Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại khu vực kinh tế động lực miền bắc - Thực trạng & phương hướng phát triển

A- Đặt vấn đề Hiện nay, xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra sâu rộng và cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang tạo ra sự thay đổi vượt bậc trong cơ sở vật chất của nền kinh tế thế giới. Trong đó, phân công lao động quốc tế có nhiều bước chuyển biến mới với một phạm vi rộng hơn, tốc độ nhanh hơn và chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu. Điều này có nghĩa là các quan hệ kinh tế quốc tế cũng mang nội dung toàn diện hơn, phức tạp và ở cấp độ cao hơn. Cùng với xu hướng này là s

doc42 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại khu vực kinh tế động lực miền bắc - Thực trạng & phương hướng phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự hình thành nên sức liên kết kinh tế quốc tế như các khối EU, APEC, ASEAN,... Với các hình thức liên kết như - khu vực mậu dịch tự do (FTA), liên minh thuế quan, thị trường chung. Việc liên kết kinh tế quốc tế đem lại nhiều lợi ích cho các nước tham gia song nếu một nước thành viên có trình độ phát triển thấp sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Việt Nam là một quốc gia còn hạn chế về kết quả phát triển kinh tế. Trong tiến trình tham gia vào các liên kết kinh tế như gia nhập AFTA (khu vực mậu dịch tự do các nước ASEAN), Việt Nam cần phải có nhiều cố gắn để cải thiện vị thế của mình nếu không muốn gặp khó khăn và chịu nhiều thiệt thòi. Muốn vậy, Việt Nam cần phải tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tạo ra cơ cấu sản xuất mới phù hợp với việc tham gia các liên kết kinh tế quốc tế mới! Rõ ràng là nhiệm vụ này chỉ có thể hoàn thành khi có sự trợ giúp đắc lực của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ những phân tích trên đây có thể thấy rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài là một đầu mối rất quan trọng để tháo gỡ các khó khăn mà Việt Nam đang gặp phải. Vì vậy, nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nhiệm vụ cần thiết hơn bao giờ hết. Đề tài này mang tên “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại khu vực kinh tế động lực miền Bắc - Thực trạng và phương hướng phát triển”, chỉ tập trung đi vào nghiên cứu tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Khu vực kinh tế này tuy ra đời muộn và kém phát triển hơn tam giác kinh tế TP. Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà Rịa Vũng Tàu song lại có một vị trí hết sức quan trọng đòi hỏi cần được đầu tư nghiên cứu một cách thích đáng. Vùng kinh tế động lực miền Bắc có diện tích tự nhiên của ba cực thuộc tam giác tăng trưởng là 8.562 km2, số dân 5,7 triệu người chiếm tỉ lệ 2,52% diện tích và 6,5% dân số cả nước. Đây là vùng kinh tế còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác nên rất cần có đầu tư trực tiếp nước ngoài để thúc đẩy sản xuất phát triển, tận dụng được mọi thế mạnh. Tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh phát triển là điều kiện tiên quyết để kinh tế cả nước đi lên. Lý do là vì các tỉnh phía Bắc cần phải có một chỗ dựa đáng tin cậy và chỉ khi Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh vững mạnh thì mới có thể giúp đỡ cho các tỉnh lân cận cùng đi lên. Xét theo khía cạnh vùng là như vậy, còn xét theo khía cạnh toàn quốc thì vùng kinh tế động lực miền Bắc cũng giữ một vai trò rất quan trọng vì miền Nam và miền Bắc nếu cùng phát triển thì sẽ có thể thay nhau trợ giúp cho kinh tế miền Trung còn quá nhiều khó khăn. Tuy giữ một vai trò quan trọng như vậy song kinh tế miền Bắc còn chưa phát triển đủ mức để có thể hoàn thành nhiệm vụ của nó. Tiềm năng của vùng kinh tế này đang cần có sự tham gia của đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả. Để biết rõ về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh cần xem xét kỹ về thực trạng đầu tư trên các khía