Đề tài Vận dụng nội dung nghị quyết lần thứ XII của đảng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới vào giảng dạy các học phần lý luận chính trị ở trường đại học thương mại

ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG NỘI DUNG NGHỊ QUYẾT LẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI VÀO GIẢNG DẠY CÁC HỌC PHẦN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI Chủ nhiệm đề tài: Võ Tá Tri Đơn vị: Khoa Lý luận chính trị, tường Đại học Thương mại MỤC LỤC MỤC LỤC ............................................................................................................... i LỜI CAM ĐOAN ....................................................

pdf81 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 04/01/2022 | Lượt xem: 316 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đề tài Vận dụng nội dung nghị quyết lần thứ XII của đảng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới vào giảng dạy các học phần lý luận chính trị ở trường đại học thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.............................................. iv LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ v DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................... vi PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 7 1.Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài ....................................................................... 7 2.Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài trong và ngoài nước ........................................................................................................................ 8 2.1. Trong nước ....................................................................................................... 9 2.2. Ngoài nước ..................................................................................................... 13 2.3. Danh mục các công trình đã công bố thuộc lĩnh vực của đề tài của chủ nhiệm và những thành viên tham gia nghiên cứu ........................................................... 13 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ................................................................ 14 3.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................... 14 3.2. Phạm vi nghiên cứu: ...................................................................................... 14 4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, và sản phẩm ứng dụng .................. 14 4.1. Mục tiêu nghiên cứu: ..................................................................................... 14 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: .................................................................................... 14 4.3. Sản phẩm ứng dụng: ...................................................................................... 15 5. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu ...................................................... 15 5.1. Cách tiếp cận các mẫu khảo sát: ................................................................... 15 5.2. Phương pháp nghiên cứu: .............................................................................. 16 6. Đóng góp mới của đề tài ................................................................................. 17 7. Kết cấu đề tài ................................................................................................... 17 CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG, CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG VÀ THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ......................................................................... 18 1.1. Kinh tế thị trường và cơ chế kinh tế thị trường ........................................ 18 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm chung của kinh tế thị trường ..................................... 18 1.1.2. Cơ chế thị trường ........................................................................................ 23 1.1.3. Những ưu điểm và hạn chế của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường ............... 24 1.2. Kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ..................................................................................................................... 27 1.2.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa......................................... 27 1.2.2. Thể chế kinh tế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ....................................................................................................................... 33 CHƯƠNG II: TỔNG QUAN QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC, QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG QUA 30 NĂM ĐỔI MỚI ................................................................................................... 41 2.1. Sự hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị trường, thể chê kinh tế thị trường ......................................................................................... 41 2.1.1. Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội VIII (1996) ............................ 42 2.1.2. Giai đoạn từ Đại hội IX (2001) đến Đại hội XI (2011) .............................. 45 2.2. Mục tiêu, quan điểm và chủ trương của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian qua ............................................................................................... 49 2.2.1. Mục tiêu và quan điểm cơ bản về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ........................................... 49 2.2.2. Một số chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ............................................................... 53 2.3. Đánh giá thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian qua ........................................................................................................................ 57 2.3.1. Một số kết quả chủ yếu ................................................................................ 57 2.3.2. Hạn chế, khuyết điểm .................................................................................. 59 CHƯƠNG III: NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG VỂ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG, HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM VẬN DỤNG VÀO GIẢNG DẠY HỌC PHẦN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ........................................................................ 62 3.1. Nhận thức của Đại hội XII về kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ............................................ 62 3.1.1. Bối cảnh trong nước và thế giới tác động nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường, thể chế kinh tế thị trường ......................................................................... 62 3.1.2. Điểm mới trong nhận thức của Đại hội XII về kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ................................ 63 3.2. Mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế thị trường và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian tới 68 3.2.1. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian tới ............................................ 68 3.2.2. Phương hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XII của Đảng ......................................... 69 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 78 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 79 LỜI CAM ĐOAN Đây là một công trình nghiên cứu khoa học độc lập. Tác giả có tham khảo từ các tài liệu chính thống liên quan đến Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, có trao đổi, tham khảo ý kiến của một số chuyên gia, đồng nghiệp. Những tài liệu được trính dẫn có nguồn gốc rõ ràng. LỜI CẢM ƠN Để có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu, bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân là sự giúp đỡ tạo điều kiện của Ban giám hiệu, Phòng Quản lý khoa học, Khoa Lý luận chính trị, Bộ môn Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như cá nhân các nhà quản lý, các nhà khoa học, các nhà giáo. Bên cạnh đó là sự động viên ủng hộ của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp trong suốt thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài nghiên cứu của tôi. Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, các phòng, khoa, đơn vị đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài. Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tất cả các đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã luôn ủng hộ, tạo điều kiện, chia sẻ khó khăn và luôn động viên tôi trong suốt thời gian nghiên cứu, hoàn thiện đề tài. Tôi xin trân trọng cảm ơn! DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Chủ nghĩa tư bản CNTB Chủ nghĩa xã hội CNXH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH Cơ chế thị trường CCTT Doanh nghiệp DN Doanh nghiệp nhà nước DNNN Kinh tế hàng hóa KTHH Kinh tế thị trường KTTT Sản xuất kinh doanh SXKD Sản xuất hàng hóa SXHH Thể chế kinh tế TCKT Thể chế kinh tế thị trường TCKTTT Thời kỳ quá độ TKQĐ Tư bản chủ nghĩa TBCN Xã hội chủ nghĩa XHCN PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo (từ năm 1986 đến nay), đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng v.v.. Trong những năm gần đây, nền kinh tế của nước ta luôn đạt mức tăng trưởng khá, bộ mặt xã hội ngày càng thay đổi tích cực, quan hệ hợp tác quốc tế được tăng cường và mở rộng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Trước đổi mới, do không thừa nhận trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên Chủ nghĩa xã hội (CNXH) còn tồn tại sản xuất hàng hóa (SXHH), kinh tế thị trường (KTTT) và cơ chế thị trường (CCTT), chúng ta đã xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất quản lý kinh tế, thực hiện phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu, còn thị trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu, bổ sung cho kế hoạch để xây dựng CNXH. Tuy nhiên lịch sử phát triển của thế giới đã chứng mình rằng kinh tế hàng hóa (KTHH) mà đỉnh cao là KTTT với những ưu thế tuyệt vời của nó là sự “lựa chọn” thông minh của nhân loại. Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ KTTT, nếu biết vận dụng đúng đắn sẽ phát huy vai trò to lớn đối với sự phát triển KT – XH của đất nước. Có thể dùng CCTT làm nguyên tắc phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ, đào thảo cái lạc hậu, yếu kém. Tư duy mới của Đảng về KTTT bắt đầu hình thành từ Đại hội VI. So với trước đổi mới, nhận thức về KTTT có sự thay đổi căn bản và sâu sắc. Từ nhận thức về điều kiện tồn tại đến những tác dụng của KTTT đối với phát triển KT - XH và công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam cũng như kinh nghiệm thế giới, Đảng khẳng định sự tồn tại lâu dài của KTTT trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam. KTTT không đối lập với CNXH, nó còn tồn tại khách quan trong TKQĐ lên CNXH. Vì vậy, có thể và cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH ở nước ta. KTTT không phải là mục đích mà là phương tiện, công cụ để xây dựng CNXH nhanh hơn, hiệu quả hơn. KTTT là thành tựu chung của nhân loại, KTTT không quyết định bản chất xã hội, vì vậy KTTT có thể được sử dụng ở các chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Thực tế cho thấy, CNTB không sinh ra KTTT nhưng đã biết thừa kế và khai thác có hiệu quả các lợi thế của nó để phát triển. Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng đã chứng minh sự cần thiết và hiệu quả của việc sử dụng KTTT làm phương tiện xây dựng CNXH. Chuyển sang KTTT trong xây dựng và phát triển kinh tế là một bước ngoặt trong đổi mới tư duy kinh tế, trong thay đổi mô hình phát triển xã hội của Đảng ta thời kỳ đổi mới suốt 30 năm qua. Phát triển KTTT định hướng XHCN gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường trong chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng một lần nữa tiếp tục kế thừa và phát triển đầy đủ hơn tư duy về KTTT, bổ sung, hoàn thiện thể chế KTTT (TCKTTT) định hướng XHCN nhằm tạo môi trường và điều kiện phát triển KTTT có hiệu quả, tạo động lực phát triển KT - XH trong điều kiện mới. Nhận thức tầm quan trọng của việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu những vấn đề lý luận mới về KTTT của Đảng trong bối cảnh mới của đất nước và quốc tế, tác giả chọn đề tài: “Vận dụng nội dung nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới vào giảng dạy các học phần lý luận chính trị ở Trường Đại học Thương mại”. 2.Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài trong và ngoài nước Đối với nước ta KTTT, CCTT là những vấn đề còn khá mới mẻ về mặt lý luận cũng như nhận thức và kinh nghiệm thực tiễn. Bởi vậy, bước vào thời kỳ đổi mới khi Đảng chủ trương chuyển hướng phát triển kinh tế theo hướng KTTT đã đặt ra nhu cầu cấp bách nghiên cứu để làm sáng rõ những lý luận về KTTT, đúc rút kinh nghiệm về phát triển KTTT nhằm đảm bảo phát triển kinh tế có hiệu quả nhưng không chệch hướng XHCN mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Chính vì vậy từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước đã có rất nhiều nhà khoa học, kinh tế học, nhiều tổ chức như các viện, các trung tâm nghiên cứu, các học viện, trường đại học nhất là khối kinh tế đã dày công tập trung nghiên cứu. Các bộ, ban, ngành từ trung ương đến địa phương cũng đã tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị khoa học về KTTT, CCTT để khẳng định sự cần thiết phát triển KTTT, xác định những tác dụng to lớn không thể bàn cãi của KTTT, thiết lập cơ chế hay TCKTTT định hướng XHCN tạo môi trường cho KTTT phát triển, CCTT phát huy tác dụng... Có thể kể đến một số nghiên cứu quan trọng sau: 2.1. Trong nước - Đinh Văn Ân, Lê Xuân Bá (đồng chủ biên). “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Nxb Khoa học kỹ thuật, H 2006. Cuốn sách đề cập tới việc xây dựng TCKTTT định hướng XHCN - một số vấn đề lí luận và kinh nghiệm quốc tế; phân tích, đánh giá thực trạng quá trình xây dựng và vận hành thể chế kinh tế (TCKT) trong những năm qua ở Việt Nam; đồng thời các tác giả nêu ra một số quan điểm chủ đạo và định hướng một số nội dung cơ bản cho việc hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. - Chu Văn Cấp. “Tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường trong thời kỳ chiến lược mới 2011-2020”. Nxb CTQG, H, 2011. Tác phẩm phân tích bản chất, đặc trưng của nền KTTT nước ta, thực chất là nền KTTT định hướng XHCN. Đó là một nền KTTT nên trước hết cũng vì mục tiêu lợi nhuận, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí cơ bản. Tuy nhiên là nền KTTT định hướng XHCN nên hết sức coi trọng mục tiêu xã hội, hay nói cách khác không vì lợi nhuận với mọi giá. Phúc lợi xã hội, công bằng xã hội, sự phát triển toàn diện con người hết sức được quan tâm. Tác giả đồng thời cũng phân tích thực tiễn xây dựng và phát triển KTTT nước ta trong 25 năm đổi mới, chỉ rõ những thành tựu đạt được, những hạn chế và nguyên nhân có được những thành tưu, nguyên nhân hạn chế trong thời gian 25 năm qua. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp tăng cường định hướng XHCN nền KTTT trong thời kỳ chiến lược mới. - Nguyễn Đình Hương, Hoàng Văn Hoa, Mai Ngọc Cường... “Phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Nxb Lý luận chính trị, H. 2006. Sách đánh giá khái quát thực trạng phát triển các loại thị trường trong nền KTTT định hướng XHCN (thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường tài chính, thị trường khoa học và công nghệ); đề xuất giải pháp thúc đẩy sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường này ở nước ta. - Nguyễn Tấn Dũng. “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng”. ( 02/1/2012). Trong thông điệp đầu năm mới (2012), Nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đánh giá tư tưởng kinh tế cốt lõi trong các văn kiện của Đại hội XI là tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững. Tiền đề để thực hiện thành công là triển khai hiệu quả 3 đột phá chiến lược, trong đó hoàn thiện TCKTTT vừa là một đột phá then chốt có tác động trực tiếp đến quá ttrình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng vừa là nhiệm vụ không đòi hỏi nhiều nguồn lực tài chính, nếu nhận thức đúng và quyết tâm cao, có thể hoàn thành cơ bản trong một thời gian tương đối ngắn. Từ việc đánh giá thực tiễn quá trình hoàn thiện TCKTTT ở nước ta, tác giả khẳng định phải từ những đặc điểm của TCKTTT hiện đại để làm chuẩn mực cho quá trình hoàn thiện thể chế. Đồng thời tác giả cũng đã chỉ ra 5 đặc trưng chủ yếu của TCKTTT, xác định mục tiêu và một số nội dung cần thực hiện đồng bộ để tiếp tục hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN ở nước ta trong thời gian tiếp theo. - Nguyễn Tiến Dũng. “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Sự tiếp nối của công cuộc đổi mới”. (http:/www.tapchicongsan.org.vn. 18/4/2012). Tác giả nhấn mạnh vấn đề có tính nguyên tắc đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011): “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Ðảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN”. Một trong những phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu đó là “Phát triển nền KTTT định hướng XHCN”, đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ “giữa KTTT và định hướng XHCN”. Đại hội XI của Đảng cũng xác định, một trong ba khâu đột phá chiến lược là “Hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN”. Qua bài viết tác giả tổng kết một số vấn đề lý luận trong nhận thức về KTTT, sự cần thiết và chủ trương hoàn thiện TCKTTT ở nước ta qua các kỳ đại hội từ VI đến XI của Đảng và cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011). Phân tích những đặc trưng, tiêu chí của một nền KTTT qua các học thuyết, của WTO, EU và của Mỹ. Đồng thời tác giả cũng chỉ rõ những nội dung quan trọng cần làm rõ trong nghiên cứu và hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN. - Phạm Việt Dũng. “Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở Việt Nam”. ( Bài viết đề cập những nguy cơ của nền KTTT hiện nay mà tự nó không thể tự giải quyết được (bất công xã hội; mâu thuẫn giữa tăng trưởng với phát triển xã hội...); phân tích những đặc điểm cơ bản của KTTT định hướng XHCN và chỉ ra sự khác biệt lớn về bản chất của KTTT định hướng XHCN với KTTT tư bản; nêu những nhận thức mới về kinh tế nhà nước (KTNN) và chỉ ra những nguyên nhân khẳng định vai trò chủ đạo của KTNN và định hướng phát triển. Đây cũng là tư tưởng chỉ đạo đã được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (thông qua tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII) khẳng định tính chất của nền kinh tế nước ta là nền KTTT định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó KTNN giữ vai trò chủ đạo. Tác giả đồng thời cũng phân tích một số các giải pháp nhằm tăng cường và bảo đảm thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN. - Nguyễn Xuân Thắng. “Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam”. (Tập 1, 2); Nxb CTQG, H 2014. Trên cơ sở phân tích một số đặc trựng của nền KTTT, gắn với việc đánh giá thực trạng nền KTTT nước ta sau gần 30 năm đổi mới, tác giả đưa ra những nhận xét, đánh giá về ưu, khuyết điểm của quá trình chuyển đổi nền kinh tế và TCKT của nước nhà. Ưu điểm lớn của sự đổi mới là đã đưa nền kinh tế nước ta đi đúng hướng nhờ vậy đã giải phóng được nhiều ngồn lực cho sự phát triển, tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, suy thoái. Tuy nhiên TCKTTT còn nhiều bất cập nên đang là trở ngại lớn đối với sự phát triển KTTT nhất là trong điều kiện VIệt Nam gia nhập ngày càng sâu vào nền nền kinh tế thế giới và sự bùng nổ công nghệ như hiện nay. Từ đó tác giả dã đưa ra nhiều đề xuất quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình hoàn thiện TCKTTT ở nước ta nhằm tạo môi trường thể chế thuận lợi phát triển kinh tế, xã hội trong thời gian tới. Ngoài ra còn nhiều tác phẩm như: - Đinh Văn Ân, Vũ Quốc Tuấn, Nguyễn Đình Cung,.... “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Nxb Thống kê, H 2003. Sách trình bày về vấn đề phát triển nền KTTT VIệt Nam theo định hướng XHCN, theo các nội dung: phát triển các loại hình doanh nghiệp (DN); phát triển đồng bộ các loại thị trường; công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) trên cơ sở phát huy nội lực và chủ động hội nhập, xoá đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, phát triển con người một cách toàn diện, cải cách hành chính. - Nguyễn Cúc.