Gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp. một số kiến nghị về việc chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp hàng dệt may VN

Mục lục Trang Lời nói đầu 2 Chương I. Tổng quan về gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp 3 I. Vị trí – Vai trò của hoạt động kinh doanh xuất khẩu 3 a. Vị trí 3 b. Vai trò 3 II. Nội dung cơ bản của 4 1. Hoạt động xuất khẩu trực tiếp 4 a. Khái niệm 4 b. Nội dung cơ bản của ……… 4 c. Ưu – Nhược điểm 9 2. Gia công xuất khẩu 10 a. Khái niệm 10 b. Nội dung cơ bản của … 12 c. Ưu – Nhược điểm 13 Chương II. So sánh gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp ở ngành dệ

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp. một số kiến nghị về việc chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp hàng dệt may VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t may Việt Nam 14 I. Vài nét về ngành may xuất khẩu Việt Nam 14 II. So sánh gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp ở ngành dệt may Việt Nam 16 Chương III. Một số kiến nghị về việc chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp hàng dệt may Việt Nam 20 I. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 20 II. Chính sách về vốn đầu tư, thuế, tỷ giá hối đoái, trợc cấp xuất khẩu 20 III. Hoàn thiện công tác quản lý hạn ngạch 22 IV. Nguyên liệu và phát triển sản phