Đầu tư và phát triển ngành công nghiệp đóng tàu Thành Phố Hải Phòng

A_LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đã thay đổi rất nhiều sau 20 năm với thành tích tăng trưởng cao và rất nhiều người dân Việt Nam đã thoát khỏi cảnh đói nghèo. Với tư cách một quốc gia, Việt Nam ngày càng nhận được sự nể trọng và có ảnh hưởng ngày càng lớn hơn trong cộng đồng quốc tế. Có được thành công này một phần là nhờ vào những quyết định sang suốt của Chính phủ trong hoạt động đầu tư, nhất là đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là vấn đề được toàn xã hội, đặc biệt là các nhà nghiên cứu và hoạch địn

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư và phát triển ngành công nghiệp đóng tàu Thành Phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h chính sách phát triển của đất nước thường xuyên quan tâm và coi trọng. Từ cổ tới kim, đề cập đến phát triển nói chung và phát triển, tăng trưởng kinh tế nói riêng, người ta đều không quên nói đến đầu tư phát triển. Bàn về vấn đề này chính là mong muốn có được sự hiểu biết tốt hơn để có thể hành động đúng đắn với công việc đầu tư đầy khó khăn nhưng cũng không kém phần “cám dỗ”. Chỉ khi nào chúng ta hiểu biết thấu đáo và quán triệt một cách sâu các đặc điểm của đầu tư phát triển thì mới hi vọng có được những kết quả mong muốn, hướng tới sự phát triển thực sự. Đầu tư phát triển đối với Việt Nam đang là một vấn đề cần quan tâm để thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là khi chúng ta đã gia nhập WTO như hiện nay. Trong đó đầu tư cơ sở hạ tầng cho ngành công nghiệp, một ngành mà nước ta từ trước đến nay vẫn yếu kém và có thể cho là phụ thuộc nhiều vào nước ngoài hết sức chú trọng đặc biệt là ngành Công nghiệp Đóng tàu một ngành được coi là lợi thế của Việt Nam và trong tương lai có thể đứng tầm quốc tế, cửa ngõ để phát triển giao thương với các nước trên thế giới. Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng ấy, dưới đây em xin trình bày đề tài: Đầu tư và phát triển ngành công nghiệp đóng tàu Thành Phố Hải Phòng. Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, chắc hẳn sẽ khó lòng đề cập đầy đủ các khía cạnh của vấn đề đưa ra, và những sai sót là không thể tránh khỏi. Chính vì vậy em xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến quý báu từ thầy cô cùng các bạn. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Th.S Nguyễn Thị Ái Liên - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. B_NỘI DUNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐÓNG TÀU THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chương I: Những vấn đề lý thuyết chung về đầu tư phát triển ngành công nghiệp đóng tàu thành phố Hải Phòng. 1.1_ Giới thiệu chung về ngành đóng tàu 1.1.1_Khái niệm, đặc điểm 1.1.1.1_Khái niệm Ngành đóng tầu là một ngành truyền thống đã có từ rất lâu của dân tộc Việt Nam. Ngành phát triển dần qua các giai đoạn với nhiệm vụ đóng mới và sửa chữa các con tàu với trọng tải ngày càng được nâng cao. 1.1.1.2_đặc điểm: Việt Nam có bờ biển dài trên 3.260km và trên 1 triệu Km2 vùng đặc quyền kinh tế biển, có hàng trăm những hòn đảo lớn nhỏ và hàng vạn km đường sông đổ ra biển. Trong đó có 2.300km bờ biển của Việt Nam nằm trên tuyến hàng hải quốc tế từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Đó là một thế mạnh của Việt Nam trong vận tải đường thủy nội địa, đường biển và thế mạnh về thủy hải sản. Như vậy Việt Nam chỉ cần có đội thương thuyền mạnh về chất lượng và số lượng bao gồm: tàu vận tải, tầu khai thác thủy hải sản, tàu dịch vụ dầu khí, tàu phục vụ cho an ninh quốc phòng đủ mạnh để vừa khai thác, vừa bảo vệ chủ quyền lãnh hải của đất nước. Nghành đóng tàu việt việt nam là một ngành có truyền