Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực Xây dựng cơ bản của Công ty Cổ phần tài chính & phát triển doanh nghiệp (FBS)

Lời nói đầu Cạnh tranh xuất hiện cùng với nền kinh tế thị trường và nó như một tất yếu khách quan không thể xóa bỏ. Đồng thời, cạnh tranh cũng là một điều kiện thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với người tiêu dùng, nhờ có cạnh tranh mà họ được thoả mãn được nhu cầu về hàng hoá

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1144 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực Xây dựng cơ bản của Công ty Cổ phần tài chính & phát triển doanh nghiệp (FBS), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và dịch vụ: chất lượng sản phẩm ngày càng cao với một mức giá ngày càng phù hợp. Đối với nền kinh tế quốc dân, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để phát huy lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội, đó cũng là điều kiện để xoá bỏ độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ bất bình đẳng trong kinh doanh, phát huy tính tháo vát và năng động, óc sáng tạo của các doanh nghiệp, gợi mở nhu cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng cao chất lượng đời sống xã hội. ở nước ta trong thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, cạnh tranh hầu như không tồn tại. Mọi quan hệ kinh tế trong giai đoạn này đều do Nhà nước chi phối, độc quyền quyết định, các doanh nghiệp không có môi trường cạnh tranh để phát triển mà tồn tại một cách bị động phục thuộc hoàn toàn vào Nhà nước. Chính vì vậy, nền kinh tế luôn bị kìm hãm và không thể phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước và người ta bắt đầu đề cập nhiều đến vấn đề cạnh tranh. Thực tế cho thấy rằng năng lực cạnh tranh của hầu hết hàng hoá của Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài còn rất yếu kém. Vấn đề càng trở nên bức xúc khi áp lực cạnh tranh do quá trình tự do hoá thương mại trong khuôn khổ AFTA, trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam lại tỏ ra chưa sẵn sàng đối mặt với những thách thức từ cuộc cạnh tranh gay gắt ấy. Nếu tình hình này vẫn tiếp tục được duy trì thì nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam sẽ rất nghiêm trọng, nhất là trong bối cảnh xu thế hôi nhập kinh tế khu vực và trên thế giới đang gia tăng Do vậy, để tồn tại, đứng vững và phát triển, khẳng định được của mình buộc các doanh nghiệp phải tìm giải pháp tốt nhất để tăng cường khả năng cạnh tranh của mình trên cả thị trường trong và ngoài nước. Vấn đề là phải làm gì và làm như thế nào để phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của cả đất nước, tận dụng có hiệu quả những cơ hội có được, nhất là khi Việt nam đã trở thành thành viên của ASEAN, APEC và không lâu nữa sẽ gia nhập AFTA, WTO. Trước tình hình trên, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) luôn đặt ra cho mình mục tiêu là phải nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Trong những năm gần đây, Công ty đã có quyết định đúng đắn là phải tiếp tục đổi mới công nghệ, đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm để có thể duy trì và phát triển uy tín của mình trên thị trường. Nhằm vận dụng những kiến thức đã tìm hiểu được trong thời gian qua và góp một vài ý kiến trong qúa trình đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần tầi chính và phát triển doanh nghiệp (FBS), em đã lựa chọn đề tài: "Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS)”. Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề phức tạp nên bài viết này của em chỉ tập trung nghiên cứu một số chỉ tiêu, thực trạng, các vấn đề tồn tại, khó khăn và đưa ra giải pháp về đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS). Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của bài viết gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về đầu tư, doanh nghiệp, cạnh tranh và đầu tư nâng cao khả năng lực cạnh tranh. Chương II: Thực trạng về đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS). Chương III: Một số giải pháp chủ yếu để đầu tư nâng cao được khả năng cạnh tranh của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS). Trong quá trình viết, em đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các cô, chú trong phòng kinh doanh của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS). Đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của TS Nguyễn Hồng Minh. Em xin chân thành cảm ơn tất cả những sự giúp đỡ quý báu và nhiệt tình đó . Chương I Lý luận chung về đầu tư, doanh nghiệp, cạnh tranh và đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh I. Một số vấn đề chung về đầu tư. 1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển. Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư. Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đã đạt được như trên đây, những kết quả là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó. Như vậy, nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt đông của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển. Đối với một quốc gia, hay một nền kinh tế thì hoạt động đầu tư phát triển luôn đóng một vai trò quyết định trong sự đi lên phát triển hay hưng thịnh của chính quốc gia đó. Có thể hiểu đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với các hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Với những tác dụng to lớn trên, chúng ta nhận thấy rằng chỉ có đầu tư phát triển mới làm cho nền kinh tế tăng trưởng, phát triển theo mục tiêu ta lựa chọn. 2. Những đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển. Hoạt động đầu tư phát triển có các điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác là: * Đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn cho đầu tư phát triển. * Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. * Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật, phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế... * Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài trong nhiều năm, có khi hàng trăm năm, thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Điều này nói lên giá trị lơn lao của các thành quả đầu tư phát triển * Vị trí của các công trình xây dựng là cố định, các công trình này sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa hình có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác động sau này của kết quả đầu tư. * Ngoài ra, các yếu tố rủi ro đầu tư luôn luôn rình rập. Nếu người đầu tư, người quản lý không đánh giá đúng hay nhận dạng đủ các nhân tố rủi ro có thể xảy ra và có kế hoạch quản lý phòng ngừa thì rất dễ gây ra sự đổ vỡ cho dự án. 3. Vai trò của đầu tư phát triển. 3.1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước 3.1.1. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. * Về mặt cầu: đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế . Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, kéo theo mức sản lượng cân bằng tăng và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng. * Về mặt cung: khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó giá cả giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 3.1.2. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế . Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của hàng hoá có liên quan tăng đến mức một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm nhiều lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xáu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. 3.1.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế: Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức độ trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được tư 15 - 25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Vốn đầu tư ICOR = Mức tăng GDP Từ đó suy ra: Vốn đầu tư Mức tăng GDP = ICOR Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 -7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá trị cao. Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp từ 2- 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ 3.1.4. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấycon đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9 -10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 -6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị,...của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. 3.1.5. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước: Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. 3.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất - kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật của các sơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. 4. Đầu tư xây dựng cơ bản. 4.1. Khái niệm: Hoạt động đầu tư nói chung là hoạt động bỏ vốn vào các lĩnh vực kinh tế xã hội để thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau. đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định đưa vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế xã hội nhằm thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau. Xét một cách tổng thể thì không một hoạt động đầu tư nào mà không cần phải có các tài sản cố định. Để có được tài sản cố định, chủ đầu tư có thể thực hiện bằng nhiều cách: xây dựng mới, mua sắm, đi thuê … Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động thực hiện đầu tư bằng cách tiến hành xây dựng mới tài sản cố định. Xây dựng cơ bản là một khâu trong đầu tư xây dựng cơ bản. Kết quả của hoạt động xây dựng cơ bản ( khảo sát, thiết kế, xây dựng lắp đặt…) là tạo ra các tài sản cố định có một năng lực sản xuất và phục vụ nhất định. Cũng có thể nói xây dựng là quá trình đổi mới và tái sản xuất có kế hoạch các tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân trong các ngành sản xuất vật chất cũng như không sản xuất vật chất. Nó là quá trình xây dựng cơ bản vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Nó thực hiện phương thức xây dựng mới, xây dựng lại, khôi phục và mở rộng các tài sản cố định. Quá trình xây dựng cơ bản là quá trình hoạt động để chuyển vốn đầu tư dưới dạng tiền tệ sang tài sản phục vụ cho mục đích đầu tư. 4.2. Sự cần thiết phải đầu tư xây dựng cơ bản. Xây dựng là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, tạo ra cơ sở vật chất và kỹ thuật ban đầu cho xã hội, nó giữ một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân vì nhiệm vụ chủ yếu của ngành công nghiệp xây dựng đảm bảo nâng cao nhanh chóng năng lực sản xuất của các nhành, các khu vực kinh tế có kế hoạch, đảm bảo mối quan hệ tỷ lệ cân đối giữa các ngành, các khu vực và phân bố hợp lý sức sản xuất. Đại hội Đảng lần thứ VII nêu rõ: “Trước mắt ngành công nghiệp xây dựng phải ra sức phục vụ cho các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp chế biến, một số ngành công nghiệp nặng như: Dầu khí, điện