Đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh hải dương

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một dạng đầu tư quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, nhất là các các quốc gia đang phát triển. Đối với nước ta hơn 13 năm qua kể từ khi luật đầu tư nước ngoài ra đời, FDI đã góp phần đáng kể trong tăng trưởng kinh tế đất nước. Trong 10 năm (1991-2000) đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thực hiện được khoảng 15 tỷ USD chiếm 1/4 tổng đầu tư toàn xã hội, thu hút trên 30 vạn lao động, riêng 5 năm (1995-2000

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh hải dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
) tạo ra 22% kim ngạch xuất khẩu, 10% GDP. Như vậy, FDI đã đóng góp không nhỏ vào việc tăng trưởng kinh tế, tăng nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, tăng xuất khẩu, giải quyết việc làm. Tuy nhiên, cho đến nay do hậu quả của khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, FDI có chiều hướng giảm sút, điều đó đòi hỏi phải tăng cường tính hấp dẫn của các giải pháp thu hút. Là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ, Hải Dương có vị trí và một số thế mạnh nhất định trong thu hút FDI, như đội ngũ lao động trẻ đông đảo, điều kiện tự nhiên, địa lý thuận lợi, nằm giữa hai thành phố lớn (và hai trung tâm kinh tế của cả nước) đó là Hà Nội và Hải Phòng. Hải Dương cũng là một tỉnh có sự chuyển dịch cơ cấu sớm, quá trình CNH, HĐH đang được thúc đẩy, nhất là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên trong những năm vừa qua, việc thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hải Dương còn hết sức hạn chế cả về số lượng, cũng như quy mô cơ cấu dự án. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản, thực phẩm là lĩnh vực rất cần thiết phải thu hút đầu tư, song về cơ cấu mới chiếm 7,3% tổng vốn đầu tư. Nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh từ nay đến năm 2010 đang đặt ra những vấn đề cấp bách. Theo tính toán của tỉnh, để phát triển, từ nay đến năm 2010 cần một lượng vốn rất lớn, song khả năng chỉ có thể đáp ứng được 43% nhu cầu, số còn lại 57% phải huy động từ nguồn bên ngoài trong đó có nguồn quan trọng là FDI. Vì vậy việc nghiên cứu để tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI đối với tỉnh trở thành vấn đề cấp bách. Đó là lý do lựa chọn đề tài ''Đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải Dương'' làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu luận văn Về đầu tư trực tiếp nước ngoài trên phạm vi cả nước đã có nhiều công trình nghiên cứu và được công bố, chẳng hạn như: - Nguyễn Huy Thám: Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam, luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 1999. - Phan Hy: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh, luận án thạc sĩ kinh tế, Hà Nội, 1996. - Lê Xuân Trinh: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển khu công nghiệp, Tạp chí Cộng sản, số 1/1998. - Thúy Hương: Tổng quan đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 11 năm qua và năm 1998, Tạp chí Thương mại, số 3 + 4 tháng 2/1999. Trong các công trình đó, các tác giả đã có nhiều đóng góp quan trọng, làm rõ tính hai mặt của FDI, đề xuất các chính sách, giải pháp cốt lõi của nhà nước đối với việc thu hút FDI vào nước ta. Vấn đề thu hút FDI của Hải Dương cho đến nay chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, thường mới được đề cập ở mức độ các báo cáo của các cơ quan chức năng. Chẳng hạn như: - Báo cáo công tác đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Sở Kế hoạch và Đầu tư, 28/02/1997. - Báo cáo đầu tư nước ngoài tại Hải Dương, Ban kinh tế Tỉnh ủy, 10/04/1997. - Báo cáo đầu tư nước ngoài tại Hải Dương, Sở Kế hoạch và Đầu tư, 14/01/1998. - Tóm tắt kết quả triển khai đầu tư trực tiếp trên địa bàn tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, 20/03/1998. - Báo cáo đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Sở Kế hoạch và Đầu tư, 18/05/1999. - Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài, tại cuộc gặp mặt các nhà đầu tư nước ngoài tại Hải Dương, ngày 10/06/1999. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào phân tích một cách toàn diện, đầy đủ, sâu sắc vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn Trên cơ sở phân tích vai trò, thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh, vạch ra những mặt được, mặt chưa được, luận văn đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào tỉnh Hải Dương. Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra của luận văn là: - Đánh giá vai trò của FDI đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Hải Dương. - Phân tích thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua và những vấn đề cấp bách đang đặt ra. - Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải Dương từ năm 1990 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu - Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Kết hợp lý luận, quan điểm đường lối của Đảng với thực tiễn địa phương để lý giải những vấn đề mà chủ đề đặt ra. - Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, đối chiếu so sánh thu hút FDI giữa các địa bàn trong tỉnh cũng như Hải Dương với một số tỉnh khác... để làm rõ tính đặc thù của tỉnh. 6. ý nghĩa của luận văn Qua nghiên cứu, luận văn đề xuất những định hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung của Hải Dương và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với việc giảng dạy nghiên cứu về FDI cũng như đối với cơ quan hoạch định chính sách đối ngoại của tỉnh. 7. Kết cấu luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3 chương 6 tiết Chương 1 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với Hải Dương và những nhân tố tác động đối với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1. đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng 1.1.1. Một số vấn đề chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam Vốn đầu tư là một yếu tố cực kỳ cần thiết để mở rộng quy mô và đổi mới công nghệ của các hoạt động kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy tất cả các quốc gia đang phát triển đều thiếu vốn đầu tư để thực hiện quá trình CNH, HĐH. Nếu không có nguồn vốn lớn và công nghệ cao thì không thể khai thác triệt để các lợi thế so sánh của đất nước. Trong hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều nguồn vốn khác nhau. Vốn chính phủ và các tổ chức quốc tế, có thể là viện trợ không hoàn lại, vốn cho vay ngắn hạn, vốn lãi suất ưu đãi hoặc cho vay với lãi suất thông thường. Vốn của các tổ chức xã hội (các cơ quan phi chính phủ) thường là các khoản tiền viện trợ mang tính chất nhân đạo cho các hoạt động y tế, giáo dục, khắc phục hậu quả thiên tai và nói chung nó không được tính vào các hoạt động đầu tư. Vốn tư nhân bao gồm vốn của người nước ngoài và vốn của người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện đầu tư trực tiếp vào một dự án cụ thể [21, 9]. Đầu tư nước ngoài hay còn gọi là đầu tư quốc tế (xuất khẩu tư bản) là hình thức di chuyển vốn từ nước này sang nước khác nhằm mục đích thu lợi nhuận. Vốn đó có thể là vốn Nhà nước, vốn tư nhân (còn gọi là các nhà đầu tư) hoặc vốn của các tổ chức tài chính quốc tế. Vốn đầu tư nước ngoài có thể đóng góp dưới các dạng tiền tệ (ngoại tệ, nội tệ), các vật thể hữu hình (hàng hóa, tư liệu sản xuất, nhà xưởng, tài nguyên thiên nhiên) hoặc các phương tiện đầu tư đặc biệt khác như cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán có giá khác. Hoạt động đầu tư nước ngoài đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn đối với nền kinh tế thế giới và là một đặc trưng kinh tế của CNTB. Trong tác phẩm chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của CNTB, Lênin cũng đã chỉ rõ việc xuất khẩu giá trị nhằm thu được giá trị thặng dư ở ngoài biên giới quốc gia (xuất khẩu tư bản) đã trở thành một đặc trưng kinh tế của CNTB khi bước sang giai đoạn CNTB độc quyền [30]. Điều đó khẳng định sự xuất hiện và gia tăng đầu tư nước ngoài là một tất yếu kinh tế gắn liền với sự phát triển LLSX và quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới. Vốn ĐTNN được biểu hiện ở một số dạng cơ bản sau: - Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance) gọi tắt là ODA. Đây là nguồn vốn viện trợ song phương hoặc đa phương với một tỷ lệ là viện trợ không hoàn lại, phần còn lại chịu lãi suất thấp, còn thời gian dài hay ngắn tùy thuộc vào từng dự án. Đây cũng là nguồn vốn của Chính phủ nước ngoài hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức quốc tế, tổ chức liên Chính phủ, phi Chính phủ, hoặc là nguồn ODA hỗn hợp bao gồm một phần của Chính phủ nước ngoài, một phần do các doanh nghiệp hoặc tổ chức phi Chính phủ đóng góp. Vốn ODA có thể đi kèm hoặc không đi kèm điều kiện chính trị hoặc nơi chi tiêu, mua sắm. - Vốn FDI (Foreign Direct Investment): là nguồn vốn đầu tư chủ yếu của tư nhân, một phần của Nhà nước đầu tư vào một quốc gia nào đó nhằm kiếm lợi nhuận thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh ngay tại nước nhận đầu tư. - Nguồn vốn tín dụng thương mại: Là nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu giữa các nước và theo một nghĩa nào đó thì đây cũng là hỗ trợ cho đầu tư nước ngoài. - Nguồn vốn từ việc bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu, đây được coi là nguồn vốn mà trong nước muốn thu về thông qua hoạt động bán các loại giấy tờ có mệnh giá cho người nước ngoài. Có nước coi việc mua chứng khoán cũng là hoạt động đầu tư trực tiếp. Bốn nguồn vốn kể trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng quan trọng và chiếm tỷ lệ cao trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn ODA và nguồn FDI, trong đó ODA là loại đầu tư gián tiếp còn FDI thuộc loại đầu tư trực tiếp. Nếu một nước đang phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thì cũng khó có thể thu hút được vốn FDI, cũng như vay vốn tín dụng để sản xuất kinh doanh. Nhưng nếu chỉ tìm kiếm các nguồn vốn ODA mà không tìm cách thu hút các nguồn FDI và các nguồn tín dụng khác thì Chính phủ sẽ không có đủ thu nhập trả nợ cho các nguồn vốn vay ODA. Kinh nghiệm thành công trong kinh tế của một số nước cho thấy cần có chính sách huy động vốn trong nước để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả nguồn ODA cho các dự án, mở đường cho hoạt động xuất nhập khẩu và thu hút FDI sau này, trong đó vấn đề mang tính quyết định là tính chủ động của nước tiếp nhận vốn vay. Việc sử dụng vốn ODA không đúng dễ dẫn đến phụ thuộc vào nước cho vay không chỉ về kinh tế mà có khi cả về chính trị. Điều đó đòi hỏi phải tìm kiếm thêm nguồn vốn ĐTNN khác ngoài ODA, và FDI đã là một trong những nguồn được ưu tiên lựa chọn. FDI, một hình thức hợp tác kinh doanh quốc tế phổ biến hiện nay, được hiểu một cách khái quát đó là loại hình kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn để thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư, nhờ đó cho phép họ có quyền quản lý, điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó [49, 12]. Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1996), thì FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào để tiến hành đầu tư theo quy định của luật này [29, 6]. Đặc điểm nổi bật của FDI là các nhà ĐTNN tự kiểm soát hoạt động và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh của mình, mục tiêu chính của các nhà đầu tư trực tiếp là tối đa hóa lợi nhuận. Trong các doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh thì lãi hoặc lỗ được chia theo tỉ lệ góp vốn (theo vốn pháp định) sau khi đã nộp thuế cho nước chủ nhà. FDI có thế mạnh và đặc điểm riêng của nó, ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên, mức độ khả thi của dự án cao, quyền lợi các bên gắn chặt với dự án. Trong quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam, FDI có vai trò quan trọng. Vai trò đó được biểu hiện trên các khía cạnh sau: Thứ nhất: FDI cung cấp một nguồn vốn bù đắp sự thiếu hụt của nguồn vốn trong nước. Trong mối quan hệ giữa các nguồn vốn đầu tư: Đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, đầu tư trực tiếp, viện trợ, hỗ trợ phát triển... thì đầu tư trong nước là nguồn đầu tư chủ yếu nhất đối với nền kinh tế đất nước. Đó là một vấn đề có tính qui luật, song trong điều kiện nguồn đầu tư trong nước đang gặp khó khăn thì vấn đề tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên nguyên tắc bảo đảm chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc là rất cần thiết. ở nước ta, FDI trở thành nguồn vốn bổ sung đáp ứng nhu cầu về vốn cho CNH, HĐH đất nước. Trong suốt thời kỳ 1995 - 1999 FDI đã đóng góp bình quân (khoảng 27%/ năm) tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản (xem bảng 1). Bảng 1: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội 1995-1999 theo giá hiện hành phân theo nguồn vốn Đơn vị tính: Tỷ đồng 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số 1- Vốn Nhà nước + Vốn ngân sách Nhà nước - Trung ương - Địa phương + Vốn tín dụng + Vốn tự có của các doanh nghiệp Nhà nước 2- Vốn ngoài quốc doanh 3- Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài 68.047,8 26.047,8 13.575,0 7.828,0 5.747,0 3.064,0 9.408,8 20.000,0 22.000,0 79.367,4 35.894,4 16.544,2 8.968,6 7.575,6 8.280,0 11.070,0 20.773,0 22.700,0 96.870,4 46.570,4 20.570,4 9.861,3 10.709,1 12.700,0 13.300,0 20.000,0 30.300,0 97.336,1 52.536,1 22.208,9 10.076,5 12.132,4 10.214,8 20.112,4 20.500,0 24.300,0 103.900,0 64.000,0 26.000,0 16.000,0 10.000,0 19.000,0 19.000,0 21.000,0 18.900,0 Nguồn: [34]. Thực tế những năm qua FDI đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước với trên 15 tỷ USD, chiếm 1/4 tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ FDI vào nước ta có bị giảm sút song đây vẫn là một nguồn vốn quan trọng. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến ngày 27-6-2000 vốn đầu tư thực hiện tại các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ước đạt 600 triệu USD so với cùng kỳ năm ngoái, doanh thu của các doanh nghiệp FDI ước đạt 2,6 tỷ USD, tăng 33%; kim ngạch xuất khẩu đạt 1,592 tỷ USD, tăng 36%; nhập khẩu 1,905 tỷ USD, tăng 27%. 6 tháng đầu năm 2000, có 53 dự án bổ sung vốn đầu tư 136 triệu USD. Như vậy FDI giúp Việt Nam giải quyết một phần khó khăn về vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội [11, 4] Thứ hai: Cùng với tiếp nhận FDI có thể tiếp thu công nghệ hiện đại, kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến của các nước đi trước thông qua các dự án đầu tư. Đứng về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với các nước nhận đầu tư, FDI có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật công nghệ trong các nước nhận đầu tư, góp phần tăng sức sản xuất của lao động, thúc đẩy phát triển các nghề mới đặc biệt là đối với các ngành kinh tế mới, có hàm lượng kỹ thuật cao, vì thế nó có vai trò lớn đối với quá trình CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu, tăng trưởng kinh tế nhanh ở các nước nhận đầu tư. Mặc dù trong quá trình chuyển giao công nghệ hiện đại còn có những mặt hạn chế do có những yếu tố khách quan và chủ quan chi phối, song điều dễ dàng nhận thấy là chính nhờ có sự chuyển giao đó mà các nước chủ nhà có được kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và năng lực Maketing, đội ngũ lao động được đào tạo, bồi dưỡng về nhiều mặt. Thứ ba: Bước đầu tạo ra một số lượng lớn việc làm góp phần giải quyết khó khăn về việc làm cho người lao động. Tính đến ngày 30-9-2000, các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm trực tiếp cho trên 335 nghìn lao động, những nước và khu vực có nhiều dự án đầu tư tại Việt Nam cũng là những nước và khu vực dẫn đầu về tuyển dụng lao động Việt Nam. Chỉ riêng số lao động trong các dự án đầu tư của Đài Loan, Hồng Kông, Nhật, Hàn Quốc đã chiếm tới 71% tổng số lao động của toàn bộ khu vực kinh tế này. Trong số đó các dự án của Hồng Kông sử dụng 74.500 lao động, Hàn Quốc 67.900 lao động, Đài Loan 65.000 lao động [12]. Như vậy, các dự án FDI góp phần tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới và tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tương đối cao so với các khu vực khác, mức lương tối thiểu từ 40 - 45 USD/ người/ tháng. Trong quá trình lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người lao động phát huy được năng lực, vươn lên đảm nhận được những công việc có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, có kinh nghiệm, quản lý giỏi, có uy tín đối với đối tác bên ngoài. Bốn là: FDI đã góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng xuất khẩu, từ đó tăng thêm nguồn thu từ xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ và đóng góp vào thu ngân sách Nhà nước. Từ năm 1995 - 1999 đã đóng góp và chiếm tỷ lệ trong GDP khoảng từ 6,3% đến 11,75%/ năm (xem bảng 2). Bảng 2: Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành phân theo thành phần kinh tế (1995 - 1999) Đơn vị tính: Tỷ đồng Thành phần kinh tế 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số 228.892 272.036 313.623 361.016 399.942 - Kinh tế Nhà nước 91.977 108.634 126.970 144.406 157.894 - Kinh tế tập thể 23.020 27.271 27.946 32.131 34.401 - Kinh tế tư nhân 7.139 9.103 10.590 12.325 13.574 - Kinh tế hỗn hợp 9.881 11.026 12.035 13.802 14.528 - Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 14.428 10.106 28.450 36.214 47.007 Nguồn: [34, 21] Với vai trò quan trọng của FDI, Đảng ta xác định: "Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam", và chiến lược phát triển là: "Hướng vào mục tiêu phát triển của các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm" [19, 74, 25]. FDI có tác động tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam, song FDI cũng có những mặt hạn chế. Đó là: - Nguồn vốn do FDI mang lại cho nền kinh tế Việt Nam trên thực tế do chủ đầu tư quản lý trực tiếp và sử dụng theo những mục tiêu cụ thể của mình nằm trong khuôn khổ pháp luật của nước chủ nhà. - Nhiều nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đã lợi dụng chỗ sơ hở trong luật pháp và trong quản lý để trốn thuế, gây tác hại đến môi trường sinh thái và lợi ích của nền kinh tế. - Việc chuyển giao kỹ thuật - công nghệ còn có nhiều tiêu cực như chuyển giao từng phần, không đồng bộ, công nghệ lạc hậu, máy móc thế hệ cũ gây ô nhiễm lớn, giá cả cao hơn so với giá mặt bằng quốc tế (thường là 20%). Nhìn chung đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có những thuận lợi, như tình hình chính trị - xã hội ổn định, chính sách và pháp luật về đầu tư đã có những điều đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của các nhà đầu tư nước ngoài. Với nguồn lao động dồi dào, có tay nghề và bản chất thông minh, cần cù chịu khó, giá nhân công tương đối rẻ và nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú. Đồng thời cũng cần nhìn nhận thấy những khó khăn hạn chế để khắc phục nhằm tăng cường thu hút FDI như cơ sở hạ tầng yếu kém, khả năng về thị trường nội địa còn hạn hẹp do một phần dân cư đang có thu nhập thấp. Hệ thống tổ chức tài chính, ngân hàng, tín dụng còn bộc lộ những yếu kém chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của nền kinh tế đang đổi mới theo cơ chế thị trường, hệ thống chính sách pháp luật, quản lý chưa hoàn chỉnh, khả năng đầu tư của nước ngoài có giới hạn v.v... Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa chiến lược đối với Việt Nam, có thể coi đó là một lĩnh vực quan trọng trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Song, trong những trường hợp nhất định, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp không tránh khỏi những hạn chế, tiêu cực như công nghệ nhập lạc hậu gây ô nhiễm, nhà đầu tư vi phạm Luật đầu tư, người lao động bị bóc lột nặng nề, bị xúc phạm danh dự... 1.1.2. Hải Dương và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh - Đặc điểm tự nhiên, xã hội: Hải Dương là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ, nằm giữa cảng Hải Phòng và Thủ đô Hà Nội, tiếp giáp với 6 tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Phòng. Nằm ở trung tâm của vùng đồng bằng Bắc Bộ và địa bàn trọng điểm phía Bắc, Hải Dương có khả năng phát triển kinh tế nhanh. Địa hình được chia làm hai phần: phần đất núi (chiếm khoảng 10%), phần còn lại là đồng bằng có độ cao trung bình 3 - 4m, đất đai bằng phẳng, màu mỡ phù hợp với việc trồng cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Địa hình bằng phẳng đã tạo cho tỉnh điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông, đường quốc lộ số 5, 18, 183, nối liền các tỉnh phía Bắc với Hải Phòng và Quảng Ninh, đường sắt Hà Nội - Hải Phòng đi qua tỉnh là cầu nối giữa thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía Bắc ra biển. Sông ngòi của tỉnh khá dày đặc có khả năng bồi đắp phù sa cho đồng bằng của tỉnh, đồng thời vận tải đường sông cũng là điều kiện tốt cho việc giao lưu hàng hóa giữa Hải Dương và các tỉnh khác trong vùng. Cũng như các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, với 4 mùa rõ rệt. Lượng mưa vào loại trung bình (1500-1700mm), nhiệt độ trung bình hàng năm là 230C, thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp. Diện tích tự nhiên của Hải Dương là 1.660,78 km2, trong đó đất nông nghiệp chiếm 59,52%, đất lâm nghiệp chiếm 7,3%, đất chuyên dùng 14,19%, đất ở 6,25%, đất chưa sử dụng 14,03%, sông ngòi tự nhiên chiếm 11.055 ha. Tuy tỉnh không có nhiều loại khoáng sản, song lại có một số khoáng sản với giá trị kinh tế cao như: đá vôi, xi măng, có trữ lượng khoảng 200 triệu tấn đủ sản xuất 5-6 triệu tấn xi măng/ năm (Hiện nay sản lượng xi măng Hải Dương sản xuất bằng 1/4 sản lượng xi măng cả nước). Cao lanh 40 vạn tấn, đất sét chịu lửa khoảng 8 triệu tấn.v.v. Đây là nguồn nguyên liệu quý giá để phát triển công nghiệp [40,8]. Theo điều tra dân số năm 1999, dân số Hải Dương có 1.652.992 người. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế 878.698 người, trong đó tỷ lệ lao động phổ thông còn cao (khoảng hơn 80%), tỷ lệ lao động kỹ thuật thấp so với mức trung bình của cả nước. Cán bộ khoa học - kỹ thuật cũng đã được quan tâm đào tạo nhưng về phục vụ cho tỉnh chưa nhiều. Lực lượng cán bộ quản lý hiện nay chưa có đủ kinh nghiệm để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Trong những năm qua số lao động được thu hút vào làm việc trong các ngành kinh tế có tăng lên, song lao động dư thừa vẫn còn nhiều (ước khoảng 10-13%). Nguồn lao động dư thừa và chưa có trình độ ở mức cao như vậy là một vấn đề cấp bách đặt ra cho toàn tỉnh trong giai đoạn tới. Cần tăng cường đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề nghiệp (chất lượng lao động) cho người lao động, khuyến khích đầu tư bằng mọi hình thức tạo thêm các ngành nghề để thu hút lực lượng lao động dư thừa. Nhìn chung, Hải Dương ở vào địa thế khá thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội, phần lớn đất đai thuộc vùng đồng bằng, gần trung tâm phát triển lớn của cả nước là Thủ đô Hà Nội, đồng thời cũng gần cảng biển Hải Phòng, Cái Lân (Quảng Ninh) và các cảng hàng không Nội Bài (Hà Nội), Cát Bi (Hải Phòng). Là tỉnh nằm trong địa bàn trọng điểm phát triển kinh tế phía Bắc, có các đỉnh là Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Vì vậy, tỉnh có điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường trong nước và trên thế giới. Trong 10 năm qua Hải Dương đã tận dụng được lợi thế đó để thu hút FDI, FDI đã giữ một vai trò quan trọng và có những tác động tích cực cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. - Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Hải Dương: Năm 1990 đánh dấu bước mở đầu của việc hợp tác nước ngoài trên địa bàn tỉnh bằng sự ra đời của liên doanh chế tác Kim cương (Việt Nam - Bỉ) và liên doanh tơ lụa Việt - Triều. Trong những năm qua lĩnh vực này đã có những bước phát triển quan trọng, bước đầu góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh thể hiện trên những lĩnh vực chủ yếu sau: + FDI đã góp một phần quan trọng khắc phục tình trạng thiếu vốn cho nhu cầu CNH, HĐH của tỉnh: Mặc dù Hải Dương là một tỉnh được đánh giá cao về kinh tế, song so với nhu cầu của sự phát triển thì tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm trên địa bàn còn rất thấp. Trong tổng đầu tư xây dựng, nguồn FDI chiếm tỷ lệ năm cao nhất là 62,07% (1996) và năm thấp nhất là 1,23%. Từ năm 1996 - 1999 FDI đã đóng góp trong tổng vốn đầu tư xây dựng (bảng 3). Bảng 3: Vốn đầu tư xây dựng trên địa bàn của tỉnh Hải Dương (phân theo hình thức quản lý). Đơn vị tính: triệu đồng Vốn đầu tư và xây dựng 1996 1997 1997 1999 Tổng số 1.439,002 1.272,063 1.542,932 4.442,767 - Trung ương 285,084 2.41,794 1.086,895 4.153,737 - Địa phương 260,672 260,109 257,332 234,494 - Đầu tư nước ngoài 893,246 770,160 198,805 54,533 Nguồn: [33, 109]. Mặc dù, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, nhịp độ thu hút vốn đầu tư vào địa bàn có giảm sút, song FDI đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, khai thác nội lực về vốn đất đai, lao động. Trong điều kiện vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn hẹp, các doanh nghiệp Nhà nước còn có những khó khăn, nguồn vốn trong dân chưa huy động được nhiều thì việc bổ sung được một lượng vốn FDI cũng đã giải quyết và giảm bớt phần nào những khó khăn về vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế thực hiện CNH, HĐH. + FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh: Cơ cấu các ngành trong GDP được chuyển dịch theo hướng phát triển công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong GDP, đây là hướng chuyển dịch lành mạnh. Tuy nhiên, tỷ trọng các ngành nông, lâm nghiệp vẫn còn cao trong khi đó công nghiệp chưa phát triển mạnh, làm cho tỷ trọng dịch vụ trong GDP vẫn còn thấp. Trong những năm tới chuyển đổi cơ cấu theo hướng CNH, HĐH là một mục tiêu cấp bách cho sự phát triển kinh tế của tỉnh. Có thể thấy nhịp độ tăng trưởng và cơ cấu các ngành từ 1996 - 2000 qua các số liệu sau (xem bảng 4). Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu ngành kinh tế từ 1996 - 2000 Đơn vị tính 1996 1997 1998 1999 Dự báo 2000 - GDP (giá hiện hành) tỷ đồng 4.511 4.830 5.694 5.979 6.401 - Nông, lâm nghiệp, thủy sản % 41,8 35,4 35,8 36,8 35,2 - Công nghiệp và xây dựng % 33,9 36,6 35,7 35,0 36,6 - Dịch vụ % 24,3 28,0 28,5 28,2 28,2 Nguồn: [33 ]. + Bước đầu FDI tạo ra một khối lượng lớn việc làm, góp phần giải quyết khó khăn về việc làm cho người lao động. Trong những năm qua FDI đã thu hút khoảng 1.800 lao động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và đặc biệt hai dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn tạo việc làm cho số lao động nông nhàn của gần 1 vạn hộ nông dân và qua đó tăng thu nhập. Mặt khác còn góp phần nâng cao tay nghề cũng như lối làm ăn công nghiệp cho một bộ phận người lao động, đây là điều rất cần thiết cho sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh. + FDI đã góp phần tạo sự tăng trưởng kinh tế, tăng xuất khẩu, từ đó tăng thêm nguồn thu ngoại tệ. Cùng với nguồn thu từ xuất khẩu, còn thu từ các hoạt động dịch vụ, đóng góp vào tăng thu ngân sách Nhà nước. Tỉ lệ thu ngân sách từ các doanh nghiệp FDI ngày một tăng góp phần giảm mức bội chi, chủ động hơn trong cân đối ngân sách của tỉnh. - Về nhu cầu thu hút vốn FDI để phát triển kinh tế: Trong 5 năm (1996-2000) kinh tế Hải Dương từng bước phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, tiếp tục phát huy năng lực của các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế tập trung cho sản xuất, tạo nên mức tăng trưởng khá. Phát triển văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và đã đạt được một số các chỉ tiêu như: - Nhịp độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm (1996-2000) đạt 8,5%/ năm (cả nước 6,7%), kế hoạch là 12%/ năm (bình quân thời kỳ 1991-1995 là 9,7%/ năm). - Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tăng bình quân 14%/ năm. Trong đó công nghiệp trung ương tăng 10,8 %/ năm. Công nghiệp địa phương tăng 14,9 %/ năm. Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 53,3 %/ năm. - Giá trị các ngành dịch vụ tăng bình quân 12,6 %/ năm, thị trường ổn định, hàng hóa phong phú, hoạt động mua bán thuận lợi, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. - Kim ngạch xuất khẩu dự báo năm 2000 đạt 45 triệu USD tăng bình quân 23 %/ năm (thời kỳ 1991 - 1995 tăng 15,5 %/ năm). - Thu ngân sách bình quân tăng 7,8 % năm, (năm 2000 ước tính thu trên 500 tỷ đồng). Chi ngân sách địa phương bình quân tăng 13,6 % năm. Tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước từ GDP đạt 9,2 %/năm [18, 2]. Bên cạnh những chỉ tiêu đạt được, nhìn chung lực lượng sản xuất các ngành kinh tế của Hải Dương còn nhiều mặt hạn chế, như hiệu quả kinh tế thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa đạt được mục tiêu đề ra. Cụ thể là: - Cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm, kinh tế hàng hóa phát triển chưa đồng đều, việc hòa nhập với thị trường trong nước và nước ngoài còn nhiều khó khăn. Sản xuất kinh doanh thiếu ổn định, sản phẩm cạnh tranh kém, tiêu thụ còn khó khăn do sức mua thấp, thị trường chưa được ổn định. - Nông nghiệp phát triển ổn định nhưng cơ cấu chuyển đổi chậm, ngành nghề, dịch vụ trong nông thôn kém phát triển, một số tiến bộ kỹ thuật chưa được áp dụng có hiệu quả trên diện rộng, sản phẩm qua chế biến thấp, thu nhập bình quân trên một đơn vị diện tích chưa cao. - Sản xuất công nghiệp có tốc độ phát triển khá, nhưng không ổn định. Công nghiệp địa phương nhỏ bé về qui mô, trình độ công nghệ lạc hậu, trang thiết bị chưa được đổi mới. Đặc biệt là đối với công nghiệp ngoài quốc doanh còn tình trạng công nghệ quá lạc hậu, chắp vá, thiết bị hầu như chưa được đổi mới. Đa số các cơ sở còn máy cũ kỹ, tân trang lại hoặc tự chế tạo mà nguyên nhân chủ yếu là thiếu vốn, trong khi thủ tục vay vốn còn rườm rà. Mặt khác, công việc nghiên cứu triển khai chưa được chú trọng đúng mức. - Nhịp độ tăng trưởng công nghiệp trong tỉnh chưa đều và chưa ổn định. Công nghiệp địa phương có qui mô nhỏ là chủ yếu, điểm xuất phát thấp và hiệu quả chưa cao, công nghiệp quốc doanh chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo. Các hợp tác xã và các làng nghề tuy có được củng cố và khôi phục, song còn chậm được đổi mới, hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp, tăng trưởng chậm. - Nguồn nhân lực công nghiệp tuy dồi dào nhưng trình độ nghề nghiệp thấp, chưa qua đào tạo hoặc được đào tạo chắp vá (kể cả lao động quản lý), chưa có những chuyên gia đầu đàn ở từng lĩnh vực công nghiệp. Thiếu cán bộ quản lý kinh doanh và các nhà doanh nghiệp giỏi là một khó khăn lớn đang tồn tại. - Cơ sở hạ tầng như (điện, nước, nhà xưởng, thông tin liên lạc...) còn kém và chưa đồng bộ. Thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp địa phương còn hạn hẹp và chưa ổn định, nông sản phục vụ cho công nghiệp chế biến dồi dào nhưng còn phân tán. Cho đến nay công nghiệp của tỉnh đang đứng trước những thử thách lớn. - Chính sách thu hút vốn đầu tư: Ngoài yếu tố thị trường và con người thì vốn đóng v._.ai trò quan trọng để phát triển công nghiệp. Vốn và công nghệ là hai vấn đề đi liền nhau. Để thu hút được vốn đầu tư thì vấn đề quan trọng nhất phải bảo đảm cho các nhà đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận mà họ mong muốn, còn tỉnh tiết kiệm được đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chủ động trong việc xử lý ô nhiễm môi trường, thuận lợi cho quản lý và điều hành. - Lựa chọn những ngành chế biến phù hợp với điều kiện của tỉnh: Hải Dương nằm cạnh Hà Nội và Hải Phòng là hai thành phố có công nghiệp chế biến phát triển ở mức cao vì vậy việc lựa chọn ngành, sản phẩm có triển vọng, xác định ngành mũi nhọn có qui mô thích hợp để đủ sức cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong vùng, toàn quốc và quốc tế cần được cân nhắc kỹ lưỡng [39, 17]. Để thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng GDP bình quân đầu người đạt 8 - 8,5% năm, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH trong 5 năm 2001 - 2005, dự kiến số vốn đầu tư toàn tỉnh phải đạt tới là 14.500,16 tỷ đồng (giai đoạn 1996 - 2000 là: 11.771,93 tỷ đồng), đó là một chỉ tiêu đòi hỏi phải có cố gắng lớn. Theo báo cáo của tỉnh trong kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 tổng mức đầu tư trên địa bàn tỉnh thực hiện là 11.771,93 tỷ đồng, trong đó vốn địa phương quản lý là 2.951,83 tỷ đồng chiếm 25,08%, vốn do Trung ương quản lý là 8.820,10% tỷ đồng chiếm 74,92%, vốn nước ngoài 1.876,00 tỷ đồng trong đó trực tiếp đầu tư là 1.736,00 tỷ đồng chiếm 92,54% và vốn liên doanh là 140,00 tỷ đồng chiếm 7,46% [18]. Bảng 5: Nhu cầu vốn giai đoạn 1997 - 2020 Đơn vị tính: Nghìn tỷ đồng Nhu cầu vốn 1997 - 2000 2001 - 2010 2010 - 2020 Tổng vốn 13,9 143,3 585,0 Công nghiệp 7,4 72,5 300,7 Nông nghiệp 2,4 13,4 36,1 Dịch vụ 4,1 57,4 248,2 Nguồn: [39]. Nhu cầu về vốn đầu tư có thể tính cho thời kỳ 1997 - 2000 khoảng 14 nghìn tỷ đồng, thời kỳ 2001 - 2010 hơn 143 nghìn tỷ đồng và thời kỳ 2011 - 2020 là 585 nghìn tỷ đồng (xem bảng 5) Với nhu cầu vốn trên, khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội để thực hiện được quy hoạch tổng thể do tỉnh đề ra là một vấn đề hết sức phức tạp. Nó liên quan trực tiếp đến phía cung, phía cầu vốn, định chế chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ, trong đó vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước là rất quan trọng. Nhu cầu vốn rất lớn, song theo tính toán thì khả năng nguồn vốn tự có chỉ đáp ứng được khoảng 43% so với nhu cầu, phần còn thiếu khoảng 57% phải huy động từ nhiều nguồn khác nhau như vay vốn tín dụng, hợp tác liên doanh, kêu gọi các nước và các tổ chức quốc tế hỗ trợ vốn ODA, FDI v.v... [39, 100]. 