thống lâu đời: Nghề đóng tàu và sửa chữa tàu đã sớm hình thành ở nước ta từ thời Vua Minh Mạng (từ năm 1836 – 1838). Đặc biệt từ năm 1960, Đảng và nhà nước đã quan tâm xây dựng và phát triển ngành công nghiệp đóng tàu. Ngày nay ngành đã có một lực lượng cơ sở vật chất kỹ thuật, lực lượng lao động đồng bộ, mang tính truyền thống, từng bước kế thừa và phát triển. Tuy nhỏ bé và trang bị công nghệ còn lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, song ngành có một tiềm năng lớn: Đó là đội ngũ công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý dày dặn kinh nghiệm hàng vạn người. Ngành có các cơ sở đào tạo là Trường Đại học Hàng Hải, các trường trung cấp và trường công nhân kỹ thuật đóng tàu, có cơ quan khoa học công nghệ chuyên ngành luôn bổ xung cho ngành lực lượng khoa học công nghệ và công nhân lành nghề. Lực lượng lao động được xây dựng và trưởng thành khá đồng bộ, bao gồm từ khâu đào tạo, nghiên cứu thiết kế, thực nghiệm và giám định chất lượng đến chế tạo sản phẩm. Đây là những nhân tố để có thể tạo nên sự phát triển và bước những bước tiến mới của ngành công nghiệp đóng tàu . Công nghiệp đóng tầu là công nghiệp đã được thủ thách và đã tích lũy được kho sản xuất nhất định: Trong nhiều năm qua, đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, với những biện pháp và hình thức công nghệ khác nhau, ngành đã tạo ra những sản phẩm sửa chữa và đóng mới các loại phương tiện, thiết bị tầu thủy ngày càng có giá trị và chất lượng cao, thay thế được một phần hàng nhập khẩu. Là một ngành tổng hợp, công nghiệp mũi nhọn thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước: Công nghiệp đóng tàu sử dụng sản phẩm của hầu hết các ngành công nghiệp khác như: Luyện kim, chế tạo máy, hóa chất, điện, điện tử, vật liệu…Như vậy nếu đóng một con tàu, ngoài việc sử dụng hàng vạn công nhân của ngành còn phải cần đến lực lượng lao động lớn hơn của các ngành khác phục vụ vệ tinh cho nó. Theo dự báo nhu cầu về phương tiện thủy của các ngành và mức độ tăng trưởng về cơ sở vật chất của các nhà máy đóng sửa chữa tàu, từ nay đến năm 2010 chúng ta có khả năng tạo ra một khối lượng hàng hóa đóng mới và sửa chữa đạt hàng tỷ USD, trong đó công nghiệp tàu thủy phải sử dụng hơn 70% giá trị các sản phẩm của các ngành khác trong và ngoài nước. Có thị trường trong và ngoài nước rộng lớn. Thị trường ngày càng được mở rộng và nhân lên bởi hai yếu tố: Sự phát triển về trình độ khoa học và công nghệ của nhiều ngành nghề trong nước. Sự tăng trưởng vê cơ sở vật chất, kỹ thuật công nghệ, trình độ tay nghề của công nhân thuộc bản thân ngành công nghiệp đóng tàu. Có khả năng hội nhập vào thị trường quốc tế, có khả năng hình thành một ngành công nghiệp và dịch vụ quốc tến ngày một mở rộng, tạo rra một tiềm lực phát triển lâu bền cho đất nước. 1.1.2_Vai trò, vị trí của ngành đóng tàu: Ngành đóng tàu với sự phát triển công nghiệp Việt Nam: Công nghiệp đóng tàu là ngành công nghiệp tạo nên năng lực trang thiết bị kỹ thuật chủ yếu để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển: Kinh tế biển bao gồm rất nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội phong phú và đa dạng: Đó là: Khảo sát và nghiên cứu biên, xây dựng các công trình biển, vận tải biển, khai thác và dịch vụ cảng, thăm dò và khai thác tài nguyên biển, trước hết là thăm dò và khai thác dầu khí, nuôi trồng đánh bắt và chế biến hải sản, du lịch trên biển…Đó là những hoạt động kinh tế rộng lớn nhưng lại tiến hành trên biển – một môi trường hết sức khó khăn và phức tạp, đòi hỏi những khối lượng cơ sở vật chất kỹ thuật lớn, có yêu cầu kỹ thuật cao. Để đáp ứng được yêu cầu đó phải có một ngành công nghiệp mang tính hậu cần, đáp ứng yêu cầu làm chủ, tiến tới cung ứng và đổi mới được những trang thiết bị cần có, đó là ngành công nghiệp đóng tàu. Công nghiệp đóng tàu là ngành công nghiệp tạo nên năng lực làm chủ khế tài và tạo ra các trang thiết bị kỹ thuật đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh hải: Do tiềm năng và vị trí ưu thế đối với toàn khu vực, lãnh hải của nước ta ở một vùng biển mà nhiều thế lực có mưu toan tranh chấp, đẩy tới những thách thức và nguy cơ tiềm tàng. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào và để có thể chủ động ứng phó được những tình huống bất ngờ, đột xuất chúng ta phải xây dựng được một lực lượng bảo vệ chủ quyền lãnh hải. Với điều kiện của đất nước ta hiện nay, việc xây dựng lực lượng đó có thể tiến hành bằng nhiều cách. Song trong bất kỳ hoàn cảnh nào, với bất kỳ quốc gia biển nào thì một ngành công nghiệp tàu thủy phục vụ dân phòng là cần thiết. Vì chỉ có thể dựa vào đó chúng ta mới có khả năng tiếp nhận và làm chủ khí tài; từng bước tham gia vào việc sản xuất các phương tiện và trang thiết bị kỹ thuật cho hải quân một cách kinh tế nhất. Vấn đề trở nên có ý nghĩa đặc biệt trong điều kiện cần thực hiện những nhiệm vụ đột xuất, cấp bách không cho phép thời gian thực hiện hợp đòng mua sắm cũng như khi cần phải tạo nên và giữ được những yếu tố bất ngờ, bí mật và phù hợp với quy luật đánh giặc giữ nước của dân tộc – cũng như được trang bị thích hợp cho một nền quốc phòng toàn dân. Công nghiệp đóng tàu là một ngành công nghiệp lớn, một ngành công nghiệp góp phần tạo nên thị trường cho các ngành công nghiệp khác: Công nghiệp đóng tàu là ngành công nghiệp tổng hợp, sử dụng sản phẩm của nhiều ngành công nghiệp khác, đồng thời với tư cách là một ngành công nghiệp liên ngành chế tạo cơ khí một khi đã phát triển, công nghiệp đóng tàu sẽ lại có khả năng trang bị và cung ứng kỹ thuật cũng như chia sẻ nhu cầu thị trường với các ngành công nghiệp khác như chế tạo các cấu kiện thép lớn của giàn khoan biển, các lò xi măng, dầm cầu lớn, các tổ hợp kết cấu thép mà các ngành cơ khí lắp ráp khác khó có khả năng thực hiện được. Công nghiệp đóng tàu là một ngành công nghiệp chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa: Công nghiệp đóng tàu tạo nên các đội tàu hoạt động trên biển, hải đảo, nối hai vùng, đồng bằng Sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là nối các vòng kinh tế quan trọng của đất nước: Bắc có tam giác tăng trưởng Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh; Trung có trục tăng trưởng Huế-Đà Nẵng-Dung Quất; Nam có tam giác tăng trưởng TP.Hồ Chí Minh-Vũng tàu-Biên Hòa; nối các vùng sâu, vùng xa trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Công nghiệp đóng tàu đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên các phương tiện phục vụ đường nối mở cửa của Đảng, cùng với các ngành khác của giao thông vận tải thực hiện nhiệm vụ đi trước một bước trong sự nghiệp Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước. công nghiệp đóng tàu là ngành công nghiệp tập trung nhiều trình độ khoa học tiên tiến của thế giới và thừa hưởng chúng từ các ngành công nghiệp nặng cũng như các ngành công nghiệp cao khác: Ngành công nghiệp đóng tàu thúc đẩy nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ khác phát triển nhanh chóng và khá đồng bộ từ nghiện cứu, chuẩn đoán, kiểm định kỹ thuật và ứng dụng công nghệ mới. Do đó công nghiệp đóng tàu phát triển sẽ kéo theo sự phát triển đồng bộ của hầu hết các ngành khoa học, tạo điều kiện để ngành công nghiệp V không những có thể tiến kịp trình độ khoa học công nghiệp tiên tiến trên thế giới mà còn tạo điều kiện để có thể “đi tắt, đón đầu” cho nhiều ngành công nghiệp khác. Ngành đóng tàu với phát triển kinh tế - xã hội: Trước đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước, nhìn chung giao thông vận tải vẫn còn là một khâu yếu kém. Hoạt động của các đơn vị trong ngành mang tính chất bao cấp và ỷ lại, công nghiệp giao thông vận tải trì trệ, thiếu vốn thiếu kinh nghiệm tổ chức quản lý, các tổ chức trong nghành còn trùng lắp…Chính phủ phải thường xuyên trực tiếp can thiệp vào các khâu của toàn ngành. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối để đổi mới toàn diện, mở ra một bước ngoặt mới trong sự nghiệp cách mạng của nước ta, ngành giao thông vận tải đã nhanh chóng nắm bắt những quan điểm, chủ trương mới của Đảng vận dụng triển khai vào trong nghành với những chương trình hoạt động đồng bộ. Những năm tiếp theo, dưới ánh sáng của các nghị quyết Đại hội VII, VIII ngành giao thông vận tải tiếp tục đổi mới, xây dựng phát triển. Sự đóng góp của ngành giao thông đối với xã hội đã khẳng định vị trí của ngành trong quá trình phát triển xây dựng đất nước. Trong đó có sự đóng góp đáng kể của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Đối với tăng trưởng kinh tế: Bằng việc tạo ra được những sản phẩm có tính năng kỹ thuật cao như tàu vận tải 6500T, tàu cao tốc, tàu chuyên dụng, cần cẩu nổi 600T, sửa chữa được 70% số tấn tàu biển ở trong nước và nhiều tàu nước ngoài, đã hình thành doanh nghiệp đóng tàu lớn với Hàn Quốc…, ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam góp phần làm thay đổi diện mạo nền công nghiệp nước nhà với tốc đọ tăng trưởng bình quân hàng năm trên 13% (kể từ 1995 đến nay). Trong cơ cấu đội tàu vận tải biển, đội chở xăng dầu, số phương tiện được đóng ở trong nước ngày càng tăng lên, thay thế cho phương tiện thuê, mua của cả nước. Các phương tiện tàu thủy dùng trong vận tải thủy nội địa đều được sản xuất trong nước. Điều này giúp quốc gia tiết kiệm được một lượng ngoại tệ đáng kể. Đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Việc phát triển công nghiệp đóng tàu mang lại hiệu quả tích cực trong việc thực hiện nghị quyết TW9 đề ra về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngành công nghiệp đóng tàu và sửa chữa tàu thủy được hình thành và phát triển thành 3 khu vực tương ứng với 3 vùng kinh tế lớn của đất nước: Hải Phòng-Quảng Ninh; Miền Trung và Miền Nam. Mỗi khu vực tạo thành cụm công nghiệp đóng và sửa chữa tàu phù hợp với điều kiện tự nhiện của mỗi vùng, thuận tiện cho việc giao lưu kinh tế giữa các miền cũng như tạo điểm nút phát triển công nghiệp cơ khí. Tại khu vực Hải Phòng-Quảng Ninh có thể nói công nghiệp đóng tàu là ngành công nghiệp then chốt, mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước với các nhà máy đóng tàu chủ đạo của ngành như: Đóng tàu Bạch Đằng, Sông Cấm, Hạ long…Việc phát triển các cụm công nghiệp đóng tàu thúc đẩy phát triển kinh tế vùng đồng bằng Bắc Bộ châu thổ sông Hồng, sông cửu Long, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội: Để tạo ra được một con tàu, ngoài lực lượng lao động của ngành công nghiệp đóng tàu còn cần tới lực lượng không nhỏ của ngành sản xuất bổ trợ như sản xuất thiết bị nghi khí hàng hải, chế tạo động cơ tàu thủy…do đó phát triển công nghiệp đóng tàu sẽ tạo ra việc làm cho một khối lượng lao động lớn, giải quyết được một phần vấn đề thất nghiệp mà xã hội quan tâm. Trong xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ, các dịch vụ công nghiệp đóng tàu như phá dỡ tàu cũ, sản xuất thép đóng tàu, dịch vụ vận tải bằng những con tàu chế thử...Đã mở ra hướng sản xuất mới, thu hút lao động được chuyển dịch từ nông nghiệp tại khu vực có các cơ sở đóng tàu sang. 1.2_Những vấn đề chung liên quan đến đầu tư phát triển ngành đóng tàu 1.2.1_Khái niệm, đặc điểm, vai trò của ĐTPT 1.2.1.1_Khái niệm: Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức kỹ năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. 