lực, vật liệu xây dựng, xây dựng cơ sở hạ tầng như mạng lưới giao thông vận tải, mạng lưới thông tin liên lạc…”. Thực tế cho thấy, tất cả các ngành kinh tế khác chỉ có thể tăng nhanh được nhờ có xây dựng cơ bản, bằng việc xây dựng mới, nâng cấp các công trình về mặt quy mô, đổi mới kỹ thuật và công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất.Từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và của nền kinh tế. Ngành công nghiệp xây dựng là một trong những ngành kinh tế lớn của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò chủ chốt ở khâu cuối cùng của quá trình sáng tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật và tài sản cố định trong mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước và xã hội dưới mọi hình thức ( xây dựng mới, cải tạo, mở rộng và hiện đại hoá tài sản cố định ). Các công trình xây dựng luôn có tính chất kinh tế, kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật và xã hội tổng hợp. Một công trình mới được xây dựng thường là kết tinh của những kết quả khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật của nhiều ngành ở thời điểm đang xét và nó lại có tác dụng góp phần mở ra một giai đoạn phát triển mới của đất nước. Vì vậy, các công trình xây dựng có tác dụng quan trọng đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật, góp phần nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần phát triển văn hoá và nghệ thuật kiến trúc, có tác động quan trọng đến môi trường sinh thái. 4.3. Vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản: Để đảm bảo cho nền kinh tế xã hội không ngừng phát triển, điều kiện trước tiên và cần thiết là phải đầu tư xây dựng cơ bản. Trong một nền kinh tế xã hội, đối với bất kỳ một phương thức sản phẩm nào cũng đều phải có cơ sở vật chất, kỹ thuật tương ứng. Việc đảm bảo tính tương ứng đó là nhiệm vụ của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Đầu tư xây dựng cơ bản là điều kiện cần thiết để phát triển tất cả các ngành kinh tế quốc dân và thay đổi tỷ lệ cân đối giữa chúng. Những năm qua, ở nước ta do tăng cường đầu tư xây dựng cơ bản mà cơ cấu kinh tế đã có những biến đổi quan trọng. Cũng với việc phát triển các ngành kinh tế vốn có như cơ khí chế tạo, luyện kim, hoá chất, vận tải, nhiều ngành kinh tế mới đã bắt đầu xuất hiện như bưu điện, hàng không... Nhiều khu công nghiệp, nhiều vùng kinh tế mới đã và đang được hình thành. Mặt khác, đầu tư xây dựng cơ bản là tiền đề cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở sản xuất và dịch vụ, từ đó nâng cao năng lực sản xuất cho từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tạo điều kiện phát triển sản xuất xã hội, tăng nhanh giá trị sản xuất. II. Doanh nghiệp - doanh nghiệp ngành xây dựng. 1. Khái niệm chung về doanh nghiệp. 1.1. Khái niệm: Nhìn bề ngoài doanh nghiệp được biểu hiện như là một toà nhà, những máy móc, một tấm biển, nhãn mác sản phẩm…tóm lại là tập hợp những yếu tố rời rạc. Doanh nghiệp được hiểu như là một đơn vị kinh doanh được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh trong đo kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Theo cách tiếp cận vi mô có nhà kinh tế đưa ra quan niệm về doanh nghiệp như sau: “Doanh nghiệp là một hình thức sản xuất theo đó trong cùng một sản nghiệp người ta phối hợp giá của nhiều yếu tố khác nhau do các tác nhân khác cùng với chủ sở hữu doanh nghiệp đem lại nhằm bán ra trên thị trường hàng hoá hay dịch vụ và đạt được một khoản thu nhập tiền tệ từ mức chênh lệch giữa hai giá”. Theo Điều 3 Luật Doanh nghiệp do Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999, “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Theo khái niệm này, trừ loại hình kinh doanh cá thể, các tổ chức kinh tế đảm bảo các điều kiện về tài sản, tên riêng, trụ sở giao dịch và có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đều được gọi là doanh nghiệp. 1.2. Phân loại doanh nghiệp: Tuỳ mục đích khác nhau, căn cứ vào tiêu thức khác nhau để phân loại, sẽ có các loại hình doanh nghiệp khác nhau, chẳng hạn như: Phân loại doanh nghiệp theo chủ sở hữu có: Doanh nghiệp một chủ sở hữu ; Doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu; Phân loại doanh nghiệp theo phạm vi pháp lý có: Doanh nghiệp TNHH; Doanh nghiệp trách nhiêm vô hạn; Phân loại doanh nghiệp theo quy mô có: Doanh nghiệp lớn; Doanh nghiệp vừa và nhỏ; Dựa vào chức năng của doanh nghiệp và đặc điểm hình thành giá trị sử dụng và giá trị mới của sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp để phân loại, có hai loại doanh nghiệp: Doanh nghiệp sản xuất; Doanh nghiệp dịch vụ ; Nhưng cách phân loại thường được sử dụng nhiều nhất và có vai trò quan trọng nhất trong việc nghiên cứu hoạt động của doanh nghiệp là phân loại theo hình thức sở hữu. Theo đó, doanh nghiệp được phân thành các nhóm sau: Doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp tư nhân. Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Hợp tác xã. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 2. Doanh nghiệp ngành xây dựng. 2.1. Khái niệm. Doanh nghiệp ngành xây dựng là những doanh nghiệp có chức năng chủ yếu là tạo ra các sản phẩm xây dựng, các sản phẩm đó có thể là: các loại vật liệu xây dựng, các công trình xây dựng như: nhà ở, khách sạn, trụ sở công ty, các nhà máy xí nghiệp, công trình công cộng, đường xá, cầu cống…đáp ứng nhu cầu và phát triển hạ tầng cơ sở của nên kinh tế. Những năm trước đây, trong thời kỳ bao cấp với nền kinh tế tập trung mệnh lệnh, dịch vụ xây dựng do các doanh nghiệp của Nhà nước độc quyền cung ứng theo kế hoạch của Nhà nước. Đến nay, mặc dù các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước vẫn còn chiếm tỷ lệ cao trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ xây dựng, nhưng cũng có khá nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được thành lập. Đặc biệt là có sự tham gia của các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài. 2.2. Đặc điểm và nội dung hoạt động của doanh nghiệp ngành xây dựng. * Tình hình và điều kiện sản xuất trong các doanh nghiệp ngành xây dựng luôn thiếu tính ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm xây dựng và giai đoạn xây dựng. Cụ thể là trong xây dựng, con người và công cụ lao động luôn phải di chuyển từ công trình này đến công trình khác, còn sản phẩm xây dựng (công trình xây dựng) thì hình thành và đứng yên tại chỗ, một đặc điểm hiếm thấy ở các ngành sản xuất khác. * Các phương án xây dựng về kỹ thuật và tổ chức sản xuất luôn phải thay đổi theo từng địa điểm và giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này làm khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, khó cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động, làm nảy sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực lượng sản xuất và cho công trình tạm phục vụ sản xuất. Muốn khắc phục những khó khăn đó, các doanh nghiệp xây dựng phải chú ý tăng cường tính cơ động, linh hoạt, gọn nhẹ về mặt trang bị tài sản cố định sản xuất, lựa chọn các hình thức tổ chức sản xuất linh hoạt, phấn đấu giảm chi phí có liên quan đến vận chuyển, lựa chọn vùng hoạt động thích hợp, lợi dụng tối đa lực lượng xây dựng tại chỗ và liên kết tại chỗ để có thể trúng thầu xây dựng. Đặc điểm này cũng đòi hỏi phải phát triển rộng khắp trên lãnh thổ các loại hình dịch vụ sản xuất phục vụ xây dựng như: dịch vụ cho thuê máy xây dựng, cung ứng và vận tải, sản xuất vật liệu xây dựng… * Chu kỳ sản xuất (tức thời gian xây dựng các công trình) thường dài. Đặc điểm này làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất của doanh nghiệp xây dựng thường bị ứ đọng lâu tại công trình đang còn xây dựng. Yếu tố bất lợi này đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng lựa chọn phương án xây dựng có thời gian xây dựng hợp lý kiểm tra chất lượng chặt chẽ, phải có chế độ thanh toán giữa kỳ và dự trữ vốn hợp lý. * Sản xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trường hợp cụ thể thông qua hình thức ký hợp đồng sau khi thắng thầu, vì sản phẩm xây dựng đa dạng và có tính cá biệt cao, có chi phí lớn. ở nhiều ngành sản xuất khác, người ta có thể sản xuất hàng loạt các sản phẩm để bán, nhưng với công trình xây dựng thì không thể như vậy (trừ một số trường hợp rất hiếm khi chủ đầu tư làm sẵn một số nhà ở để bán). Đặc điểm này dẫn đến yêu cầu là phải xác định giá của sản phẩm xây dựng trước khi sản phẩm được làm ra. Vì thế, hình thức giao nhận thầu hoặc đấu thầu trong xây dựng cho từng công trình cụ thể đã trở nên phổ biến trong sản xuất xây dựng. Chính vì lẽ đó, các doanh nghiệp xây dựng phải nâng cao năng lực và tạo uy tín cho mình bằng bề dày kinh nghiệm nghề nghiệp, đồng thời phải có những giải pháp kinh tế hợp lý mang tính thuyết phục cao mới hy vọng giành thắng lợi trong các cuộc tranh thầu. * Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp, có những thời điểm đòi hỏi một số đơn vị tham gia xây dựng công trình cùng đến hiện trường thi công để thực hiện phần việc của mình, trong khi diện tích của công trình lại có hạn. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải có trình độ tổ chức phối hợp cao trong sản xuất, coi trọng công tác chuẩn bị xây dựng và thiết kế tổ chức thi công, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức xây dựng nhận thầu chính hay tổng thầu với các tổ chức nhận thầu phụ. * Công việc xây dựng phải tiến hành ngoài trời, công việc thường bị gián đoạn do những thay đổi của thaời tiết, điều kiện làm việc nặng nhọc. Năng lực sản xuất của tổ chức xây dựng không được sử dụng điều hoà trong bốn quý, gây khó khăn cho việc lựa chọn trình tự thi công, đòi hỏi dự trữ vật tư nhiều hơn…Đặc điểm này đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải chú ý đến nhân tố rủi ro về thời tiết khi lập tiến độ thi công, phấn đấu tìm cách hoạt động tròn năm, sử dụng kết cấu lắp ghép làm sẵn trong xưởng một cách hợp lý, đảm bảo độ an toàn bền chắc của máy móc trong quá trình sử dụng, đặc biệt quan tâm đến việc cải thiện điều kiện làm việc của công nhân, quan tâm phát triển phương pháp xây dựng tron điều kiện nhiệt đới. * Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do điều kiện của địa điểm xây dựng đem lại. Cùng một loại công trình xây dựng, nhưng nếu nó được đặt ở nơi có sẵn nguồn nguyên vật liệu xây dựng, nguồn máy móc cho thuê và sẵn nhân công, thì doanh nghiệp nhận thầu xây dựng ở trường hợp này có nhiều cơ hội hạ thấp chi phí sản xuất và thu được lợi nhuận cao. 2.3. Vai trò của doanh nghiệp ngành xây dựng. * Các doanh nghiệp ngành xây dựng có nhiệm vụ tái sản xuất các tài sản cố định cho mọi lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất của đất nước. Có thể nói không một ngành sản xuất nào, không một hoạt động văn hoá - xã hội nào là không sử dụng sản phẩm của ngành xây dựng. * Các công trình xây dựng của các doanh nghiệp có vai trò tăng năng lực sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp mình, đồng thời tạo sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và tạo thêm chỗ làm cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ. * Các doanh nghiệp ngành xây dựng phải sử dụng một lượng vốn lớn, do đó một sai lầm trong xây dựng có thể dẫn đến lãng phí lớn lao rất khó sửa chữa trong nhiều năm. * Hoạt động của các doanh nghiệp ngành xây dựng đóng góp đáng kể vào giá trị tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. III. Cạnh tranh. 