1.2. Các nhân tố cơ bản tác động đến quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương 1.2.1. Các nhân tố bên ngoài Việc thu hút FDI vào Hải Dương là xuất phát từ nhu cầu tự thân, từ chính yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời còn phù hợp với xu thế chung của cả nước. Trong tình hình chính trị thế giới và xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới đã phát triển với tốc độ khá cao trong những năm gần đây, quy mô hoạt động thương mại đầu tư mở rộng nhanh chóng, dòng vốn chu chuyển trở nên đa dạng. Mặc dù nền kinh tế thế giới chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu á, nhưng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 2 năm 1998 - 1999 vẫn tăng, FDI của thế giới năm 1998 tăng 40% so với năm 1997 và FDI năm 1999 tăng 25% so với năm 1998 đạt gần 800 tỷ USD. Trong năm 1998 - 1999 những nước kinh tế phát triển là những nước tiếp nhận được nguồn FDI nhiều nhất. Liên minh châu Âu (EU) là một trong những khu vực tiếp nhận nhiều nhất vốn FDI của thế giới (năm 1999 FDI vào EU đạt 280 - 290 tỷ USD), trong khi đó vốn FDI vào các nước đang phát triển bị chậm lại. Năm 1998, tất cả các nước đang phát triển nhận được 166 tỷ USD và khoảng 2/3 số vốn tập trung cho 10 nước. Trung Quốc và Brazil là 2 nước nhận được nhiều nhất, riêng Trung Quốc chiếm tới 1/2 tổng số vốn cho các nước đang phát triển. Điều đáng quan tâm là Trung Quốc không rơi vào khủng hoảng nhưng đầu tư vào Trung Quốc năm 1999 đã giảm mạnh. Theo số liệu của Bộ hợp tác kinh tế và mậu dịch Trung Quốc, FDI vào Trung Quốc năm 1998 là 45,5 tỷ USD, giảm đi vào năm 1999 và chỉ đạt 32,1 tỷ USD, nghĩa là giảm đi 10,5%. Xu hướng giảm sút dòng FDI tại Trung Quốc phản ánh thực trạng đáng lo ngại đang xảy ra là nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, tình trạng thất thoát vốn và nạn tham nhũng tràn lan. Để tạo ra sự hấp dẫn các nhà đầu tư, Chính phủ Trung Quốc đã cải cách thể chế, môi trường đầu tư. Khu vực Đông Nam á 1998 đã tiếp nhận 86 tỷ USD, nhưng năm 1999 theo đánh giá của UNTAD giảm 11% và chỉ đạt khoảng 78 tỷ USD. Hầu hết các nước đều có mức tiếp nhận FDI thấp hơn năm trước, thí dụ Malayxia giảm 27%, Singapore giảm 25%, Việt Nam giảm 40%, riêng Indonexia nước gặp khó khăn nhất thì FDI không những không đổ vào mà dòng vốn chảy ra ước tính là 356 triệu USD. Hai nước Hàn Quốc, Thái Lan có tốc độ phục hồi kinh tế nhanh, do đó năm 1998 Hàn Quốc đã tiếp nhận 5,1 tỷ USD tăng gấp 4 lần so với mức trung bình hàng năm trong thời kỳ đầu thập kỷ 90. FDI vào Thái Lan năm 1998 là 7 tỷ USD, cao gấp đôi năm 1997. Đánh giá chung năm 1998 FDI vào ASEAN là 18 tỷ USD, nhưng 6 tháng đầu năm 1999, khu vực này mới tiếp nhận được 6,2 tỷ USD. Như vậy dòng FDI vào ASEAN năm 1999 đã giảm đáng kể [27, 67]. Trong bối cảnh xu hướng vận động của nguồn FDI tập trung vào các nước công nghiệp phát triển, cùng với nhiều khó khăn gay gắt do thiên tai và tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ, suy thoái kinh tế của khu vực đã làm cho việc thu hút FDI trở nên khó khăn hơn. Bối cảnh đó đã tác động cản trở thu hút FDI của nước ta trong thời gian qua. ở Việt Nam từ năm 1998 - 1999 cả nước đã có 2.800 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký 37.088,4 triệu USD. Số dự án được cấp giấy phép qua các năm (bảng 6). Bảng 6: Số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép 1988 - 1999 phân theo năm Đơn vị tính: Triệu USD Năm Số dự án Tổng vốn đăng ký Vốn pháp định Tổng số 2.800 37.088,4 17.048,1 1988 37 317,8 288,4 1989 68 582,5 311,5 1990 108 839,0 407,5 1991 151 1.322,3 663,6 1992 197 2.165,0 1.418,0 1993 269 2.900,0 1.468,5 1994 343 3.765,6 1.729,9 1995 370 6.530,8 2.986,6 1996 325 8.497,3 2.940,8 1997 345 345 2.334,4 1998 275 3.897,0 1.805,8 1999 312 1.568,3 693,3 Nguồn: [33, 246] Đến nay, các dự án có vốn FDI đã có mặt ở hầu khắp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhưng phân bổ không đều trên phạm vi cả nước (bảng 7). Bảng 7: Số dự án đầu tư của nước ngoài được cấp giấy phép 1988 - 1999 phân theo khu vực Khu vực Số dự án Tổng vốn đăng ký Vốn pháp định Tổng số 2.766 35.382,2 16.221,4 Đồng bằng sông Hồng 629 10.469,1 5.225,0 Đông bắc 135 1.577,8 620,3 Tây bắc 10 54,1 18,4 Bắc trung bộ 45 847,2 335,7 Duyên hải nam trung bộ 147 2.701,2 1.459,4 Tây nguyên 9 58,8 31,1 Đông nam bộ 1.636 18.802,6 8.074,5 Đồng bằng sông Cửu Long 155 871,4 457,0 Nguồn: [34, 249-250] Số dự án FDI thu hút vào nước ta tăng lên qua các năm, nguồn FDI lan dần từ các vùng trọng điểm và trung tâm kinh tế sang các vùng ngoại ô, ngoại vi, vùng sâu, vùng xa, mở rộng dần từ lĩnh vực dịch vụ sang sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Số vốn đầu tư trung bình trên một dự án cũng tăng lên, và ngày càng có nhiều đối tác đầu tư lớn quan tâm đến thị trường đầu tư Việt Nam. Tuy nhiên, sau khủng hoảng tài chính, môi trường đầu tư trong nước và khu vực đều xấu đi, nên FDI vào nước ta giảm đi rõ rệt, nhất là năm 1998 giảm hơn 50% so với năm 1997, năm 1999 giảm 40% trong tổng số FDI vào Việt Nam, phần của người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư về nước mới chiếm con số khiêm nhường khoảng dưới 200 triệu USD mà chủ yếu giành cho mua sắm bất động sản, cho tiêu dùng cá nhân hay kinh doanh dịch vụ. Chính sự giảm sút về FDI đối với các nước đang phát triển châu á và Việt Nam trở thành nhân tố trở ngại đối với việc thu hút FDI của Hải Dương. Tình hình đó đòi hỏi nước ta, trong đó có Hải Dương cần phải tiếp tục đổi mới môi trường đầu tư để tăng sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Việc thu hút FDI của Hải Dương có thuận lợi cơ bản là trong thời gian qua, công cuộc đổi mới của nước ta được tiến hành trong môi trường hòa bình ổn định, tạo tiền đề thời cơ thuận lợi cho việc tập trung sức lực và trí tuệ vào xây dựng, phát triển kinh tế -xã hội. Sự chuyển đổi từ nền kinh tế quản lý tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, việc thực hiện đường lối đối ngoại mở cửa và đặc biệt là việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, với nhiều lần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện dần, đang là môi trường thuận lợi cho thu hút FDI của tỉnh. 1.2.2 Các nhân tố bên trong Quá trình thu hút FDI của Hải Dương chịu ảnh hưởng của những khó khăn thuận lợi chung của cả nước, đồng thời còn bị tác động bởi chính những nhân tố của tỉnh tạo nên, cụ thể là: - ảnh hưởng của vùng kinh tế Bắc Bộ: Hải Dương là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long) và hành lang đường 18 có ảnh hưởng rất lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trên các mặt như sau: Khi vùng này phát triển với nhịp độ cao sẽ trở thành một thị trường lao động to lớn để Hải Dương cân đối lao động của mình. Hải Dương sẽ là một vệ tinh chế biến sản phẩm và cung cấp nguyên liệu cho vùng. Mức độ đô thị hóa phát triển nhanh, Hải Dương sẽ là một cơ sở cung cấp lương thực, thực phẩm ổn định với chất lượng cao. Vùng kinh tế này phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của Hải Dương trong những năm tới [39, 49] Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có biển, sân bay lớn, nhiều xí nghiệp công nghiệp đầu đàn, nhiều cơ sở thương mại, tài chính, du lịch, y tế, đào tạo khoa học... Có sự ảnh hưởng tích cực đối với sự phát triển nội vùng, các vùng lân cận cũng như cả nước. Nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc, hạ tầng kỹ thuật cũng như hạ tầng xã hội sẽ được phát triển theo các nhu cầu đòi hỏi của vùng trọng điểm, tỉnh sẽ được quan tâm đầu tư mạnh mẽ về mọi mặt, đồng thời từ Hải Dương giao lưu với các tỉnh khá thuận lợi, nhất là các tỉnh có cửa khẩu với nước ngoài. Kết cấu hạ tầng được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn và phát triển khá, các đường quốc lộ đi qua tỉnh hầu hết là đường tốt như đường 5, đường 18, 183,... là các đầu mối giao thông quan trọng thuận lợi cho giao lưu kinh tế với bên ngoài. Hai thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng có cảng biển Hải Phòng, sân bay quốc tế Nội Bài và các cụm công nghiệp là các thị trường lớn tiêu thụ các sản phẩm tiêu dùng, đồng thời cũng là các đầu mối giao lưu quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và phát triển thương mại. Hải Dương gần nguồn điện lớn, đó là Nhà máy nhiệt điện Phả Lại với công suất 440 MW/ năm (sẽ đưa lên 660MW/ năm, nên nguồn điện tạm đủ cung cấp cho tỉnh dùng trong sản xuất và sinh hoạt. Cùng với sự phát triển chung của toàn quốc, bưu chính viễn thông của tỉnh đã có sự thay đổi rõ rệt, đã sử dụng kỹ thuật số, các dịch vụ phát triển nhanh và chất lượng cao. Năm 1999 lắp đặt và quản lý trên 33.400 máy điện thoại, bình quân 1,99 máy/ 100 người, so với 0,54 máy/ 100 người năm 1995 (Trong khi đó bình quân cả nước là 1,08 máy/ 100 người, vùng đồng bằng sông Hồng kể cả Hà Nội đạt 6,3 máy/ 100 người). Sự phát triển của hệ thống thông tin đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin liên lạc nông thôn đến thành thị, trong nước và quốc tế. Hải Dương có nguồn khoáng sản như quặng bôxit, đất cao lanh, đất chịu lửa, đá vôi, nước khoáng v.v... rất thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, Công ty xi măng Hoàng Thạch là công ty xi măng hàng đầu của cả nước. Nhiều sản phẩm công nghiệp như xi măng, sứ và sản phẩm nông nghiệp chế biến đã đứng vững trên thị trường và có sức cạnh tranh với nhiều vùng khác trong cả nước cũng như trong phạm vi quốc tế. Ngành dịch vụ du lịch của tỉnh còn nhỏ bé, nhưng xét về tiềm năng thì ngành này có triển vọng sáng sủa và có khả năng phát triển mạnh trong tương lai không xa. Xét về vị trí địa lý, Hải Dương nằm trong vùng du lịch Bắc Bộ, sản phẩm du lịch đặc trưng của toàn vùng là du lịch văn hóa kết hợp với du lịch tham quan, nghiên cứu. Sản phẩm của du lịch gồm: Giao tiếp về phát triển kinh tế - xã hội, hội nghị hội thảo, triển lãm... Nằm giữa một trung tâm du lịch lớn của cả nước là Hà Nội và cụm du lịch cảnh quan, điều dưỡng: Quảng Ninh - Hải Phòng có Hạ Long - Bái Tử Long - Cát Bà... Xét về cảnh quan du lịch, vùng đất Hải Dương không chỉ giàu tài nguyên khoáng sản, mà còn có những địa danh du lịch nổi tiếng với những sắc cảnh thần tiên, đánh dấu sự phát triển lâu đời của nền văn hóa dân tộc trên vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng như Côn Sơn, Kiếp Bạc, An Phụ, Kính Chủ... Lợi thế đó là cơ sở để có thể thu hút FDI trong lĩnh vực du lịch và dịch vụ. - Đội ngũ người lao động: Hải Dương có một phân viện Đại học, một trường Cao đẳng, 12 trường Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề với đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có thể nói đó là trung tâm văn hóa khoa học kỹ thuật của tỉnh. Hàng năm các trường này đã đào tạo cho tỉnh một đội ngũ công nhân có tay nghề cao bổ sung cho lực lượng lao động, làm cho số lao động được đào tạo ngày càng tăng lên (bảng 8). Bảng 8: Cán bộ khoa học kỹ thuật tỉnh Hải Dương năm 1999 Tổng số lao động Đơn vị tính lao động kỹ thuật Cao đẳng Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ 878.698 Người 22.718 10.508 12.508 129 26 Tỷ lệ % 2,64 45,35 53,98 0,56 0,11 Nguồn: [33] Bảng trên cho thấy lao động kỹ thuật chỉ chiếm 2,64% tổng số lao động của tỉnh, trong số lao động kỹ thuật có 43,35% cán bộ có trình độ cao đẳng, 53,98% cán bộ có trình độ đại học, 0,56% cán bộ có trình độ thạc sĩ và 0,11% cán bộ có trình độ tiến sĩ. Ngoài ra còn khoảng 55.600 lao động (chiếm 47%) được học và truyền nghề tại chỗ trong các doanh nghiệp, trong các cơ sở sản xuất, các làng nghề truyền thống. Một nhân tố khác tác động đối với việc thu hút FDI của Hải Dương, đó là tỉnh có nhiều bà con Việt kiều đang sinh sống ở các nước đang phát triển, họ có vốn và thực hiện đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực hoặc gián tiếp chuyển về gia đình. Thêm vào đó là với 1000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, hàng năm họ đã gửi vốn về gia đình thực hiện đầu tư góp phần cải thiện đời sống và mở rộng phát triển sản xuất, kinh doanh. - Trình độ phát triển kinh tế: Tuy có những thế mạnh nhất định và những thuận lợi nêu trên, song so với các tỉnh lân cận Hải Dương vẫn còn những hạn chế nhất định trong phát triển kinh tế và thu hút FDI (bảng 9). Bảng 9: Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của các tỉnh đồng bằng Sông Hồng năm 1999 Tên chỉ tiêu ĐVT Hải Dương Hưng Yên Hà Nội Hải phòng Hà Tây Thái Bình Dân số trung bình 1000 người 1.653 1.071 2.688 1.678 2.394 1.788 GDP (giá hiện hành) Tỷ đồng 5.979 3.649 26.655 9.250 6.098 5.516 Cơ cấu GDP Nông, Lâm, thủy sản % 36,8 