Động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ ANH THƯ ĐỘNG CƠ CHỌN HỌC NGÀNH VIỆT NAM HỌC CỦA SINH VIÊN NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC Mã số: ………………………... LUẬN VĂN THẠC SĨ: TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG TÂM SƠN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 Tri Ân Kính tặng Ba, Mẹ với lòng biết ơn sâu sắc EM XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN: □ PGS.TS Hoàng Tâm Sơn Phó Hiệu Trưởng Trường Cao đẳng Văn hóa Ngh

pdf121 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1956 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ thuật và Du lịch Sài Gòn đã luôn nhiệt tình, tận tâm hướng dẫn em hòan thành đề tài này. □ Các Thầy, Cô trong Khoa Tâm lý Giáo dục trườngg Đại học Sư phạm TPHCM, những người đã tận tâm giảng dạy, truyền thụ những tri thức Tâm lý học – Giáo dục học cho học viên trong suốt 3 năm qua. □ Ban Giám Hiệu, quý Thầy Cô và các bạn sinh viên trường Đại học Sư Phạm TPHCM, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này. NHẬN XÉT – ĐÁNH GIÁ CỦA PGS.TS. HOÀNG TÂM SƠN ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hiệu quả tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong học tập không những bị ảnh hưởng bởi những điều kiện bên ngoài, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan như: nhu cầu, động cơ, thái độ, hứng thú, lý tưởng… của người học. Nếu không có động cơ học tập, người học sẽ thiếu đi sự khởi động, hướng dẫn, thúc đẩy, điều khiển và điều chỉnh hành vi, cũng như duy trì các hành động học tập và hoạt động học tập sẽ trở nên kém hiệu quả. Qúa trình hội nhập và phát triển ở Việt Nam đang đặt ra những cơ hội và thách thức, đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc và toàn diện về đất nước, về vị thế Việt Nam đối với khu vực và thế giới trong bối cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nghiên cứu và đào tạo về Việt Nam đã trở thành nhu cầu cấp thiết, một mặt đối với sự phát triển và hội nhập của Việt Nam, mặt khác đối với quá trình đầu tư và hợp tác của các nước và các tổ chức quốc tế với Việt Nam. Cùng với sự phát triển của nhiều lĩnh vực giáo dục, việc đào tạo Việt Nam học ở bậc đại học và sau đại học đang được thực hiện ở nhiều trường đại học và viện nghiên cứu. Ở nước ta, ngành khoa học Việt Nam học xuất hiện chậm hơn sơ với khá nhiều nước trên thế giới. Trong khi từ năm 1990, những người nghiên cứu Việt Nam ở Nhật Bản đã thành lập Hội Việt Nam học, đến nay Hội Việt Nam học đã được tổ chức ở nhiều nước như ở Hàn Quốc, ở Bắc Mỹ, hay mô hình EuroViet ở Châu Âu… thì ở nước ta Việt Nam học chỉ thực sự được nhiều người quan tâm từ sau Hội thảo quốc tế I về Việt Nam học, diễn ra vào năm 1998 tại Hà Nội. Về mục đích đào tạo, Việt Nam học hướng tới người nước ngoài có nhu cầu tiếp cận để tạo cơ hội làm ăn. Với đối tượng trong nước, Việt Nam học nhằm giúp sinh viên tìm hiểu các kiến thức xã hội về Việt Nam. Đó là những vấn đề về lịch sử văn minh và phát triển văn hoá, những vấn đề xã hội, dân tộc, những vấn đề đổi mới kinh tế, về ngôn ngữ… Vì thế, đào tạo ngành Việt Nam học không chỉ đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước mà còn góp phần đào tạo một số lượng đáng kể các chuyên gia Việt Nam học của nhiều quốc gia trên thế giới phục vụ chiến lược phát triển và hội nhập của Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, ngày càng có nhiều sinh viên người nước ngoài theo học ngành Việt Nam học tại Việt Nam cho thấy sự quan tâm của họ đối với Việt Nam, và vị thế của Việt Nam dần được khẳng định. Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại TPHCM là việc làm cần thiết. Trong nghiên cứu này chúng tôi quan niệm: động cơ học tập của sinh viên là một yếu tố tâm lý quy định sự lựa chọn, định hướng và duy trì hoạt động học tập nhằm chiếm lĩnh những tri thức khoa học, kinh nghiệm lịch sử - xã hội, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, góp phần hình thành và hòan thiện nhân cách người sinh viên. Động cơ vừa là mục đích, vừa là yếu tố thúc đẩy hoạt động học tập. 2. Mục đích nghiên cứu * Khảo sát động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại TPHCM. * Trên cơ sở khảo sát, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo ngành Việt Nam học cho sinh viên người nước ngoài. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu * Sinh viên ngành Việt Nam học trường Đại học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn TPHCM. 3.2. Đối tượng nghiên cứu * Động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại TPHCM. 4. Giả thuyết nghiên cứu * Đa số sinh viên người nước ngoài chọn học ngành Việt Nam học tại TPHCM xuất phát từ động cơ tích cực. * Động cơ học tập tốt ảnh hưởng một cách hiệu quả đến kết quả học tập của sinh viên người nước ngoài. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến đề tài: * Động cơ, động cơ học tập * Đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên * Ngành Việt Nam học 5.2. Nghiên cứu thực trạng * Động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài * Mối liên hệ giữa động cơ và hiệu quả học tập * So sánh động cơ học tập giữa sinh viên nam và nữ. * So sánh động cơ học tập giữa sinh viên các khối lớp. * So sánh động cơ học tập giữa sinh viên các nước khác nhau: Hàn Quốc, Nhật Bản và nhóm các nước khác (gồm: Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ). 5.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo Việt Nam học cho sinh viên người nước ngoài 6. Phương pháp nghiên cứu Trong đề tài này, người nghiên cứu đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: * Nhóm phương pháp lý luận: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu nhằm tổng hợp tài liệu làm cơ sở lý luận cho đề tài. * Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp phỏng vấn: Nhằm mục đích làm rõ những ý nghĩ, động cơ của sinh viên người nước ngoài khi chọn ngành Việt Nam học. - Phương pháp điều tra bằng phiếu câu hỏi: Nhằm làm rõ thực trạng về các động cơ của sinh viên người nước ngoài. Dụng cụ nghiên cứu là bảng thăm dò ý kiến được tiến hành qua hai giai đoạn: + Giai đọan 1: Trên cơ sở lý luận và những đề tài có liên quan, người nghiên cứu tiến hành sọan thảo bảng thăm dò mở gồm 7 câu hỏi: Câu 1: Lí do bạn chọn học ngành Việt Nam học? Câu 2: Động cơ học tập hiện nay của bạn là gì? Câu 3: Bạn có kế hoạch học tập như thế nào? Câu 4: Những khó khăn bạn gặp phải trong quá trình học? Câu 5: Bạn đang có nhu cầu học tập hàng đầu về vấn đề nào? Câu 6: Mục đích học ngành Việt Nam học ở trường của bạn là gì? Câu 7: Bạn thường đến lớp vì lí do gì? Phiếu này được phát cho 60 sinh viên ngành Việt Nam học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM trả lời. Sau khi thu về, người nghiên cứu đọc, phân loại các câu trả lời trong từng câu hỏi theo phương pháp phân tích nội dung. + Giai đọan 2: Từ kết qủa thăm dò mở, tiếp tục tham khảo các công trình nghiên cứu trước và các vấn đề lý luận của đề tài, người nghiên cứu tiến hành xây dựng bảng thăm dò chính thức gồm 10 phần, có hướng dẫn cách trả lời rõ ràng, chi tiết cho từng câu (xin xem phần phụ lục). Phần 1: Lí do chọn học ngành Việt Nam học. Phần 2: Động cơ học tập hiện nay. Phần 3: Kế hoạch học tập. Phần 4: Khó khăn trong quá trình học tập. Phần 5: Nhu cầu học tập hàng đầu hiện nay. Phần 6: Mục đích học tập. Phần 7: Kết quả học tập học kì vừa qua Phần 8: Lí do đến lớp. Phần 9: Hứng thú học tập. Phần 10: Hành vi học tập. Việc phát và thu thập số liệu ở giai đoạn 2 được tiến hành như sau: Người nghiên cứu chọn tòan bộ sinh viên ngành Việt Nam học người nước ngoài thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn làm khách thể nghiên cứu của đề tài, được chia cho cả nam và nữ và cho cả 4 năm: I, II, III, IV. Việc phát và thu việc được thực hiện thông qua thư ký và giảng viên của Bộ môn Việt Nam học. Sau khi loại bỏ những phiếu trả lời không đúng quy cách, mẫu nghiên cứu sử dụng trong đề tài là 104 sinh viên người nước ngoài thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM. - Phương pháp tóan thống kê: Xử lý thống kê theo chương trình SPSS For Wins 11.5. Tính tần số, tỉ lệ phần trăm, tính trung bình, độ lệch tiêu chuẩn, kiểm nghiệm Chi-square, tính hệ số tương quan, xếp thứ hạng. 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu * Giới hạn về không gian nghiên cứu: Do tại TPHCM, chỉ có trường Đại học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn có đào tạo ngành Việt Nam học cho đối tượng sinh viên người nước ngoài, nên chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu ở trường này. * Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu về động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo. 8. Kế hoạch nghiên cứu * Tháng 09/2009: + Đọc tài liệu, chọn đề tài + Viết đề cương nghiên cứu * Tháng 10-11/2009: + Hoàn thành cơ sở lý luận * Tháng 12/2009: + Phát phiếu câu hỏi mở sơ khởi, để xây dựng bảng câu hỏi chính thức * Tháng 01/2010: + Xây dựng bảng câu hỏi chính thức * Tháng 02-03/2010: + Phát phiếu điều tra, thu thập và xử lí số liệu * Tháng 04-05/2010: + Trên cơ sở số liệu thu thập được, viết lời bình * Tháng 06-08/2010: + Hoàn chỉnh luận văn, chỉnh sửa theo yêu cầu của giảng viên hướng dẫn. NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ĐỘNG CƠ 1.1.1. Một số quan điểm phi Mac-xít về động cơ: Từ thời cổ đại, vấn đề nguyên nhân thúc đẩy bên trong hoạt động của con người đã được các nhà khoa học đặt ra. Và lúc này, tâm lý học chưa trở thành một bộ môn khoa học độc lập, mà nó còn là một bộ môn của triết học. Do đó, những kết luận trong thời kỳ bấy giờ thiếu cơ sở khoa học để chứng minh động cơ một cách rõ ràng. Xocrate (469-399 TCN), một triết gia Hy Lạp thời cổ đại đã từng phát biểu: “Tôi biết chắc một điều là tôi không biết gì cả”. Theo Xocrate, từ chỗ “không biết gì” thúc đẩy con người hoạt động nhận thức [6, 20]. Aristote (384-322 TCN), tác giả cuốn Tâm lý học đầu tiên “Bàn về tâm hồn” đã xem “ước muốn cùng với trí tuệ là những năng lực của tâm hồn đưa tới hoạt động”. Ông dựa trên cơ sở sinh vật học để giải thích động cơ hoạt động. Ông cho rằng nhiều hành vi con người được thúc đẩy bởi “sự thèm muốn”. Hành động luôn hướng tới thỏa mãn “sự thèm muốn”. Nghĩa là hành vi được thúc đẩy bởi các trạng thái nội tại như đói, khát, ham muốn tình dục… Nếu hành động thành công con người sẽ cảm thấy khoái lạc. Tuy nhiên, Aristote cũng đã chỉ ra được rằng, con người khác con vật ở chỗ “con người có khả năng dùng lý trí của mình để ức chế các thèm muốn” [234, 20]. Nhìn chung, các nhà triết học trước kia có sự hiểu lầm rằng, cái thúc đẩy con người hành động là ý thức của anh ta về cái đó. Sai lầm ấy xuất phát từ việc quen giải thích hoạt động con người từ tư duy. Thực ra, cái thúc đẩy con người hoạt động không phải ý thức, nhận thức hay tư duy mà là nhu cầu. Nhiều thế kỷ sau đó, vẫn chưa có một tác giả nào nghiên cứu về động cơ một cách hoàn thiện, do họ chưa có một cơ sở lý luận liên quan thật sự mang tính khoa học. Mãi đến đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện các trường phái Tâm lý học khách quan, vấn đề động cơ mới thật sự được chú ý đến. Tâm lý học hành vi cổ điển của John B.Watson (1878-1958) chỉ quan tâm đến những sự kiện, hành vì bên ngoài mà không xét đến yếu tố tiềm ẩn đằng sau nó, thúc đẩy con người hoạt động. Chủ nghĩa hành vi cổ điển coi hoạt động của con người chỉ là một dòng phản ứng theo công thức S->R. Theo lý thuyết này, khi có kích thích (S) thì tất yếu có phản ứng (R) cũng như khi biết yếu tố này có thể suy ra được yếu tố kia và ngược lại. Hành vi được coi là mối liên hệ trực tiếp giữa kích thích và phản ứng do kích thích tạo ra. Kích thích thuộc về thế giới tác động, và hành vi con người do phản ứng của cơ thể tạo ra khi có kích thích. Tâm lý học hành vi của Watson đi đến quan niệm coi con người như là “một cơ thể phản ứng”, thích nghi thụ động dưới ảnh hưởng của môi trường. Sau này, K.Hull và E.Tolman đã đi tìm mô hình động cơ và quy luật của nó trong nghiên cứu động vật, kết quả là bổ sung vào công thức S->R trong thuyết hành vi cổ điển của Watson bằng “yếu tố trung gian”. Theo hai tác giả này, cái quy định (động cơ) của phản ứng vẫn là những kích thích từ bên ngoài vào nhu cầu của cơ thể lúc tiếp nhận kích thích đó. Lúc này, thuyết hành vi S->R phải có dạng S-O-S hay S-r-s-R. Các biến trung gian là những gì gắn O, tức gắn với cơ thể, hình thành phản ứng với hành vi đối với kích thích đã cho” [106, 12]. Cả chủ nghĩa hành vi cổ điển lẫn chủ nghĩa hành vi mới đều mắc phải sai lầm là đã sinh vật hóa con người, “xóa mọi ranh giới có tính nguyên tắc giữa hành vi động vật và hành vi con người”, đồng nhất tâm lý con người và tâm lý động vật. Các tác giả này cũng chưa giải thích được nguyên nhân nào thúc đẩy con người thực hiện các hành động. Họ cho rằng, nhu cầu con người cũng tương đương với nhu cầu của động vật, bỏ qua tính chất xã hội của con người. Tâm lý học Ghetalt (hay còn gọi là Tâm lý học Cấu trúc) bởi ba tác giả: M.Wertheimer (1880-1943), V.Kohler (1887-1967) và K.Kofka (1886-1941). Trường phái này nghiên cứu về tri giác và một ít về tư duy. Riêng K.Lewin nghiên cứu về nhân cách, về trạng thái xúc động, lấy khái niệm “trường lực” làm cơ sở nghiên cứu tâm lý con người. Ông đã tập trung sự chú ý đến khái niệm “nhu cầu”, trong đó ý đồ là một dạng nhu cầu làm xuất hiện trạng thái căng thẳng. Những nhân tố này ít được nhận thức nhưng tương đối có hiệu lực, nó quy định việc lựa chọn hành động, phương thức và mục đích của con người, đó chính là động cơ của hoạt động. Như vậy, đông cơ là sự tương tác của lực bên trong trường lực, phủ nhận tác động từ thế giới bên ngoài. K.Lewin và các cộng sự của ông mới chỉ có thể nói đến những dấu hiệu đặc trưng tiến trình vận động của động cơ, những yếu tố tâm lý ảnh hưởng tiến trình đó, làm động cơ mạnh lên hay ngược lại. Lewin đã không quan tâm đến kinh nghiệm con người, đánh giá thấp những đặc điểm nhân cách, nhu cầu và khát vọng đã có ở một người. Nhược điểm của Lewin là chỉ mới chú ý đến mặt cơ động của động cơ mà chưa chú ý đến mặt nội dung của nó. Bên cạnh đó, ông đã phủ nhận vai trò của những tác động bên ngoài trong việc hình thành động cơ. Phân tâm học của Sigmund Freud xem con người có hai loại bản năng: bản năng sống và bản năng chết. Đời sống con người do bản năng tình dục (libido) chi phối tất cả các hoạt động. Năng lượng ấy thoát ra ngoài ở những dạng hoạt động khác nhau. Nếu nhu cầu về bản năng ấy không được thỏa mãn, con người sẽ rơi vào trạng thái căng thẳng. Atler, nhà tâm lý học theo trường phái Phân tâm học kiểu mới cho rằng, động lực cơ bản của hành vi quyết định mục đích cũng như con đường của hoạt động. Mối quan hệ giữa khát vọng hùng mạnh và cảm giác yếu kém quy định tính chất những động cơ khi con người hành động. Atler phê phán luận điểm của S.Freud, ông không đồng ý tính không thay đổi của bản năng trong tiến trình phát triển lịch sử loài người nói chung cũng như trong đời sống cá thể nói riêng. Ông cho rằng, văn hóa xã hội cũng ảnh hưởng đến tâm lý con người, đặc biệt là thể hiện ở động cơ hoạt động. Đối với K.Horney, con người có sức mạnh bẩm sinh, cơ sở là sự lo sợ cô đơn thời còn thơ ấu ảnh hưởng đến động cơ thúc đẩy hành vi sau này. Động cơ con người không có nguồn gốc từ hiện thực khách quan, mà nó được nảy sinh từ những biểu tượng chủ quan của mỗi người. Và vô thức là động lực của hành vi con người quy định những hình thức động cơ cụ thể của cuộc sống thực. E.Formm bổ sung vào lực thúc đẩy hành vi con người bao gồm yếu tố xã hội và sức mạnh bẩm sinh. Nhìn chung, lý thuyết Phân tâm nhìn nhận động cơ con người như những bản năng. Cách lý giải như vậy dẫn đến chỗ đối lập cá nhân với xã hội và xem xét môi trường sống chỉ như những điều kiện để bản năng con người vốn có từ lúc sinh ra, được bộc lộ dần trong quá trình phát triển của cá thể. 1.1.2. Quan điểm của tâm lý học Mac-xít về động cơ Tâm lý học Mac-xít dựa trên cơ sở phương pháp luận Triết học Mac-Lenin, xem con người là sản phẩm của lịch sử, xã hội, và là thực thể mang những phẩm chất, những thuộc tính được hình thành trong quá trình lao động và trong mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người trong xã hội. Quan điểm này không quá đề cao yếu tố xã hội, cũng không phủ nhận yếu tố sinh học trong bản thân con người. K.Marx chỉ ra rằng: “con người là một thực thể tự nhiên trực tiếp. Với tư cách là một thực thể tự nhiên, con người được phú cho những sức mạnh tự nhiên, những sức sống đã trở thành thực thể tự nhiên hoạt động” [18, 1]. Con người không phải là cái túi đựng đầy phản xạ và hoạt động, không phải là dòng phản ứng, cử động sống mà là một dòng hoạt động. Trong đó bao gồm cả “dòng tư tưởng” (R.Descarte), “dòng ý thức” (W.Jeans), đơn vị của cuộc sống là từng hoạt động cụ thể (A.N.Leonchiev) được hiểu là một tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng, nhằm mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định. Kết quả của hoạt động là kích thích tạo ra hoạt động và sự cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể. Chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất, hoạt động bao gồm cả hành vi, lẫn tâm lý, ý thức, công việc chân tay và công việc trí óc. Mà nó được xây dựng trên cơ sở triết học về hoạt động, đó là mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể, bao gồm quá trình khách thể hóa chủ thể (chuyển năng lượng con người vào sản phẩm hoạt động) và quá trình chủ thể hóa khách thể (con người phản ánh vật thể, tiếp thu đặc điểm vật thể chuyển thành năng lượng con người). Như vậy, trong khi tạo ra và chiếm lĩnh các mối quan hệ xã hội, con người hình thành nên bộ mặt tâm lý, hình thành nên động cơ hoạt động. Vào năm 1926, L.X.Vưgôtxki đã đề xuất phải xây dựng “một khoa học về hành vi con người”. Ông đề xuất nghiên cứu hành vi con người trong mối quan hệ con người với thực tại xung quanh. Mặc dù chưa đề cập đến động cơ thúc đẩy hành vi con người, nhưng Vưgôtxki đã xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận làm nền tảng cho hàng loạt công trình nghiên cứu về động cơ sau này. Năm 1953, X.L.Rubinstein xem “hành động ý chí nhất thiết bao hàm động cơ cho nên có thể phân biệt mức độ của hành động ý chí tùy thuộc tính chất của những động cơ chủ đạo”. Theo tác giả, động cơ ý chí có thể bắt nguồn từ những ham muốn, nhu cầu, cảm xúc, tính cách, tư tưởng, nhận thức trước những nhiệm vụ mà đời sống xã hội đặt ra. X.L.Rubinstein mới chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu nhiệm vụ chính của phạm trù động cơ và chỉ ra con đường giải quyết nhiệm vụ. Đến năm 1966 xuất hiện lý thuyết “tâm thế” của D.N.Uzanadze, cho rằng động cơ thúc đẩy hành vi con người tuân theo lý thuyết tâm thế. Ông cho rằng “nhu cầu là nguồn gốc tính tích cực” của nhân cách. Khi chủ thể hướng ra môi trường bên ngoài nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu trước mắt, thì mọi tình trạng xuất hiện nhất định gây ra trong chủ thể một tâm thế nhất định, và thông qua tâm thế này hướng dẫn toàn bộ hành vi tiếp theo của nó. Ông không tán thành việc đưa khái niệm “đấu tranh động cơ” vào tâm lý học. Vì ông cho rằng, mọi hành vi chỉ có một động cơ đem lại ý nghĩa cho hành vi đó. Quan điểm của ông bị các nhà tâm lý học khác phê phán, bởi động cơ tồn tại như một hệ thống những động cơ. Khi thực hiện một hoạt động bất kỳ, bao giờ cũng có sự đấu tranh giữa các động cơ đó. Tuy nhiên, ông đã vạch ra được những hiểu biết mới về khái niệm nhu cầu, các dạng nhu cầu, mối liên hệ của chúng với các hình thức hành vi con người, mối tương quan giữa hành vi và tâm thế. P.M.Jakobson thì xác định con người thực hiện những hành động do mục đích chung hoặc mục đích cụ thể. Ông phân biệt động cơ hành vi theo nghĩa hẹp, đó là những động cơ của hành vi cụ thể, và theo nghĩa rộng thì động cơ hành vi là tổng hòa những yếu tố tâm lý quyết định hành vi của con người nói chung. V.S.Merlin đồng nhất khái niệm động cơ với nhu cầu, nó biểu thị mối quan hệ con người với sự vật, hiện tượng. Mỗi động cơ đều có hai khía cạnh kích thích hành động và thái độ cảm xúc. Trong lịch sử nghiên cứu về vấn đề động cơ, Leonchiev là tác giả nghiên cứu sâu sắc và có sức thuyết phục lớn. Theo Leonchiev, đối tượng đáp ứng nhu cầu này hay nhu cầu khác nằm trong hiện thực khách quan, khi chúng bộc lộ ra và được chủ thể nhận biết. Đối tượng ấy có chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động, tức trở thành động cơ. Ông mô tả “đối tượng ấy xuất hiện với tính chất là một hiện tượng tinh thần, một động cơ thúc đẩy từ bên trong”. Động cơ có hai chức năng: - Thúc đẩy và hướng dẫn hoạt động - Tạo cho hoạt động một ý chủ quan, là một hình thức động cơ đặc thù phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể với hiện thực khách quan. Mỗi hoạt động có rất nhiều động cơ chi phối. Chúng hợp lại thành một hệ thống thứ bậc các động cơ. Con người hướng vào đối tượng nào đó đều phụ thuộc vào động cơ nổi lên chiếm ưu thế. Bản chất động cơ là cái tạo nên tính tích cực của hành vi, là động lực kích thích con người hoạt động. Nói cách khác, hoạt động là quá trình hiện thực hóa động cơ. Động cơ có thể tồn tại ở dạng tinh thần, bên trong chủ thể, và ở dạng vật thể hóa ra bên ngoài. Dưới hai hình thức ấy, động cơ vẫn là một đối tượng cần chiếm lĩnh. A.N.Leochiev chia động cơ ra thành hai loại: - Động cơ tạo ý, gắn liền với nhân cách, gắn cho hoạt động một hàm ý nhân cách. - Động cơ kích thích, là những động cơ làm “hoạt hóa” hoạt động. Tuy nhiên, sự phân loại và mối tương quan giữa hai động cơ này chỉ mang tính chất tương đối. Trong cấu trúc của một hoạt động thì động cơ này có thể có chức năng tạo ý, nhưng trong hoạt động khác, nó lại có chức năng kích thích phụ. Tuy nhiên, các động cơ tạo ý bao giờ cũng đứng ở thứ bậc cao, mặc dù đôi khi nó không tham gia vào kích thích, không trực tiếp có tính chất gợi cảm xúc. B.G.Aseev nghiên cứu động cơ với tư cách là động lực của hành vi. Ông đặt mối quan hệ giữa động cơ và tính cách, xu hướng, năng lực, tình cảm, hoạt động và các quá trình tâm lý của nhân cách. B.G.Aseev chia động cơ thành hai kiểu: - Động