1. Cạnh tranh. 1.1. Khái niệm. Bước vào thời kỳ đổi mới, quyền bình đẳng và tự do kinh doanh được tôn trọng và xuất hiện cơ sở khách quan cho cạnh tranh ngày càng sâu rộng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu.Cạnh tranh không chỉ là một nhu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp mà còn là động lực phát triển kinh tế. Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.Trong nền kinh tế, hiện tượng cạnh tranh xuất hiện đồng thời vơi sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên ở giai đoạn phát triển ban đầu của nền sản xuất hàng hoá, cạnh tranh chưa được nhận biết và xem xét một cách đầy đủ các khía cạnh của nó trong nền kinh tế. Chỉ đến khi các khái niệm giá trị, giá bán được nghiên cứu một cách khoa học, khi đó vấn đề cạnh tranh mới được hiểu đầy đủ hơn và được đánh giá đúng hơn vai trò của nó trong nền kinh tế. Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản Carl Mark đã đi đến kết luận “Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật điều kiện thuận lợi trong sản xuất và mua bán hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Trong thuật ngữ này cạnh tranh chủ yếu phản ánh sự đấu tranh ganh đua, thi đua giữa các đối tượng có phẩm chất cùng loại, đồng giá trị nhằm đạt được ưu thế, lợi ích theo mục tiêu xác định. Đại từ điển tiếng việt ( Nguyễn như ý chủ biên ) định nghĩa: “ Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các cá nhân, tập thể có chức năng như nhau nhằm giành phần hơn, phần thắng về mình”. Một định nghĩa khác về cạnh tranh được nêu trong cuốn “ Chính sách cạnh tranh ở Việt Nam” Nxb Lao động: “Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường”. Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này chúng ta có thể hiểu: Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các tổ chức, các doanh nghiệp nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh để đạt được những mục tiêu của tổ chức, của doanh nghiệp đó. Đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội. Hay nói cách khác, Cạnh tranh là quá trình mà các chủ thể sản xuất kinh doanh tìm mọi biện pháp để vượt lên các chủ thể khác. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh như là một sự lựa chọn đương nhiên và đầy cảm xúc để tồn tại và phát triển trong thương trường. Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hóa, là một._. yếu tố trong cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hóa càng phát triển, hàng hóa bán ra càng nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Kết quả trong cạnh tranh là sẽ có một số doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi đó một số doanh nghiệp sẽ tồn tại và phát triển hơn nữa. Cũng chính nhờ sự cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế thị trường vận động theo hướng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội. Đó cũng là yếu tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển. 1.2. Các loại hình cạnh tranh. Nhận dạng tính chất và mức độ biểu hiện của cạnh tranh trong các hình thái thị trường đã và đang trở thành một nội dung cấp bách trước yêu cầu quản lý của doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Và cũng chỉ trên cơ sở nhận dạng đúng vị trí, vai trò của cạnh tranh trong các hình thái thị trường mới cho phép mỗi doanh nghiệp hoạch định những chiến lược, chính sách phù hợp để ứng xử với cạnh tranh. Có nhiều cách phân loại cạnh tranh dựa trên các tiêu thức khác nhau: 1.2.1. Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của Chính phủ vào đời sống kinh tế: * Cạnh tranh tự do: Là hình thái thị trường thoát khỏi sự can thiệp của Nhà nước. Trong đó, giá cả tự do vận động lên xuống theo sự chi phối của quan hệ cung cầu, của các thế lực thị trường. Tư tưởng tự do kinh tế dựa trên nền tảng “Tự do được nuôi dưỡng bởi chính tự do”, và trên nền tảng tư tưởng ấy, học thuyết “ Bàn tay vô hình” của Adam Smith đã chỉ ra rằng: Trong khi chạy theo tư lợi thì có một “bàn tay vô hình” buộc con người kinh tế phải thực hiện một nhiệm vụ không nằm trong dự kiến là đáp ứng lợi ích xã hội và đôi khi họ còn đáp ứng lợi ích xã hội tốt hơn ngay cả khi họ có ý định làm việc đó từ trước. “Bàn tay vô hình” đó chính là các quy luật khách quan tự phát chi phối hoạt động của con người. Do đó, việc nhà nước can thiệp vào kinh tế sẽ làm giảm bớt sự tăng trưởng của cải và sử dụng không hợp lý tài nguyên. * Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước: là hình thái thị truờng của các nền kinh tế thị trường hiện đại.Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929 -1933 của kinh tế thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ của hình thái thị trường cạnh tranh tự do và học thuyết “Bàn tay vô hình” của Adam Smith.Trong giai đoạn này, cạnh tranh tự do đã bộc lộ những mặt trái của nó: Thất nghiệp,sự phá sản hàng loạt, sự lãng phí tài nguyên… Bởi vậy, bản thân cơ chế hiểu theo nghĩa văn minh và nhân đạo có nhu cầu được điều tiết. Đã đến lúc quyền lực Nhà nước cần được sử dụng để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường,bảo vệ tự do cạnh tranh - động lực phát triển phát triển kinh tế. Theo đó, tự do cạnh tranh trong hình thái thị trường này được bảo vệ, nuôi dưỡng và giới hạn bởi các thể chế, chính sách và pháp luật của Nhà nước. 1.2.2. Căn cứ vào cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung trong một ngành, lĩnh vực kinh tế: * Cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường trong đó cả người mua và người bán đều cho rằng các quyết định mua và bán cuả họ không ảnh hưởng gì đến giả cả của thị trường. Như vậy,cạnh tranh hoàn hảo chỉ có thể diễn ra khi hội tụ đủ các diều kiện sau: + Một là, sản phẩm của mỗi doanh nghiệp là đồng nhất hay được tiêu chuẩn hoá hoàn hảo, + Hai là, mỗi doanh nghiệp trong ngành phải chiếm lĩnh một thị phần rất nhỏ, + Ba là, các sản phẩm hàng hoá đều có thể gia nhập và đi khỏi thị trường một cách dễ dàng, + Bốn là, người tiêu dùng và các doanh nghiệp có kiến thức hoản hảo về giá hiện tại, giá tương lai, chi phí và những cơ hội kinh tế. * Cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở đó các cá nhân bán hàng hoặc các nhà sản xuất có đủ sức mạnh để có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường. Trên thị truờng cạnh tranh không hoàn hảo phần lớn các sản phẩm là không đồng nhất với nhau. Mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau, mỗi loại nhãn hiệu lại có uy tín và hình ảnh khác nhau. Các điều kiện mua bán cũng rất khác nhau. Trong cạnh tranh không hoàn hảo lại phân làm hai loại: + Độc quyền nhóm: là hình thái thị trường mà trong đó chỉ có một số ít các nhà sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả của mình không chỉ phụ thuộc vào năng suất của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của các nhà cạnh tranh trong ngành đó. + Cạnh tranh mang tính độc quyền: là hình thái thị trường có nhiều người bán sản xuất ra những sản phẩm có thể dễ dàng thay thế cho nhau. Mỗi hàng chỉ có khả năng hạn chế ảnh hưởng tới giá cả sản phẩm của mình. * Độc quyền: là hình thái thị trường trong đó một doanh nghiệp duy nhất bán một sản phẩm mà không có sản phẩm thay thế gần giống với nó. Việc thâm nhập vào ngành sản xuất sản phẩm này là rất khó khăn hoặc không thể được. 1.2.3. Căn cứ vào chủ thể tham gia trên thị trường: * Cạnh tranh giữa người bán và người mua: là cuộc cạnh tranh diễn ra trên cơ sở quy luật “Tối đa hoá lợi ích”. Người bán- với mong muốn tối đa hóa lợi nhuận- họ mong bán được sản phẩm của mình với gía cao nhất có thể. Ngược lại, người mua- với mong muốn tối đa hóa độ thoả dụng – mong muốn mua được những sản phẩm có chất lượng cao nhất với giá rẻ nhất có thể. Hoạt động mua bán chỉ được thực hiện sau một quá trình thương lượng ( mặc cả) nhằm trung hoà lợi ích giữa người bán và người mua. * Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: là cuộc cạnh tranh dựa trên cơ sở luật cung. Khi cung một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó lớn hơn cầu, cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa những người bán sẽ diễn ra. Để thu hút nhiều khách hàng đến với mình hơn, mỗi người bán phải tìm cho mình những cách thức “trội” hơn các đối thủ khác ( kể cả việc phải bán với mức giá thấp hơn, chấp nhận một mức lợi nhuận thấp trong ngắn hạn). kết quả là, hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp ngày một tốt hơn, những doanh nghiệp yếu kém sẽ bị đào thải. Khách hàng sẽ là những người được hưởng lợi từ cuộc cạnh tranh này, bởi sản phẩm mà họ được sử dụng sẽ tốt hơn, gía cả rẻ hơn, dịch vụ kèm theo cũng tốt hơn. * Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: trong rất nhiều ngành hàng, đặc biệt là nguyên vật liệu cho sản xuất, thường xuyên diễn ra cuộc cạnh tranh giữa những người mua với nhau, do ở đó cầu luôn lớn hơn mức cung. Trong trường hợp này, người mua sẽ mất đi vị thế là “thượng đế” của mình. Họ sẽ phải giành giật với đối thủ là những người mua khác để có được sản phẩm mong muốn thoả mãn nhu cầu của mình. Trong hầu hết các trường hợp, họ sẽ phải chấp nhận một mức giá cao hơn giá trị thực tế của sản phẩm mà mình mong muốn mua. Cuộc cạnh tranh này mang lại nhiều lợi nhuận cho người bán nhất. 1.2.4. Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế: * Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất kinh doanh một chủng loại hàng hoá dịch vụ nào đó ( cùng một ngành ). Để giành giật khách hàng về phía mình, loại bỏ đối thủ ra khỏi cuộc chơi, mỗi doanh nghiệp phải tìm mọi cách để có được những lợi thế hơn trong cuộc chiến không khoan nhượng đó. Biện pháp quan trọng và phổ biến nhất hiện nay là cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, tăng cường những tiện ích cho khách hàng ( khuyến mãi, bảo hành…). Cuộc cạnh tranh tất dẫn đến kỹ thuật sản xuất ngày càng phát triển, lợi ích của người tiêu dùng được nâng cao. * Cạnh tranh giữa các ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong những ngành kinh tế khác nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp luôn bị hấp dẫn bởi các ngành có tỷ suất lợi nhuận bình quân cao, nên xảy ra sự dịch chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Sự dịch chuyển này qua thời gian sẽ tạo nên sự phân phối hợp lý giữa các ngành sản xuất và kết quả là các doanh nghiệp ở các ngành kinh tế khác nhau sẽ có tỷ suất lợi nhuận tương đương. 