47,0 3,9 18,3 42,4 55,4 Công nghiệp và XD % 35,0 24,9 37,5 32,7 30,1 13,1 Dịch vụ % 28,2 28,1 58,6 48,7 27,5 31,5 GDP (giá so sánh 94) tỷ đồng 4.599 2.681 18.239 7.340 4.700 4.417 Thu ngân sách trên địa bàn tỷ đồng 575 429 11.101 3.739 623 817 Chi ngân sách địa phương tỷ đồng 512 397 2.265 720 643 576 Giá trị SX nông nghiệp (giá so sánh 94) tỷ đồng 2.663 2.061 1.251 1.774 3.102 3.605 Sản lượng lương thực qui thóc 1000 tấn 871 554 248 487 989 1.117 Giá trị SX công nghiệp (giá so sánh 94) tỷ đồng 3.529 1.880 14.913 7.206 2.627 1.330 Tổng mức bán lẻ hàng hóa tỷ đồng 2.843 1.265 18.702 3.336 3.497 1.780 Tổng kim ngạch xuất khẩu triệu USD 45 27 1.375 233 36 25 Tổng kim ngạch nhập khẩu triệu USD 34 42 361 362 56 26 Một số chỉ tiêu bình quân đầu người GDP theo giá thực tế 1000 đồng 3.617 3.407 9.916 5.514 2.548 3.085 Chi ngân sách địa phương 1000 đồng 310 317 843 429 269 322 Số lượng lương thực quy thóc Kg 527 517 92 290 413 625 Kim ngạch xuất khẩu USD 27 25 512 139 15 14 Nguồn: [ 33, 173 ] So sánh với cả nước và một số tỉnh xung quanh, như Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Thái Bình, Hưng Yên, để qua đó có thể đưa ra một số nhận xét như sau: - Hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa đạt được mục tiêu đề ra. - Cơ cấu các ngành chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH chưa mạnh, nông nghiệp vẫn đang còn chiếm tỉ trọng lớn, các đơn vị kinh tế quốc doanh hoạt động còn ít hiệu quả và vẫn chưa có biện pháp tích cực để chuyển đổi kịp thời sang cơ chế mới. - Kinh tế hàng hóa phát triển chưa đồng đều, việc hòa nhập với thị trường trong nước và nước ngoài còn nhiều khó khăn, sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh, thị trường chưa được mở rộng. - Hiện tại nhiều cơ sở thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, trong khi đó tỉnh lại chưa khai thác hết nguồn thu cho ngân sách. Xét tổng thể, Hải Dương đứng vào loại trung bình, mặc dù có nhiều thế mạnh nhưng Hải Dương cũng còn có nhiều hạn chế trên tất cả các lĩnh vực, nhất là giao lưu thông tin, hợp tác cũng như sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Nguồn vốn đầu tư cho các chương trình KT-XH quá hạn hẹp, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu, chưa hình thành được các ngành kinh tế mũi nhọn, chưa có nhiều sản phẩm có giá trị cao trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Môi trường thu hút vốn đầu tư chưa thông thoáng, cơ chế chưa hấp dẫn. Việc thu hút FDI vào Hải Dương là nhu cầu khách quan, quá trình triển khai hoạt động này bên cạnh những thuận lợi không tránh khỏi những khó khăn hạn chế. Tuy nhiên Hải Dương cũng có những lợi thế to lớn,có được nhiều điều kiện KT-XH khá thuận lợi để tăng cường thu hút nguồn vốn FDI. Kết luận chương 1 1 - Đầu tư nước ngoài là hình thức kinh doanh quốc tế phổ biến, có nhiều dạng đầu tư nước ngoài, trong đó FDI đóng vai trò hết sức quan trọng, thường đem lại hiệu quả cao cho nước tiếp nhận đầu tư và cả các nhà đầu tư. 2 - Với Hải Dương hoạt động FDI giữ vai trò quan trọng và đã có những tác động tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. FDI bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển lực lượng sản xuất và làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra sự khởi sắc về kinh tế đối ngoại. FDI đã tham gia phát triển nguồn nhân lực, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động và từng bước cải thiện tình trạng thấp kém của kết cấu hạ tầng, tạo môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi. 3- Việc thu hút FDI vào Hải Dương giữ vai trò quan trọng, đặc biệt là đáp ứng một phần nhu cầu cấp thiết về vốn. Do vậy bên cạnh việc phát huy nội lực, Hải Dương cần tăng cường thu hút FDI. Để thu hút được nguồn FDI cần phải nhận thức rõ xu hướng vận động của dòng vốn FDI hiện nay, hiểu rõ những nhân tố tác động, phát huy những lợi thế so sánh về môi trường đầu tư, đồng thời cần có biện pháp tích cực hạn chế những khó khăn, thách thức. Chương 2 thực trạng thu hút Đầu Tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương và những vấn đề cấp bách đặt ra 2.1. Thực trạng thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương thời gian qua 2.1.1. Phân tích thực trạng FDI trên các mặt - Về số lượng dự án: Trong những năm đầu khi mới ban hành Luật đầu tư, tốc độ tăng đầu tư của cả nước nói chung cũng như ở Hải Dương nói riêng còn khá chậm, giai đoạn 1988 - 1990, có thể được coi là thăm dò, khởi động, chúng ta còn chưa có kinh nghiệm, mặt khác nhà đầu tư nước ngoài còn thận trọng không dám mạo hiểm, họ còn nghiên cứu, làm thử để thăm dò cơ hội. Do vậy, số dự án trong thời gian này chưa nhiều, mức tăng trưởng vốn đầu tư còn chậm. Cụ thể là năm 1988, cả nước chỉ mới có 37 dự án với số vốn đăng ký 366 triệu USD, còn Hải Dương chưa có dự án nào, năm 1989 cả nước có 70 dự án, nhưng Hải Dương cũng vẫn chưa có dự án đầu tư. Trong giai đoạn 1988-1997 trên phạm vi cả nước có 2174 dự án với tổng số vốn đăng ký 12.950 triệu USD, song trừ hai lĩnh vực là thăm dò Dầu khí và Viễn thông, nơi hoạt động đầu tư nước ngoài đã có tác dụng rõ rệt, còn các lĩnh vực khác hầu như mới chỉ có một số dự án, phần lớn lại chưa được triển khai [42]. Vượt qua thời kỳ này, tốc độ tăng dự án đầu tư FDI của cả nước nói chung, cũng như ở Hải Dương ngày càng tăng. Xuất phát từ quan điểm đổi mới của Đảng, ngay từ những năm 1990 - 1991, tỉnh Hải Hưng trước đây (Hải Dương hiện nay) đã xác định việc mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài là nhu cầu mang tính chiến lược trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thị trường, nhằm góp phần thúc đẩy nền kinh tế địa phương phát triển nhanh theo kịp đà phát triển chung của cả vùng, cả nước. Từ năm 1990 đến nay, toàn tỉnh Hải Dương đã có 32 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn 508, 6 triệu USD. Số dự án thu hút được qua các năm ngày càng tăng lên, bảng 10 đã phản ánh điều đó. Bảng 10: Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hải Dương qua các năm Năm Dự án được cấp giấy phép Dự án đang hoạt động Số lượng Tổng vốn đăng ký (triệu USD) Số lượng Tổng vốn đăng ký (triệu USD) Tổng số 32 508,6 16 104,3 1990 1 1,6 1991 0 1992 1 2,1 1993 3 11,5 1994 3 6,9 2 1,5 1995 7 143,3 3 4,6 1996 3 284,0 2 1,5 1997 4 34,5 3 73,5 1998 5 17,2 4 20,2 1999 5 7,5 2 3,0 Nguồn: [33, 113] Trong số 32 dự án được cấp giấy phép ở địa bàn tỉnh, có 3 dự án của trung ương (dự án xi măng Phúc Sơn, công ty bơm Ebara, công ty Ford), tổng số vốn đăng ký 365 triệu USD, 29 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương với tổng số vốn đăng ký 143 triệu USD. Trong bối cảnh chung do khủng hoảng tài chính khu vực, đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hải Dương cũng như trên phạm vi cả nước giảm so với những năm trước. Với những biện pháp tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và phát huy thế mạnh về điều kiện tự nhiên, địa lý thuận lợi... địa bàn Hải Dương vẫn là nơi thu hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong các năm 1997, 1998 trung bình có từ 30-50 lượt đoàn/ năm gồm các nhà đầu tư nước ngoài với quốc tịch khác nhau đến làm việc với Sở Kế hoạch và Đầu tư, cũng như các doanh nghiệp của tỉnh Hải Dương. Năm 1999 đầu tư trực tiếp nước ngoài trên phạm vi cả nước có giảm sút, song Hải Dương vẫn cấp được giấy phép cho 5 dự án FDI. So với 61 tỉnh, thành phố trong cả nước Hải Dương là đơn vị đứng thứ 10 về số lượng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Qua thực trạng thu hút đầu tư với số dự án được cấp giấy phép và dự án được triển khai trên địa bàn của tỉnh cho thấy: Số dự án có tăng hàng năm nhưng chưa ổn định (mặc dù tốc độ thu hút dự án có tăng qua các năm). Giai đoạn những năm đầu sau khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài số dự án thu hút được còn thấp, năm cao điểm nhất là năm 1995 với 7 dự án được cấp giấy phép. Hiện nay trong số 29 dự án FDI của tỉnh, số dự án xin rút giấy phép là 6 dự án chiếm tỷ lệ 20,6%. Đó là các dự án: Liên doanh nước quả Hải Chung, Liên doanh Hương Giang, Công ty cho thuê khai thác tài chính Transviet, Chế biến nông sản thực phẩm Vĩnh Phong - Bắc Việt, Sứ vệ sinh Karat và Liên doanh bia châu á - Thái Bình Dương. Để làm lành mạnh hơn môi trường đầu tư cũng như đảm bảo những yêu cầu chung, Sở Kế hoạch và Đầu tư đang xem xét để trình ủy ban nhân dân tỉnh và các cấp có thẩm quyền tiến hành thu hồi giấy phép đầu tư. Đồng thời tạm hoãn 1-2 năm, dự án liên doanh sân gôn tại huyện Chí Linh [6, 5]. - Về quy mô đầu tư: Với 22 dự án đầu tư được cấp giấy phép (số dự án đã và đang hoạt động) phân loại theo qui mô đầu tư (bảng 11). Bảng 11: Phân loại các dự án theo qui mô đầu tư Qui mô vốn Số dự án Tỉ lệ % (so với tổng vốn) - Dưới 1 triệu USD 3 13,5 - Từ 1 triệu đến < 5 triệu USD 12 54,5 - Từ 5 triệu đến < 10 triệu USD 4 18,2 - Từ 10 triệu đến < 20 triệu USD 2 9,1 - Từ 20 triệu đến < 50 triệu USD 1 4,55 Nguồn: [36] Qua bảng trên cho thấy phần lớn các dự án thuộc loại vừa và nhỏ, các dự án có quy mô vốn từ 1 triệu USD đến dưới 10 triệu USD chiếm tỷ lệ 86%. Từ năm 1997, cùng với sự giảm sút các dự án đầu tư, đi kèm với nó là quy mô vốn mỗi năm một giảm. Từ thực tế đó đòi hỏi các ngành chức năng cần có những giải pháp đồng bộ tháo gỡ khó khăn để thu hút các dự án FDI trên địa bàn tỉnh. - Về cơ cấu ngành nghề đầu tư: Xét theo ngành kinh tế có thể nhận định rằng ngành công nghiệp chiếm số lượng dự án và số vốn đăng ký cao nhất. Đầu tư nước ngoài của Hải Dương hiện có 22 dự án đã và đang đi vào hoạt động, trong đó có 16 dự án công nghiệp, 3 dự án nông nghiệp và 3 dự án dịch vụ. Trong thời kỳ 1990 - 1996 có 18 dự án (ngành công nghiệp 15 dự án chiếm 98,3% tổng vốn đầu tư - nông nghiệp 2 chiếm 1,4%, dịch vụ 1 chiếm 0,3% tổng vốn đầu tư). ở đây điều đáng lưu ý: Hải Dương là một tỉnh được chuyển dịch cơ cấu tương đối sớm, đã tạo ra một quá trình chuyển biến từ nền nông nghiệp độc canh sang đa canh và đã có những sản phẩm hàng hóa mang bản sắc địa phương. Nông nghiệp có mức tăng trưởng bình quân thời kỳ 1996 - 1999 là 5,4 %/ năm (mức tăng trưởng chậm hơn so với các ngành khác: công nghiệp xây dựng tăng 8,7%/ năm - dịch vụ 12,6%/ năm). Do đó, nếu không tập trung đầu tư vào nông nghiệp thì có nguy cơ tăng sự chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn dẫn đến phân hóa giàu nghèo. Vì thế, việc thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp được coi là một hướng ưu tiên của tỉnh. Tuy nhiên cho đến nay Hải Dương có 6 dự án đầu tư vào nông nghiệp, trong đó có 3 dự án đầu tư trong lĩnh vực chế biến nông sản. Song do tư tưởng tiểu nông của nông dân cùng với sự buông lỏng quản lý của các cơ sở có hợp đồng kinh tế với nước ngoài đã dẫn đến hợp đồng bị vi phạm (ví dụ: nông dân đem sản phẩm của liên doanh bán cho tư thương) gây lỗ cho Công ty nước ngoài. Tình hình đó đã làm cho các nhà đầu tư e ngại mỗi khi có ý định đầu tư vào lĩnh vực này. - Về cơ cấu chủ đầu tư: Hiện nay ở Hải Dương có các chủ đầu tư thuộc 15 quốc gia của 4 châu lục. Trong đó Đài Loan, Canada, Nhật, Anh, Pháp, Trung Quốc có từ 2 đến 3 dự án. Có thể thấy rõ tình hình về đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài qua bảng 12. Bảng 12: Số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã và đang triển khai (đến 31/12/1999) phân theo đối tác đầu tư Đối tác đầu tư Số dự án Hà Lan 1 Trung quốc 2 Hồng Kông 1 Đài Loan 3 úc 1 Pháp 2 Bỉ 1 CHDCND Triều Tiên 1 Hoa Kỳ 1 Singapore 1 Nhật 2 Thái Lan 1 Malaysia 1 Anh 2 Canada 2 Nguồn: [33, 114] Qua bảng tổng hợp trên có thể nhận thấy là chỉ riêng Đài Loan