Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng lao động trong các Doanh nghiệp nhỏ và vừa ( Doanh nghiệp vừa và nhỏ)

Lời mở đầu Bất kỳ một quốc gia nào, doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó, hiện nay doanh nghiệp nhỏ và vừa ( DNNVV ) Việt Nam chiếm khoảng trên 94% tổng số các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này đã và đang tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp Nhà nước,…. Những

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1116 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng lao động trong các Doanh nghiệp nhỏ và vừa ( Doanh nghiệp vừa và nhỏ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp này đã đóng góp một vai trò rất quan trọng trong việc khai thác các tiềm năng của đất nước, tạo việc làm, cung cấp sản phẩm hàng hoá và nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nguồn hàng xuất khẩu qua đó đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam. Vì vậy DNNVV đóng vai trò rất lớn vào sự phát triển của đất nước. Mặt khác quá trình phát triển của các DNNVV cũng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó lao động là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp hay là sự phát triển của doanh nghiệp. Trên thực tế hiện nay chất lượng lao động trong các DNNVV của Việt Nam vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực và thế giới, và thấp hơn so với chính lao động trong cả nước. Điều này đã làm giảm sức cạnh tranh, hạn chế không ít khả năng phát triển của DNNVV Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Những khía cạnh trên đây đủ cho thấy, việc nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV Việt Nam là hết sức cần thiết. Trong thời gian thực tập tại Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư. Tìm hiểu thực tế về chất lượng lao động trong các DNNVV Việt Nam, với việc nhận thức được tầm quan trọng của lao động trong các DNNVV, em đã chọn đề tài : “Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam đến năm 2010 “, làm luận văn tốt nghiệp. 1. Mục đích nghiên cứu. Luận văn tập trung phân tích, đánh giá chất lượng lao động trong các DNNVV Việt Nam trong thời gian qua và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV đến năm 2010. 2. Đối tượng nghiên cứu. Mục tiêu của luận văn là xem xét thực trạng chất lượng lao động trong các DNNVV của Việt Nam. Do đó, đối tượng nghiên cứu của luận văn sẽ là lao động trong các DNNVV chứ không phải là toàn bộ doanh nghiệp ở Việt Nam. DNNVV ở đây được xác định theo nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2003. 3. Phạm vi nghiên cứu. Có rất nhiều khía cạnh để phân tích về chất lượng lao động như : Trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, thể trạng, chỉ số phát triển con người ( HDI ),….nhưng luận văn chỉ tập trung vào việc phân tích khía cạnh về trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn của chủ doanh nghiệp và đội ngũ lao động trong các DNNVV Việt Nam, không bao gồm lao động chung của cả nước hay lao động trong các doanh nghiệp chung, doanh nghiệp không phải là DNNVV. 4. Phương pháp nghiên cứu. Để làm rõ được mục tiêu các nội dung của luận văn, trong bài viết có sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích định tính và định lượng, các phương pháp suy luận logic và dẫn giải trong quá trình phân tích. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu trình bày các nội dung mang tính chất lý luận và thực tiễn. Kết cấu của luận văn gồm 3 phần : Phần I : Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam. Phần II : Thực trạng chất lượng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam hiện nay. Phần III : Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV của Việt Nam đến năm 2010. Để hoàn thành đề tài này ngoài sự cố gắng của bản thân bằng những kiến thức đã được học trên trường, còn được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của thầy Ngô Thắng Lợi và chị Nguyễn Thị Lan tại cơ quan thực tập Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên trong thời gian có hạn và kiến thức, kinh nghiệm thực tế chưa hoàn thiện nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. PHẦN I : SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNGLAO ĐỘNG TRONG CÁC DNNVV Ở VIỆT NAM. I. Doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1. Định nghĩa. Trên thế giới mỗi quốc gia đều có những quy định loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa khác nhau dựa vào quy mô về số lượng lao động, số vốn đăng ký,…. Ở Việt Nam, sự hình thành quan niệm và cách phân loại DNNVV cũng rất khác nhau qua các thời kỳ phát triển của đất nước. Năm 1993, Việt Nam đã tiến hành phân loại doanh nghiệp Nhà nước theo 5 hạng : Hạng đặc biệt, hạng I, hạng II, hạng III và hạng IV. Việc xác định các hạng doanh nghiệp này dựa trên hai tiêu thức là độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua 8 chỉ tiêu là : vốn sản xuất kinh doanh, trình độ công nghệ, phạm vi hoạt động, số lượng lao động, mức độ đóng góp cho Chính phủ, lợi nhuận thực hiện, doanh thu và tỉ suất lợi nhuận trên vốn. Việc xếp hạng các doanh nghiệp như vậy chủ yếu chỉ là để sắp xếp tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp và trả lương cho cán DNNVV. Gần đây, có nhiều chương trình quốc gia và quốc tế hỗ trợ phát triển các DNNVV ở Việt Nam. Trước năm 1998 Chính phủ vẫn chưa hề có một văn bản pháp luật nào chính thức quy định tiêu chuẩn cụ thể của DNNVV ở Việt Nam. Do đó, mỗi một tổ chức đưa ra một quan niệm khác nhau về DNNVV nhằm định hướng mục tiêu và đối tượng hỗ trợ hoạt động của tổ chức mình. Đến tháng 6 năm 1998, Chính phủ đã ban hành một công văn để xác định tiêu thức cho một doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Theo công văn số 681/CP-KTN do Chính phủ Việt Nam ban hành ngày 20/06/1998, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành công nghiệp là các doanh nghiệp phải có số vốn điều lệ dưới 5 tỉ đồng ( tương đương 387.600 USD ) và số lao động trung bình hàng năm dưới 300 người. Trong thương mại dịch vụ là những doanh nghiệp có vốn sản xuất dưới 3 tỷ đồng và số lao động dưới 200 người. Trong đó, doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng và số lao động dưới 50 người trong công nghiệp và dưới 30 người trong thương mại dịch vụ là doanh nghiệp nhỏ. Tiêu chí này dựa trên hai căn cứ là tổng số vốn và số lao động, các tiêu thức về DNNVV trong công văn này đã trở thành một căn cứ pháp lý quan trọng đầu tiên để chính thức xác định đối tượng là DNNVV ở Việt Nam. Ngày 23 tháng 11 năm 2003 Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong Nghị định này, Chính Phủ đã đưa ra một định nghĩa chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa để các ban ngành, địa phương có căn cứ để xác định đối tượng được Chính Phủ trợ giúp phát triển. Theo định nghĩa này, doanh nghiệp nhỏ và vừa là các cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng ( tương đương 650.000 USD ) hoặc có số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo Nghị định này, đối tượng được xác định là doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm : - Các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước. - Các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã. Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 109/2004/NĐ-CP. Như vậy doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm : Hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp trong nước, kể cả khu vực Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể ; Không bao gồm doanh nghiệp nhỏ và vừa thành lập và hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài. Xác định DNNVV thường căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp chứ không thể căn cứ vào loại hình sở hữu. Tuy nhiên, tiêu chí về vốn không phân biệt các ngành nghề, trong khi đó yêu cầu vốn đầu tư của mỗi ngành nghề khác nhau là rất khác nhau. Thí dụ như ngành thương mại không đòi hỏi vốn cố định lớn, nhưng các ngành sản xuất lại yêu cầu có vốn cố định lớn. Đồng thời tiêu chí về số lao động để xác định DNNVV ở biên độ quá lớn, nếu chỉ dùng tiêu chí này để phục vụ công tác hoạch định chính sách thì tính khả thi của chính sách đề ra sẽ không cao. Nếu có thể, phân loại cụ thể hơn theo quy mô thành doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa thì từ đó có thể đưa ra các biện pháp hỗ trợ phù hợp hơn đối với từng loại quy mô. 2. Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa. Qua phân tích về DNNVV ở trên, chúng ta thấy các DNNVV là một loại hình doanh nghiệp không phân biệt theo hình thức sở hữu mà được phân biệt trên khía cạnh quy mô. Đa số các DNNVV là những doanh nghiệp có quy mô vốn hoạt động nhỏ, do đó doanh thu và lợi nhuận không lớn và hầu hết các DNNVV hoạt động trong những lĩnh vực, ngành sử dụng nhiều lao động. Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, các DNNVV có những đặc điểm riêng trong quá trình hình thành và phát triển. Các đặc tính chung của các DNNVV đã được nhiều học giả phân tích trong các công trình nghiên cứu khác nhau thông qua ưu thế và nhược điểm của loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh tế. Hầu hết các học giả nhất trí rằng loại hình DNNVV có các ưu thế và nhược điểm như sau : 2.1. Ưu thế của DNNVV. So với các loại hình doanh nghiệp khác đang tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế như các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty, công ty xuyên quốc gia thì DNNVV có những điểm mạnh như : Dễ khởi nghiệp : Các DNNVV đều dễ dàng có thể bắt đầu ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh và một số vốn không cần quá lớn cũng như về lao động. Loại hình doanh nghiệp này không đòi hỏi cần có số vốn đầu tư ban đầu lớn. Chính điều đó đã khuyến khích, thu hút được nguồn vốn đầu tư trong dân. DNNVV cũng là nơi bắt đầu của những tập đoàn kinh tế lớn mạnh trên thế giới, cũng như nhiều doanh nghiệp lớn, công ty đa quốc gia. Linh hoạt : Với đặc điểm là quy mô nhỏ, nên các DNNVV đều rất năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh của môi trường kinh tế - xã hội. Trong một số trường hợp các DNNVV còn năng động trong việc đón đầu những biến động bất ngờ của thể chế, chính sách quản lý kinh tế - xã hội, hay các dao động đột biến trên thị trường. Trên góc độ thương mại thì nhờ tính năng động này mà các DNNVV dễ dàng tìm kiếm được những thị trường ngách và ra nhập thị trường này khi thấy việc kinh doanh có thể thu nhiều lợi nhuận hoặc rút khỏi các thị trường này khi công việc kinh doanh trở nên khó khăn và kém hiệu quả hơn. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi hoặc các nền kinh tế đang phát triển. Lợi thế so sánh trong cạnh tranh : So với các doanh nghiệp lớn, thì DNNVV có lợi thế so sánh trong cạnh tranh đó là khả năng phát huy những nguồn lực đầu vào như lao động hay tài nguyên hoặc nguồn vốn tại chỗ khi khai thác và phát huy các ngành nghề truyền thống của từng địa phương. Rất nhiều DNNVV của Việt Nam và trên thế giới đã từng bước trưởng thành và lớn mạnh khi khai thác các nguồn lực sẵn có của địa phương. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhỏ còn có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp lớn trong việc theo sát nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng, qua đó sáng tạo ra nhiều loại hàng hoá và dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Theo đặc điểm này, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có lợi thế trong việc định hướng và làm xuất hiện nhiều nhu cầu mới từ phía người tiêu dùng. Nhờ sự phát triển của các DNNVV mà hiện nay đã có nhiều loại sản phẩm và dịch vụ mới ra đời đáp ứng được những sở thích của người tiêu dùng. Tạo ra việc làm mới cho người lao động : Để đánh giá các DNNVV trên giác độ kinh tế thì nó tạo ra các tác động ngoại lai rất mạnh cả về mặt tích cực cũng như tiêu cực. Với lợi thế của mình trong việc khai thác các nguồn lực sẵn có tại chỗ của địa phương đặc biệt là các ngành phải sử dụng nhiều lao động. Các DNNVV có tác động tích cực trong việc tạo ra việc làm cũng như nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân cư tại địa phương hoặc duy trì và bảo vệ các phong tục truyền thống, những nét văn hoá đặc sắc của dân tộc. Bên cạnh đó, việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn có các lợi ích như giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giảm sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, qua đó cũng góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội và giúp chính phủ giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội khác. 2.2. Điểm yếu của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh những thế mạnh của mình thì các DNNVV còn tồn tại những điểm yếu nhất định : Nguồn lực nhỏ : Đặc điểm này trở thành hạn chế đối với các DNNVV trong việc tiến hành các công trình lớn, hoặc các dự án đầu tư đòi hỏi phải có vốn lớn, các dự án đầu tư công cộng. Không có các lợi thế kinh tế theo qui mô : Trong một số nước nhất định thì loại hình doanh nghiệp này thường yếu thế trong các mối quan hệ với ngân hàng, với chính phủ và giới báo chí cũng như chưa được sự ủng hộ của công chúng. Nhiều DNNVV bị phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp lớn trong quá trình phát triển. Dễ khởi nghiệp nhưng cũng phải chịu nhiều rủi ro trong kinh doanh : Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy càng nhiều DNNVV ra đời thì cũng có càng nhiều DNNVV phá sản. Có những doanh nghiệp bị phá sản sau một thời gian hoạt động rất ngắn. Theo kết quả nghiên cứu thực nghiệm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tỷ lệ phá sản và thất bại cao trong năm thứ 4. Gây các ảnh hưởng ngoại lai tiêu cực trong nền kinh tế : Do ít vốn, hầu hết các doanh nghiệp này không quan tâm đầy đủ đến việc bảo vệ môi trường hoặc khi nhiều doanh nghiệp bị phá sản do hoạt động không hiệu quả thì gây ra sự thiếu tin tưởng của dân chúng đối với loại hình doanh nghiệp này, gây khó khăn cho người tiêu dùng khi chọn lựa các sản phẩm tiêu dùng cũng như khi chọn lựa các nhà cung cấp dịch vụ. Điều này đã làm giảm uy tín của loại hình DNNVV đối với công chúng và người lao động. 3. Vai trò của các DNNVV trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Ở các nước phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Đài Loan…., Chính phủ các nước này cũng xác định vai trò quan trọng, lâu dài của các DNNVV, là bộ phận cấu thành không thể thiếu được của nền kinh tế, có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời nhau với các tập đoàn kinh tế, đặc biệt trong công nghiệp bổ trợ và mạng lưới phân phối sản phẩm. Vai trò của các DNNVV ở nhiều nước được biết đến như là các cơ sở sản xuất – kinh doanh có khả năng : Tạo ra nhiều việc làm mới với chi phí thấp ; cung cấp cho xã hội khối lượng hàng hoá dịch vụ đáng kể và làm tăng GDP cho nền kinh tế của đất nước ; Tăng cường kỹ năng quản lý và đổi mới công nghệ ; góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập trong xã hội, xoá đói giảm nghèo và tăng sự công bằng trong nền kinh tế ; Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn ; cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Mức độ đóng góp vào sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia của các DNNVV được thể hiện ở mức độ thu hút lao động, vốn đầu tư, tạo ra giá trị gia tăng, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, các DNNVV ở Việt Nam thể hiện vai trò của mình trên các lĩnh vực sau : 3.1. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Cũng như tất cả các DNNVV ở các nước trên thế giới, DNNVV Việt Nam đã cung cấp ra thị trường nhiều loại hàng hoá khác nhau, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước như trang thiết bị và linh kiện cần thiết cho các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp cũng như các hàng hoá tiêu dùng khác. Theo số liệu thống kê, trong những năm qua DNNVV đã đóng góp khoảng trên 27% vào tổng sản phẩm quốc nội của cả nước. Ngoài ra, DNNVV Việt Nam còn cung cấp 100% sản phẩm trong nhiều ngành đặc biệt là các ngành công nghiệp truyền thống và thu hút nhiều lao động như chiếu cói, giầy dép. Sự mở rộng và phát triển các DNNVV sẽ góp phần không nhỏ trong việc làm tăng tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ) của cả nền kinh tế qua các năm. 3.2. Tạo việc làm cho người lao động. Đặc điểm của các DNNVV là ít vốn và hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động. Theo thống kê thì hiện nay, các DNNVV Việt Nam đang thu hút 50% lực lượng lao động trong khu vực phi nông nghiệp. Cũng tương tự, DNNVV ở tất cả các nước có thể tạo ra những chỗ làm việc mới cho người lao động với số lượng tương đối lớn. Tại nhiều nước trên thế giới, kể cả những nước phát triển, DNNVV là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất. Khi các DNNVV phát triển thì sẽ tạo ra nhiều cơ hội tăng thêm việc làm, thu hút nhiều lao động và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế qua đó góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, mang lại lợi ích cho cộng đồng dân cư kể cả người thất nghiệp, phụ nữ và những người tàn tật. Với tính chất sản xuất nhỏ, chi phí để tạo ra một chỗ làm việc thấp, các DNNVV Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra và tăng thêm việc làm cho nền kinh tế, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp và ổn định xã hội bằng cách thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và chủ yếu là bằng vốn của dân. 3.3. Tận dụng được nguồn lực sẵn có trong xã hội. Vốn là một nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, vốn có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của từng nước cũng như đối với từng doanh nghiệp. Vốn là yếu tố cơ bản để khai thác và phối hợp các yếu tố sản xuất khác như lao động, đất đai, công nghệ và quản lý để tạo ra lợi nhuận cho các chủ doanh nghiệp. Vốn có vai trò to lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân cũng như trình độ quản lý cho chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, một nghịch lý hiện nay là trong khi có nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn kinh doanh trầm trọng thì vốn nhàn rỗi trong dân còn nhiều nhưng không huy động được. Khi mà chính sách tài chính tín dụng của Chính phủ và các ngân hàng chưa thực sự gây được niềm tin đối với những người có vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư thì nhiều DNNVV đã là người tiếp xúc trực tiếp với người dân và huy động được vốn để kinh doanh, hoặc bản thân chính người có tiền đứng ra đầu tư kinh doanh, thành lập doanh nghiệp. Dưới khía cạnh đó, DNNVV có vai trò rất lớn trong việc huy động vốn để phát triển kinh tế. Hơn thế, do đặc điểm của DNNVV rất linh hoạt, nó có thể phát triển nhiều ngành nghề mà có nguồn nguyên liệu sẵn có tại chỗ, phù hợp với điều kiện của từng địa phương trên địa bàn doanh nghiệp hoạt động. 3.4. Hỗ trợ các loại hình kinh tế khác. Trong quá trình kinh doanh, nhiều DNNVV có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh một cách có hiệu quả hơn như làm đại lý vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, cung cấp những bán thành phẩm hay nguyên liệu đầu vào cho doanh nghiệp lớn hoặc thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn không với tới để phân phối các sản phẩm của doanh nghiệp lớn. Bên cạnh đó, khi số DNNVV tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên nhanh chóng số lượng các sản phẩm và dịch vụ mới trong nền kinh tế. Nhờ hoạt động với quy mô nhỏ và vừa, các DNNVV có ưu thế là chuyển hướng kinh doanh nhanh từ những ngành nghề kém hiệu quả sang các ngành khác hiệu quả hơn, thoả mãn nhu cầu rất linh hoạt của dân cư. Chính sự phát triển đó của các DNNVV đã làm tăng tính cạnh tranh, tính linh hoạt và giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế. 3.5. Nâng cao thu nhập cho người dân. Việt Nam là một nước nông nghiệp, năng suất của nền sản xuất xã hội cũng như thu nhập của dân cư thấp. Thu nhập của người dân ở nông thôn chủ yếu là dựa vào nền nông nghiệp thuần nông. Việc phát triển các DNNVV ở thành thị cũng như ở nông thôn là một trong các biện pháp cơ bản góp phần tăng nhanh thu nhập của các tầng lớp dân cư. Thông qua việc phát triển các DNNVV, lao động ở nông thôn sẽ được thu hút vào các doanh nghiệp nhờ đó mà thu nhập của dân cư được đa dạng hoá và được nâng cao lên. Cuộc sống của người dân nông thôn sẽ ổn định hơn và mức sống của người dân sẽ được nâng cao góp phần xoá đói giảm nghèo, giảm khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và tăng mức độ công bằng trong nền kinh tế. Hơn nữa, do có tính năng động và linh hoạt, khi các DNNVV phát triển sẽ tạo điều kiện phát huy lợi thế của mỗi vùng, phát triển các ngành và các khu công nghiệp tạo điều kiện giảm bớt khoảng cách giữa các vùng trên toàn quốc, xoá bỏ mức chênh lệch về thu nhập rất lớn giữa các vùng dân cư. 3.6. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nói đến cơ cấu kinh tế người ta thường nói đến cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế. Việc phát triển các DNNVV sẽ dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tất cả các khía cạnh. Trước tiên đó là sự thay đổi cơ cấu kinh tế vùng nhờ sự phát triển của các khu vực nông thôn thông qua việc phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xoá dần tình trạng thuần nông và độc canh. Các DNNVV được phân bổ đều hơn về lãnh thổ ở cả vùng nông thôn, đô thị, miền núi, đồng bằng. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh các DNNVV còn có tác dụng làm cho cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi nhờ sự tăng mạnh của các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh và sự sắp xếp lại các Doanh nghiệp Nhà nước. Sự phát triển các DNNVV cũng kéo theo sự thay đổi của cơ cấu ngành kinh tế thông qua sự đa dạng hoá các ngành nghề và lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Việc phát triển các DNNVV còn có tác dụng thúc đẩy và duy trì sự phát triển của các ngành nghề truyền thống và sản xuất ra các sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc, khai thác thế mạnh của đất nước. 3.7. Tăng cường các mối quan hệ kinh tế. Văn hoá kinh doanh của Việt Nam dựa nhiều vào các mối quan hệ. Trong suốt một thời kỳ dài yếu tố thành công cơ bản của các doanh nghiệp Việt Nam là dựa vào việc khai thác các mối quan hệ. Sự phát triển các DNNVV ở Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Các DNNVV hình thành và phát triển trong những ngành nghề khác nhau luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối liên kết với các doanh nghiệp lớn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ khi mới ra đời chỉ có mục đích là làm vệ tinh cung cấp các sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn. Mối quan hệ giữa DNNVV và các doanh nghiệp lớn cũng chính là nguyên nhân thành công của nền kinh tế Nhật trong nhiều thập kỷ qua. Do đó, khi các DNNVV Việt Nam phát triển sẽ góp phần tăng cường các mối quan hệ liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các DNNVV và giữa DNNVV với các doanh nghiệp lớn. Nhờ đó mà các rủi ro trong kinh doanh sẽ được chia sẻ và góp phần tăng hiệu quả kinh tế xã hội chung. 