cơ quá trình, thể hiện hoạt động vui chơi. - Động cơ kết quả, thể hiện trong hoạt động lao động. Sự kết hợp hai loại động cơ này thể hiện ở mức cao nhất trong những hoạt động có tính chất sáng tạo. Tác giả tiếp theo là Bozovic, nghiên cứu của bà tập trung vào động cơ học tập của học sinh. Bà gọi tất cả những gì thúc đẩy tính tích cực trẻ đều là động cơ. Từ một số kết quả nghiên cứu bà rút ra kết luận, sự thúc đẩy hoạt động con người luôn xuất phát từ nhu cầu, đối tượng thỏa mãn nhu cầu chỉ quyết định tính chất, phương hướng của hoạt động. Qua tìm hiểu một số công trình nghiên cứu về động cơ hoạt động của các tác giả theo quan điểm tâm lý học Mac-xit, có thể đi đến những kết luận sau: - Động cơ chính là những yếu tố kích thích, thúc đẩy con người hoạt động. Nội dung của động cơ là mối quan hệ giữa chủ thể và môi trường. - Hoạt động của động cơ của con người có một hệ thống động cơ thúc đẩy theo cấu trúc thứ bậc. Động cơ nào chiếm ưu thế sẽ qui định xu hướng hành vi của con người. - Về vấn đề phân loại động cơ, các tác giả dựa trên nhiều bình diện khác nhau: + Trên bình diện nhân cách thì có động cơ “tạo ý” và động cơ “kích thích”. + Trên bình diện quan hệ chủ thể và khách thể có động cơ xã hội và động cơ được nhận thức. + Trên bình diện diễn biến của quá trình hoạt động có động cơ quá trình và động cơ kết quả. 1.1.3. Lược khảo một số công trình nghiên cứu về động cơ ở Việt Nam: Ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về động cơ, có thể khái quát ở 3 nhóm: - Nhóm nghiên cứu về động cơ đạo đức. - Nhóm nghiên cứu về động cơ học tập. - Nhóm nghiên cứu về động cơ chọn nghề. Nhóm nghiên cứu về động cơ đạo đức có các công trình sau: * “Hình thành động cơ xã hội ở học sinh lớp ba” – Tác giả Phạm Thị Hưng Trinh. * “Thực nghiệm về sự hình thành động cơ đạo đức ở học sinh cấp I, cấp II” – Tác giả Đặng Xuân Hoài – Nghiên cứu trong hai năm học 1978-1979 và 1979-1980. * “Cơ sở của việc hình thành động cơ vì xã hội ở học sinh cấp III – Luận án phó tiến sĩ của tác giả Phạm Thị Nguyệt Lãng, nghiên cứu trong bốn năm: 1978, 1980, 1981, 1983. Nhìn chung các công trình nghiên cứu này quan tâm đến cùng vấn đề về động cơ xã hội. Trong hai đề tài của tác giả Phạm Thị Hưng Trinh và Phạm Thị Nguyệt Lãng, tác giả đều cho rằng động cơ vì xã hội ở đây được hình thành thông qua nhiều dạng hoạt động: hoạt động học tập, hoạt động xã hội công ích, hoạt động lao động… Điểm khác nhau của hai đề tài này là đối tượng nghiên cứu học sinh ở những độ tuổi khác nhau. Nhóm nghiên cứu về động cơ học tập có các công trình chủ yếu sau: * “Tìm hiểu quá trình hình thành ý thức về động cơ học tập”- Tác giả Nguyễn Thạc, đối tượng nghiên cứu là sinh viên Việt Nam đang học tại các trường Đại học Leningrad - Liên Xô (cũ), thực hiện trong năm học 1980-1981. * “Bước đầu xác định một số đặc điểm động cơ trong quá trình giải bài tập của học sinh lớp 10 và 11 ở một số trường PTTH nội thành TP.Hồ Chí Minh” – Tác giả Lý Minh Tiên - Luận văn tốt nghiệp cao học năm 1981. * “Hình thành động cơ học tập ở học sinh lớp 6” – Tác giả Lê Khanh, Đồng Ngọc Toàn, nghiên cứu trong năm học 1981-1982 * “Vấn đề hình thành động cơ học tập ở người lao động” – Tác giả Thái Xuân Đào. * “Tìm hiểu động cơ học tập của học sinh cấp II” – Tác giả Chanco - Luận văn Phó tiến sĩ, đối tượng nghiên cứu là học sinh trung học đệ nhất cấp Cam-pu-chia và học sinh cấp II ở Việt Nam. * “Động cơ và chất lượng học tập” – Tác giả Phạm Tất Dong. * “Tìm hiểu động cơ học tập của sinh viên khoa Tâm lý Giáo dục trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh” – Tác giả Nguyễn Công Hiệp - Luận văn tốt nghiệp Đại học năm 1993. * “Về phạm trù động cơ học tập của học sinh trong giai đoạn hiện nay” – Tác giả Phạm Thị Đức. Các công trình nghiên cứu động cơ học tập đều cho rằng, động cơ học tập là yếu tố chủ yếu cấu thành hoạt động học tập. Động cơ học tập rất đa dạng, bao gồm: động cơ học tập vì điểm, vì sợ ba mẹ, vì sợ thầy cô, học để có tri thức, học để chọn được nghề nghiệp tương lai… Động cơ học tập ở đây được chia ra làm hai nhóm: nhóm động cơ bên trong (động cơ nhận thức), nhóm động cơ bên ngoài (động cơ xuất phát từ mối quan hệ của học sinh, sinh viên với môi trường xung quanh). Trong đó, đặc biệt có công trình nghiên cứu động cơ học tập cho người lao động của tác giả Thái Xuân Đào, đối tượng nghiên cứu là người lao động. Nhóm nghiên cứu về động cơ chọn nghề có các công trình chủ yếu sau: * “Tìm hiểu động cơ chọn nghề của học sinh THPT” – Tác giả Phạm Thị Nguyệt Lãng. * “Động cơ học tập và quan hệ của nó với nguyện vọng chọn nghề của học sinh Lào” – Tác giả Khăm Phăn On - Luận văn Tiến sĩ năm 1994. * “Tìm hiểu động cơ chọn nghề của học sinh lớp 12, ở một số trường THPT, tại nội thành TPHCM” – Tác giả Phạm Thị Thiều Anh - Luận văn tốt nghiệp đại học 1996. * “Tìm hiểu động cơ thi vào Sư Phạm của các giáo sinh đang học năm I và II tại một số trường sư phạm của TPHCM” – Tác giả Võ Thị Hồng Trước - Luận văn tốt nghiệp 1994. Các công trình nghiên cứu về động cơ chọn nghề tập trung chủ yếu ở đối tượng là học sinh lớp 12 và sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học. Kết quả cho thấy động cơ chọn nghề cũng rất đa dạng và phức tạp, bao gồm được miễn học phí, vì sự lựa chọn của cha mẹ, vì bản thân thích… Trong đó, tác giả Võ Thị Hồng Trước tóm lại, ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về động cơ không phải hiếm, và các đề tài tập trung chủ yếu ở động cơ đạo đức, động cơ học tập, động cơ chọn nghề. 1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.2.1. Động cơ. 1.2.1.1. Khái niệm động cơ Thuật ngữ “động cơ” trong tiếng Latinh là motivation hoặc motif, có nghĩa là “duyên cơ”, các nguyên nhân thúc đẩy hành vi con người hành động. Nguyên nhân này nằm bên trong chủ thể, xuất phát từ nhu cầu sinh lý hoặc tâm lý. Động cơ xét về mặt sinh học, đó là những kích thích bản năng, ý hướng sinh vật, những hành vi phản xạ không điều kiện, và cả những rung cảm, hứng thú, ước ao. Hay trong tâm lý hành động, động cơ được xem như là những kích thích dòng điện. Trong tác phẩm “Motivation and emotion” (1961), P.T.Young xem động cơ là quá trình đánh thức, duy trì hoạt động tiến triển và điều chỉnh hành vi nói chung. Mặt khác, trước đó từ năm 1949, D.O.Hebb đã có những hướng nghiên cứu mới, ông cho rằng vấn đề chính mà Tâm lý học quan tâm khi nói về vấn đề động cơ, không phải là quá trình đánh thức, mà nó là sự điều chỉnh và định hướng hành vi con người. Còn một số quan điểm khác, như E.R.Hilgard cho rằng: “Động cơ là trạng thái bất kỳ có ảnh hưởng đến việc sẵn sàng bắt đầu hay tiếp tục hành vi nhất định” [7, 20] Gần với quan điểm của Hilgard, T.P.Guilford cũng đưa ra nhận định: “Động cơ là một trạng thái bên trong bất kỳ nào đó quy định, điều khiển việc bắt đầu hay duy trì tính tích cực” [8, 20] Còn H.C.Warrew thì nghiên cứu động cơ ở một khía cạnh khác, như là “sự trải nghiệm có ý thức hay những tình huống của tiềm thức mà trong hòan cảnh nào đó, chúng là yếu tố tham gia vào việc quyết định hành vi của cá nhân hay hành vi xã hội”. [367, 20] Rõ ràng, các nhà tâm lý học này đã loại bỏ phản xạ không điều kiện ra khỏi động cơ, và khi ấy động cơ chỉ có ý chí, ý thức và tự ý thức. A.Bewieki, nhà tâm lý học người Ba Lan coi động cơ là quá trình tâm lý từ bên trong, kích thích ta thực hiện mục đích và tiếp nhận những phương tiện tương ứng của hành động. Và B.X.Uzliadze khẳng định: “động cơ là giai đọan trước của hành động ý chí”. Còn B.Merlin thì đưa ra kết luận “động cơ là nguyên nhân tâm lý quyết định những hành động có mục đích của con người” [412, 20] Như vậy, động cơ là một hiện tượng tâm lý đặc biệt, được dùng như một khái niệm trung gian nhằm lý giải hành vi và các nguyên nhân của nó. Nhà tâm lý học người Nga, V.G.Axeev đã khẳng định động cơ như một hiện tư._.ợng tâm lý bậc cao. Trong từ điển tâm lý học của Nga, khái niệm động cơ được xác định ở ba khía cạnh. Thứ nhất, động cơ là các kích thích thúc đẩy hoạt động liên quan đến việc thỏa mãn một thu cầu nhất định của chủ thể. Đó là tập hợp những điều kiện bên trong và bên ngoài khêu gợi tính tích cực của chủ thể và định hướng cho tính tích cực đó. Thứ hai, động cơ là đối tượng (tồn tại ở hai dạng vật chất và tinh thần) thúc đẩy và quy định sự lựa chọn hướng hoạt động để đạt đến đối tượng đó. Thứ ba, động cơ là nguyên nhân được nhận thức, là cơ sở của sự lựa chọn hành động và các hành vi của nhân cách. Trong từ điển Tâm lý học của Raymond. J.Corsini (người Anh), động cơ được xem là cái thúc đẩy, nuôi dưỡng và định hướng các hành động tâm lý hay sinh lý. Động cơ bao gồm các lực thúc đẩy bên trong như: xung năng, các hứng khởi và mong muốn cần thiết. Theo A.Leonchiev, khi bàn về khía cạnh động cơ, ông đã đưa ra những ý tưởng sau: trước hết, ông xét đến mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa động cơ và nhu cầu, nhu cầu là mặt tất yếu khách quan, còn động cơ là biểu hiện chủ quan của nhu cầu. Thứ hai, động cơ chính là đối tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu được chủ thể tri giác, hình thành biểu tượng, và tư duy… Đó là sự phản ánh chủ thể về đối tượng thỏa mãn nhu cầu. Thứ ba, ông xác định chức năng của động cơ là thúc đẩy và định hướng hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu con người. Kết hợp từ các ý tưởng đó, trong một quyển sách dành cho sinh viên các trường Đại học Sư Phạm ở Liên xô cũ, Leonchiev định nghĩa: “Cái gì khi được phản ánh vào trong đầu óc con người, thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn một nhu cầu nhất định thì gọi là động cơ của hoạt động ấy” [220, 16] Sau này, còn có một số tác giả khác, như Piaget cho rằng tính định hướng tích cực có chọn lọc của hành vi tạo thành bản chất của động cơ. Bên cạnh đó, tác giả Rolnald E.Smith định nghĩa động cơ như một quá trình bên trong có ảnh hưởng đến hướng, tính bền vững và sức mạnh của hành vi có mục đích. Nói tóm lại, trong tâm lý học có rất nhiều định nghĩa khác nhau về động cơ hoạt động của con người. Tuy nhiên, các định nghĩa đều thống nhất trong cách nhìn nhận động cơ là một hiện tượng tâm lý thúc đẩy, quy định sự lựa chọn và hướng của hành vi, nhằm lý giải nguyên nhân dẫn đến hành vi đó. Ta có thể kết luận định nghĩa về động cơ như sau: “Động cơ là cái được phản ánh trong đầu óc con người và thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu nhất định” [34, 25]. Hay nói cách khác, động cơ là cái thúc đẩy hoạt động của con người khi nhu cầu bắt gặp đối tượng có thể thỏa mãn được nó. Đề tài này chủ yếu đi theo hướng của tâm lý hoạt động nên việc đi tìm động cơ sẽ liên quan đến nhu cầu, hứng thú, hoạt động … Vì vậy cần tìm hiểu thêm các khái niệm này. - Nhu cầu: là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần phải thỏa mãn trong những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển. Có thể phân thành 2 loại nhu cầu: + Nhu cầu vật chất: giúp cho sự tồn tại và phát triển về mặt sinh học, đó là nhu cầu ăn, uống, ngủ … + Nhu cầu tinh thần: Bao gồm những nhu cầu về các hoạt động trên lĩnh vực nhận