“20 năm đổi mới và sự hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nxb Lý luận chính trị, H. 2005. Sách trình bày về quá trình đổi mới và sự lựa chọn KTTT định hướng XHCN của nước ta; những thay đổi để thích ứng về TCKT, thể chế chính trị; lí luận về sở hữu và tái cơ cấu DN, vấn đề hội nhập và cạnh tranh. - Nhị Lê. “Kiên định phát triển mạnh mẽ và bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tạp chí Cộng sản, Số 12, năm 2012. Bài viết đã phân tích và đưa ra những luận cứ khoa học để khẳng định KTTT là thành tựu chung của nhân loại. Trong TKQĐ tử CNTB lên CNXH, KTTT tồn tại là tất yếu. Trung Quốc đang xây dựng KTTT XHCN, Việt Nam quyết tâm đã và đang xây dựng nền KTTT định hướng XHCN. Khái niệm, bản chất, sự khác biệt giữa nền KTTT TBCN và nền KTTT XHCN. Phê phán những quan điểm sai lầm về KTTT định hướng XHCN. - Vũ Văn Phúc. “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: nhận thức lý luận, thực tiễn và kiến nghị”. ( Bài viết đề cập: Nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN sau gần 30 năm đổi mới; thực tiễn phát triển KTTT hướng XHCN ở nước ta; những đặc trưng mang tính quy luật, bản chất của KTTT; những kiến nghị xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta những năm tới. - Nguyễn Minh Tú. “Một số vấn đề cơ bản về đổi mới quản lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Nxb CTQG. H. 2001. Trình bày những thay đổi cơ bản trong quản lí kinh tế ở nước ta giai đoạn 1991 - 2000. Triển vọng đổi mới quản lí kinh tế vĩ mô ở nước ta giai đoạn 2001 – 2010 Tóm lại, đã có nhiều công trình nghiên cứu về KTTT nói chung, cũng như KTTT, TCKTTT định hướng XHCN nói riêng. Nhưng Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng vừa mới kết thúc trong bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều chuyển biến, khi VIệt Nam chính thức gia nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu. Phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam không còn là vấn đề bàn cãi nhưng phát triển như thế nào, hoàn thiện thể chế như thế nào để tạo môi trường, điều kiện cho KTTT phát triển trong hoàn cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, sự bùng nổ cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt trong xu thế tự do hóa thương mại sẽ là vấn đề mà các nhà nghiên cứu kinh tế, nghiên cứu xã hội cần hết sức quan tâm. 2.2. Ngoài nước 1. Flie Cohen, Toàn cầu hóa, sự hấp dẫn và cơ chế điều tiết, Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp, Hội thảo khoa học “Những thách thức về phương diện pháp lý của quá trình toàn cầu hóa”, file://E:\NDVF\SITES/Viét\Sites\logo.htm 2. Paul Sammuelson và Wiliam D. Nordhans, Kinh tế học, tập 1. Nxb Thống kê, H. 1989 3. Jaydish Bhagwati. Đối phó với nạn chống toàn cầu hóa, Foreign Sffairs, Vol 81, No.1, January/2002. 2.3. Danh mục các công trình đã công bố thuộc lĩnh vực của đề tài của chủ nhiệm và những thành viên tham gia nghiên cứu (họ và tên tác giả; bài báo; ấn phẩm; các yếu tố về xuất bản). 1. Hoàn thiện chính sách thương nhân nhằm xây dựng và phát triển hệ thống thương mại hiện đại, văn minh và hiệu quả trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ năm 2008, ĐHTM. 2. Kinh doanh đa ngành - cái “bẫy” của sự thất bại. Tạp chí Thương mại, số 31, 2012. 3. Hội nhập sâu vào Cộng đồng kinh tế ASEAN: Cơ hội Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu. Tạp chí Hội nhập, số 34 năm 2014. 4. Để tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đi vào thực chất hơn. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 11 năm 2017. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Những điểm mới trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam về KTTT, hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: - Về nội dung: Những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển KTTT ở nước ta, đặc biệt là những vấn đề mới được thể hiện trong nội dung văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Về thời gian: Từ kết quả 30 năm đổi mới nhận thức về KTTT, hướng vào Đại hội lần thứ XII (1/2016). - Về không gian: Nghiên cứu ở Việt Nam, có tham khảo kết quả nghiên cứu ở một số nước, nhất là Trung Quốc. 4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, và sản phẩm ứng dụng 4.1. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu những nội dung cơ bản Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển KTTT, hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN ở Việt Nam nhằm bổ sung bài giảng các học phần Lý luận chính trị ở trường Đại học Thương mại, trong đó trọng tâm là học phần Đường lối CM của ĐCSVN. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Từ tổng kết 30 năm đổi mới nhận thức của Đảng về KTTT làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển tư duy về KTTT, thể chế KTTT của Đảng. Những bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển KTTT ở nước ta thời gian qua. - Tập trung làm rõ nội dung văn kiện Đại hội lần thức XII của Đảng về KTTT, TCKTTT định hướng XHCN ở Việt Nam trong điều kiện mới. - Trang bị kiến thức (nhất là những vấn đề mới) về KTTT cho giảng viên, sinh viên trường ĐHTM, trước hết là giáo viên bộ môn ĐLCM của ĐCSVN, khoa Lý luận chính trị. - Bổ sung, hoàn thiện bài giảng (trọng tâm là chương V) học phần ĐLCM của ĐCSVN. Dùng phục vụ trực tiếp giảng dạy học phần ĐLCM của ĐCSVN ở trường ĐHTM, làm tài liệu tham khảo cho nhiều môn học khác trong trường mà trước hết là các học phần Lý luận chính trị. 4.3. Sản phẩm ứng dụng: - Cập nhật, bổ sung, phát triển bài giảng (Chương 5) học phần Đường lối Cách mạng của ĐCSVN và một số nội dung có liên quan đến các chương khác (Chương 4 – Đường lối công nghiệp hóa; Chương 6 – Đường lối xây dựng hệ thống chính trị; Chương 7 – Đường lối xây dựng, phát triển văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội; Chương 8 – Đường lối ngoại) cho phù hợp với quan điểm mới, chủ trương mới về phát triển KTTT của Đại hội lần thứ XII của Đảng. - Bổ sung, sửa đổi bài giảng Slidle ở chương 5 (Đường lối xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở VIệt Nam), học phần ĐLCM của ĐCSVN. - Chỉnh sửa đề tài thảo luận và hướng nghiên cứu cho sinh viên các nội dung liên quan chương 5 (Đường lối xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở VIệt Nam). - Chỉnh sửa và bổ sung nội dung đề thi hết học phần Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Một bài báo khoa học. 5. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu 5.1. Cách tiếp cận các mẫu khảo sát: Trao đổi, phỏng vấn người học (chủ yếu sinh viên khóa 50, đại học chính quy ở trường ĐHTM) nhằm thu thập thông tin phản hồi từ phía người học qua đó giúp nắm bắt được: chất lượng bài giảng, nhận thức của giáo viên và mức độ tiếp thu kiến thức của sinh viên. Tham khảo ý kiến của giáo viên trong bộ môn, trong khoa và trong trường về nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu. Từ đó có cơ sở sửa đổi, bổ sung bài giảng cho phù hợp với nhu cầu dạy và học môn học qua việc cụ thể hóa để vận dụng nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng vào giảng dạy học phần. Về công tác chuẩn bị và triển khai thực hiện đề tài: Khoa Lý luận chính trị mà trực tiếp là bộ môn ĐLCM của ĐCSVN có nhiệm vụ truyền bá, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng cho học sinh sinh viên nói chung trong đó có sinh viên trường Đại học Thương mại. Chính vì vậy, kể từ sau Đại hội của Đảng (1/2016), bộ môn đã triển khai thực hiện các bước với các công việc cụ thể: Cung cấp tài liệu nghiên cứu cho giáo viên bộ môn; đọc, nghiên cứu các tài liệu trước hết tập trung vào Văn kiện Đại hội XII của Đảng và một số tài liệu hướng dẫn nghiên cứu, giảng dạy; phân công giáo viên nghiên cứu để chỉnh sửa, bổ sung các vấn đề thảo luận, câu hỏi thi, đề thi cho phù hợp. Kết quả đầu năm học 2016 – 2017 bài giảng học phần đã từng bước được bổ sung, bổ sung đề tài và nội dung thảo luận, xây dựng lại đề thi hết học phần. Tháng 11/2016 bộ môn đã tổ chức Hội nghị thông tin khoa học về chủ đề “Những điểm mới trong văn kiện Đại hội XII của Đảng về KTTT và hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN ở Việt Nam”. Tháng 4/2017, khoa LLCT tổ chức Hội nghị thông tin khoa học, chủ đề “Vận dụng Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng vào giảng dạy các học phần Lý luận chính trị tại trường Đại học Thương mại”. Trong đó có nhiều bài viết và nhiều ý kiến trao đổi liên quan đến đường lối xây dựng và phát triển kinh tế của Đảng, KTTT và hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Đây là những nguồn tài liệu, thông tin, ý kiến đóng góp xây dựng rất sát thực, bổ ích cho việc nghiên cứu của tác giả. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: - Loại dữ liệu (định tính, định lượng): Kết hợp định tính và định lượng. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của đề tài (nghiên cứu chủ yếu nội dung văn kiện Đảng) nên tác giả chủ yếu dựa vào dữ liệu định tính. - Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp (phỏng vấn, điều tra); thứ cấp: Đề tài nghiên cứu có phạm vi hẹp, mục tiêu chủ yếu phục vụ việc giảng dạy, học tập môn Đường lối cách mạng của ĐCSVN ở trường Đại học Thương mại nên các tài liệu chủ yếu được cập nhật từ nguồn thứ cấp, gồm các báo cáo của Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến các c...a với chi phí thấp hơn. Tuy nhiên, đây là một trong những nguyên nhân làm cho ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam hạn chế phát triển. - Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể SXKD. Về nguyên tắc trong nền KTTT các chủ sở hữu phải độc lập với nhau, tách rời nhau. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu do đó, tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Đặc biệt ở nước ta trong TKQĐ lên CNXH còn tồn tại chế độ sở hữu tư nhân nên còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế mang tính chất tư nhân (Kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ...) nên không thể phân phối trực tiếp mà phải thông qua trao đổi để thực hiện phân phối sản phẩm, bảo đảm lợi ích của những người sản xuất tư nhân độc lập. - Thành phần KTNN và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong SXKD, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau. Lợi ích của những người lao động trong các tổ chức kinh tế này do đó cũng khác nhau. Cần phải thông qua CCTT để thực hiện phân phối vừa đảm bảo tính minh bạch, công bằng trong phân chia thu nhập vừa tạo động lực vật chất kích thích người lao động và các nhà quản lý. - Quan hệ hàng hóa - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc của thị trường. Việt Nam có thể và cần thiết phải mở rộng kinh tế đối ngoại nhằm phát huy lợi thế so sánh trong nước và tranh thủ, lợi dụng nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh phát triển kinh tế, đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH đất nước. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang tồn tại phổ biến KTTT, quan hệ hàng – tiền do đó chúng ta cũng phải duy trì quan hệ hàng hóa – tiền tệ để thực hiện thương mại hay các quan hệ kinh tế quốc tế. Ngoài ra, KTTT với những lợi ích mà nó mạng lại, những ưu thế của nó so với những hình thức tổ chức kinh tế khác càng cần thiết duy trì và phát triển. KTTT không phải là mục đích mà là phương tiện, công cụ xây dựng CNXH hiệu quả hơn. Như vậy, phát triển KTTT ở Việt Nam là tất yếu khách quan, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào phận công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 1.2.1.3. Đặc trưng, bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Chúng ta đã thấy KTTT không quy định bản chất xã hội mà ngược lại chịu ảnh hưởng, chi phối bới các chế độ xã hội khác nhau, thể hiện bản chất chế độ xã hội đó. Trong CNTB, KTTT là công cụ, phương tiện làm giàu cho các nhà tư bản do đó lợi nhuận là mục tiêu tối thượng nếu không nói là mục tiêu duy nhất. Các vấn đề hay mục tiêu xã hội chỉ được quan tâm và được giải quyết khi phát sinh mâu thuẫn xã hội sâu sắc, đe dọa sự tồn tại và lợi ích của tư bản. Ngược lại, trong KTTT định hướng XHCN, lợi nhuận chỉ là mục đích trực tiếp ban đầu, là điều kiện để thực hiện mục đích cuối cùng là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Bởi vậy, KTTT định hướng XHCN ngoài những đặc điểm chung của nền KTTT, còn có đặc điểm đặc thù, đó là: - Về mục tiêu phát triển KTTT. Giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện CNH, HĐH; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Có nước đặt vấn đề tăng trưởng kinh tế trước, giải quyết công bằng xã hội sau. Có những nước lại muốn dựa vào viện trợ và vay nợ nước ngoài để cải thiện đời sống nhân dân rồi sau đó mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ở nước ta lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xóa đói giảm nghèo. Mục tiêu phát triển KTTT suy cho cùng là để xây dựng xã hội XHCN. Bởi vậy, xét về lâu dài mục tiêu của KTTT và mục tiêu của CNXH không mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, trong ngắn hạn có thể có sự mâu thuẫn, xung đột. Mục tiêu phát triển KTTT là gắn tăng trưởng với công bằng xã hội nhưng chủ thể trong nền KTTT hiện nay là tư nhân trong và ngoài nước do vậy họ vẫn coi trọng lợi ích của bản thân họ hơn là vấn đề công bằng. Thực tế người sử dụng lao động trả lương thấp, không đóng bảo hiểm cho người lao động; tình trạng trốn thuế, sản xuất hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận thương mại...vẫn phổ biến. - Nền KTTT gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước (KTNN) giữ vai trò chủ đạo. Trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó KTNN đóng vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của KTNN đã được xác định từ trong nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung trước dây. Bước vào thời kỳ đổi mới và đặc biệt là thời gian gần đây xuất hiện nhiều ý kiến hoài nghi về khả năng và sự cần thiết chủ đạo của KTNN nhưng việc xác lập vai trò chủ đạo của KTNN là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT TBCN. Tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta quyết định KTNN phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Vai trò chủ đạo của KTNN thậm chí đã được luật hóa trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 của nước Công hóa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Trong nền KTTT ở nước ta tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập: Phân phối theo lao động, phân phối theo hiệu quả SXKD, phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua phúc lợi xã hội,Sự khác biệt cơ bản giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT TBCN là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của KTTT định hướng XHCN, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế, phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong TKQĐ lên CNXH. - Cơ chế vận hành nền kinh tế là CCTT có sự quản lý của Nhà nước XHCN. Sự điều tiết của nhà nước vừa đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế trong nền KTTT hiện đại, vừa do yêu cầu định hướng XHCN của nền kinh tế. Mặt khác, đây là sự quản lý của nhà nước XHCN chứ không phải là nhà nước tư sản trong KTTT. Nhà nước quản lý nền KTTT theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Kế hoạch và CCTT là hai phương tiện khác nhau để điều tiết nền kinh tế. Cơ chế kết hợp trên nhằm phát huy những điểm tích cực của thị trường, của kế hoạch và hạn chế nhược điểm của thị trường, của kế hoạch. Nhà nước quản lý thông qua thị trường. - Là nền kinh tế mở, hội nhập. Nền kinh tế mở là đặc trưng chung của KTTT và KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền KTTT định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa. Tư tưởng về xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập của Việt Nam bắt đầu hình thành từ Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng. Để cụ thể hóa đường lối của Đảng, tháng 12/1987 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành. Lần đầu tiên trong lịch sử của Đảng cũng như đất nước chấp nhận, khuyến khích nước ngoài (gồm cả các nước tư bản) đầu tư vào làm ăn ở Việt Nam, mở cửa để thu hút nguồn vốn, thiết bị, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý SXKD vào Việt Nam. Hội nghị lần thứ 13 (5/1989) của Bộ Chính trị chủ trương “lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật và xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ”. Đồng thời đưa ra chủ trương “xóa bỏ tình trạng độc quyền mang tính cửa quyền trong hoạt động SXKD xuất nhập khẩu”. Ngoài ra, Hội nghị 13 cũng mở đầu cho tư tưởng đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ kinh tế quốc tế nói riêng. Đây là sự chuyển hướng hết sức quan trọng về đường lối kinh tế đối ngoại của Đảng. Chủ trương xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập dần được bổ sung và hoàn thiện qua các kỳ đại hội và các hội nghị của Đảng theo hướng tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư, hợp tác nghiên cứu khoa học công nghệ và SXKD,... 1.2.2. Thể chế kinh tế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1.2.2.1. Cơ chế quản lý kinh tế Việt Nam trước đổi mới Trong nền kinh tế dựa trên nền tảng công hữu với 2 thành phần chủ lực là kinh tế quốc doanh (KTNN), kinh tế tập thể mọi vấn đề cơ bản trong nền kinh tế đều do Nhà nước quyết định, được gọi là nền kinh tế chỉ huy. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra một số đặc điểm, hạn chế chủ yếu của cơ chế quản lý cũ: Thứ nhất: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Do đó, hoạt động của các đơn vị kinh tế, trước hết là các doanh nghiệp nhà nước(DNNN) chủ yếu phải dựa vào chỉ tiêu pháp lệnh hoặc là quyết định của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, từ phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, địa chỉ tiêu thụ sản phẩm đến việc định giá, sắp xếp bộ máy... Điều đó có nghĩa các chủ thể kinh tế không được tự chủ, thị trường không được xác định giá cả. Thứ hai, các cơ quan quản lý hành chính của Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động SXKD của các đơn vị nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Hậu quả do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản trị SXKD của DN. Còn các DN vừa bị trói buộc, vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại cấp trên, vì không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả SXKD. Lợi ích DN, quyền lợi người lao động phụ thuộc hoàn toàn vào Nhà nước. Thứ ba, trong cơ chế kinh tế cũ, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị triệt tiêu, nhà nước quản lý nền kinh tế và kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát, giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Mặc dù tiền vẫn tồn tại, quan hệ hàng - tiền vẫn có nhưng chỉ mang tính hình thức bởi thiết bị, vật tư cho các DN do nhà nước cấp, hàng tiêu dùng được mua bằng tem, phiếu, sổ và theo định lượng. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: Bao cấp qua giá (là hình thức phổ biến và nghiêm trọng nhất). Nhà nước định giá tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn giá trị của chúng. Với giá thấp như vậy, coi như một phần những thứ đó cho không; Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Chế độ cung cấp tem phiếu với giá quá thấp đã biến thành một loại tiền lương hiện vật đã phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động, mang nặng tính bình quân, không kích thích người lao động; Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc trách nhiệm về vật chất đối với người được cấp vốn đã tạo ra gánh nặng cho ngân sách nhà nước, làm cho việc sử dụng vốn thiếu hiệu quả, nảy sinh cơ chế xin – cho. Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian và kém năng động từ đó nảy sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý nhưng phong cách thì cửa quyền, quan liêu. Xã hội phải tốn nhiều chi phí để nuôi bộ máy đồ sộ nhưng kém hiệu lực. 1.2.2.2. Nhận thức của Đảng về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Thể chế kinh tế hay TCKTTT nói chung đều bắt nguồn từ khái niệm “thể chế”. Theo “Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế”, do Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), (Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013) thể chế thường được hiểu theo hai nghĩa: Một là, “thể chế là tập hợp những quy tắc chính thức, các quy định không chính thức hay những nhận thức chung có tác động kìm hãm, định hướng hoặc chi phối sự tương tác của các chủ thể chính trị với nhau trong những lĩnh vực nhất định. Các thể chế được tạo ra và đảm bảo thực hiện bởi cả nhà nước và các tác nhân phi nhà nước (như các tổ chức nghề nghiệp hoặc các cơ quan kiểm định); Hai là, “thể chế là một cơ quan, tổ chức công với các cơ cấu và chức năng được định sẵn một cách chính thức nhằm điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động nhất định áp dụng chung cho toàn bộ dân cư”. Khái niệm TCKTTT bắt nguồn từ thể chế kinh tế. TCKT là “một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi SXKD và các quan hệ kinh tế” [4, tr157]. Nó là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế xã hội, tồn tại bên cạnh các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế giáo dục “Nó bao gồm các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực về kinh tế gắn với các chế tài xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành nền kinh tế. TCKTTT là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi SXKD và các quan hệ kinh tế. Nó bao gồm các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực về kinh tế gắn với các chế tài xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành nền kinh tế. TCKTTT còn bao gồm hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao dịch, trao đổi trên thị trường hay điều chỉnh các hoạt động kinh tế nói chung. TCKTTT chính là: Các quy tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường (các chủ thể thị trường); Cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đạt được mục tiêu hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong muốn; Các thị trường (thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản) [4, tr.167]. Nếu cơ chế kinh tế hay cơ chế KTTT là khách quan, vận hành hoàn toàn tự phát do hệ thống các quy luật kinh tế chi phối thì thể chế kinh tế và TCKTTT luôn gắn kết bởi hai yếu tố vừa có tính độc lập nhưng ràng buộc lẫn nhau. Các cơ quan, tổ chức (bộ máy quản lý) chủ động thiết lập các quy tắc, quy định, các quy phạm pháp luật để hướng dẫn, điều chỉnh hành vi của các chủ thể trên thị trường đồng thời cũng tuân thủ, vận hành theo hệ thống các quy phạm pháp luật đó. Không có các cơ quan, tổ chức sẽ không có TCKT và TCKTTT nhưng các cơ quan, tổ chức đó cũng không thể vượt ra ngoài hệ thống các quy phạm pháp luật. TCKTTT nói chung về hình thức mang tính chủ quan vì đó là sản phẩm của con người, do con người thiết lập. Bởi vậy tính khoa học, hiệu lực của TCKTTT phụ thuộc một phần rất lớn vào năng lực nhận thức và hành động của con người (bộ máy quản lý). Tuy nhiên, về nguyên tắc nội dung của TCKTTT phải mang tính khách quan, phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật KTTT, CCTT. Một TCKTTT hoàn thiện, hợp lý vừa tạo môi trường thể chế giúp người SXKD hoạt động tốt, vừa là cơ sở giúp các cơ quan quản lý thực hiện được chức năng quản lý kinh tế - xã hội của mình có hiệu quả đồng thời là điều kiện ổn định kinh tế xã hội các quốc gia. Do đó, xây dựng và hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN là đòi hỏi hết sức cấp bách đối với nước ta. KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế vừa tuân theo các quy luật của thị trường vừa chịu sự chi phối của các yếu tố đảm bảo tính định hướng XHCN. TCKTTT định hướng XHCN ở Việt Nam được thiết lập và vận hành theo cơ chế chung: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Do đó, TCKTTT định hướng XHCN được hiểu là TCKTTT, trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành được tự giác tạo lập và sử dụng để phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Nói cách khác, TCKTTT định hướng XHCN là công cụ hướng dẫn cho các chủ thể trong nền kinh tế vận động theo đuổi mục tiêu kinh tế - xã hội tối đa, chứ không đơn thuần là mục tiêu lợi nhuận tối đa. Đại hội IX xác định cơ chế vận hành của nền KTHH nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ SXKD, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức SXKD có hiệu quả, nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi SXKD theo CCTT, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế, đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội. Đại hội X cũng khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Bốn tiêu chí quan trọng nhất là: 1) Nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế nước ta; 2) Nâng cao vai trò và hoàn thiện quản lý của Nhà nước; 3) Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; 4) Phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các loại hình SXKD. Đại hội XI nhấn mạnh “TCKTTT định hướng XHCN là TCKTTT, trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành được tự giác tạo lập và sử dụng để phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sỗng nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nói cách khác TCKTTT định hướng XHCN là công cụ hướng dẫn cho các chủ thể trong nền kinh tế vận động, theo đuổi mục tiêu kinh tế - xã hội tối đa chứ không đơn thuần là mục tiêu lợi nhuận tối đa” [4, tr.158]. 1.2.2.3. Nhu cầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và xây dựng TCKTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đã được khẳng định tại Đại hội VI của Đảng. Tại đó, Đảng khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo ra được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế XHCN, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội” [15, tr.47, tr.395-396]. Chủ trương đó bắt nguồn từ những lý do: Một là, đảm bảo tính đồng bộ trong việc lựa chọn phát triển KTTT thay cho kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp thì đi cùng với nó phải là CCTT chứ không phải cơ chế quản lý kinh tế chỉ huy. Mọi hình thức tổ chức kinh tế đều vận hành theo một cơ chế hay thể chế tương ứng. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp với những đặc trưng của nó không phù hợp với những đặc điểm có tính nguyên tắc của KTTT. Trong KTTT mọi chủ thể kinh tế đều phải được tự chủ, giá cả hàng hóa do thị trường quyết định và cạnh tranh tự do. Bởi vậy khi chúng ta chuyển sang KTTT phải được vận hành theo CCTT. Tất nhiên cần hiểu đầy đủ rằng, trong nền KTTT hiện đại nói đến CCTT hoàn toàn không đồng nghĩa với việc loại bỏ sự can thiệp, quản lý của nhà nước. Một CCTT mới được tạo dựng phải là cơ chế “hỗn hợp” - có thị trường, CCTT nhưng cũng có kế hoạch, có sự quản lý nhà nước nhưng phải xuất phát từ thị trường, điều tiết qua thị trường, lấy thị trường làm cơ sở. Hai là, xuất phát từ những hạn chế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp. Không phủ nhận những mặt tích cực, tác dụng nhất định của kế hoạch hóa tập trung, bao cấp nhất là trong giai đoạn đất nước có chiến tranh. Nhưng mô hình kinh tế này không phản ánh đúng yêu cầu khách quan của các quy luật của KTTT. Xét cả về lý luận và thực tiễn ở Việt Nam cho thấy cơ chế quản lý này là nguyên nhân quan trọng làm nẩy sinh những hạn chế lớn đối với nền kinh tế nước ta, nhất là khi bộ máy quản lý bị quan liêu hóa. Về cơ bản, cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp có những hạn chế: - Thủ tiêu cạnh tranh nên kìm hãm sự phát triển của các đơn vị SXKD, kìm hãm sự tiến bộ khoa học – kỹ thuật. Các đơn vị SXKD hay người lao động đều làm việc theo sự sắp đặt của cơ quan quản lý nhà nước do đó không cần sáng tạo, không cần cố gắng nỗ lực. Trong cơ chế quản lý này mọi chi phí sản xuất (chi phí vật chất và lao động), sản phẩm và sản lượng đều do nhà nước tính toán, quy định. Nhà nước đồng thời quy định giá cả nên giá cả hàng hóa hầu như không có quan hệ gì với giá trị cũng như tương quan cung - cầu. Mọi sự tính toán và các cân đối trong nền kinh tế đều mang tính chủ quan, duy ý chí làm mất đi động lực của sự phát triển kinh tế, làm mất đi tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế, ngược lại tạo nên một cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. - Chế độ công hữu được thiết lập một cách nóng vội không những không tạo được động lực mà còn kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Những tài sản thuộc các đơn vị kinh tế quốc doanh và bộ phận lớn tài sản của các hợp tác xã đều thuộc nhà nước hay tập thể nên dẫn đến tình trạng “có chủ mà vô chủ”, “cha chung không ai khóc”. Người lao động xa rời tư liệu sản xuất, tình trạng người lao động cũng như các nhà quản lý thiếu trách nhiệm với tài sản chung phổ biến đã gây thất thoát, thiệt hại lớn của cải xã hội. Sở hữu tư nhân không được thừa nhận đã làm cho mặt tích cực của các thành phần kinh tế gắn với sở hữu tư nhân không được phát huy trong quá trình xây dựng CNXH. Điều này đồng nghĩa với việc lãng phí nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội. - Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp duy trì quá lâu đã tạo ra nhiều lực cản đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động của các đơn vị SXKD, làm thay chức năng quản trị kinh doanh của các DN đã đẩy các đơn vị kinh tế vào tình trạng thụ động, mất quyền tự chủ. Cơ chế đó không ràng buộc trách nhiệm của DN đối với hiệu quả sử dụng vốn, tài sản, vật tư, lao động. Điều đó gây nên tình trạng lãng phí, thất thoát tài sản của Nhà nước, tạo tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng, triệt tiêu động lực sáng tạo của người lao động. - Chế độ phân phối bình quân và bao cấp đã không gắn được kết quả sản xuất với năng suất và hiệu quả lao động, triệt tiêu động lực của người lao động. Cho dù nguyên tắc chủ đạo trong phân phối thu nhập của CNXH là phân phối theo lao động nhưng trên thực tế đã chuyển thành bình quân, cào bằng. Người tích cực mất động lực phấn đấu, người lười nhác có cơ hội ỷ lại người khác và xã hội. Mặc dù mục tiêu của việc phân phối thu nhập là đảm bảo công bằng, nhưng việc tổ chức và xây dựng một hệ thống thương nghiệp nhà nước độc quyền mua và bán, đã tạo nên những đặc quyền, đặc lợi gắn liền với bộ máy quan liêu, tham lam đã gây bất bình đẳng ngay trong khâu phân phối. Phân phối bằng hiện vật và bao cấp không gắn kết được cung - cầu (người cần, nơi cần thì không có; người có, nơi có thì không cần), làm rối ren lưu thông, tạo cơ hội cho những người có chức quyền trục lợi. - Quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị hình thức hóa, thậm chí bị thủ tiêu. Tiền tệ vẫn tồn tại nhưng thực tế người ta không mua – bán bằng tiền. Nhà nước không bán vật tư, thiết bị cho DN mà cấp phát, không mua hàng hóa của DN mà giao nộp; người tiêu dùng thực tế không phải