3.8. Là “ lồng ấp “ cho những doanh nghiệp lớn. Kinh nghiệm phát triển ở nhiều nước đã cho thấy rằng hiện nay, phần lớn các công ty và các tập đoàn kinh tế đa quốc gia đều trưởng thành nên từ các DNNVV. Với cái nhìn như vậy người ta cho rằng DNNVV chính là nơi sản sinh ra những doanh nghiệp lớn. Hầu hết các cơ sở dân doanh Việt Nam khi mới ra đời do thiếu kinh nghiệm và chưa thật hiểu biết về thị trường nên họ thường lựa chọn một quy mô kinh doanh vừa và nhỏ để bắt đầu sự nghiệp kinh doanh của mình. Sau một thời gian tích luỹ thêm vốn, kinh nghiệm cũng như khẳng định được vị thế của mình trên thị trường, họ mới tiến hành mở rộng kinh doanh và phát triển doanh nghiệp của mình với quy mô lớn hơn. Ngoài ra, các DNNVV hiện nay còn là nơi đào tạo nghề và trau dồi kinh nghiệm cho các cán bộ quản lý của các doanh nghiệp lớn. Vì bản thân người lao động có xu hướng chỉ làm trong các DNNVV một thời gian, sau khi có đủ kinh nghiệm và khả năng thì họ sẽ chuyển sang các doanh nghiệp lớn để làm việc, hưởng thu nhập cao hơn. Nhờ thế, doanh nghiệp lớn tiết kiệm được nhiều chi phí đào tạo khi tuyển được nhân viên đã có tay nghề từ các DNNVV chuyển sang. Dưới góc độ như vậy chúng ta cũng có thể coi DNNVV là nơi xuất phát cho các doanh nghiệp lớn không chỉ ở sự trưởng thành của quy mô thị trường, của quy mô vốn khi mở rộng kinh doanh mà còn là nơi đào tạo lao động cho các doanh nghiệp lớn. II. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam. 1. Một số vấn đề chung về lực lượng lao động. 1.1. Khái niệm lực lượng lao động. Lực lượng lao động cũng được định nghĩa khác nhau giữa các quốc gia : Theo quan niệm của Tổ chức lao động quốc tế ( ILO ) : Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. Khái niệm về lực lượng lao động được sử dụng trong cuộc điều tra lao động việc làm hàng năm ở Việt Nam từ năm 1996 đến nay là : Theo quan điểm ở Việt Nam : Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động ( nam từ 15 tuổi đến 60 tuổi, nữ từ 15 tuổi đến 55 tuổi ) đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc. Khái niệm này về cơ bản thống nhất với quan điểm của ILO và quy định hiện hành của Tổng cục thống kê về lực lượng lao động ( lực lượng lao động đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế ). Nó được sử dụng làm căn cứ khi tính toán thống kê lực lượng lao động ở Việt Nam hiện nay. 1.2. Hai mặt của lực lượng lao động. Lao động được xem xét trên hai khía cạnh đó là số lượng và chất lượng. 1.2.1. Số lượng. Lực lượng lao động phụ thuộc vào quy mô dân số, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động hay là nguồn lao động. Theo giáo trình kinh tế lao động của trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội : Nguồn lao động là toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động trừ đi những người trong độ tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động. Nguồn lao động là phạm trù phản ánh lực lượng quan trọng nhất của nền sản xuất xã hội. Theo từ điển thống kê : Nguồn lao động xã hội là toàn thể những thành viên trong xã hội có khả năng tham gia lao động, bao gồm : những người theo quy định của Nhà nước ở trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và những người theo quy định của Nhà nước ở ngoài độ tuổi quy định nhưng thực tế tham gia lao động. Nguồn lao động chiụ ảnh hưởng bởi quy mô dân số và nó cũng bị ảnh hưởng bởi tốc độ tăng dân số tự nhiên cùng với sự di dân. Số lượng nguồn lao động được đo lường thông qua chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng. Các chỉ tiêu này có liên quan mật thiết với quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô và tốc độ tăng dân số càng lớn thì quy mô và tốc độ tăng nguồn lao động càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên sự tác động đó phải sau một khoảng thời gian nhất định mới thể hiện rõ ( vì con người phải phát triển đến một mức độ nhất định mới trở thành người có sức lao động, có khả năng lao động ). Lực lượng lao động tuy là một bộ phận của nguồn lao động nhưng không đồng nhất với nguồn lao động. Lực lượng lao động không bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không tham gia hoạt động kinh tế như : những người đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình hoặc chưa có nhu cầu việc làm. Do vậy, để có thể tính toán thống kê quy mô lực lượng lao động ở một thời điểm nào đó cần xác định rõ khái niệm việc làm, người có việc làm và người thất nghiệp. 1.2.2. Khía cạnh chất lượng. Chất lượng nguồn nhân lực có vai trò to lớn đối với công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Đồng thời nó cũng là nhân tố tác động tới quá trình phát triển của các DNNVV. Chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá theo những nhóm chỉ tiêu chủ yếu như : Trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghề nghiệp, sức khoẻ, các yếu tố về tâm lý,….. Như vậy, chất lượng lao động thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của người lao động. Chất lượng lao động là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế và đời sống người dân trong một xã hội nhất định. Chất lượng lao động thể hiện thông qua một số các tiêu chí chủ yếu sau : 1.2.2.1. Trình độ văn hoá của lực lượng lao động. Đây chính là tri thức của nhân loại mà người lao động tiếp thu được theo những cấp độ khác nhau. Về thực chất, trình độ văn hoá của người lao động đạt được thông qua nhiều hình thức : học tập tại trường lớp, tự học hỏi kinh nghiệm từ thực tiễn,…. Nhưng phần lớn là được đào tạo qua trường lớp. Vì thế, xã hội xác định trình độ văn hoá của con người thông qua hoạt động phổ thông, nhưng cũng có rất nhiều trường hợp không có điều kiện người lao động không có điều kiện học tập tại trường lớp và thi để nhận bằng hoặc chứng chỉ thì họ vẫn bị đánh giá là trình độ văn hoá thấp. Trong chừng mực nhất định, trình độ văn hoá dân cư biểu hiện mặt bằng dân trí của một quốc gia. Trình độ văn hoá của lao động được lượng hoá qua các quan hệ tỷ lệ : Số lượng và tỷ lệ biết chữ ; số lượng và tỷ lệ người qua các cấp học như tiểu học ( cấp I ), phổ thông cơ sở ( cấp II ), trung học phổ thông ( cấp III ). Trình độ văn hoá là chỉ tiêu đánh giá rất quan trọng về chất lượng của lực lượng lao động của mỗi quốc gia trên thế giới. Nó có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hoá cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. Đồng thời, văn hoá là cơ sở để phát triển đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật, nếu không tăng nhanh số người tốt nghiệp trung học phổ thông và trung học cơ sở, đặc biệt là trung học phổ thông thì nguồn đầu vào cho đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật trình độ cao sẽ rất khan hiếm, ảnh hưởng đến phát triển lực lượng lao động chuyên môn kỹ thuật và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực sẽ rất thấp. 1.2.2.2.Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động. Là những kiến thức về chuyên môn, nghề nghiệp của người lao động theo những cấp độ khác nhau. Thể hiện trạng thái hiểu biết, khả năng thực hành về một chuyên môn nghề nghiệp nào đó được biểu hiện thông qua chỉ tiêu : - Số lao động được đào tạo từ công nhân kỹ thuật, sơ cấp trở lên trong lực lượng lao động và chưa qua đào tạo. - Cơ cấu lao động được đào tạo như : Cấp đào tạo ( sơ cấp, trung cấp, cao cấp ), công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn, trình độ đào tạo ( cơ cấu bậc thợ, cơ cấu ngành nghề,… ). Tương quan sử dụng lao động các cấp trình độ ( sơ cấp, công nhân kỹ thuật, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng đại học, … ) trong nền kinh tế. Chỉ tiêu trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh chất lượng lao động, thông qua chỉ tiêu này cho thấy năng lực sản xuất của con người trong ngành, trong quốc gia, một vùng lãnh thổ, khả năng sử dụng khoa học hiện đại vào sản xuất. 1.2.2.3. Chỉ số phát triển con người ( HDI ). Chỉ số này được tính theo 3 chỉ tiêu : Tuổi thọ bình quân. Thu nhập bình quân GDP/người. Trình độ học vấn ( tỷ lệ biết chữ và số năm đi học trung bình của dân cư ). Chỉ số HDI là chỉ tiêu đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế có tính đến chất lượng cuộc sống và công bằng, tiến bộ xã hội. 1.2.2.4. Thể lực của người lao động. Thể hiện qua sức khoẻ, cơ cấu độ tuổi, đây chỉ là chỉ tiêu phản ánh chất lượng lao động về mặt chất của thể lực, sức lực của người lao động. Nguồn lao độ._.ng có chất lượng cao không chỉ biểu hiện ở trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, mà còn thể hiện ở chất lượng của thể lực người lao động. Rõ ràng, một người lao động có trí lực, nhưng không có thể lực để sử dụng trí lực của mình vào sản xuất thì trí lực đó cũng chỉ là tiềm năng mà thôi. Như vậy, chất lượng của lực lượng lao động được xem xét ở rất nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng đề tài chỉ tập trung đi sâu vào phân tích một số vấn đề chủ yếu như : Trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn. Chứ không phân tích quá chi tiết tất cả những tiêu chí phản ánh tới chất lượng của lực lượng lao động. Mặt khác, phạm vi nghiên cứu của luận văn không phải là toàn bộ lực lượng lao động của cả nước hay của toàn bộ lao động trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, mà cũng chỉ phân tích thực trạng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam hiện nay. 1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng lao động. Chất lượng lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố và các điều kiện cấu thành chất lượng nguồn nhân lực như : giáo dục-đào tạo, trình độ chuyên môn, thể lực, điều kiện sinh hoạt của người lao động. 1.3.1. Giáo dục – đào tạo. Là việc cung cấp những kiến thức, tri thức cho người học trên nhà trường với những kiến thức cơ bản nhất. Với một quốc gia có nền giáo dục phát triển thì dân trí của họ cao và nhận thức của họ rất nhanh, có thể tiếp cận được với khoa học công nghệ ngày càng phát triển trên thế giới. Ngược lại khi nền giáo dục chưa được chú trọng phát triển, nó sẽ ảnh hưởng lớn tới chất lượng lao động của quốc gia đó kéo theo làm giảm đi tốc độ, chất lượng phát triển kinh tế - xã hội. Đào tạo lao động có thể về trình độ chuyên môn kỹ thuật, những kiến thức về quản trị. Có những lao động phải đào tạo lại vì để họ thích ứng được với công việc hiện tại hoặc đào tạo mới cho lao động, cũng có thể đào tạo để nâng cao năng lực của lao động. Sự nghiệp giáo dục đào tạo có ý nghĩa đối với không chỉ nâng cao dân trí mà còn là cơ sở, nền tảng của sự phát triển bền vững trong thời đại ngày nay. Chất lượng lao động ở mỗi quốc gia có trình độ không giống nhau do hệ thống giáo dục – đào tạo khác nhau, những nước phát triển có đội ngũ lao động có trình độ cao hơn so với các nước đang phát triển. 1.3.2. Yêu cầu của sự phát triển kinh tế. Quá trình toàn cầu hoá phát triển, các thị trường được mở rộng, tự do hoá thương mại và đầu tư nước ngoài tạo ra sức ép cạnh tranh ngày càng cao đối với mỗi nền kinh tế, doanh nghiệp. Tính cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp có tác động kích thích phát triển lực lượng lao động. Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá đang đặt ra cho lao động của các nước không những nâng cao khả năng cạnh tranh về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề mà còn các phẩm chất khác nữa như : ngoại ngữ, tác phong và văn hoá ứng xử công nghiệp hiện đại, tinh thần chấp hành kỷ luật lao động và kỷ luật công nghệ, hiểu biết pháp luật,…. Ngoài ra, đặc điểm của nền sản xuất – kinh doanh hiện đại, kinh tế thị trường với cạnh tranh cao đòi hỏi người lao động của nước ta phải có phẩm chất mới như : thích ứng, linh hoạt, các khả năng hợp tác trong quát trình hoạt động, sức khoẻ dẻo dai,…. Sự phát triển bùng nổ về khoa học công nghệ cũng tác động mạnh đến trình độ lao động của các nước. Đồng thời khi nền sản xuất với quy mô lớn thì cần phải sử dụng nhiều đến công nghệ, vì con người không thể tự làm được quá nhiều công đoạn trong dây truyền sản xuất. Chính vì vậy, cần phải có đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao, đó là đòi hỏi kỹ năng hiểu biết và sử dụng thành thạo công nghệ dây truyền hiện đại. 1.3.3. Mức sống của dân cư. Theo quy định của liên hợp quốc, mức calo tối thiểu cho nhu cầu phát triển bình thường của mỗi người phải đạt 2100 calo/ngày. Nếu như người lao động không được nhận phần năng lượng tối thiểu đó thì không thể duy trì được cường độ làm việc và học tập liên tục ở mức cao. Điều đó nó sẽ ảnh hưởng tới năng suất lao động của người lao động. Ngoài ra vấn đề dinh dưỡng đối với những trẻ em dưới 5 tuổi cũng ảnh hưởng tới chất lượng lao động sau này của đất nước. Với quốc gia có tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng cao thì chất lượng lao động của nước đó cũng không cao. Vì vậy vấn đề chăm sóc cho những trẻ em là việc cần làm của mỗi quốc gia. Thu nhập và điều kiện sinh hoạt hàng ngày cũng ảnh hưởng không nhỏ đối với thể trạng của con người. Điều kiện sinh hoạt của người lao động phụ thuộc vào mức thu nhập hàng tháng mà họ nhận được, khi có thu nhập cao thì mức sinh hoạt cao hơn là khi thu nhập thấp. Đồng thời điều kiện sinh hoạt của người lao động tại nơi làm việc sẽ tác động tới trạng thái tinh thần của người lao động. Có thể nói, nếu con người không tái tạo lại được sức lao động thì làm việc sẽ không có hiệu quả, năng suất lao động sẽ giảm làm ảnh hưởng lớn tới quá trình sản xuất. Thể trạng của con người là khả năng ban đầu vật chát để có thể nâng cao chất lượng lao động. Với một đất nước có nguồn nhân lực có chất lượng cao thì sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đó sẽ ổn định và bền vững về lâu dài. 1.3.4. Chính sách của Chính phủ về nâng cao chất lượng lao động. Môi trường chính trị và luật pháp tác động đến quá trình phát triển lực lượng lao động, thông qua việc Chính phủ ban hành các cơ chế chính sách về đào tạo lực lượng lao động của quốc gia. Nó có tác dụng khuyến khích việc đào tạo lao động trong xã hội. Đồng thời, chính sách của Chính phủ về vấn đề sử dụng lao động cũng là một động lực giúp lao động cải thiện được trình độ của mình. Như trường hợp Chính phủ khuyến khích sử dụng những lao động đã qua đào tạo, hay những lao động đã qua trường lớp,….Hơn thế nữa điều kiện đãi ngộ với đối với những lao động có trình độ cao của Chính phủ. Điều này cũng đòi hỏi về người lao động cần có sự cố gắng cải thiện trình độ của mình để nhận được những ưu đãi từ Chính phủ. Có thể nói, những chính sách của Chính phủ có tác động rất lớn trong vấn đề nâng cao chất lượng lao động. Một khi, chính sách phù hợp với yêu cầu của xã hội thì nó có ảnh hưởng tích cực đến việc nâng cao trình độ của những lao động trong xã hội đang và sẽ hoạt động trong nền kinh tế. 2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, yếu tố con người đóng vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia đều có những chiến lược riêng về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình kể cả những nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật,…. Hay những quốc gia đang phát triển. Việt Nam là một trong những nước kém phát triển trên thế giới, vì vậy việc đặt vấn đề nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV là điều cần thiết. Xuất phát từ các luận cứ sau đây : 2.1. Chiến lược về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam đến năm 2010. Mong muốn sở hữu đội ngũ những lao động có trình độ cao là chiến lược phát triển nguồn nhân lực của các quốc gia trên thế giới. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển, họ vẫn cần phải có những kế hoạch đào tạo lực lượng lao động để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Biết được tầm quan trọng của nguồn nhân lực, Việt Nam đã có chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong đó có mục tiêu là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của cả nước trong thời gian tới. Căn cứ vào thực trạng chất lượng nguồn nhân lực của nước ta hiện nay, với tỷ lệ lao động qua đào tạo và lao động có trình độ kỹ thuật cao là rất thấp. Chính vì vậy, cần phải có chiến lược nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của cả nước để đáp ứng được với tiến trình phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới và toàn cầu hoá hiện nay. Nếu không có đội ngũ lao động có trình độ kỹ thuật cao thì chắc chắn ta sẽ tụt hậu rất xa so với các nước phát triển. Điều này đã chỉ ra rằng, Việt Nam cần có những chiến lược lâu dài về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đưa đất nước có thể sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Nhưng trong thời gian tới với mục tiêu đến năm 2010 : Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người ( HDI ) của nước ta. Tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn khoảng 1,1%. Xoá hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo. Giải quyết việc làm ở cả thành thị và nông thôn ; nâng tỷ lệ người lao động được qua đào tạo nghề lên khoảng 40%. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường ; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Như vậy, mục tiêu đến năm 2010 thì tỷ lệ lao động qua đào tạo của đất nước tăng lên 40% so với toàn bộ lực lượng lao động. Đồng thời cũng cần nâng cao chất lượng đào tạo lao động các ngành nghề công nghệ cao, ngành dịch vụ chất lượng và trình độ cao để thúc đẩy phát triển hướng vào nền kinh tế tri thức ; nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động nước ta trên phương diện thể lực, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, kỷ luật công nghệ, khả năng thích ứng và các phẩm chất khác của lao động quốc tế thông qua môi trường giáo dục huấn luyện, đào tạo và tạo ra các quy trình, tiêu chuẩn hoạt động tại cơ sở ; Hoàn thiện các chính sách có liên quan đến thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực đảm bảo tham gia hiệu quả vào quá trình toàn cầu hoá. Trong đó đặc biệt là các chính sách như : khuyến khích người lao động tham gia vào đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Vì các DNNVV là một bộ phận cấu thành lên nền kinh tế, do đó kế hoạch, chiến lược phát triển các DNNVV cần phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của các DNNVV hiện tại là chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường, sức cạnh tranh còn quá nhỏ. Một trong những mục tiêu lớn của kế hoạch phát triển các DNNVV đến năm 2010 là tăng trưởng số doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì là một bộ phận của nền kinh tế, nên kế hoạch nâng cao chất lượng lao động của các DNNVV cũng nằm trong kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam đến năm 2010. 2.2. Những yêu cầu mới đặt ra cho các DNNVV ở Việt Nam trong thời gian tới. 2.2.1. Yêu cầu về sản phẩm. Khi xã hội ngày càng phát triển cao, nhu cầu của thị trường và người tiêu dùng cũng tăng theo. Sản phẩm sản xuất ra đòi hỏi phải đảm bảo về chất lượng và cả về hình thức mẫu mã sao cho phù hợp với những mong muốn, sở thích của người tiêu dùng. Thực tế hiện nay thì các DNNVV của Việt Nam phần lớn chưa đáp ứng được điều đó. Để đảm bảo được thành công trên thị trường trong nước cũng như thị trường ngoài thì các sản phẩm phải đảm bảo được những yêu cầu kỹ thuật. Từ trước đến nay sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào sản phẩm, nó là yếu tố tiên quyết tạo nên thành công của doanh nghiệp, vì sản phẩm là “ linh hồn “ của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm lại phụ thuộc vào công nghệ dây truyền mà doanh nghiệp sử dụng, một yếu tố quan trọng nữa tạo nên chất lượng sản phẩm là lao động, chính họ là những người sử dụng công nghệ và những nguyên liệu để tạo ra sản phẩm. Nếu như sản phẩm của doanh nghiệp không đảm bảo được những tiêu chí, mong muốn của thị trường thì sớm hay muộn cũng sẽ tự bị đào thải, thất bại là điều không thể tránh khỏi. Các DNNVV cần chọn những sản phẩm có thế mạnh, không ngừng cải tiến sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng và nâng cao của xã hội. Khai thác có hiệu quả lợi thế của quốc gia trong lựa chọn sản phẩm kinh doanh. Doanh nghiệp cần quan tâm đến chiến lược thích ứng hoá sản phẩm nhằm thoả mãn đến mức cao nhất nhu cầu thị trường. Sản phẩm phải đảm bảo thích nghi và đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã và bao gói. Doanh nghiệp cần quán triệt sâu sắc việc coi trọng chiến lược sản phẩm gắn với việc đổi mới sản phẩm, gắn với chiến lược nhãn hiệu và các chiến lược dịch vụ gắn với sản phẩm. Làm được điều này yếu tố con người rất quan trọng trong việc đề ra những chiến lược về sản phẩm cho doanh nghiệp mình. 2.2.2. Yêu cầu mở rộng thị trường. Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế như hiện nay các doanh nghiệp muốn nâng cao năng lực của mình thì cần có những sản phẩm chất lượng không những phải cao mà mẫu mã, hình thức phải đẹp thì mới có hy vọng hội nhập và thành công được. Trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, để hàng hoá của mình có thể có chỗ đứng trên thị trường trong và ngoài nước, với những đòi hỏi khắt khe của thị trường về sản phẩm như hiện nay thì các DNNVV của Việt Nam cần có chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, để có thương hiệu riêng khi đó mới có chỗ đứng trên thị trường trong nước và quốc tế. Trong thời kỳ trước, hiện nay và cả trong tương lai, yếu tố rất quan trọng để tạo nên sản phẩm đáp ứng được với nhu cầu thị trường đó là con người hay lực lượng lao động. Nhận thực được điều này các DNNVV của Việt Nam phải có những giải pháp nâng cao chất lượng lao động trong doanh nghiệp của mình vì đó là thế mạnh của mỗi doanh nghiệp khi sở hữu được đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao. Hơn thế nữa công nghệ không phải là thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam, đa số các doanh nghiệp nói chung và các DNNVV nói riêng rất ít doanh nghiệp có điều kiện thay đổi công nghệ sản xuất mới vì vốn đầu tư quá lớn. Trong điều kiện như vậycác DNNVV cần phải chú trọng vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao động của mình thì mới có hy vọng thúc đẩy phát triển và nâng cao năng lực của chính mình được. 2.2.3. Yêu cầu đổi mới công nghệ. Phần lớn các DNNVV nước ta đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới 2 đến 3 thế hệ. 80%-90% công nghệ nước ta đang sử dụng là công nghệ ngoại nhập. Rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa đang sử dụng máy móc thiết bị do các doanh nghiệp nước ngoài đã thải bỏ. Với hiện trạng công nghệ như hiện nay của các DNNVV Việt Nam đã dẫn tới tình trạng định mức tiêu hao về chi phí nguyên vật liệu lớn và phát sinh thêm nhiều chi phí cho sửa chữa, bảo dưỡng. Do đó, trong thời gian tới các DNNVV cần đẩy mạnh đầu tư và thay thế một số loại thiết bị, máy móc sản xuất đã quá lạc hậu, cho năng suất thấp và tiêu hao nhiều năng lượng. Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp đã có những đổi mới, nhiều máy móc thiết bị và công nghệ mới được chuyển giao từ các nước công nghiệp phát triển. Các DNNVV đã có những chiến lược, kế hoạch đổi mới công nghệ để có thể tăng năng suất lao động, cải tiến được chất lượng sản phẩm. Song khi doanh nghiệp đã sở hữu một công nghệ dây truyền rồi mà không sử dụng hiệu quả thì đó là lãng phí rất lớn. Điều này lại đặt ra cho các doanh nghiệp phải có đội ngũ lao động có trình độ và sử dụng thành thạo với những công nghệ mới. Để có được những lao động như vậy mỗi doanh nghiệp cần phải đào tạo, đào tạo lại,…. Làm sao có được những lao động đáp ứng được với môi trường công nghệ mới. 2.2.4. Yêu cầu về giá thành, chi phí sản xuất. Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam chủ yếu phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất. Ngay cả các sản phẩm xuất khẩu và các sản phẩm có sự tăng trưởng cao trong nhiều năm qua như : Hàng dệt may, da giày, chế biến thực phẩm và đồ uống,…. Cũng phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu. Nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng chi phí cho nguyên vật liệu chiếm trên 60% giá thành sản phẩm như : giấy in, giấy viết, lốp các loại xe,…. Việc nhập khẩu với số lượng lớn nguyên vật liệu cũng sẽ gây tác động trực tiếp tới tính chủ động của các DNNVV Việt Nam trong việc lập kế hoạch kinh doanh và giá thành do phụ thuộc vào biến động giá cả nguyên vật liệu nhập khẩu. Ngoài ra, việc nhập khẩu các nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong nước cũng sẽ làm phát sinh thêm nhiều khoản chi phí khác như : chi phí vận chuyển, chi phí các thủ tục hải quan, chi phí bảo hiểm ,…… Chi phí dịch vụ hạ tầng phục vụ sản xuất như : điện, viễn thông, vận tải,…. Cũng làm cho giá thành sản phẩm tăng lên. Hơn nữa, chi phí của doanh nghiệp đầu tư cho việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm đầu tư nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật mới nâng cao chất lượng và năng suất lao động hay tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo, hiện đại, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. Nhưng sản phẩm mới mà giá quá cao thì không thể phát triển rộng khắp được, song vẫn cần phải có những công nghệ mới để tạo ra những sản phẩm mới. Các thành viên trong từng doanh nghiệp, không chỉ từ đội ngũ lãnh đạo, quản lý mà ngay cả đội ngũ người lao động có ý nghĩa sống còn của việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, từng thành viên trong các DNNVV, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo và đội ngũ lao động trực tiếp làm ra sản phẩm cần tự trau dồi, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề thì mới có thể làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành mà chất lượng sản phẩm không những không đổi mà lại được nâng cao hơn. Các DNNVV có thể giảm chi phí sản xuất bằng cách tạo ra một lực lượng lao động trong doanh nghiệp làm việc có hiệu quả, với năng suất cao. 2.2.5. Xây dựng và phát triển thương hiệu doanh nghiệp. Ngày nay, với một thương hiệu nổi tiếng đã đi vào lòng của người tiêu dùng thì những sản phẩm mới muốn có được thị phần của mình cần phải có thương hiệu. Vì thói quen của người tiêu dùng, khi họ đã dùng nhiều lần những sản phẩm đã có từ trước thì việc thay đổi thói quen này không phải là đơn giản. Chính vì vậy, các DNNVV cần phải xây dựng, phát triển sáng tạo nhãn hiệu, xây dựng thương hiệu phải khơi dậy cảm xúc của khách hàng. Để xây dựng một thương hiệu được khách hàng tin cậy thì doanh nghiệp cần phải hiểu rõ người khách hàng của mình hơn ai hết, luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động. Khi đã xây được thương hiệu riêng cho mình, doanh nghiệp cần phải coi trọng thương hiệu là công cụ bảo vệ lợi ích của mình, có chiến lược quảng bá để phát triển thương hiệu cho nhiều người tiêu dùng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp. Muốn thương hiệu phát triển được nhanh và bền vững cần phải có đội ngũ lao động trong doanh nghiệp có sức sáng tạo, trình độ chuyên môn giỏi. 2.3. Văn hoá doanh nghiệp trong các DNNVV. Văn hóa doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh doanh và phát triển cộng đồng. Có rất nhiều doanh nghiệp tiến hành rất bài bản và đầy đủ các biện pháp cần thiết để cải tiến chất lượng hoạt động, chất lượng sản phẩm và dịch vụ nhưng vẫn không thành công bởi vì không xây dựng được bản sắc văn hoá riêng đặc trưng cho doanh nghiệp mình, dân tộc mình. Đứng trước yêu cầu cạnh tranh trong điều kiện hội nhập, một vấn đề rất cấp bách đặt ra là các DNNVV cần phải xây dựng bản sắc của doanh nghiệp trong từng hàng hoá, sản phẩm trên thương trường. Bản sắc của doanh nghiệp thông qua nét đặc trưng nhất là văn hoá doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp phải hướng tới cái đích cao cả nhất là xác định vị trí vững chắc của doanh nghiệp trên thị trường, trong cảm tình của khách hàng, của cộng đồng dân tộc và quốc tế. Văn hoá doanh nghiệp thể hiện ở chất lượng và bản sắc của sản phẩm, dịch vụ, thể hiện ở thái độ ứng xử của mỗi thành viên trong doanh nghiệp với nhau và với cộng đồng, thể hiện ngay ở chính thương hiệu sản phẩm, dịch vụ mà nó cung cấp. Thể hiện sự thành công đó là nhiều thương hiệu Việt Nam, nhiều sản phẩm của Việt Nam có chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế. Trong thời đại ngày nay, với sự cập nhật và thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ, nếu chỉ có kiến thức một chiều về kỹ thuật, thiết bị và công nghệ thì chưa đủ đem lại thành công. Các doanh nghiệp thành công trên thế giới đều chú trọng nhất đến yếu tố con người mà điều gắn kết nó với sản phẩm, dịch vụ làm ra là văn hoá doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp có ảnh hưởng đến mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp từ hoạch định đến thực hiện chiến lược phát triển và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Một nền văn hoá doanh nghiệp mạnh sẽ tạo được sự thống nhất cao của mọi thành viên trong doanh nghiệp, từ đó mọi mục tiêu phấn đấu đều được tuân thủ một cách tự giác, đó là yếu tố quyết định sự thắng lợi của chiến lược phát triển doanh nghiệp. Chính vì vậy đối với mỗi DNNVV : Mọi thành viên mà trước hết là lãnh đạo doanh nghiệp phải có nhận thức đúng, hiểu rõ nội dung và quyết tâm cao trong việc xây dựng nền tảng văn hoá của doanh nghiệp mình thể hiện rõ nét nhất ở văn hoá chất lượng. Mỗi doanh nghiệp cũng cần phải có bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách về vấn đề xây dựng, hoàn thiện văn hoá doanh nghiệp. Bộ phận này có thể kết hợp với bộ phận marketing hay đối ngoại của doanh nghiệp. Các tài liệu liên quan đến văn hoá doanh nghiệp như truyền thống, cam kết chất lượng, chiến lược phát triển, hành vi ứng xử phải được mọi thành viên trong doanh nghiệp góp ý xây dựng và được tuyên truyền sâu rộng trong mọi thế hệ cán bộ công nhân viên. Cần có kế hoạch và chính sách thích hợp để lựa chọn, tuyển chọn, đào tạo những nhân viên mới này ra nhập doanh nghiệp để giữ vững ổn định văn hoá doanh nghiệp vì những nhân viên mới này chưa có được những quan niệm, những hành vi ứng xử phù hợp với văn hoá doanh nghiệp như những thành viên cũ của doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp có tác dụng rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh và sự phát triển của doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp phải gắn chặt với văn hoá chất lượng, thể hiện cao độ bằng văn hoá chất lượng. Văn hoá doanh nghiệp thể hiện đặc tính riêng của từng doanh nghiệp, từng vùng miền, từng dân tộc trong từng giai đoạn phát triển, nhưng cái đích cao nhất của nó thể hiện là sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp tạo ra từ kiểu dáng mẫu mã đến chất lượng làm thoả mãn khách hàng. Để xây dựng được văn hoá doanh nghiệp đòi hỏi nỗ lực của chính bản thân mọi thế hệ thành viên của doanh nghiệp. Có thể nói, tất cả những yêu cầu đòi hỏi một doanh nghiệp phải có ở trên là điều kiện tiên quyết để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước. Nếu doanh nghiệp nào có thể đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu mới của thị trường thì doanh nghiệp đó sẽ gặt hái được nhiều thành công. Ngược lại những doanh nghiệp chậm đáp ứng được nhu cầu của thị trường có lẽ sức cạnh tranh không cao, tỷ lệ thành công không lớn. Nhưng để đóng góp vào sự thành công của doanh nghiệp có rất nhiều yếu tố, một trong những yếu tố mà các DNNVV của Việt Nam đang khai thác đó là lao động. Vì thế, nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV Việt Nam là hết sức cần thiết cho sự phát triển của doanh nghiệp. PHẦN II : THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC DNNVV CỦA VIỆT NAM. I. Thực trạng lao động trong các DNNVV. 1. Quy mô. Từ khi Luật doanh nghiệp năm 2000 có hiệu lực, số lượng doanh nghiệp mới đăng ký ở nước ta tăng rất nhanh, doanh nghiệp đăng ký trong đó phần lớn là các DNNVV, các chủ doanh nghiệp có xu hướng đăng ký loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn là lớn nhất. Như vậy số lượng doanh nghiệp tăng lên làm cho quy mô lao động trong các doanh nghiệp cũng tăng theo. Từ năm 2001 đến nay số lượng lao động trong các DNNVV luôn luôn biến động theo xu hướng tăng, điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau : Bảng1 : Tổng số lao động trong các DNNVV qua các năm. Năm Quy mô ( Triệu người ) Tỷ lệ tăng (%) 2001 6,621 2002 7,388 11,6 2003 8,623 16,7 2004 10,594 22,85 2005 12,401 17,05 Nguồn : Niên giám thống kê. Qua bảng số liệu ta thấy, tổng số lao động trong các DNNVV trong 5 năm từ năm 2001 đến năm 2005 liên tục tăng với tốc độ cao. Tốc độ tăng nhanh nhất trong giai đoạn này là từ năm 2003 sang năm 2004 với quy mô tăng khoảng 1,971 triệu lao động tương ứng với tỷ lệ 22,85%. Các năm từ năm 2003 đến năm 2005 đều tăng với quy mô và tốc độ cao hơn hai năm đầu thực hiện Luật doanh nghiệp, có lẽ trong giai đoạn có tốc độ tăng nhanh là do Luật doanh nghiệp đã phát huy hiệu quả, các chủ đầu tư đã có thời gian tiếp cận nhiều hơn. Lực lượng lao động trong các doanh nghiệp chiếm tỷ lệ cũng khá cao trong tổng số lực lượng lao động của cả nước, thường vào khoảng trên 20%. Theo số liệu điều tra, tại thời điểm 1-7-2005, lực lượng lao động của cả nước là 44,355 triệu người. Trong khi đó hiện nay tổng số lao động trong các DNNVV khoảng trên 12,401 triệu người chiếm khoảng 27% lực lượng lao động của cả nước. Tuy vậy, tỷ lệ này còn thấp so với một số nước trong khu vực khi lực lượng lao động trong các doanh nghiệp này chiếm tới 50-60% lực lượng lao động toàn xã hội như : Đài Loan, Thái Lan,…. Có thể nói, sự phát triển vượt bậc về số lượng doanh nghiệp đã tạo ra chỗ làm việc rất lớn cho những lao động trong cả nước. Bên cạnh đó, việc đầu tư cho một chỗ làm việc ở doanh nghiệp nhỏ và vừa thấp chỉ bằng 3-10% so với các doanh nghiệp lớn. Vì vậy, các DNNVV là nơi có khả năng tiếp nhận phần lớn số lao động mới hàng năm và số lao động dư thừa do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước hay cải cách hành chính, góp phần chủ yếu tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Đồng thời giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị, giảm bất bình đẳng trong xã hội, …... Với sự phát triển nhanh của các DNNVV thì đây chính là nơi thu hút được nhiều lao động trên cả nước trong thời gian qua và trong tương lai cũng vậy. 2. Cơ cấu lao động. 2.1. Theo loại hình doanh nghiệp. Loại hình DNNVV bao gồm cả doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã. Tuỳ thuộc vào đặc điểm của mình, doanh nghiệp có thể sử dụng số lượng lao động rất ít hoặc là với số lượng lao động lên đến hàng trăm người trong doanh nghiệp của mình. Tổng số lao động trong các DNNVV theo loại hình doanh nghiệp qua các năm từ năm 2001 đến năm 2005 được thể hiện qua bảng số liệu sau : Bảng 2 : Quy mô lao động trong các DNNVV theo loại hình. Đơn vị : Triệu người. Loại hình DN Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng số lao động 6,621 7,388 8,623 10,594 12,401 DNNN 0,2 0,223 0,26 0,32 0,375 Công ty tư nhân 1,731 1,931 2,254 2,769 3,424 Công ty cổ phần 0,385 0,430 0,502 0,617 0,722 Công ty TNHH 3,549 3,960 4,622 5,678 6,647 Hợp tác xã 0,756 0,844 0,985 1,21 1,416 Nguồn : Cục phát triển DNNVV. Cả giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005, loại hình doanh nghiệp có số lao động lớn nhất là công ty TNHH, luôn chiếm với tỷ lệ trên 50% tổng số lao động trong các DNNVV trên cả nước, năm 2001 với quy mô khoảng 3,549 triệu lao động làm việc trong các công ty TNHH thuộc DNNVV, trong khi đó lực lượng lao động có tại các DNNVV là 6,621 triệu người. Đến năm 2005, thì con số đó đã tăng lên đến 6,647 triệu lao động trong loại hình doanh nghiệp này, nó đã làm cho số lao động trong các DNNVV trên cả nước tăng lên đến 12,401 triệu người. Ngược lại thì doanh nghiệp Nhà nước có số lao động thấp nhất, năm 2001 chỉ có 0,2 triệu lao động chiếm tỷ lệ rất nhỏ 3,02% so với tổng số lao động trong các DNNVV trên toàn quốc. Đến năm 2005 số lượng cũng không tăng nhanh mà chỉ ở mức 0,375 triệu lao động so với tổng số là 12,401 triệu lao động. Còn các loại hình doanh nghiệp khác cũng chỉ thu hút được số lao động cao hơn các doanh nghiệp Nhà nước một chút ; như công ty cổ phần năm 2001 với số lao động 0,385 triệu người, năm 2005 số lượng này đã là 0,722 triệu người. Loại hình Hợp tác xã cũng vậy, số lượng lao động hoạt động trong đây với tỷ lệ khoảng trên 11% so với tổng số lao động trong các DNNVV. Có sự chênh lệch lớn về quy mô lao động trong các loại hình doanh nghiệp thuộc DNNVV cũng có nguyên nhân của nó. Chênh lệch quá lớn giữa loại hình công ty TNHH so với doanh nghiệp Nhà nước, khu vực Hợp tác xã, công ty cổ phần về số lao động làm việc trong các doanh nghiệp. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đó là do số lượng doanh nghiệp đăng ký thuộc loại hình công ty TNHH nhiều hơn rất nhiều so với các loại hình doanh nghiệp khác. Trong khi đó số lượng doanh nghiệp thuộc loại hình doanh nghiệp Nhà nước chiếm số lượng rất ít, còn lại những loại hình doanh nghiệp như Hợp tác xã, công ty cổ phần, công ty tư nhân cũng đóng góp vào với số lượng ở mức trung bình. Ngoài nguyên nhân này thì còn nhiều nguyên nhân khác nữa làm cho số lượng lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần thấp hơn khu vực công ty TNHH và khu vực doanh nghiệp Hợp tác xã. Nhưng nguyên nhân chính vẫn là do số lượng thuộc loại hình công ty TNHH chiếm phần lớn trong tổng số các DNNVV của cả nước. Điều đó được diễn giải bằng những con số qua bảng số liệu được điều tra năm 2005 về quy mô lao động trong các DNNVV theo loại hình trong tổng số các doanh nghiệp như sau : Bảng 3 : Quy mô lao động theo loại hình doanh nghiệp năm 2005. Đơn vị: người Loại hình doanh nghiệp tổng số DN Quy mô lao động <10 10-99 100-300 tổng số tỷ lệ (%) tổng số tỷ lệ (%) tổng số tỷ lệ (%) Tổng số doanh Nghiệp 150.000 56.240 37,5 87.176 58,1 6584 4,4 DNNN 4.530 55 1,2 2.337 51,5 2138 47,3 Công ty cổ phần 8.725 290 3,3 5.194 59,5 3241 37,2 Công ty TNHH 80.400 35.011 43,5 41.390 51,5 3999 5 Công ty tư nhân 39.210 22.381 57 16.175 41,2 653 1,8 Hợp tác xã 17.133 8.299 48,42 8.294 48,4 540 3,18 Nguồn : Cục phát triển DNNVV. Trong tổng số 150.000 doanh nghiệp thì phần lớn là các DNNVV thuộc loại hình công ty TNHH với tổng số 80.400 doanh nghiệp chiếm tới 53,6% so với tổng số doanh nghiệp nhỏ và vừa của cả nước, doanh nghiệp Nhà nước chỉ có 4.530 doanh nghiệp. Chính đây là nguyên nhân làm cho số lượng lao động trong các DNNVV thuộc loại hình công ty TNHH nhiều hơn rất nhiều so với các DNNVV thuộc doanh nghiệp Nhà nước. Cơ cấu loại hình doanh nghiệp trong những năm gần đây thay đổi theo chiều hướng tích cực. Tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân đã giảm, trong khi đó loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có xu hướng tăng lên. Những thay đổi đó chứng tỏ các chủ đầu tư đã nhận biết được những bất lợi và lợi thế của từng loại hình doanh nghiệp ; có xu hướng lựa chọn loại hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở doanh nghiệp có thể ổn định, phát triển không hạn chế về quy mô và thời hạn hoạt động. Thực tế chủ đầu tư đăng ký loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm đa số. Loại hình này cũng có tổng số lao động là nhiều hơn các loại hình doanh nghiệp khác. Nhưng quy mô lao động của các doanh nghiệp là nhỏ vì những doanh n._.g và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và trên thế giới, bao gồm chuẩn về kiến thức, kỹ năng đối với từng cấp học, bậc học và trình độ đào tạo ; các yêu cầu về tác phong đạo đức, trách nhiệm của người học ; chuẩn về điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục (đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý và công nhân viên ; cơ sở thiết bị giảng dạy,… ). Hoàn thiện hệ thống đào tạo theo hướng liên thông, mở ra nhiều khả năng và cơ hội học tập khác nhau cho thể hệ trẻ. Phát huy ưu điểm của các chương trình đào tạo hiện có, tiếp nhận có chọn lọc những chương trình tốt trên thế giới để xây dựng một hệ thống chương trình đa dạng, mềm dẻo, linh hoạt, tiên tiến và hiện đại, liên thông giữa các trình độ đào tạo. Tập trung đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, học tập và quản lý ở nhà trường. Mục tiêu của cả nước là đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo là 40% tổng lao động xã hội, tăng 15% so với năm 2005 chỉ có 25% lao động qua đào tạo. Chính vì vậy, mục tiêu chung của cả nước là tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo vào năm 2010. Cho nên, đây là một trong những căn cứ để có kế hoạch nâng cao chất lượng trong các DNNVV trên cả nước đến năm 2010. 1.3. Thực trạng chất lượng lao động trong các DNNVV. Chất lượng lao động trong các DNNVV qua phân tích thực tế thì còn có rất nhiều vấn đề bất cập, kể cả trình độ của chủ doanh nghiệp đến kỹ năng lành nghề của người lao động trong doanh nghiệp cần có những hướng giải quyết trong thời gian tới. Trong khi cả nước có đến 25% tỷ lệ lao động được qua đào tạo, thì phần lớn lao động trong các DNNVV không qua đào tạo, có một số doanh nghiệp có 100% lao động không được qua đào tạo. Đó là thực tế khó khăn của các doanh nghiệp hiện nay của Việt Nam. Đặc điểm của các DNNVV là nguồn vốn eo hẹp chỉ có thể tận dụng những nguồn lực có sẵn trong xã hội, hay những nguồn lực mà doanh nghiệp có sẵn. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNVV nói riêng thì có lợi thế là nguồn lực trong nước rất nhiều, có thể tận dụng ngay nguồn lực này để tạo lợi thế cho mình. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển cao, thị hiếu của người tiêu dùng hay nói cách khác là đòi hỏi, yêu cầu của thị trường về sản phẩm cần có chất lượng cao, chủng loại phong phú,…. nếu như trình độ lao động không đáp ứng được thì doanh nghiệp khó mà phát triển được. Không một doanh nghiệp nào là không muốn mình phát triển, mở rộng và tăng sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Song trên thực tế thì các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc thuê lao động có tay nghề cao, đào tạo những lao động của chính mình do nguồn kinh phí có hạn. Nếu không được sự hỗ trợ của các cấp thì các doanh nghiệp khó mà cải thiện được chất lượng lao động trong doanh nghiệp. Chính vì vậy, các DNNVV muốn phát triển được cần phải có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn tốt, vì yếu tố con người từ trước đến nay đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia và DNNVV cũng không nằm ngoài. Do đó, vấn đề nâng cao chất lượng lao động trong các doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết. 2. Quan điểm nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV. 2.1. Nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV là một bộ phận quan trọng trong quá trình phát triển DNNVV. Nền kinh tế nước ta được chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nên các doanh nghiệp và các nhà đầu tư còn chưa có kinh nghiệm về kinh tế thị trường, sức ỳ còn lớn, tâm lý chụp dật còn phổ biến, chưa chú ý nhiều đến chiến lược kinh doanh lâu dài. Trong bối cảnh đó, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo điều kiện cho một đội ngũ kinh doanh của Việt Nam ra đời, tạo điều kiện về yếu tố con người cho các giai đoạn phát triển. Để các DNNVV nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước và quốc tế, ngoài các yếu tố như công nghệ, vốn thì một trong những nhân tố không kém phần quan trọng để các DNNVV thực hiện được chiến lược đó là yếu tố con người. Vì các DNNVV có vốn đầu tư ban đầu là không lớn, các DNNVV của Việt Nam có vốn đầu tư dưới 1 tỷ đồng chiếm đến hơn 85% trong tổng số các DNNVV, hơn thế công nghệ sản xuất của các DNNVV cũng đã lạc hậu vì không có điều kiện để đổi mới. Chính vì vậy để có thể nâng cao tiềm lực của mình trên thương trường các doanh nghiệp hiện tại cần phải biết sử dụng triệt để những nguồn lực mà mình có lợi thế. 2.2. Nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV phải phù hợp với chiến lược phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Lực lượng lao động đang hoạt động trong các DNNVV của Việt Nam cũng là một bộ phận của lực lượng lao động cả nước. Hiện nay, thực trạng về chất lượng lao động của Việt Nam thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ là mối quan tâm của riêng các doanh nghiệp mà là mối quan tâm chung của cả xã hội. 2.3. DNNVV cần có sự hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực của các cơ quan Nhà nước. Trong điều kiện nguồn vốn có hạn, các DNNVV còn phải đầu tư rất nhiều, không chỉ đầu tư vào lực lượng lao động mà còn phải sử dụng nguồn kinh phí đó vào cải tiến công nghệ, thuê mặt bằng để tổ chức sản xuất kinh doanh. Cần có sự hỗ trợ về kinh phí, cũng như về cán bộ đào tạo cho lực lượng lao động trong các DNNVV trong thời gian tới. Một mặt giúp các DNNVV có đội ngũ công nhân kỹ thuật, lao động quản lý có trình độ để đáp ứng được với yếu cầu hiện tại, mặt khác việc giúp các DNNVV như thế cũng là làm cho lực lượng lao động chung của cả nước được nâng cao tay nghề lên. Chính vì vậy, sự hỗ trợ đào tạo lao động cho các DNNVV góp phần phát triển, nâng cao sức mạnh của doanh nghiệp, đồng thời cũng tạo động lực phát triển nền kinh tế của đất nước, giải quyết được vấn đề xã hội về lao động và việc làm. 2.4. Nâng cao chất lượng lao động và vấn đề sử dụng lao động có chất lượng cao. Sau khi lao động đã được qua đào tạo thì phải gắn với vấn đề sử dụng lao động có hiệu quả nhất. Các DNNVV cần có những chính sách đãi ngộ để thu hút, giữ chân những lao động có trình độ chuyên môn cao ở lại doanh nghiệp, tiếp tục cống hiến cống công sức cho sự phát triển của doanh nghiệp. Nếu lao động có trình độ cao không được sử dụng, đó là sự lãng phí. Chính những đội ngũ lao động như thế này đóng vai trò quyết định tới sự phát triển của doanh nghiệp, sức mạnh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào những người lao động giỏi. Nhưng trên thực tế, các DNNVV phần lớn là không giữ lại được, không tuyển được những lao động có tay nghề cao, vì doanh nghiệp chưa quan tâm đúng mức. Nâng cao chất lượng lao động cần phải gắn với sử dụng lao động có chất lượng cao, không để tình trạng lao động đã được qua đào tạo và có tay nghề cao lại không được sử dụng, hoặc được sử dụng nhưng không đúng chỗ. 3. Định hướng nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV. Định hướng chung của các DNNVV Việt Nam là nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV, để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước, tận dụng được những lợi thế sẵn có của mình, góp phần vào quá trình phát triển của DNNVV nhanh hơn. Mục tiêu, đến năm 2010 nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo trong các DNNVV tăng lên theo số lượng lao động làm việc trong các DNNVV. Bên cạnh đó, mục tiêu của DNNVV là tăng tỷ lệ lao động có trình độ văn hoá phổ thông trung học, giảm tỷ lệ lao động tốt nghiệp tiểu học. Mục tiêu tới, chủ doanh nghiệp cũng cần có trình