thức, học tập, giao lưu … - Hứng thú: là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa trong cuộc sống, vừa đem lại cho cá nhân sự hấp dẫn về mặt tình cảm. - Hoạt động: là quá trình xác lập, vận hành các mối quan hệ nhất định của con người với thế giới xung quanh và với chính bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu của mình. Con người thông qua các hoạt động của mình lĩnh hội các tri thức, kinh nghiệm… do thế hệ trước để lại, từ đó hình thành và phát triển tâm lý của mình. Vì thế hoạt động giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Hoạt động của con người manh tính tích cực, chủ động và sáng tạo. Như vậy con người có rất nhiều hoạt động trong cuộc sống như: hoạt động lao động, hoạt động học tập, hoạt động vui chơi, hoạt động nghiên cứu khoa học… Ở mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có một hoạt động chủ đạo chi phối các hoạt động khác. Hoạt động học: Là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định. Để hình thành hoạt động học cần: + Hình thành động cơ học tập + Hình thành mục đích học tập + Hình thành các hành động học tập 1.2.1.2. Bản chất của động cơ Trước hết, động cơ là sự phản ánh tâm lý về đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu được đề cập ở đây bao giờ cũng có đối tượng cụ thể. Lúc đầu, chủ thể chưa nhận ra đối tượng của nhu cầu, chủ thể xuất hiện trạng thái cần một cái gì đó. Chỉ khi nhu cầu bắt gặp được đối tượng có khả năng thỏa mãn nó, đối tượng ấy được tri giác, tư duy, nó đạt được khả năng thúc đẩy và định hướng hoạt động chủ thể, tức trở thành động cơ của hoạt động. Thứ hai, động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử - xã hội. Điều này khẳng định, động cơ của con người nảy sinh và hình thành trong quá trình phát triển của cá thể, chứ không phải có sẵn từ lúc mới sinh ra. Hệ thống động cơ con người được hình thành trên cơ sở hoạt động và giao tiếp của chủ thể trong mối quan hệ xã hội, cũng như trong mối quan hệ con người với thế giới khách quan. Mặt khác, tính lịch sử - xã hội của động cơ còn thể hiện ở chỗ, đối tượng thỏa mãn nhu cầu của con người là những sản phẩm của quá trình sản xuất xã hội. Kể cả đối với những động cơ có nguồn gốc sinh học, đáp ứng nhu cầu tồn tại của cơ thể, vì việc đáp ứng cũng mang tính xã hội, phụ thuộc điều kiện sống cụ thể, đặc biệt là văn hóa, lối sống. * Về Bản chất của động cơ [1, 23] Trong tâm lí học, vấn đề bản chất động cơ còn nhiều quan điểm khác nhau, nhưng theo Tâm lí học Macxit, động cơ là sự phản ánh tâm lí về đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu bao giờ cũng nhằm vào một đối tượng nhất định. Nó hối thúc con người hành động nhằm đáp ứng thoả mãn và chỉ khi gặp được đối tượng có khả năng thoả mãn thì nó mới có thể trở thành động cơ thúc đẩy, định hướng hoạt động của chủ thể, thôi thúc con người hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu. Như vậy, ở đây có mối quan hệ giữa động cơ và nhu cầu. Trong tâm lí học, hai hiện tượng này luôn được nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhiều khi đan xen nhau, khó tách rời. Có thể nói rằng, nếu nhìn nhận nhu cầu như là một tất yếu khách quan, thể hiện sự đòi hỏi của chủ thể về những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển, thì động cơ là biểu hiện chủ quan của tất yếu khách quan đó. Tuy nhiên, động cơ và nhu cầu không đồng nhất với nhau, những nhu cầu giống nhau có thể được thoả mãn bằng những động cơ khác nhau. Và ngược lại, ở đằng sau những động cơ khác nhau lại có những nhu cầu khác nhau. Mối quan hệ không đồng nhất giữa động cơ và nhu cầu nhờ tính chất đa dạng, đa phương thức trong động cơ, và cách thức thoả mãn nhu cầu trong hành động của con người. Có thể nói: động cơ của hoạt động có thể thấy đó chính là đối tượng của hoạt động ấy. [1, 23]. Xét về phương diện phát sinh, thì đối với hoạt động của con người, sự không trùng khớp giữa các động cơ và mục tiêu là hiện tượng khởi điểm. Trái lại, sự trùng khớp động cơ và mục tiêu lại là hiện tượng có sau: hoặc đó là kết quả của việc mục tiêu có một động lực thúc đẩy độc lập, hoặc đó là kết qủa của sự ý thức về các động cơ làm cho chúng trở thành những động cơ - mục tiêu. Khác với mục tiêu, các động cơ thường không được chủ thể ý thức về nó ngay lúc đó, khi chúng ta thực hiện những hành động này hay hành động khác thì thường lúc đó chúng ta không ý thức về những động cơ đã thúc đẩy chúng ta. Khi được hỏi về duyên cớ của hành động đó thì chúng ta không khó khăn gì khi nêu ra nó, nhưng việc nêu duyên cớ này hoàn toàn không phải bao giờ cũng chỉ rõ cho người ta biết những động cơ thực sự đã thôi thúc các hành động ấy. Tuy nhiên, những động cơ này cũng không tách rời khỏi ý thức, ngay cả khi con người không ý thức được động cơ hành động của mình thì ngay những lúc như vậy, động cơ cũng được phản ánh vào tâm lí, nhưng ở dưới một hình thức đặc biệt: hình thức sắc thái cảm xúc của hành động. Sắc thái cảm xúc này (cường độ, dấu hiệu của nó và đặc tính về chất của nó) thực hiện một chức năng đặc biệt, và điều đó đòi hỏi phải phân biệt khái niệm cảm xúc với khái niệm hàm ý nhân cách. Tuy thế, không phải ngay từ đầu đã có sự không trùng khớp của hai khái niệm này, mà sự không trùng khớp chỉ xuất hiện do kết qủa phân đôi chức năng của động cơ nảy sinh trong tiến trình phát triển của hoạt động con người. Còn việc những động cơ mà lúc bấy giờ không được ý thức, hoàn toàn không chứng tỏ rằng động cơ là một bản nguyên đặc biệt, lẩn khuất trong những tầng sâu của tâm lý. Những động cơ không được ý thức cũng chịu sự quy định như bất cứ một sự phản ánh tâm lí nào khác, chịu sự quy định của tồn tại thực tế, của hoạt động con người trong thế giới khách quan. Và các động cơ chỉ lộ ra trước ý thức một cách khách quan bằng cách phân tích hoạt động của con người, còn trong chủ quan thì những động cơ chỉ thể hiện dưới dạng gián tiếp của nó mà thôi, tức là dưới dạng hình thức những trải nghiệm như: mong muốn, ý muốn, nguyện vọng đạt tới mục tiêu… Sự ý thức được động cơ là một hiện tượng có sau, chỉ nảy sinh ở mức độ nhân cách và thường xuyên được tái tạo lại trong tiến trình phát triển nhân cách. Các động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử - xã hội. Động cơ của con người nảy sinh ngay trong chính quá trình phát triển của cá thể, chứ không phải có sẵn từ lúc đứa trẻ mới sinh ra. Trong tuổi ấu nhi, các động cơ mới được hình thành một cách có thứ bậc, nhưng hết sức mờ nhạt, không rõ ràng. Dần dần, trong quá trình phát triển, những động cơ này mới dần mang tính chất xã hội nhiều hơn, do những động cơ đó gắn liền với việc trẻ lĩnh hội được những chuẩn mực, quy tắc hành vi trong xã hội. Phần lớn các nhà tâm lí học đều thừa nhận rằng, hệ thống động cơ của con người được hình thành trên cơ sở hoạt động, giao tiếp của con người trong hệ thống các quan hệ xã hội, nhóm xã hội nhất định. Nhưng trong hoàn cảnh buộc con người phải lựa chọn động cơ nào cho phù hợp với việc tiến hành hành động, khi đó có quá trình đấu tranh động cơ, hành động ý chí, khả năng nhận thức sẽ giúp con người đối chiếu, so sánh động cơ để chọn ra đâu là động cơ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xung quanh, giúp chủ thể lường trước diễn biến và kết quả hành động. Tuy nhiên, để làm rõ cơ chế hình thành động cơ lại chưa được nhiều nhà nghiên cứu, nghiên cứu một cách sâu sắc. Mặt khác, đối tượng thoả mãn của con người là những sản phẩm của quá trình sản xuất xã hội, với tư cách là những phản ánh tâm lí về đối tượng đó nên động cơ đặc trưng của con người mang nguồn gốc xã hội. Ngay cả một số động cơ mang tính chất sinh vật như động cơ đáp ứng nhu cầu tồn tại của con người, các nhu cầu bản năng của con người cũng mang tính xã hội, nó phụ thuộc vào điều kiện sống, lối sống, đặc trưng của mỗi dân tộc. [2,23]. 1.2.1.3. Cấu trúc động cơ của nhân cách. Nghiên cứu cấu trúc động cơ có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong ứng dụng tâm lí học, nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục điều chỉnh hành vi lệch chuẩn. Phần lớn các nhà tâm lí học khẳng định rằng, động cơ của con người mang tính hệ thống. Các động cơ khác nhau của con người nằm trong một mối quan hệ chặt chẽ tạo nên một hệ thống thống nhất, trọn vẹn. Trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể mà phân biệt đâu là động cơ chủ đạo, đâu là động cơ thứ yếu. Sự đấu tranh động cơ, động cơ nào sẽ là động lực thúc đẩy chính con người tham gia vào quá trình hoạt động do trình độ nhận thức của mỗi người, do các quy tắc, chuẩn mực mà con người nắm được trong quá trình hoạt động của mình. Ngày nay, trong tâm lí học có khá nhiều cách phân loại động cơ dựa trên các tiêu chí khác nhau. Người ta có thể phân ra, động cơ gần, động cơ xa, động cơ thứ phát, động cơ nguyên phát, động cơ tạo ý hay động cơ chức năng thúc đẩy, động cơ đẩy hay động cơ kéo…. Trong thực tiễn của cuộc sống, chúng ta đều nhận thấy rằng, mỗi người sống trong một thời đại có những động cơ gần như giống nhau. Nhiều nhà tâm lí học đã khái quát nên những động cơ chung nhất như: động cơ thành đạt, động cơ giao tiếp, động cơ tự khẳng định bản thân… Tuy nhiên, với mỗi người lại có những động lực thúc đẩy họ thực hiện theo những cách riêng nhằm đáp ứng động cơ đó. Như vậy trong cấu trúc của một động cơ, ít nhất có thể thấy được hai khía cạnh: khía cạnh nội dung của động cơ và khía cạnh lực của động cơ. - Về nội dung của động cơ: nội dung của động cơ phản ánh cái mà con người muốn vươn tới, muốn đạt tới. Nội dung này vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể, tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể nơi con người đang sống hay trong hoạt động của từng người cụ thể. Ví dụ như đối với nhà doanh nghiệp thì động cơ thành đạt mang tính khái quát được thực hiện trong hoạt động kinh doanh như sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường… còn đối với nhà khoa học thì đó lại là động cơ chiếm lĩnh tri thức, thực hiện trong các công tác nghiên cứu, tìm tòi, phát minh… [3, 23] - Khía cạnh lực của động cơ: phản ánh độ mạnh của động cơ. Khía cạnh lực thể hiện ở chỗ, một động cơ nhất định có khả năng thúc đẩy những hoạt động khác nhau nhằm thoả mãn động cơ đó hay không. Nếu có thì có thể duy trì hoạt động đến mức nào, tính tích cực mạnh mẽ hay nửa vời… Vì các hiện tượng tâm lí nảy sinh và tồn tại như một hình thức phản ánh tích cực của môi trường sống và các hoạt động sống của con người. Các động cơ của con người cũng được phản ánh như vậy. Vì vậy, khó có thể tách rời khía cạnh nội dung và lực của động cơ. Một lực không có nội dung thì khó có thể đạt được một ý nghĩa nào đó và không tồn tại như một lực thúc đẩy. Sự thay đổi khía cạnh nội dung của động cơ sẽ kéo theo những thay đổi lực của động cơ. Khi đó, động cơ đã hình thành sẽ mất đi và thay vào đó là sự xuất hiện động cơ mới khác về chất. Tuy nhiên, lí thuyết về hai thành phần này của động cơ chưa được làm rõ trong các công trình nghiên cứu của tâm lí học. 1.2.1.4. Phân tích mối quan hệ giữa động cơ và nhu cầu Để có thể giải thích mối quan