1.2.1.2_Đặc điểm của đầu tư phát triển:Hoạt động đầu tư phát triển có 5 đặc điểm chủ yếu sau: Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn: Đầu tư phát triển là một hoạt động quan trọng của nền kinh tế. Nó là một bộ phận của tăng trưởng kinh tế. Khi quy mô đầu tư tăng, nó tạo đà cho kinh tế tăng trưởng. Vậy nguồn lực để thực hiện đầu tư phát triển là từ đâu? Đó là vốn. Bản chất đầu tư phát triển được thể hiện ở vốn. Vậy vì sao cần phải có một nguồn vốn lớn dành cho đầu tư phát triển? Vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động) và các hoạt động đầu tư khác. Nguồn vốn này dùng để chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, chi bổ sung cho các hoạt động đầu tư phát triển. Trong đó, chi xây dựng cơ bản đóng vai trò quan trọng nhất. Nó là nguồn để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại, hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân. Ví dụ như tạo thêm những công trình nhà máy, dây chuyền sản xuất, thiết bị máy móc mới, diện tích khai hoang, trồng rừng; những công trình thuỷ lợi, giao thông vận tải, truyền thông bưu điện; hay như sửa chữa, nâng cấp cầu đường, mua sắm, xây dựng lắp đặt trang thiết bị. Việc chi vốn này đẩy mạnh hoạt động sản xuất của cả nền kinh tế. Chính vì vậy, nguồn vốn cần thiết cho hoạt động này rất lớn. Thực tế, nó chiếm trên 80% tổng vốn đầu tư phát triển của một nước đang phát triển như Việt Nam. Ngoài ra còn có nguồn vốn chi bổ sung. Đó là các khoản đầu tư dùng để mua sắm nguyên vật liệu, thuê mướn lao động. Nguồn vốn này dùng để vận hành các công trình xây dựng cơ bản làm gia tăng tài sản quốc gia. Vốn chi cho đầu tư phát triển khác bao gồm tất cả các khoản đầu tư nhằm gia tăng năng lực sản xuất của xã hội: trình độ dân trí, trình độ lao động, chất lượng môi trường. Cụ thể chi cho các công trình vì sức khỏe cộng đồng, phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục, y tế. Các nguồn vốn này đều vì sự tăng trưởng và phát triển ổn định của một quốc gia. Để đưa nền kinh tế tăng trưởng nhanh trước hết nhất thiết phải có nguồn lực lớn mạnh. Do vậy, muốn đưa đất nước đi lên cần phải có những giải pháp cho việc huy động, quản lý và sử dụng vốn hợp lý. Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng, và đãi ngộ cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lại lao động, giải quyết lao động dôi dư… Tài nguyên, vật tư là những thành tố không thể thiếu đảm bảo cho quá trình hoạt động bình thường của dự án. Nhưng điều quan trọng là cần phải có hướng sử dụng sao cho vừa duy trì được cân bằng sinh thái, tránh khai thác cạn kiệt vừa mang lại lợi ích cho chủ đầu tư. Một đặc điểm quan trọng khác của đầu tư phát triển là thời kỳ đầu tư kéo dài: Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án cho đến khi hoàn thành và thực hiện dự án. Trong đặc điểm trên, ta thấy rằng những dự án đầu tư phát triển thường có quy mô rất lớn. Quá trình chuẩn bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư cần có một khoản thời gian nhất định. Ví dụ thời gian xây dựng mới một con đường quốc lộ cần ít nhất là 2 đến 3 năm, bao gồm các thủ tục về mặt pháp lý, giải phóng mặt bằng, thi công công trình, nghiệm thu công trình... Thực tế có những công trình xây dựng phải mất tới hàng chục năm: xây một tòa nhà cao tầng, xây nhà máy lớn, công trình thủy điện… Thời kỳ đầu tư kéo dài là cần thiết đối với một dự án. Nhưng vấn đề quan trọng là cần bao nhiêu thời gian. Điều này cần phải được nghiên cứu kỹ và có tính toán, tránh chạy theo thành tích mà đề ra những khoảng thời gian phi thực tế, ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Ngoài ra, như chúng ta đã biết, nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển thường nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Tiến độ công trình chậm bao nhiêu, thời gian hoàn vốn chậm bấy nhiêu. Điều đó làm giảm hiệu quả đầu tư. Do vậy, việc đảm bảo thời gian thực hiện dự án cũng là yêu cầu phải được đặt lên hàng đầu. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư thường kéo dài: Thời gian vận hành các kết quả đầu tư được tính từ khi công trình đưa vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Đây là một đặc điểm rất riêng của đầu tư phát triển. Thứ nhất, những sản phẩm của đầu tư phát triển đều là bộ phận của nền sản xuất. Nó tạo ra của cải vật chất cho xã hội, tạo đà tăng trưởng cho nền kinh tế, nên thời gian sử dụng dài. Thứ hai, quy mô của các công trình rất lớn, nên cần có một khoảng thời gian tương đối để thu hồi vốn và có lợi nhuận. Trên thực tế có rất nhiều công trình đã tồn tại vài chục năm, hàng trăm năm, thậm chí hàng thế kỷ như thủy điện sông Đà, cầu Long Biên, phố cổ Hội An.... Do tính chất này, nên trong suốt quá trình vận hành, nó chịu ảnh hưởng nhiều của các nhân tố bên ngoài, và đa phần là có ảnh hưởng tiêu cực đến sự thành công của dự án. Các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư, nhất là đối với các công trình xây dựng: Các công trình xây dựng nói chung thường có quy mô lớn và phát huy tác dụng ngay tại địa phương xây dựng. Do vậy quá trình đầu tư cũng như thời gian vận hành các công trình này chịu nhiều tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng. Xây dựng một công trình ở nơi có khí hậu nhiệt đới gió mùa khác với xây dựng ở vùng hanh khô, hay xây dựng công trình ở nơi có địa chất ổn định khác với xây dựng ở nơi hay xảy ra động đất. Do vậy nhà đầu tư cần có tính toán hợp lý vừa để đảm bảo tính kiên cố của công trình, vừa có thể giảm được chi phí cho doanh nghiệp. Tiếp đến, sự phát triển kinh tế của vùng có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư và quy mô của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng đến việc mặt hàng của doanh nghiệp có khả năng phát triển trong điều kiện kinh tế vùng hay không? Lấy ví dụ về việc mở con đường ở nông thôn - kinh tế còn hạn chế - và ở thành phố - kinh tế phát triển. Ở nông thôn liệu nhu cầu đi lại đã đủ lớn để xây dựng con đường đó chưa? Nếu như nó được xây dựng có cần thiết phải xây con đường lớn không? Điều này buộc nhà đầu tư phải cân nhắc. Ngược lại ở thành phố, nhu cầu giao thông rất lớn, cần phải mở thêm đường để giảm bớt lưu lượng xe trên nhũng con đường khác, tránh ùn tắc... Điều kiện xã hội của vùng cũng có ảnh hưởng lớn tới công trình. Việc xây dựng nhà máy liệu có đảm bảo an ninh không, sản phẩm của nhà máy có phù hợp với văn hóa địa phương hay không?.... Do những ảnh hưởng trên đây, nên doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ càng môi trường đầu tư để quyết định sản xuất mặt hàng gì, công suất bao nhiêu là hợp lý. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao: Đầu tư nói chung và đầu tư phát triển nói riêng mang một đặc điểm quan trọng: độ rủi ro cao. Nguồn lực cần cho đầu tư phát triển là rất lớn. Việc thu hồi vốn liệu có gặp thuận lợi hay không? Cùng một nguồn vốn đó, nhà đầu tư có thể đa dạng hóa đầu tư. Điều này sẽ làm giảm thất bại hơn là việc dồn vốn cho một dự án. Hơn thế nữa, thời gian hoàn thành dự án dài, vốn bị khê đọng trong công trình. Trong khoản thời gian đó, chủ đầu tư rất có thể gặp khó khăn khi một chính sách mới ban hành không có lợi cho công trình, hay những biến động về giá cả... Do đo rủi ro là một vấn để được các nhà đầu tư rất quan tâm. Rủi ro trong đầu tư cũng có rất nhiều nguyên