cạnh: số liệu đầu tư, thu hút vốn đầu tư, sử dụng vốn đầu tư,... Với điều kiện thời gian và tài chính có nhiều hạn chế, đề tài này chỉ có thể sử dụng phương pháp thu thập và phân tích tài liệu để nghiên cứu. Từ những số liệu có được về tình hình đầu tư, các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng kinh tế động lực miền Bắc cùng các số liệu khác tham khảo từ các nước trong khu vực, đề tài này sẽ đi vào phân tích để tìm ra các vấn đề còn tồn tại, các giải pháp và phương hướng phát triển cho đầu tư trực tiếp nước ngoài của tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Với mục tiêu và phương pháp như trên, đề tài đi vào giải quyết các nội dung cụ thể như sau: ã Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhiệm vụ của phần này là làm sáng tỏ các căn cứ về mặt lý thuyết của vấn đề đang xem xét, giúp hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề. Đây là cơ sở kiến thức để tiếp tục nghiên cứu vào phạm vi cụ thể là vùng kinh tế động lực miền Bắc. ã Nội dung thứ hai là nghiên cứu thực tiễn tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Phần này một mặt sẽ nêu lên những con số thống kê thực tế, mặt khác sẽ đi vào phân tích các yếu tố dựa trên cơ sở lý thuyết song chú trọng vào những nét đặc thù của vùng, từ đó tìm ra được những vấn đề còn tồn tại và cần khắc phục. ã Nội dung tiếp theo là nghiên cứu bài học kinh nghiệm của các nước trong khu vực để có thể tìm ra giải pháp cho vùng trong lĩnh vực thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. ã Cuối cùng, tổng kết, nêu rõ các vấn đề cần giải quyết và đưa ra các kiến nghị giải quyết các vấn đề liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài đã phát hiện được. B- nội dung I-/ Lý luận chung 1-/ Khái niệm a-/ Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Cũng như một cơ thể sống, một nền kinh tế muốn tồn tại và phát triển cần luôn luôn được cung cấp thêm “năng lượng”, đó chính là cần có sự tái sản xuất cả chiều sâu và chiều rộng. Muốn vậy cần tiến hành hoạt động đầu tư. Đầu tư chính là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương của ngành và của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nói riêng. Như vậy đầu tư là một hoạt động kinh tế, là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó chính là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì đó ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Để tiến hành hoạt động đầu tư cần phải có vốn đầu tư. Theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Theo khía cạnh pháp lý, vốn đầu tư bao gồm vốn pháp định và vốn vay. Hiện nay trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, có sự giao lưu, trao đổi kinh tế giữa các quốc gia đã làm hoạt động đầu tư không còn bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, đã có sự phân chia trong thành phần vốn đầu tư thành vốn đầu tư trong nước và ngoài nước. Vốn đầu tư trong nước phản ánh nội lực của nền kinh tế, được hình thành từ tích luỹ ngân sách, tích luỹ của doanh nghiệp, tiết kiệm trong dân cư. Vốn đầu tư nước ngoài là vốn dùng cho đầu tư được thu hút từ bên ngoài. Vốn này gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp. Vốn đầu tư gián tiếp với hình thức chủ yếu là viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi (về lãi suất, thời gian trả nợ,...) của các cơ quan chính thức thuộc các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ. Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) là vốn của các doanh nghiệp và các cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và sự trực tiếp quản lý sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra. Khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường, nhận thức rõ tầm quan trọng của đầu tư, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vốn trong nước là chủ yếu, vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng. Nước ta đã và đang tiến hành mọi điều kiện để mở rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. b-/ Sự phát triển và bản chất của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong lịch sử thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã từng xuất hiện ngay từ thời tiền tư bản. Khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn mới, đánh dấu bằng sự kiện “công xã Pari” thì hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nước công nghiệp phát triển càng có qui mô to lớn hơn. Trong thế kỷ XIX, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước công nghiệp lúc bấy giờ (Anh, Mỹ, Đức,...) tích luỹ được những khoản tư bản khổng lồ, đó là tiền đề quan trọng đầu tiên cho việc xuất khẩu tư bản. Thực chất xuất khẩu tư bản là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia hình thành nên qui mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Theo Lênin “xuất khẩu tư bản” là 1 trong 5 đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa đế quốc, thông qua đó các nước tư bản phát triển thực hiện việc bóc lột đối với các nước lạc hậu thường là thuộc địa của nó. Nhưng cũng chính Lênin khi đưa ra “chính sách kinh tế mới” đã nói rằng, những người cộng sản phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của các nước công nghiệp phát triển (chủ nghĩa tư bản) thông qua hình thức “chủ nghĩa tư bản Nhà nước”. Theo quan điểm này nhiều nước đã “chấp nhận” phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản (CNTB) để phát triển kinh tế, như thế có thể còn nhanh hơn là tự thân vận động hay đi vay vốn để mua lại những kỹ thuật của các nước công nghiệp phát triển. Thực tế sau mỗi chu kỳ kinh tế, nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển lại rơi vào một cuộc suy thoái kinh tế, chính lúc này, để vượt qua giai đoạn khủng hoảng và tạo ra những điều kiện phát triển đòi hỏi phải đổi mới tư bản cố định. Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài các nước công nghiệp phát triển có thể chuyển máy móc, thiết bị cần thay thế sang các nước kém phát triển hơn và sẽ thu hồi được một phần giá trị để bù đắp các khoản chi phí khổng lồ cho việc mua sắm các thiết bị, máy móc mới. Thêm vào đó nguyên tắc lợi thế so sánh cho phép hoạt động đầu tư nước ngoài lợi dụng được những ưu thế tương đối của mỗi nước, đem lại lợi ích cho cả hai bên bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Cho đến nay đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng lên cả về số lượng, qui mô, hình thức, thị trường, lĩnh vực đầu tư. Về số lượng, nếu năm 1986 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới là 78 tỷ USD thì đến năm 1995 con số đó là 235 tỷ USD. Vào cuối thập kỷ 70 vốn đầu tư nước ngoài chiếm 5% tổng số vốn đầu tư toàn thế giới thì đến 1984, tổng vốn đầu tư nước ngoài chiếm 13%. Điều này chứng tỏ xu hướng phát triển sản xuất quốc tế ngày càng được mở rộng và ngày càng có nhiều nước tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Trong những năm 60, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào các nước đang phát triển tập trung chủ yếu vào Mỹ La tinh, thì cuối những năm 70 và đầu 80, lại có xu hướng chuyển sang các nước và vùng lãnh thổ ở Đông Nam á, là nơi có sự phát triển năng động nhất thế giới đang phát triển hiện nay. Đứng sau các nước Châu á là các nước ở Châu Mỹ La tinh trong nhiều năm qua đã rất thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Và tiếp sau đó là các nước thuộc SNG, Đông Âu, Châu Phi và Trung Đông. Trong thời gian gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngài tập trung nhiều vào hai ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ. Nguyên nhân là do: lực lượng sản xuất phát triển, nhu cầu về các loại dịch vụ phục vụ đời sống sản xuất kinh doanh tăng lên; ngành công nghiệp chế biến là ngành có nhiều phân ngành mà những phân ngành đó thuộc các lĩnh vực mũi nhọn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ: điện tử, thông tin, liên lạc, vật liệu mới,... và do đặc tính kỹ thuật của hai ngành này là dễ dàng hợp tác. Thêm vào đó: việc đầu tư vào hai ngành này cho phép người đầu tư thu được lợi nhuận cao, đỡ gặp rủi ro hơn và nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư. Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm nay gắn liền với chủ nghĩa tư bản. 2-/ ảnh hưởng của đầu tư nước ngoài đến nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư a-/ Lợi ích a1. Tạo nguồn vốn: Vốn cho phép đầu tư phát triển kinh tế bao gồm nguồn vốn trong nước và vốn từ nước ngoài. Đối với các nước lạc hậu, sản xuất còn ở trình độ thấp, nguồn vốn tích luỹ từ trong nước còn hạn hẹp thì vốn đầu tư nước ngoài có giá trị đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển nền kinh tế. ở các nước này có nhiều tiềm năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên nhưng do trình độ sản xuất còn thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu nên chưa có điều kiện khai thác các tiềm năng ấy. Để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói, các nước này chỉ có thể tăng cường đầu tư phát triển sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Muốn vậy các nước này cần phải có nhiều vốn đầu tư. Trong điều kiện hiện nay, trong xu hướng hội nhập có nhiều nước trên thế giới đang nắm trong tay một khối lượng vốn khổng lồ và có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài thì đây chính là cơ hội tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài cho việc phát triển kinh tế đối với các nước đang phát triển. Đối với các nước công nghiệp phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là nguồn bổ sung vốn quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Các nước này đã thu hút tới 82% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước họ thời kỳ 1987-1991. Thực tế chính các nước công nghiệp phát triển là những nước đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất và cũng thu hút phần lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, không phải do trình độ kỹ thuật kém và cũng không phải do thiếu vốn đầu tư. a2. Chuyển giao công nghệ Khi đầu tư vào một nước nào đó, ngoài vốn bằng tiền, chủ đầu tư còn chuyển cả vốn hiện vật như: máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,... (công nghệ cứng) và vốn vô hình như: chuyên gia kỹ thuật - công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết, kỹ năng quản lý, năng lực tiếp cận thị trường,... (công nghệ mềm). Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả hai bên: bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Đối với các nước đang phát triển, trình độ kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu, việc tự nghiên cứu để phát triển khoa học kỹ thuật cho kịp với trình độ của các nước phát triển là rất khó khăn và tốn kém, đặc biệt là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Thay vào đó, con đường nhanh nhất là tận dụng những thành tựu kỹ thuật công nghệ tiên tiến của nước ngoài thông qua chuyển giao công nghệ. Mà một trong những phương thức để đạt được điều đó là tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là lợi ích căn bản của các nước khi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với các nước phát triển, mặc dù đã có trình độ sản xuất hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến nhưng không thể nào toàn diện được. Để đạt hiệu quả kinh tế cao, mỗi nước chỉ tập trung vào một số lĩnh vực nào đó mà họ có ưu thế hơn và chính sự tập trung đó cho phép họ vượt trội lên ở một hay một số địa vị nào đó. Xu hướng phát triển phân công lao động xã hội cũng là quá trình chuyên môn hoá và liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả trực tiếp của quá trình trên, nó tuân theo qui luật của quá trình phân công lao động quốc tế. Sự phát triển khoa học kỹ thuật đòi hỏi phải có chuyển giao công nghệ. Bất kỳ một tổ chức nào muốn thay thế kỹ thuật công nghệ mới thì cũng phải tìm được nơi thải những kỹ thuật công nghệ đã cũ. Việc “thải” những công nghệ này dễ dàng được nhiều nơi chấp nhận. Và chính điều này đã tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật. a3. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Xem xét tình hình tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trên thế giới cho thấy: có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức tăng trưởng kinh tế với khối lượng vốn đầu tư nước ngoài huy động và sử dụng và sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với mức tăng trưởng xuất khẩu. Qua nghiên cứu tình hình thực tiễn của nhiều quốc gia đang phát triển Châu á trong hai thập kỷ 80 và 90, các chuyên gia của ngân hàng phát triển Châu á (ADB) đã đưa ra kết quả phân tích như sau: ảnh hưởng nhân quả khi tăng 1% của các nhân tố Chỉ tiêu AID FPI CX CLF GDPN GR S Nhịp độ tăng trưởng 0,047 0,119 0,097 0,137 0,803 Tỷ lệ tiết kiệm -0,016 0,032 0,016 0,40 0,053 Nguồn: Tuyển tập báo cáo hội thảo “Một số vấn đề kinh tế vĩ mô”. Trung tâm nghiên cứu hệ thống và quản lý - 1992 GR : nhịp độ tăng trưởng của GDP AID : vốn chính thức; % của GDP FPI : đầu tư nước ngoài tư nhân CX : tỷ lệ xuất khẩu so với GDP S : tỷ lệ tiết kiệm SLF : gia tăng lực lượng lao động GDPN : GDP/đầu người. Kết quả trên cho thấy vai trò to lớn của đầu tư tư nhân nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ tiết kiệm khi tăng 1% đầu tư tư nhân nước ngoài sẽ làm nhịp độ tăng trưởng thêm 0,119% và tỉ lệ tiết kiệm tăng 0,032%. a4. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Quá trình đó đòi hỏi từng quocó gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp, và điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngược lại chính đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Vì thông qua đó đã xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở các nước tiếp nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp vào sự phát triển nhanh chóng trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này và làm tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài một số ngành được kích thích phát triển nhưng cũng sẽ có nhiều ngành bị mai một rồi đi đến chỗ xoá sổ. Ngoài ra, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có một số đóng góp khác như sau: Góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế của các đơn vị đầu tư nước ngoài và tiền thu từ việc cho thuê đất. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế cho nước tiếp nhận đầu tư bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản xuất ra các sản phẩm “hướng vào xuất khẩu”. Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài còn giúp mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước. Đa số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều có phương án bao tiêu sản phẩm. Đây gọi là hiện tượng “hai chiều” đang trở thành khá phổ biến ở nhiều nước đang phát triển hiện nay. Về mặt xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, thu hút được một lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư vào làm việc trong các đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều này đã góp phần đáng kể vào việc giảm bớt nạn thất nghiệp, vốn là một tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt đối với nhiều nước đang phát triển tuy có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng được thì đây chính là một chiếc chìa khoá quan trọng để giải quyết vấn đề này. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra các điều kiện về vốn kỹ thuật cho phép khai thác và sử dụng các tiềm năng của nền kinh tế, trong đó có tiềm năng về lao động. b-/ Hạn chế Bên cạnh những tác động tích cực, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ khiến cho nước tiếp nhận phải chịu lệ thuộc nhiều về kinh tế, chính trị. Về lâu dài đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ làm giảm đi tỉ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa, gây ra cạnh tranh không lành mạnh, tăng sự phát triển không đồng đều giữa thành thị và nông thôn, phân hoá giàu nghèo, tạo ra mối đe doạ về bất ổn định chính trị cho Chính phủ của các nước đang phát triển. Thêm vào đó khi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài các nước đang phát triển trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ lạc hậu lại thiếu những chuyên gia giỏi hoặc tư cách đạo đức không tốt và thiếu kinh nghiệm trong thẩm định dự án đầu tư có thể dẫn đến tiếp nhận những dự án công nghệ không phù hợp, thậm chí những công nghệ quá lạc hậu không thể áp dụng được, hoặc nếu áp dụng thì hiệu quả không cao. 3-/ Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài a-/ Yếu tố bên ngoài nước tiếp nhận a1. Xu hướng đầu tư trực tiếp trên thế giới Đầu tư trực tiếp nước ngoài đang ngày càng chiếm giữ vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế quốc dân. Như phần trên đã nêu phần lớn vốn đầu tư trực tiếp được thực hiện ở các nước phát triển, từ đầu thập kỷ 70 đến nay tỷ trọng đầu tư vào các nước phát triển trong tổng đầu tư trực tiếp trên toàn thế giới đã liên tục gia tăng. Nói cách khác các nước đang phát triển không những chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên toàn thế giới, mà tỉ trọng này còn liên tục bị giảm xuống. Nếu như vào đầu thập kỷ 70 các nước đang phát triển còn chiếm trên 30% tổng vốn FDI trên toàn thế giới thì tỉ trọng này đã giảm xuống còn 25% tính bình quân trong thời kỳ 1980-1985 và 17% trong thời kỳ 1986-1990. Trong số các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ tập trung vào một số ít các nước có chính sách thông thoáng, cơ sở hạ tầng tương đối phát triển. Do vậy cuộc cạnh tranh để thu hút FDI giữa các nước đang phát triển tiếp tục gia tăng. Và hiện nay, cùng với sự phát triển năng động, Châu á - Thái Bình Dương đang trở thành địa bàn đầu tư ngày càng được quan tâm. a2. Tiềm lực của nhà đầu tư: Đây là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiềm lực và mong muốn của nhà đầu tư sẽ quyết định nước tiếp nhận, ngành và lĩnh vực đầu tư. xu hướng của các nhà đầu tư là đa dạng hoá với đa phương hoá đầu tư ở các nước khác nhau để giảm thiểu rủi ro. Trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế thế giới đang có những biến chuyển phức tạp và không ổn định dẫn đến các nhà đầu tư rất thận trọng trong việc lựa chọn phương hướng và đối tác đầu tư. a2. Sự cạnh tranh của các nước trong thu hút đầu tư Nhận thức vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài, các quốc gia trên toàn thế giới đều đề ra những chính sách, biện pháp và điều kiện thuận lợi nhằm thu hút đầu tư. Điều này dẫn tới sự cạnh tranh giữa các nước trong việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Một nước với vị trí địa lý thuận lợi, môi trường chính trị ổn định và cơ sở hạ tầng phát triển cùng với các điều kiện về tài nguyên, thiên nhiên dồi dào phong phú và các chính sách thông thoáng chắc chắn sẽ là một môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài. b-/ Yếu tố bên trong nước tiếp nhận đầu tư b1. ổn định chính trị - xã hội Nghiên cứu đã cho thấy ổn định chính trị sẽ khuyến khích đầu tư nước ngoài. Đây là khi tình hình chính trị không ổn định, nhất là thể chế chính trị không ổn định và đi liền với nó là luật pháp thay đổi dẫn đến mục tiêu có thể sẽ thay đổi, làm cho phương thức thực hiện mục tiêu cũng thay đổi. Điều này có nghĩa là những cái ngày hôm qua đã xây dựng dưới chế độ chính trị cũ có thể trở thành lạc hậu thậm chí phải phá bỏ. Hiệu quả của sự phá bỏ ấy là sự thiệt hại về lợi ích, trong đó nhà đầu tư nước ngoài phải gánh chịu một phần thêm vào đó rủi ro của nhà đầu tư liên quan chặt chẽ đến sự bất ổn định chính trị bao gồm tổn hao chi phí khi có sự đổ vỡ chính trị, sự quốc hữu hoá của Chính phủ, tỉ lệ hoàn vốn chắc chắn, cung ứng