hệ giữa động cơ và nhu cầu, chúng ta cần đi vào nghiên cứu nguồn gốc hình thành động cơ của hoạt động. - Trước hết, những quan điểm của các nhà duy tâm cho rằng, nguồn gốc động cơ được tìm thấy trong tư duy, tức là các động cơ đi từ ý thức của con người. Sau đó, trên bước đường đầu tiên giải thích nguồn gốc động cơ một cách duy vật đã đồng nhất nó với những nhu cầu sinh học. Vô tình, quan điểm này quy tòan bộ tính đa dạng của nhu cầu con người về nhu cầu sinh học, phủ nhận bản chất xã hội của nhu cầu. - Tiếp theo, sau đó là quan điểm tiếp cận động cơ theo chủ nghĩa tự nhiên, động cơ được coi là cơ sở tự nhiên của cá nhân (không cần giải thích nguồn gốc động cơ) hoặc tìm cách giải thích nó từ sự phát triển ngẫu nhiên. Ở đây, động cơ được nghiên cứu cả nguồn gốc sinh học lẫn nguồn gốc xã hội, nhưng nó bị giới hạn trong sự phát triển ngẫu nhiên của cá nhân. - Trong tâm lý học hiện đại, nhu cầu được xem là “gốc rễ” của động cơ. Một nhu cầu thực sự bao giờ cũng là nhu cầu về một cái gì đó, chúng ta muốn đề cập đến tính đối tượng của nhu cầu. Trước khi được thỏa mãn lần đầu tiên thì nhu cầu chưa biết đến đối tượng của nó, đối tượng này cần phải được phát lộ ra. Lúc đó, nhu cầu chỉ xuất hiện như một điều kiện, một tiền đề cho hoạt động. Và khi nhu cầu tìm thấy đối tượng, đối tượng được hình dung, được tư duy ra, nó có được chức năng thúc đẩy và hướng dẫn hoạt động, tức trở thành động cơ. Như vậy, động cơ là sự phản ánh nhu cầu, biểu hiện chủ quan của nhu cầu. Còn nhu cầu là mặt tất yếu khách quan, nhu cầu buộc hành vi con người phải tìm ra những phương thức thỏa mãn nó, nhu cầu chính là nguồn gốc tính tích cực hoạt động, động lực thúc đẩy con người hành động. Vậy, động cơ và nhu cầu thống nhất biện chứng với nhau, nhưng không đồng nhất. 1.2.1.5. Giáo dục động cơ, thái độ học tập: Động cơ học tập tốt mới có thể tích cực học tập, đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, đó là việc khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực không chỉ từ nhà trường, gia đình mà cả xã hội. [1, 24] Động cơ học tập khá đa dạng cả về vật chất lẫn tinh thần gắn liền với nhu cầu của học sinh. Đã gắn với nhu cầu thì động cơ có thể xấu, có thể tốt. Tuy nhiên, nếu không phân tích khách quan, rất dễ truy chụp theo định kiến và làm triệt tiêu động lực học tập. Nhà trường, gia đình và xã hội phải tôn trọng những nhu cầu tự nhiên, chính đáng, từ đó xây dựng những động cơ học tập đúng. Về phía xã hội cũng phải điều chỉnh sao cho lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội hài hòa thì mới động viên được học sinh có được những động cơ học tập tốt thật sự, để góp phần vào sự phát triển của đất nước. Có một cách nhìn hợp lý, hiện đại về động cơ học tập mới có thể hướng người học vào những cột trụ giáo dục đúng hướng: Học để biết - học để làm - học để hòa nhập - học để khẳng định mình. Giải quyết như thế sẽ không rơi vào khiên cưỡng, giáo điều, lý tưởng hóa quá mức trong giáo dục động cơ, thái độ học tập. Cùng với vấn đề quan niệm phải giải quyết như trên, một điều rất quan trọng là phải xây dựng các điều kiện cho hành động. Không thể có hành động đúng nếu không có được các điều kiện phù hợp - đó là điều người ta đã rút ra khi bàn về xây dựng lối sống có văn hóa. Với việc giáo dục động cơ, thái độ học tập cũng vậy. Phải xây dựng các điều kiện về tư tưởng, về tổ chức và cả về kinh tế nữa. Về tư tưởng rất cần quan tâm xác định cho đúng một hệ thống chuẩn mực, giá trị xã hội tiến bộ. Nhiều giá trị “ảo”, “phù phiếm”, thậm chí không lành mạnh xuất hiện, đây đó đã làm lệch lạc động cơ phấn đấu của nhiều sinh viên. Đó là điều cần giải quyết cả trên tầm vĩ mô. Khi xã hội tôn vinh các chuẩn mực giá trị tiến bộ, hiện đại, sinh viên sẽ có định hướng đúng trong việc xây dựng động cơ và thái độ học tập, hành động. Đó cũng là một thứ biểu hiện luật “cung - cầu”, luật “giá trị”. Về tổ chức, phải xem lại việc tổ chức dạy học hiện nay. Không cải cách giáo dục triệt để sẽ khó nói đến chuyện giáo dục động cơ, thái độ đúng. Về điều kiện kinh tế cũng vậy. Không chỉ là vấn đề tạo điều kiện sống để học tập, mà còn phải chú ý đến nhiều vấn đề về đòn bẩy kinh tế trong thời gian học (chế độ thưởng, học bổng...) là chính sách kinh tế đãi ngộ ở đầu ra với người học tốt v.v... Giáo dục không thể giải quyết những vấn đề của nó một cách đơn độc mà phải có sự góp sức của toàn xã hội, trong đó rất quan trọng là của lực lượng lãnh đạo, quản lý xã hội từ thấp đến cao. Cố nhiên về phía mình, ngành giáo dục với ưu thế chuyên sâu phải có những nghiên cứu toàn diện, phải có đề xuất, hơn nữa phải đấu tranh cho những quan điểm đúng, hiện đại. Có như thế giáo dục mới làm được chức năng đi trước chuẩn bị cho các bước phát triển xã hội cần có. [1, 24] 1.2.1.6. Sự hình thành hoạt động học tập. * Động cơ học tập. Khi con người có nhu cầu học tập, xác định được đối tượng cần đạt thì xuất hiện động cơ học tập. Động cơ học tập được thể hiện ở đối tượng của hoạt động học, tức là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… mà giáo dục đem lại. Nghiên cứu về động cơ học tập, ta tìm thấy các lý luận nghiên cứu từ các nhà tâm lý học Nga như: L.I.Bozovik, A.N.Leonchiep, A.K.Markova… [1, 23] Nhiều nhà tâm lý học đều khẳng định: hoạt động học tập của sinh viên được thúc đẩy bởi nhiều động cơ. Các động cơ này tạo thành cấu trúc xác định có thứ bậc của các kích thích, trong đó có một số động cơ là chủ đạo, cơ bản, một số động cơ khác là phụ, là thứ yếu. Động cơ học tập của sinh viên theo L.I.Bozovick có một số biểu hiện: sinh viên học vì cái gì, cái gì thúc đẩy họ học tập và tất cả những kích thích đối với hoạt động học tập của họ. Có nhiều cách phân lọai động cơ học tập của sinh viên: Theo L.I. Bozovik, A.K.Dusaviski… động cơ học tập của sinh viên được phân thành hai lọai: động cơ học tập mang tính xã hội và động cơ mang tính nhận thức. Phát triển quan điểm trên, A.K.Marcova và V.A.Kruteski cho rằng: ngoài hai động cơ trên còn có loại thứ ba: Động cơ sáng tạo hay động cơ nhận thức mang tính xã hội. Đó là mức phát triển cao nhất của động cơ học tập Động cơ hoàn thiện tri thức: là mong muốn khao khát chiếm lĩnh, mở rộng tri thức, say mê với việc học tập…, bản thân tri thức và phương pháp dành tri thức có sức hấp dẫn, lôi cuốn sinh viên. Người có động cơ này luôn nỗ lực ý chí, khắc phục trở ngại từ bên ngòai để đạt nguyện vọng bên trong. Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ hòan thiện tri thức thường không chứa đựng xung đột bên trong. Có thể có những khó khăn trong quá trình học tập, đòi hỏi phải có nỗ lực ý chí để khắc phục, nhưng là khắc phục các trở ngại bên ngoài chứ không hướng vào đấu tranh với chính bản thân. Do đó, chủ thể của hoạt động học không có những căng thẳng tâm lý. Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này được cho là tối ưu trong lĩnh vực sư phạm. Động cơ quan hệ xã hội: sinh viên học bởi sự lôi cuốn hấp dẫn của các yếu tố khác như: đáp ứng mong đợi của cha mẹ, cần có bằng cấp vì lợi ích tương lai, lòng hiếu danh hay sự khâm phục của bạn bè,… đây là những mối quan hệ xã hội cá nhân được hiện thân ở đối tượng học. Đối tượng đích thực của hoạt động học tập chỉ là phương tiện để đạt mục tiêu cơ bản khác. Động cơ học tập không có sẵn hay tự phát, mà được hình thành dần dần trong quá trình học tập của sinh viên dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giảng viên. Để hình thành động cơ học tập cho sinh viên, giáo viên cần làm cho việc học của họ trở thành nhu cầu không thể thiếu thông qua tổ chức bài giảng, sử dụng phương pháp dạy học… sao cho kích thích được tính tích cực, tạo hứng thú cho sinh viên. Động cơ nói chung và động cơ học tập nói riêng thường liên hệ mật thiết tới hứng thú của mỗi người. Nhờ có hứng thú mà động cơ ngày càng mạnh mẽ. Vì thế vai trò của hứng thú trong học tập rất lớn. Trong học tập chẳng những cần có động cơ đúng đắn mà còn phải có hứng thú bền vững thì sinh viên mới có thể tiếp thu tri thức hiệu quả nhất. Ngoài ra, các yếu tố bên ngoài như kinh tế gia đình, quan hệ thầy cô, bạn bè, cơ sở vật chất nhà trường… cũng có ảnh hưởng đến động cơ học tập của sinh viên. Vậy khi xem xét động cơ học tập không thể bỏ qua các yếu tố này. Các yếu tố của hoạt động học được hình thành trong chính hoạt động học. Nói đến hình thành hoạt động học, trước hết phải nói đến sự hình thành động cơ học tập. Hoạt động học với chủ thể là người học, còn đối tượng của nó là những tri thức khoa học, với mục tiêu cuối cùng là hình thành nhân cách cho người học. Chủ thể khi tiến hành hoạt động học, chiếm lĩnh tri thức thì chính tri thức đó trở thành cái tinh thần, thôi thúc người học. Vì vậy có thể hiểu động cơ học tập là sức mạnh tinh thần điều khiển, điều chỉnh hoạt động học nhằm chiếm lĩnh tri thức khoa học, để thoả mãn nhu cầu nào đó. Xét về mặt lý luận, mỗi hoạt động được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định. Hoạt động học hướng đến là những tri thức khoa học, thì chính nó (tức là đối tượng của hoạt động học) trở thành động cơ của hoạt động ấy. Động cơ hoàn thiện tri thức là động cơ chính của hoạt động học tập. Nhưng trên thực tế còn có động cơ quan hệ xã hội. Nó “bám vào”, “hiện thân” trên động cơ hoàn thiện tri thức, trở thành một bộ phận của động cơ hoàn thiện tri thức. Khi động cơ hoàn thiện tri thức được đáp ứng thì đồng nghĩa với nó là động cơ quan hệ xã hội cũng được thoả mãn. Cả hai loại động cơ này đều xuất hiện trong quá trình học tập và trong từng hoàn cảnh cụ thể, điều kiện nào đó mà động cơ này hay động cơ kia chiếm vị trí quan trọng hơn, nổi lên và chiêm ưu thế trong thứ bậc động cơ. Sự phân chia động cơ như vậy chỉ có tính chất tương đối. 1.2.1.7. Mục đích học tập. Theo tâm lý học hoạt động, mục đích được hiểu là cái mà hành động đang diễn ra hướng tới. Hoạt động học được thúc đẩy bởi động cơ và nó được tiến hành dưới các hành động học. Vậy mục đích của hoạt động học là các khái niệm, các giá trị, các chuẩn mực… mà hành động học đang diễn ra hướng đến nhằm đạt được nó. Quá trình hình thành mục đích bắt đầu từ việc hình thành trong chủ thể dưới dạng là các biểu tượng, sau đó được tổ chức để hiện thực hoá biểu tượng trên thực tế, và khi thực tế có hoàn thành được thì mục đích được hoàn thành. Mục đích của hoạt động học cũng được hình thành như vậy, chỉ có điều nó có tính đặc thù riêng, đó là việc hình thành mục đích học tập hướng đến là để thay đổi chính chủ thể, ở đây là người học. Và mục đích này chỉ có thể được bắt đầu hình thành khi chủ thể bắt đầu bắt tay vào thực hiện hành động học tập của mình. Trên con đường chiếm lĩnh đối tượng nó luôn diễn ra quá trình chuyển hoá giữa mục đích và phương tiện học tập. Mục đích bộ phận được thực hiện đầy đủ nó lại trở thành công cụ để chiếm lĩnh các mục đích tiếp theo. 1.2.1.8. Đặc điểm chung của hoạt động học tập của sinh viên. - Hoạt động học tập của sinh viên có tính chất độc đáo về mục đích và kết quả hoạt động. Đó là, khác với lao động, học tập không làm thay đổi đối tượng mà thay đổi chính bản thân mình. Sinh viên học tập để tiếp thu các