lớn thường đầu tư theo danh mục đầu tư. Do đó để đánh giá được tính chính xác và hiệu quả nhất trong hoạtđộng đầu tư thì công ty nên đánh giá danh mục đầu tư theo các chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu Treynor Công thức theo Treynor như sau: T=(Ri-Rf)/Bj Trong đó: Ri: Tỷ suất lợi nhuận của danh mục i trong khoảng thời gian đánh giá. Rf: Tỷ suất lợi nhuận phi rủi ro bình quân (lợi suất tín phiếu kho bạc) trong cùng khoảng thời gian. Bj: Hệ số rủi ro hệ thống của danh mục. Như vậy, đối với bất kỳ một nhà đầu tư nào ( bất kể mức ngại rủi ro như thế nào của họ) T càng lớn thì càng tốt. Ở phần tử số của công thức trên chính là mức đền bù rủi ro và mẫu số là mức độ rủi ro (định lượng), do đó toàn bộ công thức trên diễn tả mức lợi nhuận bù đắp rủi ro trên một đơn vị rủi ro của một danh mục và dĩ nhiên tất cả những nhà đầu tư ngại rủi ro đều muốn tối đa hóa giá trị này. Ở đây hệ số B chỉ đo lường mức rủi ro hệ thống của danh mục mà không đề cập đến mức độ đa dạng hóa của danh mục. Điều này ngầm chỉ rằng danh mục đầu tư đã được đa dạng hóa hoàn toàn. * Chỉ tiêu Sharpe. Phương pháp Sharpe đánh giá hiệu quả của danh mục thông qua một hệ số, ký hiệu là S được tính bằng công thức: S= (Ri- Rf)/δi Trong đó: Ri: Tỷ suất lợi nhuận của danh mục i trong khoảng thời gian đánh giá. Rf: Tỷ suất lợi nhuận phi rủi ro bình quân trong cùng khoảng thời gian. δi: Độ lệch chuẩn của tỷ suất lợi nhuận ( thực tế ) của danh mục đó trong cùng khoảng thời gian. Phương pháp đánh giá hiệu quả danh mục này gần tương tự như phương pháp Treynor. Tuy nhiên, có khác biệt là nó sử dụng mức rủi ro tổng thể của danh mục thông qua độ lệch chuẩn (δi) thay vì chỉ sử dụng rủi ro hệ thống (Bi). Phần tử số của công thức Sharpe cũng là mức đền bù rủi ro đạt được trên một đơn vị rủi ro tổng thể của một danh mục. Do vậy nếu S càng lớn thì danh mục càng hiệu quả. Vì thước đo rủi ro ở đây là độ lệch chuẩn nên phương pháp này đánh giá kết quả quản lý danh mục trên cơ sở cả lợi suất đầu tư lẫn mức độ đa dạng hóa. * Chỉ tiêu Jensen. Mô hình CAPM cho ta công thức: E(Rj)= Rf + Bj( E(Rm)- Rf) (1) Trong đó: E(Ri): Tỷ suất lợi nhuận ước tính của danh mục i. Rf: Lãi suất phi rủi ro trong một giai đoạn. Bj: Mức độ rủi ro hệ thống của chứng khoán hay một danh mục i. E(Rm): Lợi nhuận ước tính của danh mục thị trường. Phương trình trên mô tả mổi quan hệ cân bằng giữa mức lợi suất ước tính của danh mục thị trường- E(Rm), với mức lợi suất ước tính của danh mục i- E(Rj). Như vậy, nếu kết quả lợi nhuận thực tế của danh mục thị trường- Rm và của danh mục i-Ri cũng thỏa mãn phương trình trên, tức là: Nếu Rj= Rf + Bj ( Rm-Rf) (2) thì có nghĩa nhà quản lý danh mục i đạt được kết quả trung bình, xếp hạng ngang với danh mục thị trường. Tuy nhiên, ở đây có vấn đề cần lưu ý là khi nói danh mục i có kết quả xếp hạng ngang với danh mục thị trường không có nghĩa lợi suất của hai danh mục này bằng nhau mà chỉ có nghĩa hai danh mục được đánh giá ngang nhau. Hai mức lợi suất này có thể rất khác nhau do độ chấp nhận rủi ro của hai danh mục khác nhau. Rõ ràng, nếu danh mục i có độ rủi ro lớn hơn danh mục thị trường( Bi>1) thì yêu cầu lợi suất đạt được cũng phải lớn hơn lợi suất thị trường theo một tỷ lệ tương ứng thỏa mãn phương trình (1) nêu trên và ngược lại. Chỉ khi Bi=1 thì hai danh mục có cùng độ rủi ro và vì vậy cùng yêu cầu một lợi suất bằng nhau. Trường hợp lợi suất thực tế của danh mục i và danh mục thị trường có mối quan hệ không theo đẳng thức (2) thì có nghĩa hai danh mục này có thứ tự xếp hạng khác nhau, cụ thể như sau: - Nếu: Rj>Rf+ Bj( Rm- Rf) (3) thì chứng tỏ danh mục i hoạt động tốt hơn danh mục thị trường, hay tốt hơn mức trung bình của thị trường. - Nếu: Rj<Rf+ Bj(Rm-Rf) (4) thì chứng tỏ danh mục i hoạt động kém hơn danh mục thị trường, hay kém hơn mức trung bình của thị trường. III.Kiến nghị đối với hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh của các công ty chứng khoán. 1. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý. Thứ nhất: Về phương diện luật pháp: Các cơ quan quản lý nhà nước cần hoàn thiện các văn bản, hướng dẫn thi hành luật chứng khoán 2006. Các cơ quan quản lý nhanh chóng kiểm nghiệm tính thực tế của luật chứng khoán để kịp thời sửa đổi tạo điều kiện tốt cho các hoạt động đầu tư của các công ty chứng khoán. Đảm bảo tính thống nhất giữa luật chứng khoán với các luật khác. Thứ hai: Nâng cao vai trò của hiệp hội chứng khoán. Hiệp hội chứng khoán phát triển sẽ đảm bảo cho sự ổn định của thị trường cũng như giảm bớt công việc của cơ quan quản lý Nhà Nước, nhằm tách bạch hoạt động quản lý giám sát với hoạt động kinh doanh trên thị trường. Thứ ba: Về thị trường chứng khoán. Cần phải đưa hoạt động của thị trường chứng khoán chưa niêm yết giao dịch tập trung tại TTGD Chứng khoán Hà Nội. Tiếp tục tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn của Nhà Nước để đa dạng hàng hóa phục vụ nhu cầu đầu tư của các công ty chứng khoán, các tổ chức, cá nhân… 2. Kiến nghị với công ty chứng khoán Sài Gòn SSI về đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh. Thứ nhất: Nên kết hợp chặt chẽ giữa bộ phận tư vấn đầu tư ( chuyên nghiên cứu phân tích cơ bản về công ty niêm yết, công ty chưa niêm yết ) với phòng tự doanh để đưa ra danh mục đầu tư tối ưu để đạt được hiệu quả cao nhất. Thứ hai: Hoạt động phân tích chứng khoán cần được đẩy mạnh nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa. Do thị trường chứng khoán phát triển nên rất nhiều tổ chức chuyên nghiệp nên cạnh tranh đối với công ty chứng khoán. Do đó công ty phải chuẩn bị vững chắc cho sự cạnh tranh trong tương lai. Thứ ba : Công ty nên đầu tư cho hoạt động tự doanh hơn nữa, bổ sung vốn, tăng cường cán bộ giỏi và đặc biệt tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh có thể phát triển nhanh và vững chắc nhất. KẾT LUẬN  Sau 7 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những bước tăng trưởng mạnh cả về quy mô và chất lượng. Tính đến nay đã có 202 công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán (GDCK) thành phố Hồ Chí Minh và trên Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội, với tổng mức vốn hoá thị trường đạt trên 300.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 31% GDP (tăng 25 lần so với cuối năm 2005). TTCK Việt Nam hình thành trên cơ sở mô hình đã được Bộ Chính trị và Chính phủ thông qua. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010. Hoạt động tự doanh của SSI cũng được bắt đầu cùng với sự phát triển của thị trường. Trải qua quá trình thăng trầm của thị trường thì hoạt động tự doanh của SSI đã đạt được những thành công nhanh chóng trong một giai đoạn ngắn. Từ năm 2003 doanh thu từ hoạt động tự doanh mới chỉ đạt 1,3 tỷ, 2004 là 14,9 tỷ, 2005 là 23,9 tỷ, 2006 là 194,4 tỷ thì đặc biệt năm 2007 doanh thu từ hoạt động tự doanh đã đạt 696,13 tỷ, góp phần đóng góp vào doanh thu năm 2007 là 1.185tỷ và lợi nhuận sau thuế là 858 tỷ. Để đạt được thành quả trên thì bộ phận tự doanh của công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn đã không ngừng nỗ lực hết mình trong công tác