đã có số dự án nhiều hơn các quốc gia khác. Còn lại các quốc gia khác phổ biến mới có 1 dự án. Đồng thời về mặt qui mô Đài Loan cũng là chủ đầu tư có số vốn đầu tư lớn nhất. - Về hình thức đầu tư Bảng 13: Sự phân bố các dự án và vốn đầu tư theo hình thức đầu tư Hình thức đầu tư Số dự án Tỷ lệ % Vốn đầu tư (triệu USD) Tỷ lệ % - Liên doanh 3 12 375 76,53 - 100% vốn nước ngoài 22 88 115 23,47 - Hợp đồng hợp tác kinh doanh 0 0 0 0 Tổng cộng 25 100 490 100 Nguồn: [35, 113] Trong số 25 dự án nêu trên, 3 dự án của trung ương đều là các dự án liên doanh, các dự án của Hải Dương hiện nay 100% vốn đầu tư nước ngoài. nhìn chung xu hướng đầu tư 100% vốn nước ngoài trong môi trường ổn định được các nhà đầu tư quan tâm hơn. 2.1.2. Đánh giá kết quả thu hút FDI Công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài được triển khai bắt đầu từ năm 1990. Từ đó đến nay, Hải Dương cùng với cả nước đã tích cực chỉ đạo và triển khai công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài và bước đầu đã thu được những thành tựu: Thứ nhất: Về kết quả thu hút dự án và vốn thực hiện. Đã thu được một số lượng dự án và vốn đầu tư, tuy chưa phải là lớn so với phạm vi cả nước song so với 6 tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, Hải Dương đã thu hút được số lượng dự án nhiều hơn các tỉnh trong khu vực. Có thể thấy rõ dự án đầu tư của các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng (bảng 14) Bảng 14: Số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép 1998 - 1999 phân theo địa phương (đồng bằng sông Hồng) Đơn vị tính: Triệu USD Các tỉnh đồng bằng sông Hồng Số dự án Tổng vốn đăng ký vốn pháp định Tổng số 629 10.469,1 5.225,0 Hà Nội 427 7.763,5 4.026,1 Hải Phòng 108 1.507,7 669,1 Hà Tây 32 465,3 198,3 Hải Dương 32 508,8 219,3 Hà Nam & Nam Định 12 37,5 31,15 Thái Bình 5 4,9 3,0 Ninh Bình 8 93,3 41,8 Hưng Yên 5 91,1 35,9 Nguồn: [34, 250] Tính đến 30 - 6 - 2000, Hải Dương có 22 dự án đã và đang triển khai hoạt động, các doanh nghiệp đi vào hoạt động phát huy được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cuối năm 1999 vốn thực hiện trong các dự án FDI của Hải Dương như sau (bảng 15): Bảng 15: Thực hiện vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài Đơn vị tính:Triệu USD Phân theo khu vực kinh tế 1996 1997 1998 1999 Tổng số Nông, Lâm, thủy sản 54,4 21,8 41,6 5,8 Công nghiệp xây dựng 53.5 21.8 41,2 5,8 Dịch vụ 0,9 0,1 0,3 Nguồn: [33] Cho đến nay, thực hiện vốn đầu tư trực tiếp cho nước ngoài của Hải Dương đạt 150 triệu USD, riêng năm 1999 thực hiện vốn FDI đạt 15 triệu USD, 6 tháng đầu năm 2000 đạt 18 triệu USD. Nhìn chung, các dự án FDI đã góp phần tăng nguồn vốn đầu tư phát triển của tỉnh, tổng sản phẩm quốc nội trên địa bàn có sự đóng góp mỗi năm một tăng của thành phần kinh tế có vốn FDI, năm 1996 là 33 tỷ đồng, 1997 là 106 tỷ đồng, 1998 là 192 tỷ đồng, 1999 là 168 tỷ đồng. Về cơ cấu % của sản phẩm doanh nghiệp có vốn FDI trong GDP của tỉnh đã chiếm một tỷ lệ nhất định. Năm 1996 là 0,73 % thì năm 1999 là 2,88% (bảng 16). Bảng 16: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế Đơn vị tính: Tỷ đồng 1996 1997 1998 1999 Tổng số 4.511 4.830 5.694 5.979 Khu vực kinh tế trong nước 4.487 4.724 5.502 5.811 Nhà nước 1.681 1.967 2.310 2.226 Trung ương 1.327 1.557 1.746 1.699 Địa phương 354 410 564 527 Ngoài nhà nước 2.797 2.757 3.192 3.585 Khu vực kinh có vốn ĐTNN 33 106 192 168 Nguồn: [33, 22] Riêng trong sản xuất công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng khá nhanh (bảng 17). Bảng 17: Tổng hợp sản xuất công nghiệp 1996 - 2000 ._.ng pháp luật và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. ủy ban nhân dân tỉnh sẽ đề nghị với Bộ, ngành Trung ương cho lập chi nhánh Hải quan tại Hải Dương để việc xuất nhập khẩu của các đơn vị tỉnh và các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài được thuận lợi hơn. Năm 2000 tình hình khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực có xu hướng dịu dần, kinh tế một số nước đang phục hồi là những điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng kinh tế đối ngoại và tăng kim ngạch xuất nhập khẩu. Trong bối cảnh đó định hướng của tỉnh về công tác đối ngoại là: Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế để phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng hóa. Giữ vững và mở rộng thị trường cũ, phát triển thêm thị trường mới, đồng thời chủ động xây dựng phương án đầu tư trong nước. Đầu tư chiều sâu một số cơ sở chế biến xuất khẩu để mở rộng quy mô sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh. Đa dạng hóa các hình thức sản xuất và gia công các sản phẩm xuất khẩu, tăng xuất khẩu các mặt hàng rau quả, thịt lợn, gạo, chủ động nhập khẩu các mặt hàng cần thiết phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Tiếp tục tìm các đối tác trong và ngoài nước có vốn, công nghệ và thị trường đầu tư vào tỉnh. Chủ động xây dựng các dự án mới với nhiều hình thức đầu tư. Phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, tạo điều kiện thuận lợi ngay từ khi đàm phán lập hồ sơ cho các dự án. Giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc, thúc đẩy triển khai các dự án. Hướng dẫn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã hoạt động phải tuân theo qui định của pháp luật, tạo điều kiện cho các xí nghiệp sản xuất ổn định. Có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân đủ tiêu chuẩn để đáp ứng yêu cầu các dự án đầu tư nước ngoài. 3.2. Các giải pháp chủ yếu Để thực hiện mục tiêu và phương hướng nêu trên, tỉnh Hải Dương cần phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có những giải pháp ở tầm vĩ mô, đòi hỏi phải có sự định hướng và quyết định của các cơ quan Trung ương. Sâu đây là một số giải pháp chủ yếu: 3.2.1. Thực hiện việc xây dựng quy hoạch tổng thể Từ việc phân tích thực trạng tình hình hoạt động FDI thời gian qua của tỉnh Hải Dương, có thể nói công tác qui hoạch của tỉnh gặp nhiều khó khăn, mặc dù đã có qui hoạch tổng thể phát triển KT-XH đến năm 2000 và định hướng chiến lược đến năm 2010, song cũng còn nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện, đặc biệt là vướng mắc về vấn đề vốn. Chẳng hạn trong qui hoạch đến năm 2000 tập trung xây dựng Khu công nghiệp Tiền Trung (Nam Sách) phía Đông Bắc Thành phố Hải Dương nằm dọc đường 5 và đường 183, với qui mô khoảng 50 ha, vốn đầu tư ước tính khoảng 50 triệu USD, sau đó sẽ phát triển lên 150 - 300 ha. Dự kiến bố trí các ngành: Chế biến nông sản thực phẩm, điện tử, thiết bị ô tô, viễn thông, may mặc, tấm lợp vật liệu xây dựng cao cấp v.v... nếu khu công nghiệp này được hình thành sớm sẽ có cơ hội thu hút các nhà đầu tư. Nhưng vốn là một trong những nguyên nhân dẫn đến qui hoạch khu công nghiệp đó khó có tính khả thi. Nhằm khắc phục hạn chế trên, đồng thời để đẩy mạnh thu hút FDI vào Hải Dương, trước mắt cũng như lâu dài cần phải dựa trên cơ sở của qui hoạch và kế hoạch mang tính khoa học và khả thi, việc hoạch định chiến lược, chương trình, kế hoạch thu hút FDI của Hải Dương có mối quan hệ quy hoạch tổng thể của vùng kinh tế, qui hoạch tổng thể của cả nước. Do đó tỉnh cần có sự chủ động bàn bạc với các bộ, ngành trung ương, với Chính phủ, và có sự liên kết với các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ để xác định được một kế hoạch thu hút FDI mang tính chiến lược, đặc biệt là những năm đầu thế kỷ XXI và tạo đà cho các năm tiếp theo. Qui hoạch tổng thể phát triển KT - XH của tỉnh đến năm 2000 và định hướng 2010 đã được hoàn chỉnh vào tháng 12/1997. Cho đến nay qua biến động của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực, sự biến đổi khách quan, những diễn biến thất thường của nền kinh tế đất nước cũng như của tỉnh tác động, qui hoạch tổng thể đó cần có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Vấn đề trọng tâm đặt ra là cần nâng cao chất lượng quy hoạch của ngành và địa phương, dự báo sát với nhu cầu thị trường và công bố sớm các danh mục dự án thu hút và ưu tiên thu hút FDI sao cho phù hợp với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Trên cơ sở qui hoạch tổng thể phát triển KT-XH của tỉnh đã được bổ sung, điều chỉnh, đồng thời dựa trên những định hướng đã được xác định từ nay đến 2005 tỉnh phấn đấu đạt trên 50 dự án đầu tư trực tiếp với tổng số vốn 500 - 750 triệu USD. Để đạt mục tiêu đó cần phải xác định danh mục dự án gọi vốn đầu tư mang tính chiến lược, xác định các dự án theo thứ tự ưu tiên về ngành nghề, thời gian và địa điểm cụ thể. Qua việc qui hoạch định ra các điều kiện ưu đãi, hình thức đầu tư, xác định những thông tin cơ bản ban đầu, như giá thuế đất, qui mô đầu tư, nguồn nguyên liệu. Trong quá trình quy hoạch và chuẩn bị dự án đầu tư trực tiếp phải hết sức chú ý nghiên cứu sự cần thiết gọi vốn đầu tư nước ngoài của từng loại dự án, phải tính toán đến khả năng tham gia vốn của phía Việt Nam trên cơ sở tận dụng tối đa nhà xưởng, thiết bị cũng như kêu gọi các nhà đầu tư góp vốn liên doanh nhằm phát huy nguồn nội lực tiềm ẩn trong tỉnh. Cũng từ danh mục này, cần xác định các dự án thực sự quan trọng, có tác động sâu rộng đến sự phát triển KT-XH của tỉnh, đưa ra các dự án cần ưu tiên để qua đó áp dụng các điều kiện, đặc biệt khuyến khích về thuế đất, từ đó có thể nhanh chóng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư cho các dự án này. Trong qui hoạch tổng thể, chú ý tới yếu tố kinh tế, phải nghiên cứu cụ thể các yếu tố có liên quan tới hiệu quả kinh tế. Bởi trên thực tế có những dự án khi triển khai không tiến hành được vì có nhiều khó khăn phức tạp nảy sinh (lẽ ra vấn đề này khi qui hoạch phải tính đến cụ thể). Chẳng hạn như dự án liên doanh sân gôn Ngôi sao Hoàng gia Chí Linh (liên doanh giữa khách sạn và du lịch Hải Dương với Công ty Getway Developments của Nhật Bản, tổng số vốn đầu tư 22,1 triệu USD) Ban giải phóng mặt bằng bước đầu giải quyết một số việc, như đo đạc, thiết kế xây dựng nghĩa trang mới, nhưng với diện tích phải giải phóng quá lớn, số lượng mồ mả quá nhiều, cùng với nhiều loại cây ăn quả và nhiều hộ gia đình trong khu vực sân gôn phải giải tỏa, mà kinh phí đền bù phía Nhật chỉ chấp nhận ở giới hạn nhất định nên việc giải phóng mặt bằng có nhiều khó khăn, hiện nay dự án chưa triển khai được. Mặt khác, tỉnh cần có qui hoạch sớm các khu, cụm công nghiệp mà tỉnh đã có qui hoạch cụ thể, như khu cụm công nghiệp Nam Thanh, Cẩm Bình, Thành phố Hải Dương, để tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài, tránh được tình trạng khó khăn hiện nay (do chưa qui hoạch được khu công nghiệp tập trung gây nên). 