tri thức khoa học, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách người chuyên gia tương lai. - Hoạt động học tập được diễn ra trong điều kiện có kế hoạch vì nó phụ thuộc vào nội dung, chương trình, mục tiêu, phương thức và thời hạn đào tạo. - Phương tiện hoạt động học tập là thư viện, sách vở, máy tính… - Tâm lý diễn ra trong hoạt động học tập của sinh viên với nhịp độ căng thẳng, mạnh mẽ về trí tuệ. - Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập cao Cốt lõi của hoạt động học tập của sinh viên là sự tự ý thức về động cơ, mục đích, biện pháp học tập. 1.2.1.9. Tính tích cực trong hoạt động học của sinh viên. Việc tạo ra tính tích cực học tập của sinh viên là nhiệm vụ chủ yếu của người thầy giáo trong nhà trường đại học. Một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng mạnh tới tính tích cực hoạt động học tập của sinh viên là do sự vận dụng một cách thích hợp phương pháp giảng dạy của thầy. Theo Thái Duy Tiên thì "Tính tích cực học tập của sinh viên là tập hợp các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người sinh viên từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức, để nâng cao hiệu qủa học tập" Tính tích cực học tập của sinh viên được thể hiện qua một số đặc điểm cơ bản sau: - Trong giờ học sinh viên có chú ý tới bài giảng hay không - Mức độ tự giác tham gia vào xây dựng bài học, trao đổi thảo luận, ghi chép. - Thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập được giao - Hiểu bài và có thể trình bày lại theo cách hiểu của mình - Có hứng thú học tập - Biết vận dụng những tri thức được học vào thực tiễn - Có sáng tạo trong quá trình học tập. 1.3. Những đặc điểm phát triển tâm lý cơ bản của thanh niên sinh viên (từ 19 đến 25 tuổi) 1.3.1. Những điều kiện phát triển của thanh niên sinh viên: 1.3.1.1. Sự phát triển về thể chất Đến 25 tuổi, sự phát triển về thể chất của con người đã đạt đến mức hòan thiện. Điều này được thể hiện tập trung ở chỗ: - Trọng lượng não đạt mức tối đa, số lượng nơron thần kinh lên tới mức cao nhất (14 -16 tỉ), với chất lượng hòan hảo nhờ quá trình myelin hóa cao độ. Số lượng xinap của các tế bào thần kinh đảm bảo cho một sự liên lạc rộng khắp, chi tiết, tinh tế, và linh hoạt giữa vô số các kênh, làm cho hoạt động của não bộ trở nên nhanh, nhạy, chính xác, đặc biệt so với các lứa tuổi khác. Nhà sinh lý học thần kinh Sơ-lây-ben đã nghiên cứu và tính tóan được rằng, nhiều tế bào thần kinh ở tuổi sinh viên có thể nhận tin từ 1200 noron trước và gửi thông tin đi từ 1200 nơron sau. Với sự phát triển hòan hảo của hệ thần kinh, sinh viên có thể tích lũy 2/3 lượng tri thức của cuộc đời trong 6-7 năm trên ghế trường Đại học. [138, 13] Đây là giai đạon phát triển ổn định, đồng đều về hệ xương, cơ bắp, tạo ra nét đẹp hòan mĩ ở người thanh niên. Các tố chất về thể lực: sức nhanh, sức bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt đều phát triển mạnh nhờ sự phát triển ổn định của các tuyến nội tiết, cũng như sự tăng trưởng các hoócmôn nam và nữ. Tất cả những cái đó tạo điều kiện cho những thành công rực rỡ của thể thao và những hoạt động nghệ thuật. 1.3.1.2. Vai trò xã hội của sinh viên Sinh viên là một tầng lớp xã hội, một tổ chức xã hội quan trọng đối với mọi thể chế chính trị. Thanh niên sinh viên là nhóm người có vị trí chuyển tiếp, chuẩn bị cho một đội ngũ tri thức có trình độ và nghề nghiệp tương đối cao trong xã hội. Họ sẽ là nguồn dự trữ chủ yếu cho đội ngũ những chuyên gia theo các nghề nghiệp khác nhau trong cấu trúc của tầng lớp tri thức xã hội. Các tổ chức chính trị, xã hội, dòng họ, gia đình đều có nhiều kỳ vọng đối với sinh viên. Tất cả những điều này làm cho sinh viên có vai trò, vị trí xã hội rõ rệt. [139,13] Sinh viên là một công dân thực thụ của đất nước với đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ trước pháp luật. Khái niệm trưởng thành về xã hội được một số nhà xã hội học, tâm lý học nghiên cứu. Đến nay những tiêu chí mà họ đưa ra không phải hòan tòan là thống nhất. Nhìn chung, nhiều tác giả đề xuất các tiêu chí để xét một người đã trưởng thành gồm: - Có quyền công dân đầy đủ - Kết thúc việc học tập ở nhà trường - Có nghề nghiệp ổn định - Lao động làm ra của cải vật chất - Có cuộc sống độc lập, không phụ thuộc bố mẹ về kinh tế - Xây dựng cuộc sống gia đình riêng (lấy vợ, lấy chồng) Nhà Tâm lý học người Pháp Bianka Zazzo đã nghiên cứu tuổi trưởng thành của thanh niên và đi đến kết luận: trình độ học vấn và vị trí xã hội của con người có ảnh hưởng đến sự trưởng thành của họ. Những nghiên cứu của ông cho thấy: thanh niên nông thôn trưởng thành về mặt xã hội sơm hơn thanh niên công nhân. Thanh niên sinh viên trưởng thành về mặt xã hội mu._.i nước ngoài học hỏi, tìm hiểu thêm về lịch sử, văn hóa, xã hội… của Việt Nam. - Giải pháp 4: Cần có đội ngũ giảng viên chuyên giảng dạy cho sinh viên người nước ngoài + Tuyển chọn, đào tạo đội ngũ giảng viên có chuyên môn về ngành Việt Nam học + Đào tạo, tuyển chọn đội ngũ giảng viên hiểu biết tâm lý của sinh viên người nước ngoài. + Thông thạo tiếng Anh, hoặc tiếng bản địa của sinh viên. + Thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng sư phạm cho đội ngũ giảng viên giảng dạy cho sinh viên người nước ngoài. - Giải pháp 5: Giải pháp về thư viện, chỗ tự học. Sinh viên người nước ngoài học tập không chỉ ở giảng đường Đại học, mà còn mở rộng và đào sâu kiến thức của mình bằng nhiều cách như: học ở thư viện trường, học thêm ở khoa khác, trường khác, học trên các phương tiện truyền thông, để đáp ứng nhu cầu này cần: + Trang bị thư viện với các đầu sách về Việt Nam học cho sinh viên người nước ngoài: sách rèn luyện khả năng tiếng Việt, sách lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam. + Thư viện phải có hệ thống máy tính kết nối internet để thuận tiện cho sinh viên trong việc học tập, tra cứu. + Liên kết với thư viện các trường khác có ngành Việt Nam học cho sinh viên người nước ngoài để sinh viên có được nguồn sách đa dạng hơn từ thư viện trường bạn. + Trang bị phòng tự học riêng cho sinh viên người nước ngoài + Trang bị phòng học, phòng thực nghiệm với các máy móc, thiết bị thuận tiện cho việc dạy và học phát huy các kỹ năng tiếng Việt của sinh viên. - Giải pháp 6: Tạo môi trường sống và học tập cho sinh viên người nước ngoài. Để sinh viên người nước ngoài có sự thích ứng tốt khi đến sống và học tập tại Việt Nam cần: + Cho sinh viên giao lưu, học tập chung với sinh viên Việt Nam. + Tổ chức cho sinh viên đến từ các nước khác nhau học nhóm, học tổ chung với nhau. + Trong giảng dạy, giao tiếp với sinh viên người nước ngoài, thầy cô chú ý đưa các yếu tố về văn hóa, phong tục Việt Nam để sinh viên hiểu thêm và ứng dụng trong thực tế cuộc sống. + Tổ chức các buổi tham quan di tích lịch sử, văn hóa Việt Nam. + Tổ chức các chuyến dã ngoại, thâm nhập thực tế cuộc sống người Việt Nam. - Giải pháp 7: Biên soạn từ điển tiếng Việt + Từ điển phù hợp cho sinh viên người nước ngoài sử dụng. + Thống nhất giữa từ trong từ điển và từ từ thầy cô giảng dạy trên lớp. - Giải pháp 8: Hướng hoạt động học tập của sinh viên theo hướng độc lập, tự chủ và sáng tạo. + Tổ chức cho sinh viên tham gia các buổi thảo luận, semina. + Tổ chức cho sinh viên học nhóm, học tổ. + Giao bài tập cá nhân, bài tập về nhà với các chủ đề về lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam để phát huy tính độc lập, tinh thần tự học của sinh viên. + Tăng cường thuyết trình cá nhân. + Cho sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học, làm tiểu luận. + Việc giảng dạy của giáo viên phải có sự phối hợp đa dạng các phương pháp: thảo luận nhóm, đàm thoại, thuyết trình, nêu vấn đề… để phát huy tính độc lập, tự chủ và sáng tạo của sinh viên. Điều rất quan trọng là sinh viên người nước ngoài phải tìm ra phương pháp học tập mới ở bậc Đại học. Phương pháp đó phải phù hợp với những chuyên ngành Việt Nam học mà họ theo đuổi. Không tìm ra được cách học khoa học, sinh viên không thể đạt được kết quả học tập tốt vì khối lượng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo họ phải lĩnh hội trong những năm ở trường Đại học là rất lớn, rất đa dạng và sinh viên người nước ngoài phải học bằng một ngôn ngữ khác, không phải bằng tiếng mẹ đẻ đó là tiếng Việt. - Giải pháp 9: Rèn luyện tính kiên nhẫn. + Đưa phẩm chất kiên nhẫn vào nội dung bài giảng + Giao các bài tập cao hơn khả năng của sinh viên một mức, để có thể giải quyết được sinh viên phải kiên nhẫn tìm tòi. Yếu tố kiên nhẫn là hàng đầu vì việc nghiên cứu chuyên sâu Việt Nam học cần rất nhiều thời gian để tìm tòi, khám phá ra những nguồn tư liệu quý giá của lịch sử. Phải tiếp cận và so sánh, giúp sinh viên hiểu tốt hơn, và điều này rất có lợi cho việc hiểu văn hóa và cho tiến trình hội nhập văn hoá của Việt Nam. - Giải pháp 10: Đa dạng hóa đầu ra + Đưa sinh viên thực tập tại các công ty nước ngoài tại Việt Nam ngay từ khi còn học ở trường. + Liên kết với các công ty Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… tại Việt Nam để sinh viên người nước ngoài ra trường có nhu cầu sống tại Việt Nam sau khi ra trường có thể làm việc tại các công ty này. + Liên kết với các tổ chức chính phủ, các Đại sứ quán, Lãnh sự quán đóng tại Việt Nam của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, để sinh viên ngành Việt Nam học ra trường có thể công tác tại các đơn vị này. - Giải pháp 11: Trong giảng dạy chú ý đến những yếu tố tâm lý của sinh viên Động cơ học tập chính là nội dung tâm lý của hoạt động học tập. Động cơ này bị chi phối bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Để sinh viên người nước ngoài có động cơ đúng khi chọn ngành, cần chú ý đến những yếu tố tâm lý bên trong chủ thể như: hứng thú, tâm thế, niềm tin, thế giới quan, lý tưởng sống… Và những yếu tố nằm ngoài bản thân chủ thể như những yêu cầu của gia đình, xã hội. Động cơ học tập cũng có thể nảy sinh do chính hoạt động và những hòan cảnh, điều kiện cụ thể của hoạt động mang lại như: nội dung, phương pháp dạy học, nhân cách của thầy, cô giáo, các điều kiện, thiết bị dạy học, thư viện. Để làm được điều này cần phải: + Thường xuyên tổ chức các hoạt động dã ngoại, câu lạc bộ, giao lưu để gây hứng thú cho sinh viên trong học tập. + Tạo bầu không khí thoải mái để tạo tâm thế cho sinh viên dễ dàng tiếp thu bài. + Thường xuyên liên lạc, tiếp xúc với gia đình để hiểu hơn về hòan cảnh từng sinh viên, qua đó có cách giảng dạy sát với từng sinh viên + Bên cạnh việc rèn kỹ năng tiếng Việt, đưa những yếu tố về văn hóa, lịch sử Việt Nam vào nội dung giảng dạy vì nhiều sinh viên quan tâm tìm hiểu văn hóa, lịch sử, xã hội Việt Nam + Sử dụng các phương pháp giảng dạy: thảo luận nhóm, semina, thuyết trình cá nhân, để phát huy tính chủ động, tích cực và tăng hứng thú cho sinh viên. + Trang bị thiết bị dạy học như: máy chiếu, máy tính, internet, máy cát sét để giảng dạy cho sinh viên ngành Việt Nam học. + Thư viện với đa dạng đầu sách về chuyên ngành Việt Nam học cho sinh viên người nước ngoài. Chương 4: KẾT LUẬN 1. Đối chiếu kết quả nghiên cứu với mục đích, nhiệm vụ và giả thuyết, đề tài “Động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại TPHCM” đã đạt được: 1.1. Về lý luận: Chúng tôi đã phát triển thêm các lý luận về động cơ: + Từ thời cổ đại, vấn đề nguyên nhân thúc đẩy bên trong hoạt động của con người đã được các nhà khoa học đặt ra. Tuy nhiên, các nhà triết học cổ đại có sự hiểu nhầm rằng, cái thúc đẩy con người hành động là ý thức của anh ta về cái đó. Sai lầm ấy xuất phát từ việc quen giải thích hoạt động con người từ tư duy. Thực ra, cái thúc đẩy con người hoạt động không phải ý thức, nhận thức hay tư duy mà là nhu cầu. + Tâm lý học hành vi cổ điển của John B.Watson chỉ quan tâm đến những sự kiện, hành vì bên ngoài mà không xét đến yếu tố tiềm ẩn đằng sau nó, thúc đẩy con người hoạt động. Chủ nghĩa hành vi cổ điển coi hoạt động của con người chỉ là một dòng phản ứng theo công thức S->R. Cả chủ nghĩa hành vi cổ điển lẫn chủ nghĩa hành vi mới đều mắc phải sai lầm là đã sinh vật hóa con người, “xóa mọi ranh giới có tính nguyên tắc giữa hành vi động vật và hành vi con người”, đồng nhất tâm lý con người và tâm lý động vật. Các tác giả này cũng chưa giải thích được nguyên nhân nào thúc đẩy con người thực hiện các hành động. Họ cho rằng, nhu cầu con người cũng tương đương với nhu cầu của động vật, bỏ qua tính chất xã hội của con người. + Lý thuyết Phân tâm nhìn nhận động cơ con người như những bản năng. Cách lý giải của Phân tâm học về động cơ dẫn đến chỗ đối lập cá nhân với xã hội và xem xét môi trường sống chỉ như những điều kiện để bản năng con người vốn có từ lúc sinh ra, được bộc lộ dần trong quá trình phát triển của cá thể. + Tâm lý học Mac-xít dựa trên cơ sở phương pháp luận Triết học Mac-Lenin, xem con người là sản phẩm của lịch sử, xã hội, và là thực thể mang những phẩm chất, những thuộc tính được hình thành trong quá trình lao động và trong mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người trong xã hội. Quan điểm này không quá đề cao yếu tố xã hội, cũng không phủ nhận yếu tố sinh học trong bản thân con người. K.Marx chỉ ra rằng: “con người là một thực thể tự nhiên trực tiếp. Với tư cách là một thực thể tự nhiên, con người được phú cho những sức mạnh tự nhiên, những sức sống đã trở thành thực thể tự nhiên hoạt động”. Một số kết luận về động cơ hoạt động của các tác giả theo quan điểm tâm lý học Mac-xit: - Động cơ chính là những yếu tố kích thích, thúc đẩy con người hoạt động. Nội dung của động cơ là mối quan hệ giữa chủ thể và môi trường. - Hoạt động của động cơ con người có một hệ thống động cơ thúc đẩy theo cấu trúc thứ bậc. Động cơ nào chiếm ưu thế sẽ qui định xu hướng hành vi của con người. - Về vấn đề phân loại động cơ của Tâm lý học Mac-xit dựa trên nhiều bình diện khác nhau: + Trên bình diện nhân cách thì có động cơ “tạo ý” và động cơ “kích thích”. + Trên bình diện quan hệ chủ thể và khách thể có động cơ xã hội và động cơ được nhận thức. + Trên bình diện diễn biến của quá trình hoạt động có động cơ quá trình và động cơ kết quả. Nói tóm lại, trong tâm lý học có rất nhiều định nghĩa khác nhau về động cơ hoạt động của con người. Tuy nhiên, các định nghĩa đều thống nhất trong cách nhìn nhận động cơ là một hiện tượng tâm lý thúc đẩy, quy định sự lựa chọn và hướng của hành vi, nhằm lý giải nguyên nhân dẫn đến hành vi đó. Ta có thể kết luận định nghĩa về động cơ như sau: “Động cơ là cái được phản ánh trong đầu óc con người và thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu nhất định”. Hay nói cách khác, động cơ là cái thúc đẩy hoạt động của con người khi nhu cầu bắt gặp đối tượng có thể thỏa mãn được nó. 1.2. Về thực trạng: Kết quả nghiên cứu động cơ chọn ngành học Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại TPHCM (cụ thể là sinh viên người nước ngoài tại trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TPHCM) cho thấy: - Sinh viên người nước ngoài tại TPHCM đã có những nhận thức tích cực về lí do chọn học ngành Việt Nam học. Những lí do mà sinh viên đưa ra mang tính chiều sâu, bên trong, có sự cân nhắc, suy nghĩ chín chắn về ngành học mà mình chọn. - Động cơ học tập hiện nay của sinh viên người nước ngoài đang học ngành Việt Nam học tại TPHCM xuất phát từ các động cơ bên trong, mang tính tích cực, thể hiện sự quan tâm đến đất nước Việt Nam. Các bạn có động cơ chủ yếu là tìm hiểu về đất nước, lịch sử, văn hóa, con người Việt Nam, và động cơ học để biết tiếng Việt. Khi xét về động cơ học tập hiện nay của sinh viên, không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê giữa sinh viên nam và sinh viên nữ, giữa sinh viên các khối lớp và giữa sinh viên đến từ các nước khác nhau. - Về kế hoạch học tập: Đa số sinh viên người nước ngoài đang học ngành Việt Nam học tại TPHCM có kế hoạch học tập rõ ràng, tích cực. Những kế hoạch học tập này mang tính thiết thực, gắn liền với những hoạt động thực tế như: Đọc sách, báo, xem tivi, xem phim, nghe nhạc Tiếng Việt; Giao tiếp thường xuyên với người Việt, đi chơi, học tập chung với người Việt, được đa số sinh viên lựa chọn. Những hoạt động này rất phù hợp, vì chúng không những giúp cho sinh viên người nước ngoài nâng cao kiến thức, trau dồi thêm khả năng tiếng Việt mà còn hiểu thêm về văn hóa của Việt Nam. Không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê giữa sinh viên nam và sinh viên nữ, giữa sinh viên các khối lớp và giữa sinh viên đến từ các nước khác nhau về việc hoạch định kế hoạch học tập. - Việc du học bao giờ cũng gây cho sinh viên những khó khăn nhất định về ngôn ngữ, văn hóa, giao tiếp… Đa số sinh viên người nước ngoài học ngành Việt Nam học tại TPHCM gặp khó khăn trong môn viết, sai chính tả, nhầm lẫn ngữ pháp, và khó khăn trong việc phát âm. Bởi vì sự phong phú của tiếng Việt với những thanh dấu, sắc thái, ngôn ngữ khác nhau, đặc điểm phát âm của từng vùng,... gây nhiều khó khăn cho sinh viên nước ngoài trong việc học ngôn ngữ tiếng Việt. Giữa nam và nữ, giữa các khối lớp và giữa các quốc gia khác nhau không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê khi xét về những khó khăn trong quá trình học tập. - Trong những vấn đề sinh viên có nhu cầu học tập hàng đầu hiện nay thì chiếm tỷ lệ nhiều nhất vẫn là học tòan diện các lĩnh vực: lịch sử, văn hóa, xã hội của Việt Nam; Và học chuyên sâu về tiếng Việt. Không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê giữa sinh viên nam và sinh viên nữ, giữa sinh viên các khối lớp và giữa sinh viên đến từ các nước khác nhau khi xét về nhu cầu học tập hàng đầu hiện nay. - Sinh viên người nước ngoài có nhận thức đúng đắn trong mục đích học ngành Việt Nam học. Mục đích của các bạn khá đa dạng, và phần lớn là hướng tới những mục đích thiết thực cho bản thân và cho công việc chuyên môn. Bởi vì chiếm tỷ lệ nhiều nhất là mục đích học để dễ tìm việc làm; Và học để nâng cao trình độ chuyên môn. Không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê giữa sinh viên nam và sinh viên nữ, giữa sinh viên các khối lớp và giữa sinh viên đến từ các nước khác nhau khi xét về mục đích học tập. - Học lực của sinh viên người nước ngoài học ngành Việt Nam học tại Việt Nam ở mức cao. Có gần 40% sinh viên đạt học lực xuất sắc, giỏi, khá. Đây là một kết quả khá cao và đáng khích lệ. Học lực này phản ánh đa số sinh viên người nước ngoài có động cơ tích cực và ý thức học tập tốt. Khi xét về kết qủa học tập, không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê ở mức xác suất α = 0.05 giữa sinh viên nam và sinh viên nữ, giữa sinh viên các khối lớp và giữa sinh viên đến từ các nước khác nhau. - Lí do đến lớp của sinh viên là mang tính tích cực, có thể nhận thấy lý do phổ biến nhất thúc đẩy sinh viên đến lớp là việc tiếp thu tri thức và phương pháp, và sự cuốn hút của môn học. Tỷ lệ lựa chọn như thế là sự biểu hiện tích cực trong động cơ học tập của sinh viên. Không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê ở mức xác suất α = 0.05 giữa sinh viên nam và sinh viên nữ, giữa sinh viên các khối lớp và giữa sinh viên đến từ các nước khác nhau về lí do đến lớp. - Sinh viên hứng thú với chương trình học tập ngành Việt Nam học ở mức độ khả quan. Không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê ở mức xác suất α = 0.05 giữa sinh viên nam và sinh viên nữ, giữa sinh viên các khối lớp và giữa sinh viên đến từ các nước khác nhau khi xét về mức độ hứng thú đối với chương trình học. - Sinh viên người nước ngoài tập trung vào những hành động học tập tích cực đối với ngành Việt Nam học như: Nghiêm túc trong kiểm tra, thi cử; Đi nghe giảng đầy đủ, đúng giờ; Rèn luyện kỹ năng nói, phát âm... Những thói quen học tập này của sinh viên thể hiện tính tích cực, tự giác, chủ động trong học tập, gắn việc học với những hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, trong đó còn có một số sinh viên chưa bao giờ tham gia các buổi thảo luận, semina; Và nhiều sinh viên hiếm khi tích cực phát biểu, đặt vấn đề, xây dựng bài. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách tổng thể, hành vi học tập của sinh viên ngành Việt Nam học người nước ngoài là mang tính tích cực, chủ động. Không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê ở mức xác suất α = 0.05 giữa sinh viên nam và sinh viên nữ, giữa sinh viên các khối lớp và giữa sinh viên đến từ các nước khác nhau khi xét về những biểu hiện hành vi học tập. - Đa số sinh viên người nước ngoài chọn học ngành Việt Nam học tại TPHCM xuất phát từ những động cơ tích cực. - Từ những động cơ học tập tích cực đó, đã ảnh hưởng một cách hiệu quả đến kết quả học tập của sinh viên người nước ngoài đang học ngành Việt Nam học tại TPHCM. Như vậy, tất cả những thực trạng mà chúng tôi khảo sát được rất phù hợp với giả thuyết mà chúng tôi đã đề ra là: “Đa số sinh viên người nước ngoài chọn học ngành Việt Nam học tại TPHCM xuất phát từ động cơ tích cực” và “Động cơ học tập tốt ảnh hưởng một cách hiệu quả đến kết quả học tập của sinh viên người nước ngoài”. 1.3. Về giải pháp: Từ những kết quả khảo sát, chúng tôi đã đưa ra được 11 giải pháp, đặc biệt là các giải pháp: 1. Cần có một thời gian nhất định để sinh viên người nước ngoài làm quen, thích ứng với hoạt động học tập, hoạt động xã hội cũng như các sinh hoạt trong đời sống tập thể sinh viên tại Việt Nam. Để có sự thích ứng đó, rất cần sự giúp đỡ của giáo viên, Bộ môn và của Nhà trường. 2. Cần tổ chức các buổi tư vấn, định hướng để các bạn có sự định hướng đúng đắn, động cơ tích cực trước khi vào học ngành Việt Nam học. 3. Nghiên cứu, xây dựng một chương trình về Việt Nam học phù hợp với đối tượng sinh viên người nước ngoài. 