độ văn hoá cao hơn, đến năm 2010 không còn có chủ doanh nghiệp nào ở trình độ tiểu học, thay vào đó là phần lớn đã hết phổ thông trung học. Đồng thời tăng cao tỷ lệ chủ doanh nghiệp được qua đào tạo trong các trường lớp, trung tâm có những khoá học cần thiết để tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp có thể theo học được. Những mục tiêu của các DNNVV được thể hiện rõ qua bảng số liệu sau : Bảng 16 : Mục tiêu nâng cao chất lượng của DNNVV Việt Nam đến năm 2010. Mục tiêu Tỷ lệ ( % ) Trình độ chuyên môn. Chủ doanh nghiệp qua đào tạo 90 Đội ngũ lao động qua đào tạo 30 Trình độ văn hoá của chủ DNNVV Trong đó : PTTH 95 THCS 5 Trình độ văn hoá của đội ngũ lao động Trong đó : PTTH 42 THCS 52,4 Tiểu học 5,6 Nguồn : Viện chiến lược phát triển. Cùng với mục tiêu chung của cả nước là đến năm 2010 số lao động qua đào tạo là 40% tổng lao đông xã hội. Mục tiêu đến năm 2010 số lao động qua đào tạo trong các DNNVV là 30%. Trình độ văn hoá của người lao động tốt nghiệp phổ thông trung học tăng lên 42%, còn ở cấp tiểu học giảm xuống chỉ còn 5,6%. Trong đó các ngành nghề lao động được đào tạo sẽ đa dạng hơn, chất lượng được nâng cao và tạo ra nhiều lao động có trình độ cao, để có thể đáp ứng được nhu cầu hiện tại và trong tương lai của quá trình phát triển của nền kinh tế - xã hội đất nước. Mục tiêu đến năm 2010 nâng tỷ lệ chủ doanh nghiệp qua đào tạo của các DNNVV lên trên 90% so với 84% hiện nay. Cũng cần tăng trình độ của chủ doanh nghiệp trên nhiều lĩnh vực, để chủ doanh nghiệp có thể ứng phó với những biến động bất thường của thị trường mà không phải lúng túng, không biết xử lý như thế nào trong thời gian qua. Nếu tính nhu cầu về đào tạo chung của toàn bộ các DNNVV Việt Nam thì nhu cầu ngành nghề đào tạo còn rất đa dạng cho cả chủ doanh nghiệp và lao động phổ thông ( công nhân kỹ thuật ) trong các DNNVV. Số DNNVV có nhu cầu đào tạo cho lao động trong các khoá đào tạo khác nhau được thể hiện qua bảng số liệu sau : Bảng 17 : Nhu cầu đào tạo của các DNNVV. Đơn vị : % Khoá đào tạo Nhu cầu của DN Tài chính kế toán 33,64 Quản trị doanh nghiệp 31,62 Phát triển thị trường 24,14 Lập chiến lược kinh doanh 20,17 Kỹ năng đàm phán, ký hợp đồng 12,89 Phát triển sản phẩm mới 12,89 Quản lý nguồn nhân lực 11,62 Ứng dụng công nghệ thông tin 10,85 Quản lý kỹ thuật 9,41 Quản lý chất lượng sản phẩm 8,08 Kỹ năng lãnh đạo, thuyết trình 7,76 Khác 3,26 Nguồn : Cục phát triển DNNVV. Đó là nhu cầu cần đào tạo của các doanh nghiệp trên thực tế, tỷ lệ có nhu cầu đào tạo tài chính kế toán là nhiều nhất vớ tỷ lệ 33,64% tổng số doanh nghiệp, sau đó là về quản trị doanh nghiệp 12.977 doanh nghiệp chiếm 31,62%. Nhu cầu đào tạo về lãnh đạo, kỹ năng thuyết trình thì chỉ có ít doanh nghiệp có nhu cầu với doanh 7,76% doanh nghiệp. Nhu cầu về đào tạo công nhân kỹ thuật cũng là vấn đề cần thiết đối với các DNNVV Việt Nam. Lấy ví dụ về nhu cầu đào tạo về công nhân kỹ thuật của các DNNVV sản xuất công nghiệp. Nhu Nhu cầu đó được thể hiện qua bảng số liệu sau : Bảng 18 : Số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo. Đơn vị : doanh nghiệp Loại đào tạo tổng số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo. Tổng Số doanh nghiệp sản xuất công nghiệp 10.994 Tự động hoá 621 Kỹ thuật điện 504 Công nghệ tạo khuân 456 Công nghệ hàn 440 Công nghệ chế tạo máy 396 Kỹ thuật vận hành CNC 379 Công nghệ đúc 323 Kỹ thuật mạ 246 Khác 496 Nguồn : Cục phát triển DNNVV. Đó là chỉ riêng nhu cầu đào tạo công nhân kỹ thuật của các DNNVV ngành công nghiệp sản xuất. Nếu tính toàn bộ nhu cầu đào tạo công nhân kỹ thuật của tất cả các doanh nghiệp thì số lượng đào tạo còn lớn hơn rất nhiều. II. Giải pháp nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV của Việt Nam đến năm 2010. Như đã phân tích, hiện nay chất lượng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam chưa cao. Để tạo ra đội ngũ lao động trong các DNNVV có chất lượng cao, đáp ứng được với đòi hỏi của thực tế cần có những giải pháp sau : 1. Nâng cao chất lượng đội ngũ giám đốc doanh nghiệp. 1.1. Tác dụng và sự cần thiết. Vai trò của chủ doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng là rất quan trọng trong việc điều hành quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Với chức năng của mình thì các chủ doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn tới quá trình phát triển của doanh nghiệp, những chiến lược hay kế hoạch kinh doanh đều được chủ doanh nghiệp xem xét và quyết định. Chính vì giữ vai trò lớn như vậy, nếu doanh nghiệp nào có giám đốc giỏi thì đó là một trong những điều kiện giúp doanh nghiệp phát triển nhanh và bền vững. Song thực tế hiện nay trình độ chủ DNNVV Việt Nam lại chưa cao, không đáp ứng được yêu cầu hiện tại. Trong thời gian tới với lộ trình hội nhập nền kinh tế với quốc tế thì việc các chủ DNNVV Việt Nam cần trang bị cho mình những kiến thức, sự hiểu biết là rất cần thiết. 1.2. Các hình thức nâng cao chất lượng đội ngũ giám đốc. - Trẻ hóa đội ngũ giám đốc. Phần lớn doanh nghiệp Nhà nước thuộc loại hình DNNVV có đội ngũ lãnh đạo trên 51 tuổi ( chiếm 46,92% ), riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước số này chiếm tới 51,3%. Xét về kinh nghiệm quản lý thì đây là đội ngũ đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm, chín chắn và có uy tín cao. Song điều này cũng dễ dẫn tới việc quản lý mang nặng tính kinh nghiệm, độ bảo thủ cao, ít chịu suy nghĩ để cải tiến quản lý. Có tới 2,15% giám đốc của khối quốc doanh nằm trong độ tuổi hưu trí. Do vậy, độ tuổi của giám đốc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể tuỳ thuộc vào người sáng lập. Song đối với doanh nghiệp Nhà nước nên có quy định có tính chất nguyên tắc để trẻ hoá đội ngũ lãnh đạo. Hiện nay, tiến bộ khoa học kỹ thuật diễn ra rất nhanh, công nghệ thông tin trở thành công cụ quan trọng trong quản lý. Nếu đội ngũ cốt cán do hạn chế về tuổi tác mà không am hiểu lĩnh vực này thì rất dễ dẫn tới tình trạng kìm chế sự tiến bộ của tập thể. - Đào tạo lại đội ngũ giám đốc từ 40 tuổi trở lên. Hầu hết những giám đốc DNNVV ngoài 40 tuổi được đào tạo theo cơ chế quản lý kế hoạch hoá. Trong cơ chế quản lý mới, nhiều kiến thức quản lý trở nên xa lạ đối với họ. Thực tế trong những năm qua cho thấy, sự am hiểu của nhiều giám đốc doanh nghiệp về toàn cầu hoá, cạnh tranh quốc tế, việc đăng ký bản quyền, việc chống vi phạm bản quyền,… còn rất hạn chế. Để tạo được nguồn nhân lực cao cấp phục vụ cho sự nghiệp hội nhập quốc tế cần phải có cơ chế đào tạo lại cho những giám đốc thuộc nhóm tuổi ngoài 40. Đối với những giám đốc đã qua tuổi này rồi thì cần có lớp, khoá đào tạo riêng vì khả năng nhanh nhạy trong tiếp thu những cái mới là rất khó, hơn thế họ lại mang trong mình phong cách làm việc cũ. Có thể tổ chức các lớp tại trung tâm, trường hoặc có thể tập trung những doanh nghiệp gần nhau có nhu cầu làm một lớp học tại nơi thuận tiện về địa lý cho tất cả mọi người. Cần đào tạo lại cho họ hiểu biết về cách thức làm việc, quản lý trong cơ chế thị trường chứ không phải là trong cơ chế kế hoạch hoá nữa. - Nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ giám đốc. Trong phân loại giám đốc DNNVV, những người thuộc nhóm có “ trình độ khác “ nghĩa là không có bằng cấp chuyên môn gì. Số này trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm 7,7% ; doanh nghiệp tư nhân thì lại quá lớn 35,5%. Thực tế đòi hỏi không nên tồn tại tình trạng người có “ trình độ khác “ làm giám đốc các doanh nghiệp Nhà nước. Đối với khu vực kinh tế tư nhân cần có sự trợ giúp để mở các lớp bồi dưỡng trình độ chuyên môn kỹ thuật sản xuất, nghệ thuật quản lý kinh doanh cho họ. Cần nâng cao trình độ cho đội ngũ giám đốc, tiến dần xoá bỏ tình trạng giám đốc thuộc nhóm có “ trình độ khác “. Giúp cho các chủ DNNVV có tầm hiểu biết sâu, rộng về chiến lược phát triển của doanh nghiệp mình và về những thông tin trong và ngoài nước trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Những chủ doanh nghiệp như vậy cần phải đào tạo lại để trang bị cho họ kiến thức cần thiết áp dụng vào quản lý, điều hành doanh nghiệp của mình. Có thể tổ chức thành những lớp học tại chỗ vì họ không có thời gian nhiều bằng cách thuê riêng chuyên gia giỏi đào tạo cho mình, hoặc những ai có điều kiện có thể theo học những khoá đào tạo về chuyên môn cần thiết tại các trường, trung tâm. 1.3. Điều kiện thực hiện. Để đạt được kết quả cao như mục tiêu đề ra thì cần phải có sự đồng tình, hợp tác của đội ngũ giám đốc đã qua tuổi 40, đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn vì những giám đốc đã qua tuổi này thì họ đã trang bị cho mình phần lớn những kiến thức quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá, cho nên rất khó có thể thay đổi tư duy và nhận thức về cơ chế quản lý mới được. Khi đã là chủ của một doanh nghiệp thì thời gian rảnh là không có nhiều, vì họ chỉ có tập trung vào công việc của mình. Chính vì vậy, họ ngại tham gia các lớp đào tạo vì họ không có đủ thời gian để đi học những khoá học đó. Bên cạnh đó, khi có kế hoạch đào tại lại đội ngũ giám đốc DNNVV cần phải có chi phí để mở những lớp đào tạo. Còn cơ sở trường lớp có trang bị đầy đủ đáp ứng được cho khoá học, có thể nói chi phí để đào tạo của một khoá học còn cao ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, để có thể thu hút được chủ doanh nghiệp tham gia vào lớp đào tạo như thế này cần có sự khuyến khích về kinh phí học khoá đào tạo này. Như vậy, điều kiện cần để có thể đào tạo lại được đội ngũ giám đốc không phải là chuyện dễ dàng mà cần phải bố trí hợp lý thời gian, địa điểm để có thể thu hút được nhiều học viên. Đồng thời, vấn đề chi phí cho một khoá học là phải giảm xuống. 2. Đào tạo nghề cho người lao động. 2.1. Tác dụng và sự cần thiết. Một doanh nghiệp mà có đội ngũ lao động với trình độ chuyên môn lành nghề cao thì năng suất lao động tăng cao góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển nhanh hơn và tạo sức cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thương trường. Điều này nói lên vai trò của đội ngũ lao động cũng không phải là nhỏ đến sự thành công của doanh nghiệp. Trong thời gian tới các DNNVV cần phải đào tạo để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động là hết sức cần thiết, từ đó tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp có những bước tiến nhanh, xa hơn. 2.2. Các hình thức đào tạo. - Đào tạo nghề cho người lao động có sự hỗ trợ của toàn xã hội : Trước hết, phải đổi mới tư duy và nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò của học tập nghề nghiệp trong xã hội học tập. Tâm lý khoa cử, bằng cấp đang dần được khắc phục trước nhu cầu học nghề, lập nghiệp trong xã hội. Điều đó đòi hỏi các cấp quản lý vĩ mô cũng như các cơ sở đào tạo phải hết sức quan tâm và đầu tư để phát triển dạy nghề. Các cấp, các ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển dạy nghề để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của ngành mình. Hai là, đổi mới cơ cấu hệ thống đào tạo nghề, thực tế phát triển của các DNNVV trên các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau đòi hỏi phải có lực lượng lao động kỹ thuật với các trình độ từ lao động thủ công, kỹ thuật thấp, lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn cho đến lao động kỹ thuật trong sản xuất công nghiệp và một bộ phận lao động trình độ cao phù hợp với yêu cầu sản xuất công nghệ hiện đại. Trong nền sản xuất hiện nay, đang tồn tại nhiều loại hình công nghệ với giải tần lớn : công nghệ thủ công truyền thống, công nghệ trung bình và một bộ phận tiếp cận với công nghệ cao. Do vậy, cần nhanh chóng hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành với cả ba cấp trình độ : bán lành