đầu chứng khoán. Tuy nhiên do quy trình thẩm định chưa đồng bộ, chưa thống nhất, số lượng cán bộ tự doanh ít mà khối lượng công việc thì rất nhiều cụ thể thì thị trường niêm yết có khoảng trên 300 công ty đang niêm yết, và thị trường chưa niêm yết thì rất nhiều do đó việc đầu tư chứng khoán của SSI còn hạn chế. Mỗi cán bộ tự doanh chỉ có thể lắm vững và quản lý danh mục đầu tư của mình từ 5 đến 10 công ty. Và hoạt động đầu tư lại phải tiến hành một cách liên tục. Vì vậy mà hiệu quả đầu tư không cao tỷ suất sinh lời từ danh mục đầu tư mới chỉ đạt từ 12% đến 17%. Trong khi đó nếu đầu tư với danh mục từ 2-4 chứng khoán có thể cho tỷ suất lợi nhuận từ 40%-50% trong vòng một năm. Do đó để nâng cao hiệu quả đầu tư hơn nữa thì trong thời gian tới SSI cần chú trọng hơn việc đầu tư vào số lượng cũng như chất lượng cán bộ tự doanh. Nhanh chóng xây dựng quy trình tự doanh hoàn chỉnh, nâng cao chất lượng phân tích chứng khoán như phân tích cơ bản cần phải bám sát công ty niêm yết hơn nữa, phân tích kĩ thuật cần phải tiếp tục được đào tạo… Đề tài này đã đưa ra một cách nhìn từ bao quát đến cụ thể về hoạt động tự doanh của CTCK. Đồng thời thông qua việc phân tích thực trạng của SSI, đề tài đã đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ các vấn đề bất cập ở Công ty để công ty ngày càng phát triển hơn, có thể cạnh tranh với các CTCK khác cũng như cạnh tranh với các CTCK nước ngoài trong thời gian tới. Danh mục tài liệu tham khảo TS Đào Lê Minh(2002),Giáo trình Những vấn đề cơ bản về Chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. ThS Lê Thị Mai Linh(2003),Giáo trình Phân tích và đầu tư chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật chứng khoán 2006 Báo Đầu tư chứng khoán, số 20 ngày 15/2/2008 Báo Chứng khoán Việt Nam, tháng 1+2 năm 2008. Các báo cáo tài chính hàng tháng của SSI Báo cáo kết quả kinh doanh của SSI Tài liệu phòng tư vấn đầu tư SSI Tài liệu phòng tự doanh SSI Lê Văn Thủy, Cẩm nang người tư vấn kinh doanh và đầu tư chứng khoán ở Việt Nam, NXB Tài chính MỤC LỤC Mở đầu 1 Chương I: Đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty chứng khoán: Những vấn đề lý luận chung. 3 I. Đầu tư chứng khoán và nội dung đầu tư chứng khoán 3 1. Khái niệm 3 2. Các hình thức đầu tư chứng khoán 3 2.1. Phân loại theo thời gian đầu tư 3 2.2. Phân loại theo trường phái đầu tư 5 2.3 Phân loại theo hình thức đầu tư 6 3. Nội dung của đầu tư chứng khoán 6 3.1 Đầu tư cổ phiếu 6 3.2 Đầu tư trái phiếu 9 3.3 Đầu tư chứng chỉ quỹ 10 3.4 Đầu tư công cụ phái sinh 11 II. Hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty chứng khoán 12 1. Công ty Chứng Khoán 12 1.1. Khái niệm 12 1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán 13 2. Quy trình và thủ tục thực hiện đầu tư theo phương thức tự doanh 18 2.1 Quy trình thực hiện đầu tư theo phương thức tự doanh 18 2.1.1 Xác định mục tiêu đầu tư 19 2.1.2 Khai thác, tìm kiếm cơ hội đầu tư 19 2.1.3 Phương pháp phân tích, lựa chọn cơ hội đầu tư 19 2.1.3.1 Phân tích cơ bản 20 2.1.3.2 Phân tích kĩ thuật 25 2.1.3.3 Định giá chứng khoán 29 2.1.4 Thực hiện phân bổ tài sản và xây dựng danh mục đầu tư 31 2.1.5 Quản lý danh mục đầu tư 31 2.1.5.1 Chiến lược quản lý thụ động 31 2.1.5.2 Chiến lược quản lý chủ động 33 2.1.6: Đánh giá và điều chỉnh danh mục đầu tư 34 2.2 Mô hình tổ chức hoạt động tự doanh cổ phiếu 34 3. Các phương pháp đầu tư chứng khoán 36 4. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty chứng khoán 37 III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư chứng khoán tại công ty chứng khoán 40 1. Các nhân tố chủ quan 40 2. Các nhân tố khách quan 44 Chương II. Thực trạng đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn ( SSI) 47 I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn ( SSI ) 47 1. Quá trình hình thành 47 2. Cơ cấu tổ chức 48 3. Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty 49 II. Thực trạng đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh của công ty cổ phần chứng khóan Sài Gòn (SSI) 54 1.Mô hình tổ chức hoạt động tự doanh cổ phiếu 54 2. Quy trình thực hiện đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty SSI 55 2.1 Mục tiêu đầu tư của công ty 55 2.2 Phương pháp phân tích 56 2.2.1.Phân tích cơ bản 56 2.2.2 Phân tích kĩ thuật 60 2.2.3 Định giá chứng khoán 66 2.3.Thực hiện phân bổ tài sản và xây dựng danh mục đầu tư 68 2.4 Quản lý và đánh giá danh mục đầu tư 72 2.5 Điều chỉnh danh mục đầu tư 77 3. Phương pháp thực hiện đầu tư theo nghiệp vụ tự doanh 78 4.Kết quả và hiệu quả đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại SSI 86 4.1 Vốn đầu tư thực hiện 86 4.2 Tốc độ tăng trưởng của Danh mục đầu tư chứng khoán 87 III. Những tồn tại và nguyên nhân của đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại SSI 89 1. Tồn tại 89 2.Nguyên nhân 92 Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động đầu tư Chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh của công ty cổ phần chứng khoán sài gòn SSI. 95 I. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán và của công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn SSI đến 2010 95 1. Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 95 2. Định hướng phát triển của SSI cho đến năm 2010 98 II. Một số giải pháp hoàn thiện công tác đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh tại công ty chứng khoán Sài Gòn SSI 102 1. Đánh giá phân tích hoạt động của SSI theo mô hình SWOT 102 2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tự doanh của SSI 104 2.1 Hoàn thiện quy trình tự doanh 104 2.2 Nâng cao số lượng và chất lượng cán bộ tự doanh 107 2.3 Hoàn thiện hoạt động nghiên cứu và phân tích 107 2.4 Xây dựng danh mục đầu tư chứng khoán phù hợp 110 2.5 Đa dạng hóa danh mục đầu tư và phương án đầu tư 111 2.6 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát 112 2.7 Mở rộng nguồn vốn cho hoạt động đầu tư theo nghiệp vụ tự doanh 112 2.8 Hoàn thiện công tác quản lý rủi ro đối với hoạt động tự doanh 113 2.9 Sử dụng các chỉ tiêu đánh giá danh mục đầu tư trong hoạt động đầu tư thông qua nghiệp vụ tự doanh của SSI 115 III.Kiến nghị đối với hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh của các công ty chứng khoán 117 1. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý. 117 2. Kiến nghị với công ty chứng khoán Sài Gòn SSI về đầu tư chứng khoán thông qua nghiệp vụ tự doanh 118 KẾT LUẬN 119 Danh mục tài liệu tham khảo 121 Danh mục các từ viết tắt CTCK Công ty chứng khoán CPH Cổ phần hóa SSI Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTM Ngân hàng thương mại TTCK Thị trường chứng khoán TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán SGDCK Sở giao dịch chứng khoán UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà nước ĐHĐCĐ HỘI ĐỒNG ĐẦU TƯ HĐQT BAN KIỂM SOÁT BGĐ Ban Kiểm soát nội bộ CN TRẤN BÌNH TRỌNG CN NGUYỄN CÔNG TRỨ HỘI SỞ CN HÀ NỘI CN HẢI PHÒNG DV Chứng khoán TV ĐT và QLDM Tư vấn TCDN Đầu tư và Công cụ vốn Công cụ nợ và SPPS PR Nguồn vốn và KDTC TCKT Hành chính IT Luật Nhân sự ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12831.doc
Tài liệu liên quan