4. Để gây hứng thú cho sinh viên trong học tập, cần tổ chức các câu lạc bộ, giao lưu với sinh viên các khoa khác trong trường và với các trường khác. 5. Cần có một đội ngũ giảng dạy hiểu biết tâm lý của sinh viên người nước ngoài, vừa kết hợp việc giảng dạy trên lớp với sử dung từ điển, và hoạt động thực tế. Như vậy, đề tài của chúng tôi đã đem lại một số điểm mới tuy chưa lớn. 2. Tuy vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi vẫn còn một số hạn chế như sau: - Vì hạn chế về mặt thời gian, khả năng và điều kiện cho phép nên trong đề này, người nghiên cứu chỉ mới khảo sát động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại TPHCM. Đề tài chưa nghiên cứu trên sinh viên ngành Việt Nam học người Việt Nam, cũng như chưa có sự so sánh, đối chiếu giữa sinh viên Việt Nam với sinh viên nước ngoài học ngành Việt Nam học. Vậy, người nghiên cứu mong muốn các công trình nghiên cứu sau sẽ tiếp tục nghiên cứu các vấn đề: - Đi sâu nghiên cứu động cơ học ngành Việt Nam học của sinh viên Việt Nam để có sự so sánh, đối chiếu với sinh viên người nước ngoài. - So sánh động cơ học tập của sinh viên có hòan cảnh khác nhau. - Các biện pháp hỗ trợ nhằm nâng cao động cơ học tập tích cực cho sinh viên người nước ngoài học ngành Việt Nam học. 3. Giới thiệu sự ứng dụng của kết quả nghiên cứu. Đề tài này có thể làm tài liệu cho các trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn trên cả nước tham khảo, ứng dụng vào việc biên sọan tài liệu, thiết kế chương trình giảng dạy, phương pháp giảng dạy phù hợp… nhằm tạo động cơ, hứng thú học tập cho sinh viên ngành Việt Nam học người nước ngoài. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. CÁC TÁC GIẢ VIỆT NAM 1. Tác giả Phạm Thị Thiều Anh. “Tìm hiểu động cơ chọn nghề của học sinh lớp 12, ở một số trường THPT tại nội thành thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn tốt nghiệp đại học. 1996. 2. Nguyễn Ngọc Bích. Tâm lý học nhân cách. NXBGD.1998. 3. Vũ Dũng. Từ điển Tâm lý học. NXB KHXH. 2000. 4. Phạm Minh Hạc. Hành vi và hoạt động. NXBGD. 1989. 5. Phạm Minh Hạc. Một số công trình tâm lý học của A.N.Leonchiev. NXBGD. 2003. 6. Phạm Minh Hạc. Một số vấn đề nghiên cứu tâm lý học nhân cách. NXBCTQG Hà Nội. 2004. 7. Phạm Minh Hạc. Tâm lý học (Sách giáo khoa dùng trong các trường cao đẳng sư phạm). NXNGD. 1989. 8. Phạm minh Hạc- Phạm hoàng Gia- Lê Khanh- Trần trọng Thuỷ. Tâm lý học (Tập I-II). NXB Giáo dục. 1989. 9. Trần Hiệp. Tâm lý học xã hội- Những vấn đề lý luận, Hà Nội. 1996. 10. Lê Văn Hồng. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm. NXBĐHQGHN. 1999. 11. Nguyễn Văn Lê. Chuyên đề tâm lý học. NXBGD. 1999. 12. Phan Trọng Ngọ. Các lý thuyết phát triển Tâm lý học. Đại học Sư phạm Hà Nội. 2003. 13. Vũ Thị Nho. Tâm lý học phát triển. Đại học Quốc gia Hà Nội. 2000. 14. Bùi Ngọc Oánh. Tâm lý học (tập 1). Trường Đại học Sư phạm. 1993. 15. Bùi Ngọc Oánh. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm (tập 3). Trường Đại học Sư phạm. 1993. 16. Nguyễn Thạc – Phạm Thành Nghị. Tâm lý học sư phạm đại học. NXB Giáo Dục. 1992 17. Thái Duy Tiên. Giáo dục học hiện đại. NXB ĐHQG. 2001 18. Nguyễn Khắc Viện (chủ biên). Từ điển tâm lí học. NXB Thế Giới. 1995. II. CÁC TÁC GIẢ NƯỚC NGOÀI 19. A.N. Leonchiev - Hoạt động – Ý thức – Nhân cách – NXBGD. 1989. 20. Aristote. Tác phẩm siêu hình. 21. Lomov. Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học. NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 22. M.H.A. Motivation theory and research. III. CÁC TÀI LIỆU KHÁC 23. 24. l 25. 26. 27. PHỤ LỤC PHIẾU CÂU HỎI MỞ CHO SINH VIÊN Hiện nay chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu đề tài: “Động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh”, rất mong các bạn vui lòng cung cấp cho chúng tôi những thông tin về vấn đề này bằng cách trả lời các câu hỏi sau đây. Xin trân trọng cảm ơn! 1. Lí do bạn chọn học ngành Việt Nam học? ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………… 2. Động cơ chọn học Việt Nam học? ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………… 3. Bạn có kế hoạch học tập như thế nào? ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………… 4. Những khó khăn bạn gặp phải trong quá trình học? ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………… 5. Bạn đang có nhu cầu học tập hàng đầu về vấn đề nào? ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………… 6. Mục đích học ngành Việt Nam học ở trường của bạn là gì? ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………… Câu 7: Bạn thường đến lớp vì lí do gì? ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………………… …………… PHỤ LỤC PHIẾU ĐIỀU TRA Hiện nay chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu đề tài “Động cơ chọn học ngành Việt Nam học của sinh viên người nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh” Rất mong các bạn cung cấp cho chúng tôi những thông tin về vấn đề này bằng cách trả lời các câu hỏi sau đây. Xin chân thành cảm ơn các bạn! Xin các bạn vui lòng đánh dấu (X) vào ô mà các bạn cho là thích hợp nhất - Hiện tại, bạn đang là sinh viên năm: + Năm thứ: Thứ 1 Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 + Giới tính: Nam Nữ + Bạn đến từ đất nước nào?......................... Từ câu 1 đến câu 4, bạn vui lòng chọn 3 ý. Câu 1. Lí do bạn chọn học ngành Việt Nam học? 1. Thích học tiếng Việt. 2. Để có thể giao tiếp thành thạo tiếng Việt 3. Muốn tìm hiểu về đất nước, lịch sử, văn hóa, con người Việt Nam 4. Muốn tìm hiểu về kinh tế Việt Nam 5. Hiện nay tôi đang sống ở Việt Nam, chưa nói được tiếng Việt nên chọn ngành này 6. Học ngành Việt Nam học để sau này có thể sống ở Việt Nam 7. Để sau này có thể dễ dàng làm việc ở Việt Nam 8. Việt Nam là nước đang phát triển, sẽ có nhiều nước khác đầu tư vào Việt Nam 9. Tôi tin rằng học tiếng Việt sẽ có nhiều thành công trong tương lai 10. Giúp gia đình quản lý công ty ở Việt Nam 11. Gia đình khuyến khích tôi làm việc ở Việt Nam 12. Thực hiện ước mơ trở thành thông dịch viên 13. Học ngành Việt Nam học sẽ đầy đủ hơn, toàn diện hơn là chỉ học Tiếng Việt 14. Là bước đệm để học các chuyên ngành Khoa học khác tại Việt Nam: Lịch sử, Văn hóa, Kiến trúc… 15. Kinh tế ở đất nước tôi đang xuống dốc, nên khó tìm việc, tôi muốn tìm việc ở Việt Nam 16. Học ngành Việt Nam học để sau này làm việc cho các cơ quan ngoại giao 17. Tôi đang đi làm tại Việt Nam, nên phải biết Tiếng Việt 18. Để sau này tôi về nước, làm công việc liên quan đến Tiếng Việt 19. Vì người nước ngoài ở Việt Nam chỉ được chọn ngành này, trước khi học các ngành khác 20. Ngành Việt Nam học dễ thi vào 21. Không muốn, do gia đình bắt học 22. Đơn giản chỉ là để học một trường đại học 23. Lỡ vào rồi thì học luôn 24. Lí do khác (nếu có vui lòng viết ra)………… Câu 2: Động cơ học tập hiện nay của bạn là gì? 1. Học để biết tiếng Việt 2. Học để hiểu về đất nước, lịch sử, văn hóa, con người Việt Nam 3. Học để nâng cao kiến thức 4. Học để có bằng cấp 5. Học để dễ kiếm việc làm, đảm bảo cuộc sống sau này 6. Học để phát triển, hòan thiện nhân cách 7. Học để phát triển Việt Nam 8. Học để về phục vụ quê hương, đất nước tôi 9. Học để có nghề nghiệp chuyên môn cao 10. Đáp ứng mong đợi của cha mẹ 11. Học để không thua kém bạn bè 12. Học để được mọi người ngưỡng mộ 13. Ý kiến khác (nếu có vui lòng viết ra)…………………. Câu 3. Kế hoạch học tập của bạn như thế nào? 1. Luyện nói 2. Luyện nghe băng, đĩa, nghe CD của sách 3. Luyện viết 4. Đọc hiểu 5. Phát âm 6. Ngữ pháp 7. Tập trung học thuộc lòng nhiều từ 8. Giao tiếp thường xuyên với người Việt, đi chơi, học tập chung với người Việt 9. Đọc sách, báo, xem tivi, xem phim, nghe nhạc Tiếng Việt nhiều 10. Xin làm trong công ty, vừa học vừa làm 11. Tập làm thông dịch viên tiếng Việt 12. Quen bạn gái/bạn trai người Việt Nam 13. Đi du lịch nhiều nơi ở Việt Nam để tìm hiểu di tích lịch sử, văn hóa 14. Nghiên cứu thêm các lĩnh vực: Kinh tế, Văn hóa, Lịch sử Việt Nam 15. Đến lớp thường xuyên để nghe giảng bài 16. Học bài, làm tất cả bài tập thầy cô cho và ôn tập ở nhà 17. Thường xuyên tự học 18. Biết sắp xếp thời gian và học tập tốt 19. Rất lười học, không có kế hoạch gì cả 27. Chưa có kế hoạch học tập gì, vì sắp đi quân ngũ Câu 4. Khó khăn trong quá trình học tập? 1. Khó học từ mới 2. Khó phát âm 3. Khó khăn nghe băng, đĩa 4. Tiếng Việt có đến 6 dấu nên dễ nhầm 5. Một từ tiếng Việt có nhiều nghĩa 6. Gặp khó khăn trong môn viết, sai chính tả, nhầm lẫn ngữ pháp 7. Thời gian học không phù hợp 8. Qúa nhiều bài tập 9. Giao thông bất tiện, thời tiết nóng, nên việc đi học vất vả 10. Tâm lý ngại giao tiếp bằng tiếng Việt với người Việt 11. Giáo viên người Việt nói nhanh, không nghe kịp 12. Không theo kịp bài giảng trên lớp 13. Hòan cảnh sống một mình, nhớ gia đình, bạn bè ở quê 14. Nhiều sinh viên trong lớp rất giỏi, nên tôi theo không kịp các bạn 15. Thư viện đông đúc và ồn ào 16. Không đủ chỗ tự học 17. Môi trường học không vệ sinh 18. Có nhiều điểm khác giữa từ thầy cô dạy và từ trong từ điển 19. Tôi vừa đi học, vừa đi làm, mà thời gian học tập chia ra làm 02 buổi, gây khó khăn và lãng phí 20. Khó khăn trong làm việc nhóm 21. Yêu cầu học tập rất cao 22. Xã hội và văn hóa khác nhau 23. Mỗi người Việt phát âm một giọng khác nhau nên tôi khó nghe được 24. Thời gian học tập nhiều, không có thời gian ôn tập 25. Không có khó khăn gì nhiều Ý kiến khác………………… Từ câu 5 đến câu 9, bạn vui lòng chọn 01 ý phù hợp nhất Câu 5. Nhu cầu học tập hàng đầu của bạn hiện nay? (Chọn 1 ý phù hợp nhất) 1. Học chuyên sâu về tiếng Việt 2. Học tòan diện các lĩnh vực: lịch sử, văn hóa, xã hội của Việt Nam 3. Học một ngoại ngữ khác. 4. Học tin học 5. Học về quản lý Ý kiến khác (vui lòng viết ra nếu có)………………. Câu 6. Mục dích học tập của bạn? (Chọn 1 ý phù hợp nhất) 1. Học để làm bước đệm học ngành khác 2. Học để dễ tìm việc làm 3. Học để thăng tiến sau này 4. Học để nâng cao trình độ chuyên môn 5. Học để rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách Ý kiến khác (vui lòng viết ra nếu có)………………. Câu 7. Kết quả học tập học kì vừa qua của bạn? (Chọn 1 trong các ý sâu đây) 1. Xuất sắc 2. Giỏi 3. Khá 4. Trung bình – khá 5. Trung bình 6. Yếu 7. Kém Câu 8: Bạn thường đến lớp vì lí do gì? (Lí do đến lớp của sinh viên) (Chọn 1 trong các ý sâu đây) 1. Được diểm danh 2. Uy tín của giảng viên 3. Sự cuốn hút của môn học 4. Tiếp thu tri thức và phương pháp Câu 9: Bạn hứng thú với chương trình học tập ngành Việt Nam học ở mức độ nào? (Chọn 1 trong các ý sâu đây) 1. Say mê 2. Hứng thú 3. Không hứng thú 4. Đôi khi chán 5. Rất chán Câu 10: Hành vi học tập của bạn được thể hiện như thế nào? (Đối với câu 10, xin các bạn vui lòng đánh dấu (X) vào ô mà các bạn cho là thích hợp nhất). Stt Các biểu hiện hành vi Luôn luôn Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ 1 Đi nghe giảng đầy đủ, đúng giờ 2 Chú ý nghe giảng, ghi chép đầy đủ, khoa học 3 Tích cực phát biểu, đặt vấn đề, xây dựng bài 4 Nghiên cứu đầy đủ tài liệu tham khảo theo yêu cầu của môn học 5 Tham gia các buổi thảo luận, semina 6 Độc lập giải quyết nhiệm vụ học tập 7 Nghiêm túc trong kiểm tra, thi cử 8 Tìm kiếm cách học cho phù hợp 9 Mạnh dạn hỏi giảng viên khi chưa hiểu hoặc có ý kiến khác 10 Xây dựng đề cương cho các câu hỏi ôn tập 11 Tích cực trao đổi, tranh luận với bạn cùng lớp 12 Sử dụng nhiều hình thức tự học, tự nghiên cứu ngoài giờ lên lớp 13 Vận dụng kiến thức vào tình huống thực tiễn, giao tiếp với người Việt Nam 14 Rèn luyện kỹ năng nghe 15 Rèn luyện kỹ năng nói, phát âm 16 Rèn luyện kỹ năng đọc 17 Rèn luyện kỹ năng viết, học từ, ngữ pháp Xin chân thành cảm ơn các bạn! ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5428.pdf
Tài liệu liên quan