3.2.2. Xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật Để nhanh chóng tiếp thu vốn và kỹ thuật nước ngoài, việc xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật hiện đại là hết sức cần thiết và cần được coi là một điều kiện tiên quyết. Việc quy hoạch các cụm, khu công nghiệp tập trung... khu chế xuất gần đường giao thông lớn, cảng biển, sân bay, đường sắt là một yếu tố hết sức quan trọng, song vấn đề không chỉ dừng lại ở cự ly gần mà còn đòi hỏi đường giao thông sắt, bộ, hàng không, đường biển.. đồng bộ, thông tin liên lạc thuận lợi, kịp thời. Trên thực tế, không một nhà đầu tư nước ngoài nào muốn gánh chịu những chi phí trực tiếp do kết cấu hạ tầng vật chất thấp kém gây ra, ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư, mà trực tiếp là mức lợi nhuận mà họ mong muốn đạt được. ở Hải Dương, mặc dù đã có một số yếu tố thuận lợi về kết cấu hạ tầng vậy chất kỹ thuật. Song hệ thống kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật này chưa thể đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của tỉnh, và gây trở ngại không nhỏ cho thu hút FDI. Để hoàn thiện kết cấu hạ tầng của tỉnh trong khi nguồn ngân sách còn hạn hẹp, thì các giải pháp để thực hiện có hiệu quả là: Phải có kế hoạch dài hạn, ngắn hạn, để tận dụng mọi nguồn lực sẵn có của tỉnh. Có chính sách huy động vốn và sử dụng hợp lý, tiếp tục thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thực hành tiết kiệm trong sản xuất, tiêu dùng ở mọi thành phần kinh tế nhằm dồn sức cho đầu tư phát triển, đặc biệt đưa nguồn vốn vào giải quyết những công trình trọng điểm về kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa sự giúp đỡ của nhà nước, của các ngành trung ương, giải quyết tốt các mối quan hệ về kinh tế, chính trị với các quốc gia, các tổ chức chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức kinh tế quốc tế để có được những khoản hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đầu tư vào các đề án hạ tầng vật chất, kỹ thuật. Xây dựng mới đi đôi với nâng cấp, cải tạo đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, thực hiện các dự án cấp thoát nước, xử lý chất thải, chống ô nhiễm môi trường tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư. Xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, với quy mô thích hợp để tiếp nhận kỹ thuật cao và nguồn vốn từ nước ngoài. Trong tương lai kết cấu hạ tầng kỹ thuật cũng như hạ tầng xã hội sẽ được phát triển theo các nhu cầu đòi hỏi của vùng trọng điểm, tỉnh sẽ được quan tâm đầu tư mạnh về mọi mặt. Cùng với việc phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng, một yếu tố quan trọng khác liên quan rất lớn đến các dự án đầu tư nước ngoài, làm tăng thêm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư là: không ngừng phát triển và hoàn thiện các hoạt động dịch vụ nội địa như ngân hàng, bảo hiểm, thông tin liên lạc, vui chơi giải trí, du lịch, y tế... Đặc biệt cần tăng cường thông tin, giới thiệu về tiềm năng của địa phương bằng cách phổ biến tài liệu, mở rộng thêm kênh thông tin, thông qua hệ thống Internet, qua các đại sứ quán, qua đại diện Thương mại Việt Nam ở các nước dưới những hình thức hợp đồng dịch vụ để phục vụ tốt cho công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 3.2.3. Tăng cường công tác quản lý - điều hành Trong nền kinh tế thị trường việc nhà nước tham gia điều tiết nền kinh tế là yêu cầu khách quan. Nhưng muốn thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại, kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng muốn điều tiết có hiệu quả phải có bộ máy nhà nước các cấp mạnh, gọn nhẹ, có năng lực, năng động, không tham nhũng, thủ tục hành chính đơn giản. Đó là điều kiện quan trọng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Trong việc kiện toàn bộ máy quản lý hoạt động FDI, phải dựa trên cơ sở pháp luật, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý và thực hiện nguyên tắc "một cửa" đối với nhà đầu tư. Cần tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, đặc biệt là việc quản lý dự án sau giấy phép. Tiếp tục cải tiến thủ tục quản lý theo chế độ một cửa, công khai thủ tục rõ ràng đầy đủ. Hướng dẫn và kịp thời phối hợp giải quyết các khó khăn vướng mắc của các nhà đầu tư, nhất là các vướng mắc khó khăn trong lĩnh vực đất đai, môi trường, xuất nhập khẩu, hải quan, cư trú đi lại, tranh chấp lao động... Tập trung một đầu mối quản lý vào Sở Kế hoạch và Đầu tư đồng thời có sự phối hợp giữa các ngành và các đơn vị có liên quan theo hướng: - Nghiêm túc thực hiện Quyết định số 233/1998/QĐ-TTg ngày 01/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân cấp, ủy quyền cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài và Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26/03/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích FDI với tinh thần là từ 01/9/1999 thực hiện việc điều chỉnh mặt bằng giá một số hàng hóa và dịch vụ (điện nước, cước viễn thông) các loại phí và lệ phí, chuyển đổi thu bằng tiền Việt Nam, qui định về tuyển dụng lao động việc làm, việc thực hiện thuế giá trị gia tăng, việc mua bán hàng với các doanh nghiệp, quyền sử dụng đất của các doanh nghiệp khu công nghiệp và một số biện pháp bổ sung và khuyến khích đầu tư. Đây là một bước đột phá nhằm thu hút các nhà đầu tư. - Thực hiện tốt vai trò đầu mối quản lý các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn toàn tỉnh của Sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện việc đôn đốc tiến độ thực hiện các giai đoạn chuẩn bị triển khai, tăng cường quản lý dự án đầu tư sau khi có giấy phép. Đặc biệt cần thiết: + Đẩy mạnh việc kiểm tra định kỳ, kiên quyết xử lý kể cả kiến nghị rút giấy phép đối với các trường hợp dây dưa không triển khai dự án hoặc vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam. Phấn đấu nâng cao hơn nữa tỷ lệ vốn thực hiện và các lợi ích của Nhà nước, coi đó là một chỉ tiêu chủ yếu đánh giá hiệu quả hoạt động của nguồn FDI. + Trên cơ sở luật và hướng dẫn thi hành luật bảo vệ môi trường, xây dựng một chương trình quản lý và bảo vệ môi trường một cách đồng bộ, hiệu quả từ việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trong nhân dân, trong các đơn vị, đến việc xây dựng tiêu chuẩn quy định và các điều kiện phương tiện để quản lý và bảo vệ môi trường đối với các khu vực công nghiệp cần thực hiện một cách triệt để và nghiêm ngặt theo đúng tiêu chuẩn cho phép của Nhà nước. Kiểm tra thường xuyên và xử lý kịp thời các sự cố môi trường và các vụ việc vi phạm bảo vệ môi trường. - Thường xuyên kiểm tra giám sát tình hình chấp hành Luật lao động của các chủ doanh nghiệp (chế độ về lao động, tiền lương...) theo sát diễn biến và giải quyết kịp thời các tranh chấp lao động, gây ảnh hưởng đến dư luận xã hội và môi trường đầu tư. - Duy trì thường xuyên và đều đặn chế độ báo cáo thống kê, phục vụ kịp thời cho công tác chỉ đạo và xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. - Duy trì chặt chẽ các quy chế về bảo vệ an ninh, bảo vệ bí mật quốc gia, quản lý sự ra vào của các nhà đầu tư... chú ý các biện pháp an ninh để bảo đảm trật tự an toàn xã hội, tạo sự yên tâm cho chủ đầu tư và người lao động. - Thực hiện tốt nguyên tắc "một cửa", bãi bỏ những thủ tục phiền hà, trừng trị nghiêm khắc những hành vi sách nhiễu và tham nhũng của người thực hành công vụ, kịp thời sửa chữa thiếu sót mà các nhà đầu tư nêu ra. - Quy định cụ thể trách nhiệm của những cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương, đảm nhận việc giám sát các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sau khi đã được cấp giấy phép, đặc biệt là giám sát việc chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, về nghĩa vụ nộp thuế, về lao động, về tỷ lệ hàng xuất khẩu 3.2.4. Chăm lo đào tạo đội ngũ các nhà doanh nghiệp, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và đội ngũ người lao động Cũng như nhiều lĩnh vực kinh tế khác thời kỳ đổi mới, FDI là lĩnh vực mới mẻ, kiến thức và kinh nghiệm của ta về lĩnh vực này nhìn chung chưa có nhiều, nhất là thiếu đội ngũ các nhà doanh nghiệp biết làm ăn và đội ngũ cán bộ tinh thông công việc. Thực tế vừa qua cho thấy các đối tác phía Việt Nam (của tỉnh Hải Dương) còn lúng túng nhiều trước các đối tác nước ngoài. Một mặt thiếu am hiểu về phương thức kinh doanh quốc tế, thiếu hiểu biết luật pháp, thậm chí thiếu cả phong cách giao tiếp quốc tế, chính điều đó là một cản trở. Đồng thời qua thực tế hoạt động trong lĩnh vực FDI của Hải Dương thời gian qua đã chỉ rõ tình trạng yếu kém chung của đội ngũ cán bộ phía Việt Nam. Chính tình trạng yếu kém đó là một trong những nguyên nhân gây ra những thua thiệt cho phía Việt Nam. Chẳng hạn bên đối tác nước ngoài góp vốn bằng thiết bị máy móc lạc hậu với giá cao, song không có người đủ trình độ để kiểm soát, ngăn chặn. Cũng do không có trình độ tinh thông trong quản lý nên dẫn đến việc buông trôi cho phía nước ngoài thao túng doanh nghiệp hoặc không nắm được hiệu quả thực của sản xuất kinh doanh. Điều đáng nói là cán bộ yếu, chưa đủ tiêu chuẩn bố trí vào các chức vụ cao trong liên doanh sẽ càng gây ra những thiệt hại cho Nhà nước. Để khắc phục sự yếu kém trong đội ngũ cán bộ và để có đủ lực lượng cán bộ cho nhu cầu hoạt động của khu vực FDI, trước mắt cần có sự phối hợp giữa các cơ quan ban, ngành, như Sở Lao động - Thương binh và xã hội, các trung tâm xúc tiến việc làm, và ý kiến các nhà đầu tư, đánh giá đội ngũ cán bộ và thực lực đội ngũ lao động, nắm vững nhu cầu lao động của các doanh nghiệp khi đã cấp giấy phép để có kế hoạch cụ thể đào tạo đáp ứng nhu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng. Kết hợp chặt chẽ với các trường dạy nghề của Trung ương, địa phương, các ngành đóng trên địa bàn của tỉnh, tận dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện có của các trường để đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển công nghiệp của tỉnh cũng như cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng nhiều hình thức như: Đào tạo theo địa chỉ, đào tạo công nhân lành nghề để tiếp thu công nghệ mới, đào tạo lại nghề cho lao động khi sắp xếp lại doanh nghiệp. Cần tăng cường mở nhiều khóa đào tạo lại đối với số cán bộ quản lý đang được cử tham gia vào các liên doanh và số cán bộ đang làm công tác quản lý liên quan đến FDI ở các ngành chuyên môn. Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ tham gia ở các liên doanh cần có biện pháp, kế hoạch quản lý, giúp đỡ, bồi dưỡng thông qua các cuộc sinh hoạt, trao đổi, hội nghị, hội thảo để giúp đỡ đội ngũ này nâng cao trình độ. Mặt khác cần có biện pháp bồi dưỡng kiến thức cho các thành viên Hội đồng quản trị (phía Việt Nam), nhất là kiến thức về kinh tế thị trường, phương thức kinh doanh quốc tế. Một trong những nguyên nhân các dự án liên doanh nước ngoài không tuyển được lao động Việt Nam, đặc biệt là lao động sở tại (nơi doanh nghiệp đóng) là vì việc chuẩn bị đào tạo cán bộ không được quan tâm đến. Do vậy, cần phải có quy hoạch dự kiến cán bộ sẽ tham gia các dự án liên doanh, từ đó có kế hoạch đào tạo cụ thể, nhằm chủ động chuẩn bị đội ngũ cán bộ đủ điều kiện cử vào tham gia quản lý cùng với các đối tác nước ngoài. Đối với đội ngũ công nhân bên cạnh nhân tố hấp dẫn nhà đầu tư về giá lao động sẽ còn một vấn đề quan trọng hơn là tay nghề, đức tính cần cù chịu khó, tính kỷ luật trong lao động (mà đây là vấn đề còn yếu kém trong đội ngũ lao động nước ta nói chung, Hải Dương nói riêng). Với vấn đề chất lượng lao động, có một thực tế là hầu hết số lao động vào làm việc trong các doanh nghiệp FDI không qua đào tạo hoặc chỉ đào tạo kết hợp trong một số trung tâm dạy nghề của tỉnh, tuy cũng có một số cán bộ có trình độ đại học song lại chấp nhận làm việc trái với ngành nghề đào tạo, hoặc làm các công việc giản đơn. Để đáp ứng nhu cầu về chất lượng lâu dài phải có một chiến lược đào tạo đúng hướng. Sở Giáo dục - đào tạo cùng với các cơ quan chức năng, chủ yếu là Sở kế hoạch và Đầu tư, Sở Lao động - thương binh và xã hội với sự hỗ trợ của các ngành trung ương, cần xây dựng định hướng cho hoạt động đào tạo của tỉnh sao cho vừa mang tính thiết thực, vừa thể hiện được tầm nhìn chiến lược lâu dài. Trước mắt cần tập trung củng cố hệ thống dạy nghề hiện có đảm bảo năng lực đào tạo, kết hợp với đẩy mạnh xã hội hóa công tác dạy nghề dưới sự quản lý nhà nước chặt chẽ về quy trình, chương trình, nội dung đào tạo. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công nhân, cho người lao động đáp ứng hoạt động trước mắt và lâu dài trong khu vực FDI là một yêu cầu bức thiết, cấp bách, đòi hỏi phải được tiến hành với tinh thần hết sức tích cực và khẩn trương. 