1.3. Quy luật cạnh tranh. Trong quá trình nghiên cứu về nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Carl Marx đã phát hiện ra rằng: Quy luật cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân và qua đó hình thành nên hệ thống gía cả thị trường. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch giữa giá trị và giá cả của hàng hóa và khả năng có thể bán hàng hoá dưới gía trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Các học thuyết về kinh tế thị trường hiện đại dù thuộc trường phái chủ nghĩa tự do hay trường phái chủ nghĩa can thiệp đều đi đến kết luận rằng: Cạnh tranh với tính cách là động lực phát triển nội tại của nền kinh tế chỉ xuất hiện và tồn tại trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Bất kỳ một doanh nghiệp hay sản phẩm nào khi xuất hiện trên thị trường cũng đều chịu những sức ép cạnh tranh nhất định từ các doanh nghiệp và sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tự đổi mới và hoàn thiện mình tạo nên cơ chế thị trường và trở thành quy luật kinh tế đặc thù của nền kinh tế thị trường. Như vậy, cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, là động lực cho sự phát triển của mỗi doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế xã hội nói chung 1.4. Vai trò của cạnh tranh. * Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. * Đối với người tiêu dùng, cạnh tranh giúp họ thỏa mãn nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ, chất lượng sản phẩm ngày càng cao cùng với mức giá cả ngày càng phù hợp với khả năng của họ. * Đối với nền kinh tế quốc dân thì cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để phát huy lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hóa nền sản xuất xã hội. Đó cũng là điều kiện để xóa bỏ độc quyền bất hợp lý, xóa bỏ bất bình đẳng trong kinh doanh, phát huy tính tháo vát, năng động và óc sáng tạo trong các doanh nghiệp, gợi mở nhu cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng chất lượng đời sống xã hội, phát triển nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên chúng ta không thể phủ nhận mặt tiêu cực của cạnh tranh. Để khắc phục được những tiêu cực đó thì vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. 2. Lợi thế cạnh tranh. Đạt được một lợi thế cạnh tranh trên thị trường là mục đích của mọi doanh nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp Việt nam hiện đang trong tình trạng cạnh tranh kém. Nhưng có phải mọi lợi thế cạnh tranh đều có ý nghĩa chiến lược hay có thể duy trì trong thời gian dài và liệu một lợi thế cạnh tranh có đảm bảm cho một chiến lược kinh doanh thành công hay không? Lợi thế cạnh tranh có phải là ở vốn, công nghệ, lao động hoặc các kỹ năng sản xuất không? Có thể thấy rằng, nguồn lực về vốn luôn là một nhân tố tác động đến lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp.ở đây, không thể chỉ hiểu nguồn lực này là số lượng vốn có được mà trước hết nó phải là khả năng sử dụng nguồn vốn. Hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm cho nhu cầu về vốn của doanh nghiệp giảm tương đối, do đó sẽ cần ít vốn hơn cho những nhu cầu kinh doanh nhất định, từ đó chi phí cho sử dụng vốn sẽ giảm đi, tăng lợi thế cạnh tranh về chi phí. Khi đã có vốn, một việc làm không thể thiếu của doanh nghiệp là đầu tư vào trang thiết bị, máy móc, công nghệ. Công nghệ được đầu tư phải không quá lạc hậu và phù hợp với quy mô cũng như phạm vi hoạt động của doanh nghiệp thì mới có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí và tạo lợi thế cạnh tranh. Bên cạnh vốn và công nghệ thì có một đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, năng lực và một đội ngũ công nhân lành nghề, có kỷ luật lao động cao sẽ tạo ra cho doanh nghiệp một lợi thế cạnh tranh không chỉ trước mắt mà còn trong dài hạn. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp làm thế nào để nhận biết và đạt được lợi thế cạnh tranh dài hạn. Doanh nghiệp cũng cần phải biết xây dựng chiến lược kinh doanh khi có một lợi thế cạnh tranh và biết cạnh tranh với các doanh nghiệp khác có một lợi thế cạnh tranh dài hạn mà mình không có. Lợi thế cạnh tranh dài hạn không phải luôn dễ dàng xác định được. Các hãng sản xuất bột giặt đều cố gắng xây dựng các lợi thế, nhưng nó nhanh chóng bị bắt chước ngay sau đó. Trong thị trường hàng điện tử có hãng đã cố gắng lợi dụng một lợi thế hơn so với đối thủ của mình, nhưng lợi thế đó lại sớm trở nên không quan trọng với mong muốn của người tiêu dùng. Như vậy mọi nhà kinh doanh cần phải khám phá xem một lợi thế cạnh tranh dài hạn và sự thể hiện thực sự có ý nghĩa đối với cạnh tranh và chiến lược kinh doanh là gì? 2.1. Các điều kiện cho lợi thế cạnh tranh dài hạn. Mọi doanh nghiệp cần hiểu là họ cần một lợi thế cạnh tranh trước những khách hàng, người chọn hàng hóa của họ, chứ không phải trước các đối thủ cạnh tranh. Một lợi thế cạnh tranh có ý nghĩa chiến lược khi nó thỏa mãn ba điều kiện sau: * Khách hàng phải nhận biết được sự khác biệt rõ ràng trong những đặc điểm quan trọng giữa sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh. * Sự khác biệt đó là kết quả trực tiếp của sự chênh lệch về khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng giữa doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh. * Sự khác biệt trong những đặc điểm quan trọng và khoảng cách về khả năng có thể hy vọng duy trì được lâu dài. 2.2. Lợi thế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh. Khái niệm chiến lược cạnh tranh như “một tập hợp các hoạt động được thiết kế để tạo ra một lợi thế lâu dài trước các đối thủ cạnh tranh” có thể chỉ ra rằng: có một lợi thế cạnh tranh dài hạn đồng nghĩa với thành công. Nói cách khác, những doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh dài hạn sẽ chắc chắn chiến thắng. Những đối thủ cạnh tranh thiếu một lợi thế cạnh tranh dài hạn nên rút lui khỏi thương trường để tránh các thảm họa tài chính... Tất nhiên, các kết luận có vẻ hiển nhiên này là sai lầm. Mặc dầu một lợi thế cạnh tranh dài hạn là một công cụ rất hiệu quả cho việc xây dựng các chiến lược kinh doanh xuất sắc, nó vẫn chỉ là một trong những nhân tố cần thiết mà thôi. Qua thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam đã rút ra kết luận: * Có lợi thế cạnh tranh dài hạn không chắc đã đảm bảo sự thành công về tài chính. * Doanh nghiệp có thể thành công thậm chí khi đối thủ cạnh tranh có một lợi thế cạnh tranh dài hạn. * Mưu cầu một lợi thế cạnh tranh dài hạn nhiều khi mâu thuẫn với chiến lược kinh doanh hợp lý. a. Thất bại với một lợi thế cạnh tranh dài hạn. Lợi thế cạnh tranh dài hạn có thể giúp một doanh nghiệp đạt được kết quả cao hơn so với đối thủ cạnh tranh, nhưng có ít nhất là 3 trường hợp mà người sở hữu nó sẽ thất bại: * Nếu các nhu cầu thị trường không tồn tại: Trong rất nhiều trường hợp chi phí tối thiểu để sản xuất và tiêu thụ của một loại sản phẩm hay dịch vụ cụ thể vượt quá giá trị mà người tiêu dùng nhận được. Trong tình huống này, một lợi thế cạnh tranh dài hạn không thể cứu được người có nó. Nó chỉ có thể đảm bảo rằng tình trạng của các đối thủ cạnh tranh còn tồi tệ hơn nhiều. * Nếu doanh nghiệp gặp phải một số rắc rối trong vận hành: Một lợi thế cạnh tranh dài hạn có thể cho phép quản lý tập trung hơn hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng hàng ngàn doanh nghiệp thất bại do sự vận hành, hơn là do các lý do chiến lược. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam rõ ràng là rơi vào trường hợp này. * Nếu các đối thủ cạnh tranh phản ứng mạnh mẽ: Một lợi thế cạnh tranh dài hạn ít khi đặt doanh nghiệp hoàn toàn vượt tầm với của các đối thủ cạnh tranh chẳng hạn như các chính sách giảm giá để tăng tỷ phần thị trường có thể mất tác dụng do các đối thủ hạ theo. Trong những trường hợp này, doanh nghiệp phải lựa chọn cách hành động rất cẩn thận. Các hoạt động dễ bị bắt chước chỉ dẫn đến sự cạnh tranh mạnh mẽ và khi ấy những lợi thế của doanh nghiệp là mục tiêu của những đòn phản công của đối thủ. b. Cạnh tranh với đối thủ có một lợi thế cạnh tranh dài hạn. Không phải mọi người sản xuất đều có thể có một lợi thế cạnh tranh dài hạn, có những người sản xuất phải đương đầu với sự cạnh tranh trong vị trí bất lợi. Trong một số trường hợp họ vẫn có khả năng thành công. Những thị trường phát triển mạnh mẽ tạo ra tình huống như vậy. Sự tăng trưởng thị trường thực sự trong những thời kỳ nhất định... khiến các đối thủ yếu cũng có thể phát đạt. Ví dụ, sự bùng nổ trong thị trường phần mềm máy vi tính trong 5 năm gần đây đã làm cho nhiều công ty nhỏ bé trở nên giàu có. Chỉ khi thị trường tăng trưởng chậm lại hay các đổi thủ có lợi thế tăng lên, thị trường sẽ điều chỉnh sự cạnh tranh và tác động của lợi thế cạnh tranh và tác động của lợi thế cạnh tranh dài hạn mới thể hiện. Nếu doanh nghiệp dẫn đầu thị trường chỉ có một lợi thế hời hợt hay không quan trọng, nhiều đối thủ bất lợi có thể có khả năng thu hẹp khoảng cách. Mỗi đối thủ cạnh tranh đều có khả năng về một khía cạnh nào đó. Sau khi xem xét mọi khía cạnh, mỗi doanh nghiệp có thể tìm ra được lợi thế cạnh tranh trong phục vụ một số khách hàng nhất định. Những đối thủ bất lợi này có thể phải nhận những thu nhập thấp hơn so với đối thủ số một, nhưng những thu nhập này chắc chắn tồn tại. Trong thực tế, một số doanh nghiệp nhỏ vẫn có thể tồn tại có hiệu quả bên cạnh đối thủ số một khi thỏa mãn hai điều kiện sau: * Nếu lợi thế của đối thủ số một bị hạn chế do giới hạn khả năng quá nhỏ so với quy mô thị trường. Do vậy, họ có thể mở rộng thị trường hơn nhưng sẽ không giữ được lợi thế dài hạn. Các cản trở như: sự khan hiếm các vật liệu chính , giới hạn khả năng hạ giá thành sản xuất, chi phí vận tải đắt đỏ, luật chống độc quyền... cũng giới hạn khả năng mở rộng lợi thế. * Nếu kích thước của mỗi đối thủ là nhỏ bé so với quy mô thị trường, trong trường hợp này các đối thủ mạnh có thể mở rộng khả năng bằng cách chiếm tỷ phần từ các đối thủ yếu. Sự lựa chọn của doanh nghiệp nhỏ có thể là: + Rút lui khỏi thị trường. + Cố gắng chịu đựng tới khi các lợi thế bị xóa bỏ. + Tìm cách tạo ra một lợi thế mới: nếu một doanh nghiệp yếu chọn một lợi thế mới, nó phải chắc chắn rằng lợi thế này ưu việt hơn, hay các đối thủ khác không thể đối phó được cho tới khi doanh nghiệp củng cố được vị trí của mình. Nếu không các lợi thế của doanh nghiệp sẽ nhanh chóng bị bắt chước và sẽ bị loại bỏ. c. Tìm kiếm một lợi thế cạnh tranh dài hạn. Mặc dầu việc đạt được một lợi thế cạnh tranh dài hạn là mục tiêu của chiến lược cạnh tranh, nhưng lợi thế cạnh tranh dài hạn không phải là mục đích mà chỉ là một phương tiện để đạt được mục đích. Các doanh nghiệp tham gia thương trường không phải để chống lại các đối thủ cạnh tranh mà để làm giàu có thêm cho mình. Do đó, việc tạo ra một lợi thế cạnh tranh dài hạn nhưng làm giảm sự gia tăng tài sản có thể là một chiến lược tốt theo quan niệm cạnh tranh nhưng lại là một chiến lược tồi với doanh nghiệp. Rõ ràng vấn đề chủ yếu mà mỗi doanh nghiệp Việt nam quan tâm là làm thế nào để đạt được một lợi thế cạnh tranh dài hạn, hơn nữa doanh nghiệp phải biết sử dụng chúng trong xác lập chiến lược kinh doanh. Các điều kiện cho lợi thế cạnh tranh dài hạn và những tác động của lợi thế cạnh tranh dài hạn tới chiến lược phân tích ở trên đã cung cấp một cơ chế hoạt động cơ bản cho doanh nghiệp. Tất nhiên kết quả cuối cùng phụ thuộc vào sự vận dụng của từng doanh nghiệp. 3. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp xây dựng. 3.1. Giá cả sản phẩm xây dựng. Sản phẩm xây dựng lả sản phẩm do doanh nghiệp xây dựng tạo ra, bao gồm các công trinh xây dựng dân dụng và công nghiệp như: nhà ở, khách sạn, trụ sở công ty, các nhà máy, xí nghiệp, đường xá, cầu cống…Giá cả sản phẩm xây dựng được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua chính sách giá bán mà doanh nghiệp áp dụng đối với thị trường trên cơ sở tỷ lệ suất vốn đầu tư trên một đơn vị sản phẩm xây dựng mà doanh nghiệp đó thực hiện. Tỷ lệ này càng thấp thì ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác càng cao. Vì vậy, để nâng cao ưu thế cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp xây dựng phải tìm mọi cách để hạ giá thành sản phẩm của mình thấp hơn các đối thủ cạnh tranh bằng cách giảm thiểu các chi phí như: chi phí cho nguyên vật liệu, chi phí nhân công(hay còn gọi là tiền lương), các chi phí vận chuyển…. 3.2. Mẫu mã và chất lượng sản phẩm xây dựng. Chất lượng là một phạm trù phức tạp mà con người hay gặp rong lĩnh vực hoạt động của mình.Theo từ điển tiếng việt (1994) “Chất lượng là cái tạo lên phẩm chất, giá trị một con người, một sự việc, sự vật”. Ngày nay, chất lượng đã trở thành một nhân tố chủ yếu trong chính sách phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Chất lượng là một trong những nhân tố quan trọng hình thành khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Phạm trù chất lượng không chỉ dừng lại ở sản phẩm tốt mà nằm trong trung tâm của lý thuyết quản lý và tổ chức, của yếu tố cạnh tranh, tiết kiệm, nhu cầu của người tiêu dùng và xã hội. Mẫu mã và chất lượng sản phẩm xây dựng được hình thành từ khâu thiết kế cho đến khi hoàn thành và đưa sản phẩm vào khai thác vận hành. Có nhiều yếu tố tác động đến mẫu mã và chất lượng sản phẩm như trình độ thiết kế của các kỹ sư, chất lượng nguyên vật liệu, chất lượng hoạt động của máy móc thiết bị, tình trạng ổn định của công nghệ chế tạo và đặc biệt là chất lượng lao động của các kỹ sư trực tiếp giám sát thi công và đội ngũ công nhân thi công công trình . Chính trên cơ sở đó tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu EOQC đã định nghĩa: “Chất lượng là sự phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng”. Định nghĩa của TCVN 5200 – ISO 9000: “Chất lượng là một mức phù hợp của sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn các yêu cầu đề ra hoặc định trước của người mua”. Dù có nhiều định nghĩa được đưa ra nhưng tựu chung lại, chúng đều cho thấy, chất lượng là vấn đề tổng hợp, là kết quả của một quá trình từ sản xuất đến tiêu dùng. Do đó, chất lượng của sản phẩm chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố và điều kiện liên quan trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến chất lượng sản phẩm thì rất khác nhau. Trải qua quá trình cạnh tranh gay gắt của thực tiễn kinh doanh, người ta chú ý đến các yếu tố nhu cầu của nền kinh tế, sự phát triển khoa học kỹ thuật, hiệu lực của cơ chế quản lý, những yếu tố văn hoá, truyền thống, tôn giáo, thói quen, công tác quản trị. Các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngành xây dựng nói riêng muốn đạt được lợi thế cạnh tranh cần phải tuân thủ nguyên tắc lấy chất lượng sản phẩm làm mục tiêu hàng đầu trong khả năng vốn có thể. Ngoài ra, để có được lợi thế cạnh tranh thì các doanh nghiệp xây dựng cũng phải luôn thay đổi mẫu mã thiết kế phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng và đặc biệt nó phải có sức thu hút lớn đối với mọi đối tượng khách hàng. 3.3. Hệ thống phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Như chúng ta đã biết, kênh phân phối là tập hợp các doanh nghiệp và các cá nhân độc lập và phụ thuộc lẫn nhau, tham gia vào quá trình đưa sản phẩm hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Nói cách khác, đây là một nhóm các tổ chức và cá nhân thực hiện các hoạt động làm cho sản phẩm hoặc dịch vụ sẵn sàng để người tiêu dùng hoặc người sử dụng công nghiệp có thể mua và sử dụng. Để đưa sản phẩm của mình tới người tiêu dùng một cách hiệu quả nhất, các doanh nghiệp có thể lựa chọn một hoặc nhiều loại kênh phân phối sau: A đại lý Người tiêu dùng đại lý C B Người sản xuất Người bán lẻ Người bán lẻ Người bán buôn Người bán lẻ D Trong đó: A: Kênh ngắn ( kênh trực tiếp ngắn) B: Kênh rút gọn (kênh trực tiếp dài ) C: Kênh dài ( kênh gián tiếp ngắn) D: Kênh dài đầy đủ (kênh gián tiếp dài) Vấn đề quan trọng đặt ra đối với các doanh nghiệp là lựa chọn những kênh phân phối thích hợp cho sản phẩm của mình. Tuỳ vào đặc điểm của từng ngành và từng loại sản phẩm mà các nhà quản lý kênh phân phối lựa chọn các kênh phân phối khác nhau. Những căn cứ để lựa chọn kênh phân phối tối ưu cho sản phẩm là: - Những mục tiêu của kênh: mục tiêu của kênh phân phối sẽ định rõ kênh sẽ vươn tới thị trường nào? với mục tiêu gì? Những mục tiêu khác nhau sẽ đòi hỏi những kênh phân phối khác nhau cả về cấu trúc lẫn cách quản lý. Những mục tiêu có thể là: mức dịch vụ phục vụ khách hàng, phạm vi bao phủ thị trường… - Đặc điểm của khách hàng mục tiêu: đây cũng là đặc điểm quan trọng ảnh hưởng đến việc lựa chọn kênh. Những yếu tố quan trọng cần xem xét về đặc điểm của khách hàng là: quy mô, cơ cấu, mật độ và hành vi của khách hàng. - Đặc điểm của sản phẩm: với những sản phẩm dễ hư hỏng, thời gian từ khi sản xuất đến khi tiêu thụ ngắn cần kênh trực tiếp. Còn đối với những sản phẩm cồng kềnh, khối lượng lớn cũng đòi hỏi kênh ngắn để giảm tối đa quãng đường vận chuyển và số lần bốc dỡ. 3.4. Hoạt động giao tiếp khuếch trương. Hoạt động này bao gồm chào hàng, quảng cáo, tiếp thị, khuyến thị, chiêu khách và một số các hình thức khác. Trước hết, doanh nghiệp phải xác định xem bằng cách nào, với chi phí bao nhiêu để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng và khuyến khích họ mua sản phẩm của mình mà không mua sản phẩm của người khác. Tiếp đến, doanh nghiệp phải nghiên cứu được khách hàng là ai? Ai là người mua chủ yếu? Sở thích của họ đối với sản phẩm nào? Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải nghiên cứu các phương án giới thiệu sản phẩm và các phương thức thanh toán linh hoạt, hợp lý. 3.5. Uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp xây dựng. Thương hiệu là một thuật ngữ khá quen thuộc trong giới kinh doanh quốc tế nhưng ở Việt Nam thuật ngữ đó mới được nhắc đến nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian gần đây. Hiện tại có rất nhiều quan niệm khác nhau về thương hiệu: Từ điển “Longman tiếng anh trong kinh doanh” đưa ra định nghĩa: “Thương hiệu có xuất xứ là dấu hiệu của người sở hữu, thường được thể hiện bằng việc đóng dấu lên xúc vật. Ngày nay, thuật ngữ này thường được dùng như tên của nhà sản xuất, nhãn hiệu thương mại hay một ký hiệu trên hàng hóa, thường được đăng ký và bảo hộ, dùng để người sử dụng có thể dễ dàng phân biệt sản phẩm hay chất lượng của sản phẩm”. Hiệp hội Marketing Mỹ quan niệm rằng: “Thương hiệu là một cái tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hay tổng hợp tất cả các yếu tố kể trên nhằm xác định các sản phẩm hay dịch vụ của một hay một nhóm người bán và phân biệt sản phẩm (dịch vụ) đó với đối thủ cạnh tranh”. Từ những khái niệm trên chúng ta có thể thấy thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp đóng vai trò rất lớn đến sự thành bại của một doanh nghiệp, đặc biệt là đối với doanh nghiệp xây dựng. được hình thành từ chất lượng của các công trình mà doanh nghiệp thi công, tiến độ thực hiện công trình, tình hình hoạt động kinh doanh… Đó là một công cụ cạnh tranh quan trọng trước các đối thủ cạnh tranh. Do vậy, muốn nâng cao ưu thế cạnh tranh trên thị trường các doanh nghiệp xây dựng luôn phải nâng cao uy tín của mình trên thị trường. Khi doanh nghiệp xây dựng có uy tín cao thì chắc chắn sẽ có nhiều nhà thầu và nhà đầu tư biết đến,điều này sẽ mang lại rất nhiều lợi thế cho doanh nghiệp trong việc đấu thầu các công trình lớn nhỏ. Và ngược lại, việc trúng thầu và thi công các công trình với tiến độ nhanh nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp. 3.6. Năng lực tài chính của doanh nghiệp xây dựng. Năng lực tài chính của doanh nghiệp là khả năng huy động và sử dụng vốn và các nguồn vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được gọi là có năng lực về mặt tài chính nếu doanh nghiêp đó có khả năng đảm bảo về vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình và một cơ cấu vốn hợp lý đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh. Đối với doanh nghiệp xây dựng thì năng lực tài chính là khả năng đảm bảo về vốn cho việc thi công các công trình xây dựng được diễn ra liên tục, đảm bảo đúng tiến độ thi công, tạo được uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường 3.7. Năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp xây dựng. Năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp xây dựng là khả năng mà doanh nghiệp có thể huy động về mặt máy móc và các trang thiết bị cần thiết để sử dụng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Về mặt nguyên tắc, năng lực kỹ thuật là điều kiện không thể thiếu đối với một doanh nghiệp xây dựng nếu muốn tham gia dự thầu và thực hiện đấu thầu. Năng lực kỹ thuật được các nhà thầu đánh giá rất cao, dựa vào đó mà các nhà thầu có thể đánh giá được năng lực của doanh nghiệp. Nhưng đây không phải là điều kiện quyết định đến khả năng thắng thầu của doanh nghiệp mà nó còn phụ thuộc vào các mối quan hệ và kinh nghiệm của nhà thầu 3.8. Hồ sơ kinh nghiệm. Hồ sơ kinh nghiệm cũng là một trong các công cụ cạnh tranh quan trọng của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xây dựng. Để đánh giá hồ sơ kinh nghiệm của một doanh nghiệp xây dựng người ta căn cứ vào số lượng và quy mô của các công trình mà doanh nghiệp đó thi công. Từ đó ta có thể xác định được doanh nghiệp nào là có kinh nghiệm thi công. Một doanh nghiệp có kinh nghiệm trong thi công các công trình xây dựng với quy mô lớn, nó sẽ mang lại rất nhiều ưu thế trong đấu thầu xây dựng và ngược lại doanh nghiệp nào mà kinh nghiệm thi công còn yếu thì gặp nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh, dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ không cao thậm chí là không có. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp cần phải tích cực tham gia đấu thầu và thi công thật nhiều các công trình xây dựng có tính chiến lược nhằm tích luỹ thêm kinh nghiệm thi công, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. IV. Đầu tư nâng cao năng Lực cạnh tranh của doanh nghiệp ngành xây dựng. 1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong thực tế có rất nhiều quan niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh (hay sức cạnh tranh) của doanh nghiệp. Đây là những thuật ngữ kinh tế được sử dụng phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo chuyên môn, giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, các chính khách, các nhà kinh doanh. Nhiều khái niệm về năng lực cạnh tranh từ các góc độ khác nhau cũng có sự khác biệt nhau, các học giả khác nhau đã đưa ra các khái niệm khác nhau: Trong lý thuyết tổ chức công nghiệp, khái niệm về năng lực cạ._.a thể trả lời được những câu hỏi tưởng chừng đơn giản sau đây: + Ta mua công nghệ gì là thích hợp? + Giá bao nhiêu là hợp lý? + Nên mua từ nước nào? + Các hợp đồng chuyển giao công nghệ như thế nào là chặt chẽ, không bị "hớ"? + Các vấn đề quản lý kinh tế, quản lý kỹ thuật được tiến hành như thế nào để dự án được duy trì và sinh lời? Những câu hỏi tất yếu phải đặt ra nhưng trong hiện tại chưa được quan tâm đúng mức ấy lại quyết định phần lớn sự thành bại của dự án đầu tư mua sắm và đổi mới công nghệ. Chính vì vậy, phần lớn những công nghệ được chuyển giao ở nước ta là do phía nước ngoài giới thiệu chứ không phải do tự các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm. Nhưng các công nghệ mới ở Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) thì khác. Công ty đã cử cán bộ trực tiếp sang các Công ty nước ngoài tìm hiểu về các quy trình công nghệ sản xuất rồi tự lựa chọn công nghệ thích hợp và trực tiếp đặt hàng. Tuy nhiên, có một điểm còn hạn chế là cán bộ của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp(FBS) chưa thể có đầy đủ kiến thức về công nghệ sản xuất sản phẩm xây dựng tiên tiến. Do đó, có thể vấn đề xác định giá cả và kí kết hợp đồng chuyển giao công nghệ có những điểm chưa hợp lý. Chính vì thế, trong giai đoạn đầu tư đổi mới công nghệ sắp tới, Công ty nên sử dụng tư vấn để quá trình đổi mới công nghệ có thể đạt hiệu quả cao hơn. Dịch vụ tư vấn đầu tư hoạt động trong các quá trình: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và các hoạt động tư vấn khác có liên quan đến quá trình đầu tư. Bên cạnh việc sử dụng tư vấn, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) có thể áp dụng hình thức đấu thầu để nâng cao hiệu quả của quá trình đổi mới công nghệ. Đây là một hình thức rất tiên tiến và đang được áp dụng rất phổ biến trên thế giới. Việc áp dụng hình thức đấu thầu có thể đem lại những hiệu quả sau: * Phát huy được tính chủ động trong việc tìm kiếm các cơ hội tham gia dự thầu và đấu thầu. Các nhà thầu sẽ phải tích cực tìm kiếm các thông tin do các chủ đầu tư đang mời thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên thị trường, gây dựng các mối quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước, tự tìm cách tăng cường uy tín của mình để có thể nắm bắt được các cơ hội dự thầu. * Việc tham dự đấu thầu, trúng thầu và tiến hành thi công theo hợp đồng làm cho nhà thầu tập trung đồng vốn của mình vào một trọng điểm đầu tư. Ngay từ quá trình tham gia đấu thầu, nếu trình độ kỹ thuật công nghệ của nhà thầu không cao thì cũng khó có cơ hội trúng thầu, hoặc nếu có trúng thầu thì cũng do trình độ thi công, năng lực dự toán của nhà thầu thấp kém rất dễ dẫn đến bị lỗ. Thực tế này đòi hỏi các nhà thầu phải không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt như: tổ chức quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ, đầu tư nâng cao năng lực máy móc thiết bị... Có như vậy mới đảm bảo thắng thầu, đảm bảo hiệu quả đồng vốn mình bỏ ra là có lãi, mặt khác nâng cao được trình độ thi công công trình, nâng cao uy tín trên thị trường. * Chọn được thiết bị, công nghệ tiên tiến, đảm bảo công suất của các hãng nổi tiếng trên thế giới. Nếu Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp(FBS) áp dụng hình thức đấu thầu trong quá trình đầu tư đổi mới công nghệ thì hiệu quả của quá trình này sẽ tăng lên rất nhiều. III. Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) cần áp dụng phương pháp quản lý chất lượng toàn diện. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với các doanh nghiệp. Điều đó thể hiện ở những điểm sau: * Chất lượng luôn là một trong những nhân tố quan trọng nhất để quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. * Chất lượng tạo uy tín, danh tiếng và là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. * Tăng chất lượng sản phẩm tương đương với tăng năng suất lao động xã hội. Việc tăng chất lượng sản phẩm dẫn tới tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế - xã hội trên một đơn vị chi phí đầu vào, giảm lượng nguyên vật liệu sử dụng, tiết kiệm tài nguyên, giảm những vấn đề về ô nhiễm môi trường. Nâng cao chất lượng sản phẩm còn là biện pháp hữu hiệu kết hợp các loại lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng, xã hội và người lao động. * Chất lượng làm tăng khả năng cạnh tranh về kinh tế của đất nước và góp phần khẳng định vị trí của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới. Vì vậy các doanh nghiệp cần quản lý chất lượng sản phẩm. Quản lý chất lượng là hệ thống các hoạt động, các biện pháp, phương pháp và quy định hành chính, kinh tế, kỹ thuật, tổ chức... dựa trên những thành tựu khoa học, kỹ thuật nhằm sử dụng tối ưu các tiềm năng trong doanh nghiệp để đảm bảo duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng (thiết kế, sản xuất, tiêu thụ và tiêu dùng) nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội với chi phí thấp nhất. Còn quản lý chất lượng toàn diện là cách tổ chức quản lý của một tổ chức tập trung vào chất lượng thông qua việc động viên để thu hút mọi thành viên tham gia tích cực vào quản lý chất lượng ở mọi cấp, mọi khâu nhằm đạt được thành công lâu dài nhờ việc làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và đem lại lợi ích cho mọi thành viên, cho tổ chức đó và cho xã hội. Quản lý chất lượng toàn diện rộng hơn quản lý chất lượng vì nó biểu hiện sự nỗ lực của mọi thành viên trong toàn doanh nghiệp trong việc quản lý chất lượng nhằm đạt và vượt các định mức về chất lượng đã đề ra với các chi phí thấp nhất. * Quản lý chất lượng toàn diện có những đặc trưng chủ yếu sau: - Coi chất lượng là nhận thức của khách hàng. Mức độ thỏa mãn nhu cầu khách hàng chính là mức độ chất lượng đạt được. Khách hàng là người đánh giá, xác định mức độ chất lượng đạt được chứ không phải là các nhà quản lý hay người sản xuất. Đặc trưng này đòi hỏi doanh nghiệp phải chú ý đến nhu cầu của khách hàng, tìm hiểu yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm để có thể biết được chất lượng sản phẩm phù hợp. - Quản lý chất lượng toàn diện lấy con người làm trung tâm. con người là nhân tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra và nâng cao chất lượng sản phẩm. Mọi thành viên trong doanh nghiệp từ giám đốc, các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật đến người lao động đều có vai trò và trách nhiệm về chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, ý thức tự giác, lòng nhiệt tình và khả năng trang bị kiến thức, phương tiện quản lý chất lượng. Do đó, có thể coi quản lý chất lượng toàn diện là việc biến quản lý chất lượng thành quá trình tự quản của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Vì vậy, để thực hiện được quản lý chất lượng toàn diện cần làm cho mọi thành viên ý thức được trách nhiệm của mình, được trang bị đầy đủ về kiến thức quản lý và gắn quyền lợi với chất lượng do mình làm ra. Ngoài ra, quản lý chất lượng toàn diện còn chú trọng tới vai trò của tổ nhóm chất lượng, coi đó là biện pháp không thể thiếu được nếu muốn quản lý chất lượng thu được kết quả tốt. - Quản lý chất lượng toàn diện "lấy phòng ngừa làm chính với phương châm làm đúng ngay từ đầu, sản xuất không có phế phẩm". Nhiệm vụ của quản lý chất lượng toàn diện là tập trung cho các hoạt động hoạch định chiến lược, chính sách và hoàn thiện chất lượng. Trong đó, nhiệm vụ cơ bản là xác định mọi nguyên nhân dẫn đến sự không phù hợp của chất lượng sản phẩm và tìm cách loại bỏ chúng thông qua việc tiến hành liên tục các hoạt động nhằm loại trừ những trục trặc trong quá trình, nguyên nhân gây ra các trục trặc và khiếm khuyết của sản phẩm. - Quản lý chất lượng toàn diện tập trung vào quản lý mọi yếu tố, mọi khâu trong quá trình sản xuất thay vì quản lý sản phẩm. Quản lý chất lượng toàn diện phát triển tính linh hoạt và không ngừng nâng cao chất lượng của toàn bộ hệ thống và các quá trình từ thiết kế đến sản xuất, tiêu thụ và tiêu dùng sản phẩm. Để hoạt động quản lý chất lượng toàn diện có thể áp dụng thành công trong thực tế cần phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây: * Chất lượng phải thực sự trở thành mục tiêu hàng đầu, có vai trò trung tâm trong hoạt động của doanh nghiệp. Phải hiểu biết đầy đủ, chính xác nhu cầu hiện tại và xu hướng vận động của nhu cầu trong tương lai; theo dõi, nắm bắt kịp thời những diễn biến của nhu cầu, thị hiếu trên thị trường để có phương hướng, biện pháp thích hợp, kịp thời. - Đánh giá được nhận thức của khách hàng về mức độ chất lượng mà doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh đã đạt được để có chiến lược về chất lượng sản phẩm thích hợp. - Xoá bỏ mọi hàng rào ngăn cách, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phối hợp hoạt động của các phòng, ban, bộ phận nhằm hoàn thiện chất lượng của toàn bộ hệ thống. Khi nảy sinh vấn đề liên quan đến chất lượng cần tập trung xem xét bản thân hệ thống và quá trình, phát hiện nguyên nhân và giải quyết kịp thời. - Khuyến khích, tạo điều kiện hình thành các tổ chức tự quản về chất lượng; đào tạo, trang bị những kiến thức và phương tiện đo lường, đánh giá chất lượng cho công nhân; động viên nâng cao lòng tự trọng, tự hào về chất lượng công việc của mình. Phương pháp quản lý chất lượng toàn diện đã được rất nhiều Công ty ở Nhật Bản vận dụng thành công và kết quả của nó là sự vươn lên chiếm vị trí hàng đầu trên thế giới về chất lượng của các sản phẩm có nguồn gốc từ Nhật Bản. Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) đang trong quá trình đầu tư đổi mới công nghệ với các máy móc, thiết bị hiện đại, nếu không áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại sẽ không khai thác hết công suất máy móc, thiết bị bởi khi mua máy móc, thiết bị hiện đại Công ty chỉ yêu cầu chuyên gia nước ngoài hướng dẫn sử dụng. Vì vậy, để có môt quy trình công nghệ mới hoàn thiện, Công ty cần phải trải qua quá trình sử dụng, qua các sự cố rồi bổ sung. Hơn nữa, nếu chỉ đổi mới máy móc, thiết bị mà không có cách quản lý thiết bị và quản lý con người có hiệu quả thì hiệu quả của đổi mới công nghệ sẽ bị hạn chế và có thể sau một thời gian đưa vào sử dụng các máy móc, thiết bị sẽ không đảm bảo các yêu cầu về chất lượng sản phẩm như lúc mới đưa vào sản xuất và vì thế sẽ không thể nâng cao được khả năng cạnh tranh cho công ty. Hiện nay, chất lượng các sản phẩm xây dựng của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) vẫn đang tiếp tục đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhưng để nâng cao chất lượng hơn nữa và hạ giá thành sản phẩm, Công ty nên áp dụng phương pháp quản lý chất lượng toàn diện. Để áp dụng phương pháp này công ty cần phân tách các hoạt động của công ty, phân công các công việc theo các chức năng, chuẩn hoá hoạt động của từng bộ phận và của toàn bộ dây chuyền, xác định trách nhiệm của từng cá nhân trong hoạt động chung. Xây dựng hồ sơ công việc của từng công đoạn và luôn cải tiến, hoàn thiện hệ thống. IV. Thành lập phòng Marketing, đẩy mạnh công tác nghiêm cứu thị trường nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh ở Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp(FBS). Kinh tế thị trường càng phát triển thì hoạt động Marketing càng giữ vai trò quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinhdoanh và cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó, việc nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing và nghiên cứu thị trường là mục tiêu mà các doanh nghiệp hướng tới. Hiệu quả của công tác này được nâng cao có nghĩa là doanh nghiệp càng mở rộng được nhiều thị trường, sản phẩm tiêu thụ nhiều góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Marketing là phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra việc thi hành những biện pháp nhằm thiết lập, củng cố và duy trì những cuộc trao đổi có lợi với những người mua đã được chọn lựa để đạt được những nhiệm vụ xác định của doanh nghiệp như thu lợi nhuận, tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, mở rộng thị trường... từ đó mới có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Như vậy, hoạt động Marketing sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) chưa chú trọng lắm đến công tác marketing. Điều này được thể hiện rõ nét nhất qua mô hình tổ chức bộ máy quản lý của Công ty. Đó là việc Công ty chưa có phòng marketing tuy vẫn có những hoạt động marketing mang tính chất đơn lẻ. Các hoạt động marketing này chủ yếu nằm ở các phòng như: Phòng kế hoạch - Tiêu thụ (phụ trách vấn đề về kế hoạch hóa, chính sách giá cả, tiêu thụ sản phẩm, phát triển sản phẩm mới), Phòng kỹ thuật (phụ trách vấn đề nghiên cứu, thiết kế, chế thử sản phẩm mới, quảng cáo), Phòng cung ứng vật tư (phụ trách vấn đề vật tư cho sản xuất). Màu sắc Marketing ở Công ty chưa rõ nét, nó phụ thuộc vào các phòng nói trên và chưa được coi như chức năng cơ bản của Công ty. Để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao vị thế cạnh tranh, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) nên thành lập phòng Marketing với những chức năng và nhiệm vụ cơ bản sau: Sơ đồ phòng Marketing tương lai: Nhân viên quản lý hành chính Marketing Trưởng phòng Marketing Nhân viên quản lý quảng cáo và kích thích tiêu thụ Nhân viên quản lý tiêu thụ Nhân viên quản lý nghiên cứu Marketing Việc tổ chức phòng Marketing theo sơ đồ này có ưu điểm đơn giản về mặt hành chính. Với mỗi mảng của Marketing đều có chuyên gia phụ trách, xong để hoạt động Marketing thực sự mang lại hiệu quả thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa những người phụ trách các mảng khác nhau, đòi hỏi mỗi người phải nắm được nhiệm vụ riêng của mình và nhiệm vụ chung của toàn phòng. Chính vì vậy nhân viên phải là người có trình độ, hiểu biết về nghiên cứu thị trường, có kinh nghiệm. Phòng Marketing có nhiệm vụ thu thập và điều tra các thông tin về thị trường, các đối thủ cạnh tranh,… * Nghiên cứu thị trường: Sau khi thành lập phòng Marketing doanh nghiệp cần phải xây dựng một hệ thống nghiên cứu thị trường hoàn chỉnh. Doanh nghiệp phải thành lập quỹ cho hoạt động nghiên cứu thị trường, đây là công việc đầu tiên và rất quan trọng, là nguồn kinh phí cho hoạt động nghiên cứu thị trường. Xác định thị trường hiện tại và thị trường tiềm năng của Công ty, trong đó cần xác định quy mô, cơ cấu và sự vận động của các loại thị trường này. Công việc này hết sức quan trọng. Khi xác định được quy mô của thị trường, Công ty có thể biết được tiềm năng của thị trường đối với nó để từ đó xác định quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty cho phù hợp. Việc xác định cơ cấu thị trường giúp Công ty đánh giá được cơ cấu địa lý, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu sử dụng các loại sản phẩm xây dựng của Công ty trên thị trường. Từ đó, Công ty có thể đề ra các chính sách thích hợp về phương pháp, tiêu thụ sản phẩm, về cơ cấu sản phẩm thích hợp. Việc theo dõi sự vận động của thị trường giúp cho Công ty đề ra những chính sách ứng phó linh hoạt khi thị trường có biến động. Cụ thể, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) nên chọn đoạn thị trường xây dựng cho các công trình có vốn đầu tư của Nhà nước hay nước ngoài bỏ vốn. Đây là đoạn thị trường mà hiện nay sản phẩm của Công ty đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng và giá cả nhưng lại chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng. Vì thế, Công ty cần cải tiến hệ thống phân phối sản phẩm hợp lý nhất. Trong những năm qua, Công ty đã thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản phẩm thông qua đổi mới công nghệ. * Nghiên cứu và dự báo nhu cầu của thị trường về các loại sản phẩm xây dựng của Công ty để xác định đối tượng tiêu thụ sản phẩm của Công ty, số lượng và cơ cấu mua từng loại sản phẩm, lý do mua... Từ đó Công ty sẽ đề ra những chính sách thích hợp để thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở mức độ cao nhất. Đây chính là chính sách nâng cao chất lượng sản phẩm theo nhu cầu của khách hàng. * Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh: Đây là công tác rất quan trọng và không thể thiếu trong hoạt động marketing đặc biệt là trong những ngành mà cạnh tranh diễn ra ngày càng quyết liệt như ngành xây dựng. Trong công tác này, Công ty cần chú ý đến hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, những chính sách mà các đối thủ cạnh tranh đang áp dụng cũng như tiềm năng phát triển của họ. Từ đó, Công ty sẽ đề ra các biện pháp để ứng phó. Nếu Công ty không chú ý đến công tác này thì rất có thể thị phần của Công ty sẽ dần dần rơi vào tay họ. * Nghiên cứu, thiết kế, phát triển sản phẩm mới: Mỗi một Công ty cần phải biết cách tạo ra những sản phẩm mới. Nhiều chuyên gia có kinh nghiệm thuộc các Công ty nước ngoài đã đưa ra kết luận rằng: trong chiến lược sản phẩm của mỗi doanh nghiệp, vấn đề mấu chốt là phải bảo đảm trong bất kỳ thời điểm nào của hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng phải có ít nhất một sản phẩm mới vì việc phát triển sản phẩm mới sẽ đem lại những hiệu quả kinh tế rất to lớn. Nếu doanh nghiệp nào cũng làm được như vậy thì việc phát triển sản phẩm mới sẽ đem lại những lợi ích thiết thực sau: - Đối phó và giải quyết kịp thời hiện tượng trì trệ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm tính liên tục trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. - Bảo đảm việc phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. - Hiệu quả kinh tế sẽ cao, lợi nhuận thu về ngày càng nhiều. Ngoài ra, các Công ty còn phải biết cách quản lý sản xuất sản phẩm mới của mình trong điều kiện thị trường luôn luôn thay đổi, những biến đổi về công nghệ và tình hình cạnh tranh. Như chúng ta đã biết, trong một thời gian tồn tại, mọi sản phẩm, hàng hoá đều trải qua một chu kỳ sống gồm bốn giai đoạn: Giai đoạn tung ra thị trường, giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn chín muồi và giai đoạn suy thoái. Sự tồn tại chu kỳ sống của sản phẩm hàng hoá có nghĩa là trước mắt Công ty nổi lên hai vấn đề lớn. Thứ nhất, Công ty phải kịp thời tìm kiếm những sản phẩm mới để thay thế những sản phẩm đang ở thời kỳ suy thoái (vấn đề nghiên cứu sản phẩm mới). Thứ hai, Công ty phải biết tổ chức kinh doanh có hiệu quả những sản phẩm hiện có trong từng giai đoạn của chu kỳ sống của chúng (vấn đề quan điểm chiến lược đối với những giai đoạn của chu kỳ sống của sản phẩm). Do những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu, công nghệ và tình hình cạnh tranh, Công ty không thể chỉ dựa vào những sản phẩm hiện có. Người tiêu dùng muốn và chờ đợi những sản phẩm mới và hoàn hảo. Các đối thủ cạnh tranh cũng nỗ lực tối đa để cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm mới đó. Vì thế, mỗi Công ty đều phải có chương trình thiết kế sản phẩm mới của mình. Do đó, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) cần phải ý thức được rằng sự phát triển sản phẩm mới là một việc làm hết sức quan trọng. Việc tung ra thị trường một sản phẩm mới thành công cũng đồng nghĩa với việc hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh và lợi thế cạnh tranh của Công ty được nâng cao. Song bên cạnh đó, Công ty cần nghiên cứu thật kỹ trước khi tung sản phẩm mới ra thị trường để tránh những thất bại đáng tiếc. * Đưa ra các chính sách marketing phù hợp nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Công tác tiêu thụ sản phẩm cũng góp phần rất lớn trong việc tạo nguồn vốn cho công ty. Trong giai đoạn 2001 á 2004, nhờ tiêu thụ hết sản phẩm mà Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) đã có vốn để trả nợ và tích luỹ trong quá trình tiếp theo. Để đẩy mạnh công tác tiêu thụ, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) cần thực hiện các chính sách Marketing sau: * Chính sách sản phẩm: Để xây dựng một chính sách sản phẩm hợp lý, trước hết doanh nghiệp phải dựa trên kết quả nghiên cứu thị trường, phân tích vòng đời giá cả của sản phẩm, phân tích nhu cầu tình hình cạnh tranh trên thị trường. Một chính sách sản phẩm được coi là đúng đắn khi nó giúp cho doanh nghiệp có sự tiêu thụ chắc chắn, có lợi nhuận và mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín sản phẩm của doanh nghiệp. Chính sách sản phẩm là nền tảng, là xương sống của chiến lược chung marketing. Trong cơ chế thị trường, vấn đề quan trọng