mua hàng bằng tiền mà bằng sổ, tem, phiếu vậy có thể bỏ tiền tệ. Tiền chỉ lưu thông chủ yếu đúng nghĩa và rất hạn chế ở chợ nông thôn hay mậu dịch phi chính thức. Việc không coi trọng quan hệ hàng hóa – tiền tệ đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng hiện vật hóa, không khai thác được vai trò, sức mạnh của quan hệ hàng hóa – tiền tệ để phát triển đất nước. Những chức năng của tiền tệ vốn được khai thác để phát triển kinh tế toàn cầu hiện nay thì khi đó nó gần như không được thể hiện trong cả điều hành vĩ mô và thực tiễn cuộc sống. Từ những lý do trên chúng ta có thể thấy, cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp hoàn toàn không phù hợp với KTTT. Việc xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và xây dựng CCTT có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta là hết sức cần thiết và cấp bách. CHƯƠNG II: TỔNG QUAN QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC, QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG QUA 30 NĂM ĐỔI MỚI 2.1. Sự hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị trường, thể chê kinh tế thị trường Trước đổi mới (1986), cho dù chúng ta đã có một số điều chính về mô hình kinh tế mà trước hết là mô hình quản lý kinh tế nhưng thực tế đó chỉ là một số cải biến trong khuôn khổ nền kinh tế kế hoach, theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Những cải tiến theo hướng KTTT chủ yếu ở cấp vi mô, mang tính cục bộ, không triệt để và thiếu đồng bộ, diễn ra trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế công hữu, tập trung, bao cấp và khép kín. Cuối những năm 70, đầu 80 của thế kỷ XX, những cải cách cục bộ kinh tế vẫn theo hướng bước đầu thừa nhận thị trường là một công cụ bổ sung cho kế hoạch để tổ chức hoạt động kinh doanh ở cấp vi mô. Điều đó dần được thể hiện qua các chủ trương như: Nghị quyết về lưu thông - phân phối, mở đường áp dụng cơ chế “kế hoạch 3 phần” trong các DNNN (Hội nghị TW 6, khóa IV, 1979); Khoán 100 trong nông nghiệp (năm 1981); Việc nhà nước giảm dần số mặt hàng cung cấp định lượng, thu hẹp dần chế độ hai giá (1984 - 1986); Chính sách giá – lương – tiền (1985);... Tuy đây là sự chuyển biến nhận thức và thực tiễn quan trọng, mang tính đột phá, song vẫn chưa đủ để tạo ra một bước ngoặt căn bản trong quan điểm lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế XHCN. Thị trường chỉ được coi là công cụ bổ sung. Công cụ chủ yếu để quản lý, điều hành và tổ chức kinh tế vẫn là kế hoạch pháp lệnh với các chỉ tiêu định lượng cụ thể giao xuống từng DN (xí nghiệp quốc doanh và HTX). Về thực chất, đó là những cải tiến, cải cách thể chế cục bộ trong khuôn khổ cơ chế cũ (kế hoạch hoá tập trung) và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế vận hành thông qua cơ chế đó. Nền tảng của KTTT chưa được thừa nhận. Những thay đổi thiếu triệt để, mang tính cục bộ cùng với sự yếu kém trong quản lý thể hiện trên các mặt: Nền kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu không được thừa nhận trên thực tế; Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp tiếp tục thống trị; Thị trường bắt đầu có tác động tích cực nhưng rất hạn chế, không đóng vai trò điều tiết hoạt động của DN; Nền kinh tế bị rối loạn, lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng; Lực lượng sản xuất bị trói buộc, quan hệ sản xuất trở thành lực cản phát triển; Tình trạng khủng hoảng làm gia tăng áp lực đổi mới toàn diện cơ chế kinh tế. Thêm vào đó, sự thất bại của Chính sách giá – lương – tiền (năm 1985) càng đặt ra yêu cầu bức xúc đổi mới mô hình kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Nhận thức mới của Đảng về KTTT, TCKTTT được phản ánh qua các nội dung chính: khẳng định sự tồn tại khách quan và sự cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH, quan điểm và chủ trương phát triển KTTT, hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN ở nước ta. Cho đến trước Đại hội XII, tư duy của Đảng về KTTT có thể chia ra làm hai giai đoạn chính: từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội VIII (1996) và từ Đại hội IX (2001) đến Đại hội XI. 2.1.1. Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội VIII (1996) Đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo CCTT, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN. Đại hội VI đột phá mạnh và căn bản trong tư duy lý luận bằng việc đề ra đường lối đổi mới, trong đó, phê phán và từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, coi SXHH và KTHH không phải là sản phẩm riêng có của CNTB, thừa nhận sự tồn tại khách quan của “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” trên con đường đi lên CNXH. Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về KTTT. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay đổi căn bản và sâu sắc. Thời kỳ này Đảng khẳng định: - Sự tồn tại khách quan và sự cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH. Thứ nhất, KTTT không phải là cái riêng có của CNTB mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Thực tiễn phát triển và lý luận của chủ nghĩa Mác đều khẳng định tính tất yếu và phổ biến của KTTT trong quá trình phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. KTTT đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao ở CNTB. KTTT có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng nó biểu hiện rõ rệt nhất trong CNTB. Nếu trước CNTB, KTTT còn ở thời kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong CNTB nó đạt trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó. Về lý luận KTTT vận động theo công thức T – H – T’ đã được đồng nhất với sự vận động của tư bản (T – H – T’). Điều đó khiến người ta nghĩ rằng KTTT là sản phẩm riêng có của CNTB. CNTB không sản sinh ra KTTT, do đó, KTTT với tư cách là KTHH ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng có của CNTB mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Chỉ có TCKTTT tư bản chủ nghĩa hay cách thức sử dụng KTTT theo lợi nhu... hoàn thiện đồng bộ hệ thống TCKTTT định hướng XHCN theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa TCKT và thể chế chính tri, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội” [16, tr.104]. Tiếp tục hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là một trong ba đột phá chiến lược trong 10 năm tới. Điểm nhấn mạnh của Đại hội là: Phấn đấu đến năm 2020 cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống TCKTTT định hướng XHCN theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; Bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, Bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, Đại hội yêu cầu phải: “Tập trung hoàn thiện TCKTTT đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của KTTT và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng bộ và khả thi các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phân bổ nguồn lực cho SXKD và quản lý giá phải theo CCTT. Đồng thời, Nhà nước sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân phối, phân phối lại để phát triển văn hoá, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân”[16, tr.273-274]. Nội dung này sẽ được vận dụng bổ sung (thậm chí thay thế) những nội dung đã có từ trước (từ Đại hội XI về trước). Những điểm mới trong Văn kiện XII của Đảng thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước tập trung ưu tiên hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN theo đúng các tiêu chí cơ bản của nó. Đây cũng là nội dung quan trọng thể hiện quyết tâm thiết lập môi trường kinh doanh tốt cho các chủ thể kinh tế đầu tư phát triển. 3.2.2. Phương hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XII của Đảng Để hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN trong thời gian tới cần: * Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình DN Trong nền kinh tế quá độ tất yếu tồn tại nhiều loại hình sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Đại hội X của Đảng, trên cơ sở ba loại hình sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân) cơ bản, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: KTNN, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (5 thành phần kinh tế). Tuy vậy, Đại hội XI xác định về cơ bản có 4 thành phần kinh tế: KTNN, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Để hoàn thiện thể chế sở hữu và phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình DN cần: - Thể chế hóa quyền tài sản: Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đưa ra khái quát mới về mặt lý luận: “Thể chế hoá quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013”. Đảm bảo công khai, minh bạch về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi trong mọi lĩnh vực liên quan đến tài sản, quản lý tài sản công, tư. Bảo đảm quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản. Xây dựng cơ chế bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu trong các tranh chấp kinh tế, thương mại, ... - Mọi DN thuộc mọi thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, đều hoạt động theo CCTT, theo pháp luật, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Đại hội XII khẳng định mọi DN thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo CCTT, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Có chính sách thúc đẩy phát triển các DN Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh các lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Khuyến khích đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp kinh doanh, thúc đẩy phát triển DN Việt Nam cả về số lượng và chất lượng để thực sự trở thành nòng cốt của nền kinh tế trong nước đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm và mở rộng quyền tự do kinh doanh trong các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; xây dựng, thực thi hiệu quả cơ chế hậu kiểm, coi đó là nguyên tắc mới trong quản lý kinh tế; kiểm soát và hạn chế tình trạng độc quyền nhất là độc quyền nhà nước. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư và luật phá sản DN theo CCTT. - KTNN giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kiện toàn đội ngủ cán bộ lãnh đạo, quản lý và nâng cao năng lực quản trị, quản lý DNNN phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại DNNN theo hướng: + DNNN tập trung vào một số lĩnh vực then chốt, trọng yếu; những địa bàn quan trọng, những lĩnh vực đặc thù như an ninh, quốc phòng...những lĩnh vực mà các DN thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Tách bạch nhiệm vụ SXKD với nhiệm vụ chính trị, công ích. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để các DNNN thật sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Xóa bỏ độc quyền và đặc quyền SXKD của DNNN. DNNN có quyền tài sản, thật sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh, cạnh tranh, chấp nhận rủi ro. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý DN với kết quả hoạt động của DN. + Tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN (các công ty, tổng công ty), trọng tâm là cổ phần hóa DNNN mà nhà nước không cần nắm hoặc không cần nắm giữ cổ phần chi phối kể cả các DN đang kinh doanh có hiệu quả. Hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản (hữu hình và vô hình) theo nguyên tắc thị trường, đề phòng và khắc phục những lệch lạc, tiêu cực trong quá trình cổ phần hóa. Giá trị DNNN được cổ phần hóa, kể cả giá trị quyền sử dụng đất, phải theo CCTT. + Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của DNNN. Sớm xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, ủy ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại các DNNN. Thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với DNNN. Tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát bảo đảm công khai, minh bạch về đầu tư, tài chính và các hoạt động của DNNN. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp theo hướng nâng cao chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức, bộ máy, nhân sự và tài chính; đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực dịch vụ công, thu hút và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này, chuyển các loại phí sang cơ chế giá. - Về kinh tế tập thể, Đại hội XII xác định: Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với CCTT. Nhà nước sớm có chính sách, cơ chế cụ thể (như tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường...) khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức SXKD, trước hết là các hợp tác xã kiểu mới, các hợp tác xã mà thành viên tham gia gồm cả thể nhân và pháp nhân. Khuyến khích huy động cổ phần và các nguồn vốn, không ngừng tăng thêm vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và qũy không chia. Các hợp tác xã cổ phần từng bước trở thành thực thể chủ yếu của kinh tế tập thể, phát huy vai trò kinh tế hộ. Trong nền KTTT, hợp tác xã và các loại hình kinh tế hợp tác hoạt động theo đúng các nguyên tắc: hợp tác tự nguyện, tương trợ giữa các thành viên, dân chủ trong quản lý; thực hiện hạch toán, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả SXKD; cạnh tranh để phát triển. Nhà nước có chính sách, cơ chế hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò kinh tế hộ. - Đại hội XII của Đảng cũng chủ trương: Khuyến khích phát triển các loại hình DN, các hình thức tổ chức SXKD với sở hữu hỗn hợp, nhất là các DN cổ phần. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Có chính sách thỏa đáng hỗ trợ DN nhỏ và vừa, DN khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các DN tư nhân lớn, các tập đoàn kinh tế đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Tôn vinh những người SXKD giỏi, chấp hành tốt pháp luật; xóa bỏ mọi rào cản hữu hình và vô hình, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình DN của tư nhân phát triển không hạn chế qui mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực SXKD quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm. - Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với DN trong nước. Tăng cường liên kết giữa DN có vốn đầu tư nước ngoài và DN trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. * Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường Thị trường nói chung và trong mỗi loại thị trường nói riêng đều phải có các yếu tố: hàng hóa, người tham gia thị trường (người mua, người bán), cung - cầu; giá cả; cạnh tranh; nhà nước (môi trường pháp lý, mức độ can thiệp). Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách và người nghèo. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá. Hoàn thiện pháp luật về phí, lệ phí; rà soát, chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công sang áp dụng chế độ giá dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Xây dựng và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm xã hội của DN đối với người tiêu dùng và đối với môi trường. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, kiên quyết đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của người tiêu dùng, các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế. Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; từng bước, theo lộ trình thực hiện mở cửa, gắn kết thị trường dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ với thị trường khu vực và thế giới.... Đẩy mạnh cơ cấu lại thị trường tài chính, nhất là tái cơ cấu thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, hệ thống ngân hàng thương mại và xử lý nợ xấu của nền kinh tế ; phát triển thị trường mua bán nợ, thị trường các công cụ phái sinh, cho thuê tài sản. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị trường bất động sản hoạt động có hiệu quả Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề. Tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học - công nghệ, thực hiện CCTT và có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là DN đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào SXKD. * Hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng, quy hoạch và phân công, phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương. Đây là điểm bổ sung mới hết sức quan trọng của Đại hội XII của Đảng trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta thiếu sự liên kết, đang bị chia cắt thành “63 nền kinh tế”. Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương, khắc phục không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Tạo lập thể chế kinh tế đặc thù cho các địa phương, vùng kinh tế trọng điểm thực sự trở thành đầu tàu, động lực lan tỏa vùng ngoại vi và cả nước. Hoàn thiện thể chế phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương, vừa bảo đảm tập trung thống nhất của nền kinh tế, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Đổi mới hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và địa phương. * Đẩy mạnh, nâng cao hiệu qụả hội nhập kinh tế quốc tế Tiếp tục nghiên cứu đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư,.., Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ... Đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả. Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết. Hoàn thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế. Xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách hội nhập kinh tế liên ngành, liên lĩnh vực, kiểm soát tốt các khâu gắn kết giữa chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đầu tư và bảo hộ đầu tư, chính sách quản lý cạnh tranh và điều tiết thị trường, chính sách lao động và thị trường lao động, chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thị trường khoa học công nghệ, chính sách môi trường... * Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội thực chất là phát huy vai trò của hệ thống chính trị và nhân dân (trước hết là các DN) trong nền KTTT định hướng XHCN. Trong đó bao gồm: - Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc nâng cao chất lượng công tác hoạch định các đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hoá và việc tổ chức thực hiện: đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác tham mưu về kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và nâng cao năng lực lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội của Đảng cần phải đảm bảo thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa kinh tế và chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng không đồng nghĩa với việc Đảng, các cơ quan Đảng làm thay chức năng quản lý của Nhà nước như bấy lâu nay chúng ta thường gặp phải. - Về vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN: Văn kiện Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện TCKT, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy SXKD và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”.[10] Việc phát huy vai trò của nhà nước phụ thuộc vào nhiều điều kiện, trong đó quan trọng hàng đầu là: (1) chất lượng hệ thống pháp luật kinh tế và các văn bản pháp quy mà Nhà nước ban hành; (2) chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước và năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Nhà nước tập trung ổn định kinh tế vĩ mô; thiết lập khung pháp luật, chính sách và bộ máy thực thi bảo đảm các loại thị trường liên tục được hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả, có cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát hiệu quả độc quyền kinh doanh dưới mọi hình thức; tổ chức cung ứng các loại dịch vụ công ích, thiết yếu; giảm bất công, bất bình đẳng về thu nhập, phúc lợi và thực hiện các nhiệm vụ xã hội khác. Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng chương trình, dự án; trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chú trọng nghiên cứu, ban hành đồng bộ các chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội. Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất, tăng tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân. Về vai trò của nhà nước cũng cần phân biệt rõ hai vấn đề quan trọng có tính nguyên tắc là chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế và chức năng quản trị DN. Trong đó nhà nước có chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế còn chức năng quản trị kinh doanh thuộc DN. Cần đặc biệt tránh tình trạng nhà nước, các cơ quan nhà nước lấn át quyền quản lý của DN kể cả DNNN. - Về vai trò Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các Tổ chức chính trị - xã hội: Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các Tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và giám sát việc thực hiện TCKT và phát triển kinh tế - xã hội. Hai yếu tố quyết định cơ chế vận hành của nền KTTT là nhà nước và thị trường. Đối với nền KTTT định hướng XHCN, vấn đề lại càng là như vậy. Tuy vậy, mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử chức năng, vai trò nhà nước không hoàn toàn giống nhau. Đại hội XII cũng thể hiện sự nhận thức mới đầy đủ hơn và phát triển hơn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Nhà nước chuyển từ chức năng sở hữu sang điều tiết, can thiệp và hiện nay là kiến tạo, nhà nước kiến tạo. Thực tế khái niệm “Nhà nước kiến tạo” đã được nghiên cứu, sử dụng từ khá sớm. Trong bài viết đầu năm 2014, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dùng khái niệm “Nhà nước kiến tạo phát triển”. Về vấn đề này, Cựu Thủ tướng Anh, trong buổi hội thảo tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có nói đại ý: Nhà nước đã chuyển từ thời kỳ nhà nước sở hữu sang thời ký nhà nước can thiệp và nay đã là nhà nước điều tiết. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng khái niệm “ nhà nước kiến tạo phát triển” có nội hàm rộng hơn và do đó đầy đủ hơn. Nhà nước kiến tạo phát triển là nhà nước bảo đảm: - Môi trường vĩ mô ổn đinh, môi trường kinh doanh thông thoáng và minh bạch, có thể tiên liệu được nhằm tạo thuận lợi nhất cho kinh doanh. - Xây dựng hệ thống pháp luật, điều chỉnh hành vi của mọi tổ chức, cá nhân để: (i) bảo đảm quyền tự do kinh doanh, bảo vệ nhà đầu tư (ii) cạnh tranh công bằng (iii) bảo vệ sức khỏe nhân dân và môi trường sinh thái - Coi trọng giáo dục và dào tạo, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ - yếu tố then chốt để nâng cao dân trí, tạo cơ hội việc làm, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập của dân cư. - Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa nhằm nâng cao không chỉ đời sống vật chất mà cả đời sống tinh thần của nhân dân. - Sử dụng nguồn lực của nhà nước và các công cụ điều tiết khác để thực hiện chiến lược “tăng trưởng bao trùm” nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, bảo đảm mọi vùng miền, moi tầng lớp dân cư đều được thụ hưởng thành quả của tăng trưởng. - Đề cao trách nhiệm xã hội của DN: trách nhiệm với cộng đồng và người lao động tại DN, trách nhiệm với môi trường và trách nhiệm chấp hành pháp luật (CSR). Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, hiệu quả, hiệu lực, lấy kết quả phục vụ người dân và DN là tiêu chí đánh giá. Hoàn thiện phân cấp; hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Định kỳ kiểm tra, giám sát cơ quan Nhà nước trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về kinh tế-xã hội. Đây là những nội dung được vận dụng vào phần “Một số chủ trương tiếp tục hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN”. Rõ ràng so với các kỳ Đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đã có những bước phát triển mới về chủ trương tiếp tục hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN ở nước ta trong thời gian tới. Điều này được thể hiện trên hai góc độ chính. - Nâng cao tầm nhận thức và chủ trương thực thi các giải pháp cụ thể để đẩy mạnh việc hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN với sự thay đổi nhiều về chất, nói cách khác là “nâng lên một tầm cao mới”. - Điều chỉnh một số nội dung, xác định lại vai trò của các yếu tố cấu thành TCKTTT định hướng XHCN: Vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò của Nhà nước, vai trò của KTNN, vai trò của thị trường... KẾT LUẬN KTTT, CCTT và TCKTTT là những vấn đề tồn tại khách quan, vận động, phát triển cùng với lịch sử tiến bộ của nhân loại. KTTT và cùng với nó là cơ chế vận hành hay quản lý nền KTTT là kết quả phát triển có tính lịch sử - tự nhiên. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội, KTTT đã có nhiều chuyển biến theo chiều hướng ngày một phát triển vừa phản ánh bản chất xã hội và phục vụ nhu cầu phát triển xã hội. Trước đây ở nước ta do nhận thức không đầy đủ về KTTT về CNXH, về đặc trưng kinh tế trong TKQĐ lên CNXH và biện pháp kinh tế để xây dựng CNXH nên phủ nhận KTTT. Thậm chí có quan điểm còn đồng nhất KTTT với CNTB và cho rằng nó là cái riêng có của CNTB. Công cuộc đổi mới của Đảng đã thực hiện một cuộc chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức cũng như thực hành xây dựng CNXH ở nước ta. Một trong những điểm nổi bật của quá trình đổi mới là sự thay đổi tư duy về CNXH, TKQĐ lên CNXH mà trong đó cốt lõi chính là đổi mới tư duy về KTTT, TCKTTT. Quá trình đổi mới tư duy của Đảng nói chung, về KTTT, TCKTTT định hướng XHCN nói riêng dần được phát triển và hoàn thiện. Đại hội XII của Đảng là một dấu mốc quan trọng đánh dấu quá trình hoàn thiện tư duy về KTTT, TCKTTT định hướng XHCN của Đảng. Các học phần Lý luận chính trị, trong đó trọng tâm là học phần ĐLCM của ĐCSVN có trách nhiệm cập nhật nhận thức và triển khai thực hiện giảng dạy các vấn đề mới của Đại hội XII của Đảng trong đó có những điểm mới về xây dựng KTTT, TCKTTT. Để đáp ứng yêu cầu này, đề tài đã tập trung hệ thống hóa và làm rõ thêm một số lý luận về KTTT, CCTT; phân tích thêm những vấn đề về nhận thức, quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển KTTT, xây dựng và hoàn thiện TCKTTT định hướng XHCN thời gian qua. Đặc biệt, đề tài đã cụ thể hóa và phân tích rõ những nội dung mới trong nhận thức của Đảng về KTTT, TCKTTT định hướng XHCN, những vấn đề mới trong quan điểm và chủ trương phát triển KTTT, tiếp tục hoàn thiện TCKTTT của Đảng. Những nội dung này trực tiếp được cập nhật, bổ sung vào bài giảng học phần Đường lối CM của ĐCSVN, đồng thời là tài liệu tham khảo có ý nghĩa vận dụng vào giảng dạy các học phần Lý luận chinh trị cũng như các môn học kinh tế ngành ở trường Đại học Thương mại. Tuy vậy, với thời gian nghiên cứu và kinh phí hạn hẹp nên tác giả không thể tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Bởi vậy, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các nhà khoa học, các nhà giáođể đề tài hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đinh Văn Ân, Lê Xuân Bá (đồng chủ biên, 2006), “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Nxb Khoa học kỹ thuật, H. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (trình độ đại học, cao đẳng dùng cho sinh viên khối không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), (2011), Nxb CTQG, Hà Nội. 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (dùng cho các khối ngành kinh tế - quản trị kinh doanh trong các trường đại học, cao đẳng), (2006), Nxb CTQG, Hà Nội. 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (trình độ đại học, cao đẳng dùng cho sinh viên khối không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), (2016), Nxb CTQG, Hà Nội. 5. Chu Văn Cấp (2011). “Tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường trong thời kỳ chiến lược mới 2011-2020”. Nxb CTQG, H. 6. Chính phủ, Báo cáo của về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013, kết quả 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015) và nhiệm vụ 2014-2015. 7. Nguyễn Đình Hương, Hoàng Văn Hoa, Mai Ngọc Cường...(2006), “Phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Nxb Lý luận chính trị, H. 8. Nguyễn Văn Dân (2001). Những vấn dề toàn cầu hóa kinh tế, Nxb. KHXH, HN. 9. Nguyễn Tấn Dũng. “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng”. ( 02/1/2012). 10. Nguyễn Tiến Dũng.“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Sự tiếp nối của công cuộc đổi mới”. (http:/www.tapchicongsan.org.vn. 18/4/2012). 11. .Phạm Việt Dũng. “Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở Việt Nam”. ( 12. Đảng cộng sản Việt Nam. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở). 2015. 13. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn phòng Trung ương Đảng (2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020. 14. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn phòng Trung ương Đảng (2011), Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn phòng Trung ương Đảng (2012): Toàn tậpVăn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X và XI, Nxb. CTQG, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn phòng Trung ương Đảng (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. 17. Trần Ngọc Hiên, Kinh tế thị trường định hướng XHCN với Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự ở nước ta. sinh-doi-voi-kinh-te-thi-truong-251641.html. 18. Doãn Đình Huề, Để phát triển bền vững nền KTTT định hướng XHCN ở VN. Tạp chí cộng sản số 22 (142), năm 2007. 19. Nhị Lê. “Kiên định phát triển mạnh mẽ và bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tạp chí Cộng sản, Số 12, năm 2012. 20. Liên hợp quốc (UNDP). Chương trình phát triển: Báo cáo phát triển thường niên 2013. 21. Đinh Xuân Lý, Nguyễn Viết Thông (2008), Một số chuyên đề về Đường lối cách mạng của ĐCS VN (Sách tham khảo phục vụ giảng dạy và học tập môn Đường lối cách mạng của ĐCS VN), Nxb LLCT, Hà nội. 22. Lê Hữu Nghĩa, Tiếp tục đổi mới tư duy trong hoàn thiện và đổi mới thể chế KTTT định hướng XHCN. Tạp chí Cộng sản, số 23 (143)/2007. 23. Vũ Văn Phúc. “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: nhận thức lý luận, thực tiễn và kiến nghị”. ( 24. Vũ Thanh Sơn (chủ biên, 2013). Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin. Tập II những vấn đề kinh tế trị chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb TT&TT. 25. Nguyễn Thị Tâm (2015), Đảm bảo An sinh xã hội gắn với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. LA TSKT. 26. Hà Huy Thành (chủ biên, 2006), Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội. 27. Nguyễn Xuân Thắng (2014). “Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam”. (Tập 1, 2); Nxb CTQG, H. 28. Mác, C. và Ăngghen, F. (1995), Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Toàn tập, Tập IV, Nxb CTQG, Hà Nội. 29. Grahane Thonpdion: Introduction, Sitmating Globalization, International Social Siences Journal, UNESCO, 1999, N.160, P.139-152. 30. Flie Cohen, Toàn cầu hóa, sự hấp dẫn và cơ chế điều tiết, Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp, Hội thảo khoa học “Những thách thức về phương diện pháp lý của quá trình toàn cầu hóa”, file://E:\NDVF\SITES/Viét\Sites\logo.htm 31. Paul Sammuelson và Wiliam D. Nordhans, Kinh tế học, tập 1. Nxb Thống kê, H.1989 32. Jaydish Bhagwati. Đối phó với nạn chống toàn cầu hóa, Foreign Sffairs, Vol 81, No.1, January/2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_van_dung_noi_dung_nghi_quyet_lan_thu_xii_cua_dang_ve.pdf
Tài liệu liên quan