hàng hoá, dịch vụ và nhân lực bị phá vỡ. Điều này đã không đáp ứng được mục tiêu lợi nhuận của các nhà đầu tư. Kinh nghiệm của hầu hết các nước cho thấy rằng khi tình hình chính trị mất ổn định, thậm chí có dấu hiệu mất ổn định thì các nhà đầu tư sẽ không đầu tư hoặc ngừng việc đầu tư của mình. Tiêu chí ổn định chính trị mà các nhà đầu tư quan tâm là sự bền vững của Chính phủ, mức độ tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị, sự hoạt động của các đảng phái. Nếu các điều kiện khác của môi trường đầu tư không đổi, thì chính trị càng ổn định và độ tin cậy càng cao, càng hấp dẫn đầu tư tư nhân. Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh diễn ra gay gắt trên thị trường đầu tư, sự ổn định chính trị có thể được xem là một lợi thế so sánh cần phát huy. b2. Sự vững mạnh của Nhà nước và Đảng cầm quyền Thị trường đầu tư không thể thiếu vai trò điều tiết của Nhà nước. Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng một Nhà nước mạnh với bộ máy chính sách cởi mở là điều kiện quan trọng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Một Nhà nước có bộ máy cồng kềnh với các quan chức quan liêu, ăn hối lộ, kém năng động là trở lực lớn nhất đối với thu hút đầu tư. Bởi vì các nhà đầu tư từ một “xứ lạ” tới, dù họ đã nghiên cứu luật đầu tư, song họ không tránh khỏi bỡ ngỡ khi làm việc trực tiếp với các quan chức Nhà nước sở tại, mà nhiều khi các quan chức này có tính quyết định đến việc thành công hay không thành công đối với dự án mà họ theo đuổi. b3. Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư bao gồm các văn bản luật, các qui định và các văn bản quản lý hoạt động đầu tư. Đây là thành phần quan trọng của môi trường đầu tư vì nó xác định mức lợi nhuận của nhà đầu tư và quyết định của họ khi thanh lý tài sản do đầu tư tạo ra bằng hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế xã hội trong những điều kiện cụ thể nhất định trên cơ sở vận dụng sáng tạo những qui định luật kinh tế khách quan nói chung và các qui luật vận động đặc thù nói riêng. b4. Các chính sách chiến lược kinh tế Chính sách và chiến lược kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với việc tạo lập đối tác trong nước, lựa chọn đối tác trong nước và nước ngoài và các hình thức thu hút vốn. Đây thực sự là một đòn bẩy kinh tế và vai trò của các chính sách kinh tế là ở chỗ nó quyết định trực tiếp tới mức lợi nhuận chính sách thuế cởi mở với tỷ suất thấp, giá thuê đất thấp cùng với tiền lương thấp,... sẽ làm cho chi phí tư bản thấp đi và như vậy trong điều kiện bình thường thì mức lợi nhuận sẽ cao, có lợi cho nhà đầu tư. Vì vậy nhiều nước đã sử dụng biện pháp này như một công cụ lợi hại trong cạnh tranh trên thị trường đầu tư. Hiện nay để thu hút đầu tư nước ngoài các nước trên thế giới đều thực hiện chiến lược kinh tế mở. Đây là điều kiện tiên quyết, kinh nghiệm cho thấy rằng mở cửa bên ngoài và mở cửa bên trong có mối quan hệ tác động mật thiết với nhau, và càng mở bên trong thì càng thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. b5. Thị trường cần thiết đối với các nhà đầu tư Các loại thị trường này bao gồm: thị trường sức lao động (trong đó có thị trường chất xám), thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, vốn, ngoại hối, chứng khoán). Đi liền với đầu tư trực tiếp nước ngoài là cả một hệ thống các quan hệ kinh tế chứa đựng trong quá trình tái sản xuất thêm vào đó thị trường đầu tư mà chủ thể là các nhà đầu tư nước ngoài vốn là sản phẩm của nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy cần phải có một môi trường kinh tế đồng bộ và ổn định để họ hoạt động và hoạt động có hiệu quả. Thực tế đã chỉ ra rằng mỗi khi nền kinh tế nước chủ nhà có sự chấn động, lạm phát tăng, sự chấn động về tỷ giá,... thì các nhà đầu tư rất e dè rút vốn đầu tư, các chủ đầu tư đã đầu tư rồi thì hoặc tìm cách ngừng lại hoặc thậm chí chuyển vốn đi nơi khác. b6. Kết cấu hạ tầng Kết cấu hạ tầng là tập hợp những trang bị cơ bản về vật chất và con người của một xã hội, bao gồm hai bộ phận: kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật là hệ thống các cơ sở vật chất kỹ thuật được tổ chức thành các công trình sự nghiệp (đường giao thông, kho tàng, bến bãi,...), các đơn vị sản xuất và dịch vụ có chức năng đảm bảo sự di chuyển các luồng thông tin và vật chất nhằm phục vụ nhu cầu có tính phổ biến của sản phẩm và tiêu dùng. Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thì kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiên quyết vì kỹ thuật cao chỉ phát huy được trong một cơ sở hạ tầng thích hợp. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, khi nền kinh tế đều vận động thông qua thị trường, sự biến động nhanh chóng của các loại thị trường tác động qua lại chặt chẽ với nhau buộc các chủ đầu tư phải ứng phó kịp thời. Điều này đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật hiện đại, không một nhà đầu tư nước ngoài nào gánh chịu những thiệt hại và những chi phí trực tiếp do hạ tầng vật chất kém gây ra. Những khoản thuế mà họ phải nộp cho Nhà nước nhận đầu tư đã bao hàm cả những chi phí về hạ tầng vật chất kỹ thuật đó. Do đó, tư bản nước ngoài chỉ chảy vào đến nơi có môi trường đầu tư thuận lợi, mà sự thuận lợi trước hết là nơi có cơ sở hạ tầng vật chất hoàn chỉnh hiện đại. Bộ phận thứ hai của kết cấu hạ tầng là kết cấu hạ tầng xã hội. Đây là những trang bị căn bản về con người, thể hiện bằng tiềm năng của con người trong xã hội. Một nước với đội ngũ lao động cần cù sáng tạo, có trình độ và kỹ năng thành htạo sẽ là một lợi thế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tóm lại, một môi trường đầu tư thuận lợi sẽ là nhân tố thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế của các quốc gia trên toàn thế giới. II-/ Thực trạng đầu tư ở khu vực kinh tế động lực miền Bắc 1-/ Vùng kinh tế động lực miền Bắc trong bối cảnh chung của cả nước Trong giai đoạn gần đây, những năm 1996-1999, kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục đi lên. Tuy nhiên trong thời kì 97-98, do chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại khu vực Đông Nam á tăng trưởng của Việt Nam có giảm đi đôi chút. Trong bối cảnh chung như vậy, có thể xem xét về tình hình thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: ã Tỷ trọng đóng góp của khu vực FDI trong GDP ngày càng tăng. Nếu năm 1992 chỉ là 2% thì đến năm 96 đã là 7,4% và năm 1999 tính đến tháng 12 là 10,3%. ã Khu vực FDI đã nộp ngân sách được 128 triệu USD năm 1994 tăng lên 315 triệu USD năm 1997. Tuy nhiên, do tốc độ đầu tư trực tiếp nước ngoài những năm sau khủng hoảng có giảm đi nên nộp ngân sách năm 1999 chỉ đạt 271 triệu USD. Nhìn chung, mức đóng góp của khu vực FDI trong ngân sách giữ một vị trí khá quan trọng với tỉ lệ khá cao. ã Xem xét riêng về khu vực công nghiệp - khu vực chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì tốc độ tăng trưởng công nghiệp khu vực FDI cũng rất cao so với tốc độ tăng trưởng công nghiệp cả nước. Năm 1997, công nghiệp khu vực FDI tăng 21,7% trong khi công nghiệp cả nước tăng 14,2%; năm 1998 các tỉ lệ tương ứng là 20% công nghiệp khu vực FDI và 10,5% của công nghiệp cả nước. Khu vực kinh tế động lực miền Bắc đã có nhiều bước tiến thực sự, tốc độ GDP cả vùng tăng cao hơn tỉ lệ bình quân của cả nước, tỷ trọng GDP của vùng so với cả nước cũng ngày một được nâng cao (8,8% năm 91 tăng lên 9,4% năm 1995 và 10,5% năm 1997). Ngoài ra, GDP bình quân đầu người đạt gần 500 USD gấp 2 lần mức trung bình cả nước. Thu nhập thuần tuý của dân cư đạt trên 300.000 đ/người/tháng, gấp 1,9 lần mức trung bình cả nước. Trên đây là những nét sơ lược về tình hình kinh tế và tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước nói chung và của khu vực kinh tế trọng điểm miền Bắc nó._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0007.doc
Tài liệu liên quan