bậc nhất đối với mỗi doanh nghiệp là phải xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và đảm bảo thoả mãn nhu cầu đa dạng của thị trường, cả nhu cầu muôn màu muôn vẻ của người tiêu dùng. Chỉ khi hình thành được chính sách sản phẩm, Công ty mới có phương hướng đầu tư, nghiên cứu thiết kế, sản xuất hàng loạt. Nếu chính sách sản phẩm không đảm bảo một sự tiêu thụ chắc chắn nghĩa là Công ty không có thị trường chắc chắn về sản phẩm thì những hoạt động nói trên sẽ rất mạo hiểm. Chỉ khi thực hiện tốt chính sách sản phẩm thì các chính sách giá cả, phân phối, giao tiếp và khuyếch trương mới có điều kiện triển khai một các có hiệu quả. Từ những nhận thức trên đây, ta thấy chiến lược sản phẩm có vai trò to lớn đối với sự phát triển sản xuất, kinh doanh đúng hướng, gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa kế hoạch và thị trường bảo đảm việc đưa sản phẩm hàng hóa ra thị trường được người tiêu dùng chấp nhận và sau đó đảm bảo việc phát triển và mở rộng thị trường trên cơ sở coi trọng công tác cải tiến và chế thử sản phẩm mới cũng như việc theo dõi sát sao chu kỳ sống của sản phẩm; bảo đảm việc đưa sản phẩm ra thị trường được tiêu thụ với tốc độ nhanh trên cơ sở áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm giành thắng lợi trong cạnh tranh. Chính sách sản phẩm bao gồm những công việc sau: Nghiên cứu và dự báo hướng phát triển của sản phẩm trong tương lai, đánh giá công dụng của sản phẩm hiện có, vạch ra chính sách chủng loại hợp lý, nghiên cứu hoàn thiện bao bì sản phẩm; nghiên cứu và đề xuất việc chế tạo sản phẩm mới, xác định khả năng tiêu thụ sản phẩm mới, đánh giá những sản phẩm mới đưa vào sản xuất và chu kỳ sống của sản phẩm... * Chính sách giá cả: chính sách giá đối với mỗi sản phẩm của các đơn vị sản xuất, kinh doanh là việc quy định mức giá bán hoặc trong một số trường hợp là nhiều mức giá. Chính sách giá của một số sản phẩm không được quy định một cách cứng nhắc khi tung sản phẩm ra thị trường mà nó được xem xét lại một cách định kỳ trong suốt "vòng đời sản phẩm" tùy theo những thay đổi về mục tiêu của Công ty, sự vận động của thị trường và chi phí của Công ty, tùy theo chính sách của các đối thủ cạnh tranh... việc quy định giá cả có ảnh hưởng to lớn đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ của Công ty. Nó thường xuyên là tiêu chuẩn quan trọng trong việc mua và lựa chọn khách hàng. Giá cả có tác động mạnh mẽ đến thu nhập và do đó đến lợi nhuận của Công ty. Mặc dù trên thị trường hiện nay, cạnh tranh về giá cả đã nhường vị trí hàng đầu cho cạnh tranh về chất lượng và thời gian nhưng giá cả vẫn có vai trò quan trọng đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, nhất là trong nền kinh tế Việt Nam. Rõ ràng, giá cả vẫn giữ một vị trí quan trọng trong quá trình tái sản xuất. Giá cả biểu hiện tập trung các quan hệ về lợi ích kinh tế và vị trí, vai trò của doanh nghiệp trên thị trường. Vì thế, việc xác lập một chính sách giá cả đúng đắn là điều kiện cực kỳ quan trọng đối với Công cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh có lãi, đạt hiệu quả cao và chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên, giá cả chịu tác động của rất nhiều nhân tố nên sự hình thành và vận động của nó rất phức tạp. Việc xác lập chính sách giá cả hợp lý đòi hỏi phải giải quyết tổng hợp nhiều vấn đề. * Chính sách phân phối: Phân phối trong marketing là những quyết định đưa hàng hóa vào các kênh phân phối, một hệ thống tổ chức và công nghệ điều hòa, cân đối thực hiện hàng hóa nơi sản xuất đến các khách hàng cuối cùng nhanh nhất nhằm đạt lợi nhuận tối đa. Chính sách phân phối hợp lý sẽ làm cho quá trình kinh doanh an toàn, tăng cường được khả năng liên kết trong kinh doanh, giảm được sự cạnh tranh và làm cho quá trình lưu thông hàng hóa nhanh và hiệu quả. Mạng lưới phân phối sản phẩm của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) hiện nay là tương đối tốt. Vị trí của trạm sản xuất bê tông của công ty được đặt trên trục đường giao thông thuận tiện cho các phương tiện vận tải việc phân phối sản phẩm đến các khách hàng trong thành phố cũng như trong các vùng lân cận. Một trạm bê tông khác của Công ty được đặt tại Quảng Ninh nhằm cung cấp sản phẩm bê tông tươi cho thị trường Đông Bắc Bắc Bộ một cách thuận tiện nhất. Ngoài ra, Công ty còn có một hệ thống xe tải vận chuẩn Bê tông có công suất cao luôn sẵn sàng phục vụ khách hàng. * Chính sách quảng cáo, giao tiếp và khuyếch trương: để đảm bảo công tác tiêu thụ sản phẩm đạt hiệu quả cao hơn nữa, Công ty cần chú ý công tác quảng cáo, giao tiếp và khuếch trương. Đây là những biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm rất tốt. Tuy nhiên, do Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) mới thành lập, nên công tác quảng cáo và khuếch trương lại càng co vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. V. Đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên: Trong giai đoạn hiện nay, trước sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, nhất là trong lĩnh vực xây dựng thì Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) cần có những giải pháp nhất định về đào tạo và quản lý đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty như: * Chú ý tới khâu tuyển lao động đầu vào, thực hiện tuyển chọn chặt chẽ, vừa nâng cao được mặt bằng chung về trình độ và tay nghề, vừa giảm bớt chi phí đào tạo không cần thiết. * Đối với hàng ngũ lãnh đạo và các cán bộ chủ chốt cần phải được đào tạo có cơ bản, hệ thống về cách tổ chức quản lý kinh doanh, về pháp luật kinh tế, tiền tệ tín dụng... để họ có thể trở thành một đội ngũ doanh nhân có năng lực, có phẩm chất bằng cách mời chuyên gia giỏi của nước ngoài đến giảng dạy tại Việt Nam, hoặc gửi họ đi học ở nước ngoài. * Đối với đội ngũ đốc công, trưởng ca, tổ trưởng sản xuất phải được hưởng một chế độ lương, thưởng hợp lý nhằm động viên, khuyến khích họ điều hành tốt một tổ, một ca sản xuất cụ thể. * Thực hiện đào tạo cho công nhân thông qua các cuộc thi nâng bậc để đánh giá phân bậc công nhân từ đó có phương thức đào tạo lại. * Tạo cho cán bộ công nhân viên nhận thấy rõ quyền lợi của mình gắn liền với chất lượng sản phẩm. Có chế độ thưởng phạt rõ ràng. Trong công ty, giám đốc là người quản lý doanh nghiệp và là người trực tiếp sử dụng lao động. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước vẫn cần chỉ đạo và hướng dẫn phương pháp xây dựng hệ thống tiền lương, định mức lao động, đơn giá tiền lương, quy định tiền lương bình quân theo ngành gắn với NSLĐ để các doanh nghiệp làm cơ sở tính chi phí tiền lương trong giá thành và phí lưu thông. Bên cạnh đó, công ty cần xây dựng quy chế trả lương của đơn vị mình để có điều kiện thực hiện việc gắn hưởng thụ theo mức độ cống hiến và làm cơ sở cho việc thực hiện quyền dân chủ của người lao động trong công ty. VI. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS). Qua quá trình thực tập tại Công ty tôi thấy công tác đấu thầu của công ty còn nhiều bất cập. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của công ty tôi xin kiến nghị một số vấn đề chủ yếu sau: Một là, Công ty cần tăng cường năng lực thu thập và nắm bắt thông tin liên quan đến dự án và gói thầu, nâng cao trình độ kỹ thuật xây dựng hồ sơ dự thầu; đổi mới cơ cấu và hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý điều hành dự án để giảm thiểu các chi phí chung, chi phí máy móc, thiết bị đồng bộ hiện đại và đổi mới công nghệ thi công; tăng cường khả năng liên doanh liên kết với các nhà thầu nước ngoài; thực hiện chuyên môn hoá cao kết hợp với đa dạng ngành nghề, đặc biệt chú trọng đến việc khai thác, sản xuất vật liệu và các cấu kiện xây dựng nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công, hạ giá thành xây lắp. Hai là, về cơ chế chính sách của Nhà nước, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý về đầu tư và xây dựng theo hướng củng cố và nâng cao năng lực của chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn với những quy định nghiêm ngặt về tổ chức bộ máy, phẩm chất, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, ràng buộc chặt chẽ về trách nhiệm vật chất trước chủ đầu tư, tránh sự lạm dụng vai trò của họ trong quan hệ với nhà thầu; nghiên cứu hình thức hỗ trợ thích hợp về tài chính. lời kết Trong giai đoạn hiện nay, việc đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh đã và đang làm thay đổi những yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước. Đối với Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS), việc tiếp tục đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong giai đoạn 2005 - 2008 là vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách. Nâng cao khả năng cạnh tranh chẳng những quyết định sự sống còn của Công ty trong cơ chế thị trường mà còn tạo ưu thế cho Công ty về chất lượng và sản lượng sản phẩm trên thị trường. Dựa trên cơ sở lý luận về đầu tư và cạnh tranh cùng với tình hình thực tế của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS), em đã mạnh dạn phân tích thực trạng về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của Công ty trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, cũng như đề xuất một số biện pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp Công ty tiếp tục phát triển và tăng trưởng ổn định và bền vững. Tuy nhiên, do còn hạn chế về trình độ và thời gian nên bài chuyên đề này chắc chắn không tránh khỏi một số sai sót. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Hồng Minh cũng như các cô chú trong Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS) đã giúp em hoàn thành bài chuyên đề tốt nghiệp này. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình: Kinh tế đầu tư . Chủ biên: TS. Nguyễn Bạch Nguyệt – TS. Từ Quang Phương 2. Giáo trình: Lập và quản lý dự án đầu tư. Chủ biên: TS. Từ Quang phương 3. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp . 4. Kinh tế và dự báo số 5, 6/2003. 5. Phát triển kinh tế số3/2002. 6. Thị trường Tài chính tiền tệ số 4/2004. 7. Con số và sự kiện số 2/2003; 6/2004. 8. Quy chế mới về quản trị tài chính DNNN. 9. Kết quả điều tra thực trạng DNNN, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động Thương nghiệp, Khách sạn, Nhà hàng, Du lịch và dịch vụ. 10. Nghị định 338/HĐBT, Quyết định 315/HĐBT, Chỉ thị 500/Ttg, Nghị định 59/CP của Chính phủ. 11. Luật Doanh nghiệp Nhà nước. 12. “Nâng cao năng lực cạnh tranh” của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương; Xb năm 2003. 13. “Chính sách cạnh tranh ở Việt Nam” Nxb Lao động 14. “Cạnh tranh cho tương lai”- Thái Quang Sa 15.“Mưu lược trong kinh doanh”- Hoàng Văn Tuấn, Nxb Thanh niên – 1999 16. Các tạp chí và báo khác. ….. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0078.doc
Tài liệu liên quan