nghề, lành nghề và trình độ cao. Ba là, đầu tư cho các trường dạy nghề đòi hỏi kinh phí lớn, quá trình đào tạo cũng cần chi phí cho thực hành, vì vậy phải thực hiện xã hội hoá để tăng cường trách nhiệm và huy động các nguồn lực phong phú trong và ngoài nước đầu tư cho dạy nghề. Xây dựng hệ thống chính sách động lực, thu hút và khuyến khích người dạy, người học và người sử dụng lao động và toàn xã hội cùng cộng đồng trách nhiệm tham gia xây dựng và phát triển sự nghiệp dạy nghề để hình thành nền giáo dục nghề nghiệp trong xã hội Việc đào tạo trình độ lành nghề và trình độ cao cho các lao động có thể theo những cách thức sau : - Đào tạo tại các trường dạy nghề, các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng kỹ thuật có chức năng dạy nghề thực hiện. Người học ở trình độ lành nghề sẽ được trang bị kiến thức và kỹ năng nghề toàn diện, thành thạo khi ra trường có khả năng đảm nhận những công việc phức tạp thuộc phạm vi nghề đào tạo. Người học ở trình độ cao được trang bị kỹ năng nghề thành thạo và kiến thức chuyên môn kỹ thuật cần thiết dựa trên nền học vấn trung học phổ thông để có khả năng vận hành các thiết bị hiện đại và xử lý được các tình huống phức tạp, đa dạng trong các dây chuyền sản xuất tự động, công nghệ hiện đại. - Đào tạo theo chương trình ngắn hạn tại các cơ sở dạy nghề ngắn hạn và các trung tâm dạy nghề tổ chức đào tạo trình độ bán lành nghề với những chương trình linh hoạt. Loại hình này rất phù hợp với lao động ở nông thôn, thanh niên dân tộc ở vùng sâu vùng xa, các học viên lớn tuổi, hạn chế về văn hóa, điều kiện học tập và phục vụ nhu cầu thay đổi nghề nghiệp và chuyển dịch cơ cấu lao động. Người học ở trình độ này sẽ được trang bị một số kiến thức kỹ năng nghề nhất định, có khả năng thực hiện một số công việc sau khi ra trường, phù hợp với trình độ sản xuất các vùng và địa phương. Đây cũng chính là sự phân cấp hợp lý trong đào tạo, hứa hẹn nhiều triển vọng, hạn chế dần sự mất cân đối trong cơ cấu trình độ đào tạo, có cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền trong đào tạo nhân lực hiện nay. Việc phát triển hệ thống kỹ thuật thực hành nhiều cấp trình độ sẽ góp phần tích cực vào việc phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông. 2.3. Điều kiện để thực hiện. Khi đào tạo nghề được mở rộng trên toàn quốc cần có sự ủng hộ của các cấp chính quyền, đặc biệt là từ cơ quan Trung ương. Vì đào tạo nghề như thế này cần có khoản kinh phí rất lớn, nếu không có sự hỗ trợ của các cấp thì không thể thực hiện được. Với những chi phí đầu tư cho trường lớp, bồi dưỡng cho giáo viên,….. Mặt khác, các DNNVV muốn tuyển được những lao động có trình độ tay nghề cần phải có mối quan hệ với các trung tâm đào tạo nghề, trường dạy nghề. Có mối quan hệ như vậy để liên lạc với cơ sở đào tạo còn biết được doanh nghiệp đang cần lao động trong lĩnh vực nào và trình độ ra sao. Còn về kinh phí để thuê lao động tại các nơi đó và chi phí cho lao động của doanh nghiệp được đào tạo lại. Các DNNVV cần có những chính sách khuyến khích cho người đi học đào tạo, có thể vẫn trả lương cho họ trong thời gian họ đi học hoặc hỗ trợ chi phí đi lại và chi chí học tập. Có như vậy thì mới động viên họ đi học được, doanh nghiệp phải có những chiến lược phát triển lâu dài về nâng cao chất lượng lao động trong doanh nghiệp mình. 3. Tăng cường đào tạo tại chỗ cho người lao động tại các DNNVV. 3.1. Tác dụng của đào tạo tại chỗ. Để có thể chủ động với những lao động thuộc ngành nghề, lĩnh vực mà doanh nghiệp đang cần thì doanh nghiệp có thể tự tổ chức đào tạo nghề ngay tại cơ sở sản xuất kinh doanh của mình. Với phương pháp này thì sẽ làm giảm chi phí đào tạo cho doanh nghiệp, đồng thời giúp người lao động vừa học vừa làm rất hiệu quả. Áp dụng hình thức này, doanh nghiệp vừa có thể nâng cao được chất lượng đội ngũ lao động mà vẫn có thể tận dụng được thời gian lao động làm việc ngay tại cơ sở sản xuất của doanh nghiệp. 3.2. Các hình thức đào tạo tại chỗ. Có nhiều cách để đào tạo cho lao động tại chỗ : (1) Kèm cặp lẫn nhau : Có thể sử dụng những lao động đã có trình độ tay nghề kèm cặp trực tiếp những lao động chưa qua đào tạo bằng những công việc thực tế bằng cách người lao động có tay nghề cao sẽ làm mẫu cho người chưa qua đào tạo, sau đó sẽ quan sát họ làm có đúng không. Để hình thức này đạt kết quả tốt, việc kèm cặp trong quá trình phải được tổ chức hợp lý giữa người dạy và người học, giữa doanh nghiệp và người dạy. Bằng phương pháp này có khả năng đào tạo được nhiều người trong một lúc, thời gian đào tạo ngắn. Do đào tạo trực tiếp tại cơ sở , nên không đòi hỏi điều kiện về trường lớp, giáo viên chuyên trách, bộ máy quản lý và thiết bị thực tập riêng.Vì vậy doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí đào tạo cho người lao động mới. (2) Thuê lao động bên ngoài hay những chuyên gia giỏi : về dạy hợp đồng cho các lao động trong doanh nghiệp, hoặc kết hợp với một số doanh nghiệp khác cùng có nhu cầu về đào tạo chuyên ngành mà khoảng cách không xa nhau. Giải pháp để nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam, có thể doanh nghiệp lập ra một quỹ để có thể thuê những lao động có trình độ cao ở trong nước hay ở nước ngoài về làm trong doanh nghiệp của mình. Có được những lao động như thế này sẽ có tác động tích cực đến những lao động khác trong doanh nghiệp. Hơn nữa, khi họ đã làm việc trong doanh nghiệp rồi có thể sử dụng họ để hướng dẫn lại cho những lao động khác trong doanh nghiệp. Để có thể thu hút được những lao động có trình độ chuyên môn cao thì doanh nghiệp cần phải đầu tư một chi phí khá cao. Doanh nghiệp có thể tuyển lao động trực tiếp, tìm trên thị trường lao động những lao động như vậy. (3) Doanh nghiệp có thể nâng cao chất lượng lao động bằng cách phát động những đợt thi đua trong doanh nghiệp như : tăng năng suất lao động, an toàn trong lao động,….. Với đội ngũ lao động có kỹ thuật cao là lợi thế của doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh của mình trên thị trường. Từ đó giúp doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị phần lớn hơn các doanh nghiệp khác, cũng có thể vươn ra thị trường ngoài nước. 4. Thu hút lao động có chất lượng cao vào các DNNVV. 4.1. Tác dụng việc thu hút lao động có chất lượng cao. Lao động có trình độ cao là một trong những thế mạnh của bất cứ một doanh nghiệp nào, các DNNVV cũng vậy. Nếu doanh nghiệp nào sở hữu được đội ngũ lao động có trình độ cao thì doanh nghiệp đó sẽ phát triển rất nhanh, thực tế đã cho biết rất nhiều doanh nghiệp trưởng thành và phát triển được như ngày hôm nay là nhờ phần lớn việc có được đội ngũ lao động có kỹ năng cao. Việc cần thiết hiện nay của các DNNVV Việt Nam là cần có được lao động có trình độ kỹ năng thành thạo mới có thể phát triển và cạnh tranh được với những doanh nghiệp khác trong nước và trên thế giới. 4.2. Nội dung. Để thu hút được đội ngũ lao động có trình độ cao thì trước tiên phải dựa vào nhu cầu của doanh nghiệp mình như : (1) Chiến lược phát triển của doanh nghiệp : Trong những điều kiện, thời gian nhất định thì doanh nghiệp có chiến lược, kế hoạch kinh doanh khác nhau. Vì thế, nhu cầu về số lượng lao động cũng khác nhau và cả lao động có kỹ năng nghề nghiệp. Dựa vào chiến lược, kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp mà có thể đề ra những yêu cầu về lao động cần phải có để hoàn thành kế hoạch đề ra. (2) Xu hướng phát triển của doanh nghiệp : Mỗi doanh nghiệp đều có nhu cầu về lao động trong từng quá trình phát triển của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đang có xu hướng phát triển mạnh thì khi đó nhu cầu về lao động là lớn, xu hướng phát triển của doanh nghiệp về ngành nghề hay lĩnh vực mới cũng đòi hỏi cần có thêm lao động. Ngược lại khi doanh nghiệp đang trong giai đoạn khó khăn về sản xuất kinh doanh khi đó nhu cầu về lao động lại giảm đi. Nhu cầu về lao động của các DNNVV Việt Nam là rất khác nhau, có những doanh nghiệp không cần yêu cầu chất lượng lao động đầu vào phải cao, nhưng có những doanh nghiệp lại đòi hỏi đầu vào chất lượng lao động tương đối cao. Đó là yêu cầu của mỗi lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động, vì thế cần căn cứ vào cả nhu cầu về trình độ của lao động. Khi xác định được nhu cầu về lao động của doanh nghiệp, sau đó doanh nghiệp cũng cần có những chính sách để thu hút được những lao động có trình độ vào làm việc như : (1) Có chế độ trả lương cao, xứng đáng cho người lao động giỏi. (2) Cổ phần hoá cho người lao động có trình độ cao để họ có tinh thần trách nhiệm cao trong việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. (3) Có chính sách ưu đãi cho người lao động kỹ thuật cao : Mua bảo hiểm xã hội, chế độ lương khi họ về hưu,….. Kết luận Trong giai đoạn phát triển vừa qua của đất nước, các DNNVV đã góp phần đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng cho xã hội, sản xuất các sản phẩm hàng công nghiệp, thủ công mỹ nghệ và duy trì, phát huy ngành nghề truyền thống. Phát triển trải rộng trên cả nước, từ thành thị đến nông thôn, từ những khu vực có điều kiện thuận lợi đến những vùng, địa bàn vùng sâu, vùng xa, các DNNVV có thể tận dụng mọi nguồn lực lao động, kể cả các lao động phổ thông, lao động là người tàn tật, mọi nguồn nguyên liệu trước kia không dùng đến như bèo tây, cây cỏ,…. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là các khu vực nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Hơn thế nữa, theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay các DNNVV Việt Nam đang thu hút 1/2 lực lượng lao động trong khu vực phi nông nghiệp. Rõ ràng đây là một nhân tố quan trọng đối với người sống ở các vùng nông thôn đang tìm kiếm việc làm, những lao động dôi ra qua việc sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước và những người làm nông nghiệp trong những lúc nông nhàn. Các cơ hội tăng thêm việc sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, kể cả những người đang thất nghiệp, phụ nữ và những người tàn tật. Như vậy, có thể nói cáC DNNVV đã và đang góp phần quan trọng trong việc thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo mà Đảng và Nhà nước ta đang theo đuổi, đồng thời cũng đang phát huy vai trò tích cực trong việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ ở Việt Nam. Tuy nhiên, các DNNVV hiện nay vẫn ở tình trạng năng lực cạnh tranh của các DNNVV còn thấp trên thị trường trong và ngoài nước. Một trong những lý do làm giảm sức mạnh của các DNNVV : là lực lượng lao động đang hoạt động trong các doanh nghiệp có trình độ chưa cao để có thể nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính vì vậy cần có giải pháp nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam là rất cần thiết, để tạo ra đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao đáp ứng được với những yêu cầu của quá trình phát triển như hiện nay. Có như vậy DNNVV mới thể hiện được vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO : Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010. Điều tra, phân tích và đánh giá chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam - Viện chiến lược phát triển. Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội - Trường đại học kinh tế quốc dân. Giáo trình kinh tế lao động - Trường đại học kinh tế quốc dân. Kế hoạch phát triển các DNNVV 2006 – 2010 - Bộ kế hoạch & Đầu tư. Niên giám thống kê 2003, 2004. Số liệu điều tra của Cục phát triển DNNVV. Tạp chí Cộng sản. Tạp chí Kinh tế & dự báo. Tạp chí Kinh tế & phát triển. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. Thông tin trên internet. Văn kiện đại hội Đảng IX – Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28650.doc
Tài liệu liên quan