nhân. Tựu chung lại ta có thể xét rủi ro trên hai phương diện sau: Rủi ro chủ quan và rủi ro khách quan. Rủi ro chủ quan: nguyên nhân thuộc về phía các chủ đầu tư. Có thể do chủ đầu tư yếu kém về mặt trình độ, đã lựa chọn các phương án không hợp lý; do trình độ quản lý thấp, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu... Rủi ro khách quan: Có thể do thay đổi pháp luật; biến động của thị trường (giá cả nguyên vật liệu, mặt hàng liên quan); máy móc hư hỏng.... Để thực hiện đầu tư tốt, nhà đầu tư cần phải nghiên cứu, phân loại các rủi ro có thể gặp trong suốt quá trình đầu tư: - Rủi ro chính trị: do sự thay đổi về thuế theo hướng bất lợi khiến cho dòng lợi nhuận của chủ đầu tư giảm trong tương lai. Hay Nhà nước ban hành các chính sách giới hạn thương mại, hạn ngạch thuế quan khiến các doanh nghiệp phải giảm sản lượng, tăng chi phí. Điều này ảnh hưởng đến những tính toán trước khi ra quyết định đầu tư. Từ đó, công trình có nguy cơ giảm lợi nhuận, thua lỗ.... - Rủi ro trong quá trình xây dựng hoàn thành công trình: Rủi ro khi chi phí xây dựng vượt quá dự toán. Như vậy công trình sẽ gặp khó khăn trong việc xin cấp phép nguồn vốn bổ sung. Nó ảnh hưởng nhiều đến tiến độ thi công công trình, ít thì có thể là một vài tháng, nhiều có thể vài năm, thậm chí công trình bị hủy, gây lãng phí nguồn lực. Rủi ro phát sinh cũng có thể là không hoàn thành công trình đúng thời hạn, không giải tỏa được dân cư... - Rủi ro về kỹ thuật vận hành: Khi các thiết bị trong quá trình thực hiện đầu tư gặp vấn đề. Điều này có thể gây thiệt hại kinh tế rất lớn. Ví dụ nguyên liệu đang trong giai đoạn chế biến quan trọng, nếu máy móc bị hỏng toàn bộ, nguyên liệu đó không thể sử dụng được. Thiệt hại của chủ đầu tư ngoài giá trị sản phẩm đó, còn các yếu tố liên quan khác: chi phí khắc phục máy móc, chậm giao sản phẩm cho khách hàng, kế hoạch làm việc của lao động.... Ngoài ra, ta còn có các loại rủi ro khác như: rủi ro về môt trường xã hội; rủi ro kinh tế vĩ mô (lạm phát, tỷ giá hối đoái), vi mô (cung, cầu)... Với những thiệt hại mà rủi ro đem lại cho các hoạt động đầu tư phát triển, đòi hỏi các nhà đầu tư phải có những nghiên cứu để nhận diện, đánh giá rủi ro, phòng tránh rủi ro. Từ đó mới đi tới quyết định đúng đắn. 1.2.1.3_Vai trò của đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với xuất phát điểm thấp như nước ta hiện nay có một vai trò quan trọng hết sức to lớn, bởi vì vốn dành cho đầu tư phát triển của nhà nước chiếm một tỷ lệ lớn trong ngân sách của toàn xã hội. Đầu tư phát triển của nhà nước góp phần khắc phục những thất bại của thị trường, tạo cân bằng trong cơ cấu đầu tư, giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác đầu tư phát triển của nhà nước được tập trung vào những công trình trọng điểm, sử dụng nguồn vốn lớn, có khả năng tác động mạnh đến đời sống kinh tế xã hội. Bên cạnh đó cũng cần phải thấy rằng đầu tư phát triển của nhà nước nếu không được quản lý một cách hợp lý sẽ dễ gây ra thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả hơn là đầu tư phát triển từ các nguồn vốn khác. Đầu tư phát triển sẽ tạo điều kiện để phát triển mới, đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất ở các doanh nghiệp, sẽ góp phần phát triển nguồn nhân lực, cải thiện cơ sở vật chất của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển y tế, văn hoá và các mặt xã hội khác. Đầu tư phát triển góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện điều kiện sống ở các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng các cơ sở sản xuất và dịch vụ, tạo ra những tác động tích cực cho vùng nghèo, người nghèo, hộ nghèo khai thác các tiềm năng của vùng, vươn lên làm ăn khá giả. Từ đó đảm bảo tỷ lệ cân đối vùng miền, ngành nghề, khu vực và phân bố hợp lý sức sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh. Đầu tư phát triển có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế bởi vì nó tạo ra các tài sản cố định. Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư để sản xuất ra của cải vật chất đặc biệt, tạo ra cơ sở vật chất và kỹ thuật ban đầu cho xã hội. Tất cả các ngành kinh tế chỉ có thể tăng nhanh khi có đầu tư xây dựng cơ bản , đổi mới công nghệ, xây dựng mới để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Đầu tư phát triển xây dựng cơ bản nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trước hết cần phải xác định rõ rằng đầu tư nói chung có một vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế, là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Nếu không có đầu tư thì không có phát triển. Nhìn trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước, đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Về cầu, đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải, kéo sản lượng và mức giá cân bằng tăng theo. Về cung, khi đầu tư đã có thành quả thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, đường tổng cung dịch chuyển xuống dưới, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó mức giá chung giảm. Tăng tiêu dùng tiếp tục kích thích sản xuất tăng hơn nữa. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Ngoài ra đầu tư phát triển còn có tác động giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, xoá đói giảm nghèo, phát huy lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị … của những vùng có khả năng phát triển nhanh để làm đầu tàu cho các vùng khác. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư ít nhất phải đạt được từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR mỗi nước. Đầu tư phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với chuyển dịch cơ cấu. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy nếu muốn tốc độ phát triển kinh tế tăng cao ( 9-10%) thì phải tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do hạn chế nhiều mặt, để đạt tốc độ tăng trưởng từ 5 - 6% là rất khó khăn. Như vậy chính đầu tư đã quyết định chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Đầu tư phát triển có tác động to lớn đến việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh và nhập công nghệ từ bên ngoài. Dù là tự nghiên cứu phát minh hay là nhập công nghệ từ bên ngoài đều phải có đầu tư. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. Đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ thì đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Đối với các cơ sở hoạt động phi lợi nhuận, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. 1.2.2_Nội dung đầu tư phát triển ngành đóng tàu 1.2.1.1_Đầu tư vào cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng là yếu tố quan trọng quyết định việc có thể cho ra đời những con tàu có chất lượng kỹ thuật cao, đảm bảo tiến độ thi công tầu phù hợp với kế hoạch và chiến lược đầu tư phát triển sản phẩm, phát triển công nghiệp tầu thủy. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là đầu tư: Nâng cấp cơ sở nhà máy cũ. Đầu tư xây dựng nhà máy mới sản xuất phục vụ đóng tàu. Đầu tư vào các trang thiết bị Đầu tư vào hệ thống cảng biển. … 1.2.1.2_Đầu tư vào nguồn nhân lực. Đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho ngành đóng tàu hiện tại và chiến lược phát triển lâu dài là để đáp ứng trình độ chuyên môn, tay nghề cho lao động đóng tàu. Các trường đại học, cao đẳng, trường nghề, tại chức… 1.2.1.3_Đầu tư vào công nghệ cao và công nghệ phụ trợ,sả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24995.doc
Tài liệu liên quan