3.2.5. Xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp nước ngoài Yêu cầu cung ứng một đội ngũ cán bộ và công nhân có đầy đủ kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ và cả những kiến thức về văn hóa, pháp luật, về tinh thần trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ chủ quyền và an ninh chính trị, an toàn xã hội cho đất nước là một đòi hỏi hết sức bức thiết, không thể thực hiện một lần là xong, mà phải tiến hành thường xuyên, liên tục và lâu dài. Để làm tốt nhiệm vụ đó, phải tiến hành xây dựng cho được các tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ... trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thông qua các tổ chức đó để làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, công nhân trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Cần phải nhận thức được tính đặc thù của các tổ chức này trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với các tổ chức đó trong các doanh nghiệp của Nhà nước và của tập thể. - Xác định rõ mục tiêu hoạt động của các tổ chức đó là bảo đảm cho các doanh nghiệp phát triển ổn định, theo đúng pháp luật của Việt Nam, bảo vệ lợi ích chính đáng cho nhà đầu tư và người lao động. - Các đơn vị cần tổ chức thực hiện tốt việc thành lập tổ chức công đoàn theo Bộ Luật lao động (đại bộ phận các doanh nghiệp chưa làm tốt việc này) để bảo vệ quyền lợi của phía lao động Việt Nam, giải quyết những vướng mắc trong quan hệ giữa công nhân lao động với chủ đầu tư nước ngoài. Cần coi trọng hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp FDI. - Điều quan trọng nhất và mang tính cấp thiết là phải bằng mọi hình thức (có thể bằng hình thức tuyên truyền, giới thiệu, gặp mặt các nhà đầu tư nước ngoài...) để các nhà đầu tư nước ngoài nhận thức đúng về tổ chức công đoàn trong các nước XHCN. xóa đi mặc cảm về việc đối lập giữa Công đoàn với ông chủ (như trong các nước TBCN). Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản mà trong thời gian qua các doanh nghiệp có FDI không thành lập được tổ chức công đoàn. Kết luận chương 3 Mục tiêu thu hút FDI trong thời gian tới của Hải Dương là: Tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển, thu hút lực lượng lao động, tiếp thu khoa học - công nghệ tiên tiến và góp phần tăng nguồn thu của ngân sách tỉnh, thúc đẩy tăng trưởng GDP. Để thực hiện mục tiêu đó phải: Tiếp tục mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại, đặc biệt đẩy mạnh hoạt động thu hút FDI. Để thực hiện được mục tiêu phương hướng đề ra đến 2010, ngoài những giải pháp ở tầm vĩ mô, tỉnh Hải Dương cần tiến hành những giải pháp như sau: - Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức về FDI, cải tiến quản lý Nhà nước và tiếp tục cải cách hành chính trong công tác quản lý FDI. - Thực hiện tốt công tác quy hoạch tổng thể, lập kế hoạch và dự án đầu tư. - Đẩy mạnh và dần hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật tạo môi trường thuận lợi thu hút FDI. - Tập trung tạo lập đối tác trong nước, đẩy mạnh công tác tìm kiếm, lựa chọn đối tác nước ngoài, đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư một cách chủ động, tích cực chú trọng công tác tuyên truyền giới thiệu tiềm năng của tỉnh với đối tác bên ngoài. - Cần đẩy mạnh công tác đào tạo, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ, công nhân phục vụ cho nhu cầu hoạt động trong các doanh nghiệp có FDI. - Thành lập các tổ chức quần chúng trong doanh nghiệp có FDI nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động cũng như tổ chức các hoạt động xã hội khác. Kết luận và kiến nghị Hải Dương là một tỉnh đồng bằng có nhiều thuận lợi trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phục vụ tích cực cho việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Từ năm 1990 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tiên đã được thu hút vào Hải Dương. Cho đến nay, hoạt động FDI ở Hải Dương đã đạt được những thành tựu đáng kể. Số lượng dự án và vốn đầu tư tăng qua các năm. Năm 1999 mặc dù ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nhưng Hải Dương vẫn thu hút được 5 dự án. Nhìn chung nguồn FDI đã đóng góp tích cực trong nguồn vốn vận hành, tạo dựng cho nền kinh tế của tỉnh phát triển. Góp phần tăng GDP, đồng thời đóng góp tích cực trong việc tạo ra lực lượng sản xuất mới và sản phẩm mới, tạo môi trường và khả năng tiếp thu công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động và tăng thêm nguồn thu ngân sách tỉnh. Bên cạnh những thành tựu đạt được, lĩnh vực thu hút FDI của tỉnh cũng còn nhiều hạn chế: Môi trường đầu tư, lựa chọn đối tác, chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân lao động... còn nhiều vướng mắc, cần phải được tháo gỡ bằng các giải pháp chủ yếu như: Quy hoạch tổng thể, xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất - kỹ thuật, tăng cường và đổi mới công tác quản lý đào tạo đội ngũ người lao động, thành lập các tổ chức quần chúng... nhằm tạo lập được môi trường đầu tư thông thoáng thu hút có kết quả nguồn FDI. Qua thực tiễn triển khai hoạt động FDI tại Hải Dương, để tăng cường thu hút FDI tại Hải Dương trong thời gian tới, luận văn xin nêu một số kiến nghị: Một là, Chính phủ cần có chủ trương, chính sách cụ thể phù hợp, giảm giá tiền thuê đất, hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng, đặc biệt khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp. Hai là, Chính phủ cần có chế độ ưu đãi hợp lý đối với thuế xuất nhập khẩu, giá bốc xếp hàng hóa, thuế chuyển lợi nhuận về nước. Ba là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chấn chỉnh hoạt động của các cá nhân, các ngành có liên quan đến lĩnh vực đầu tư nước ngoài, nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhất là cần xúc tiến mạnh mẽ việc giảm các thủ tục hành chính phiền hà cho các chủ đầu tư. Bốn là, Các ngành trung ương có liên quan cần sớm nghiên cứu mô hình các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để có sự chỉ đạo thống nhất. Danh mục các tài liệu tham khảo Báo cáo chính trị trình tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XII (5/9/1997). Báo cáo về công tác đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Sở Kế hoạch và Đầu tư 28/2/1997. Báo cáo về kết quả đầu tư nước ngoài trong thời gian (1990 - 1996) trên địa bàn tỉnh Hải Dương, UBND tỉnh Hải Dương. Báo cáo về kết quả đầu tư nước ngoài và phát triển khu vực doanh nghiệp tư nhân tại Hải Dương, Ban kinh tế Tỉnh ủy, 4/1997. Báo cáo tóm tắt kết quả triển khai đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, 3/1998. Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Sở Kế hoạch và Đầu tư, 5/1999. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội sáu tháng đầu năm và một số vấn đề cần tập trung chỉ đạo sáu tháng cuối năm 1999, tại kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XII, 7/1999. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội sáu tháng đầu năm và một số biện pháp tập trung chỉ đạo trong những tháng cuối năm 2000, Tại kỳ họp lần thứ 3 - HĐND tỉnh khóa VIII, 7/2000. Báo cáo kết quả công tác quản lý thu ngân sách nhà nước năm 1999 - quí 1 năm 2000, Chi cục thuế Hải Dương, 4/2000. Vũ Đình Bách, Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Báo Nhân Dân, số 16423, ngày 28-6-2000. Báo Đầu tư, số 603, ngày 5-10-2000. Nguyễn Hữu Chiến, Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Hà Nội, 1999. CNTB độc quyền và CNTB độc quyền Nhà nước, Giáo trình Kinh tế chính trị học Mác - Lênin, Nxb Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội, 8/1999. Chính sách chế độ về vay vốn để giải quyết việc làm, Nxb Học viện chính trị quốc gia, Hà Nội, 10/1995. Nguyễn Sinh Cúc - Nguyễn Văn Tiêm, Đầu tư trong nông nghiệp, thực trạng và triển vọng, Nxb Học viện chính trị quốc gia, Hà Nội, 8/1995. Diễn đàn doanh nghiệp tư nhân, 13/12/1999. Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 tỉnh Hải Dương, Sở Kế hoạch và Đầu tư, 5/2000. Dự thảo các văn kiện trình đại hội lần thứ IX của Đảng, Công ty in Tiến bộ 7/2000. Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 13, Tỉnh ủy Hải Dương, tháng 7-2000 Thế Đạt, Hợp tác đầu tư quốc tế về sản xuất và dịch vụ, Nxb Lao động, Hà Nội, 1997. Phan Hy, Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Hà Nội, 1996. Hệ thống chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội của tỉnh Hải Dương 1996 - 2000, Chi cục thuế tỉnh Hải Dương, 6/2000. Dương Mạnh Hải, Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và hiệu quả kinh tế - xã hội những năm gần đây, Tạp chí Lý luận, số 8/2000. Hoàng Công Hồng, Xây dựng môi trường đầu tư lành mạnh ổn định nhằm thu hút có hiệu quả nguồn đầu tư nước ngoài, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội, 1996. Nguyễn Sinh Hùng, Đổi mới và lành mạnh hóa hệ thống tài chính tiền tệ. Thái Hà - xu hướng vận động của dòng vốn FDI năm 1999, Báo thời báo kinh tế Việt Nam 1999 - 2000. Không có công đoàn người lao động ở các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài biết dựa vào ai, Báo Hải Dương, 5/2000. [29] Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - Nxb Học viện chính trị quốc gia 4/1996. V.I. Lê nin, Toàn tập, Tập 27, Nxb Tiến Bộ, M. 1980. Niên giám thống kê năm 1998, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999. Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 1998, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999. Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 1999, Nxb thống kê, Hà Nội, 2000. Niên giám thống kê năm 1999, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2000. Nguyễn Văn Phi, Báo cáo công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương, 7/2000. Nguyễn Minh Phong, Cần làm gì để cải thiện các nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 4/1999. Quyết định số 233/1998/QĐ-TTg về việc phân cấp ủy quyền cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, 12/1998. Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg về một số biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, 3/1999. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hải Dương đến năm 2000 và định hướng chiến lược đến 2020, UBND tỉnh Hải Dương, 12/1997. Lê Hồng Sơn, Vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở tỉnh Đồng Nai, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Hà Nội, 1998. Lê Mạnh Tuấn, Hoàn thiện khung pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam, Luận án Tiến sĩ luật, Hà Nội, 1996. Đinh Trung Thành, Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN tại Việt Nam - những vấn đề đặt ra và phương pháp giải quyết, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Hà Nội, 1999. Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 1999 và những mục tiêu nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch năm 2000, UBND tỉnh Hải Dương, 12/1999. Tình hình lao động, việc làm 3 năm 1995-1997, Liên đoàn lao động tỉnh Hải Dương, 1997. Tài liệu nghiên cứu nghị quyết hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa VIII), Nxb Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2/1998. Nguyễn Khắc Thân - Chu Văn Cấp, Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, tháng 1-1996. Nguyễn Trung Tín (chủ biên), Tìm hiểu luật quốc tế, Nxb Đồng Nai, 11-1997. Phạm Thị Túy, Vấn đề thu hút vốn FDI ở Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế châu á: Tình hình và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4-1999. Nguyễn Huy Thám, Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, 1999. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2776.DOC
Tài liệu liên quan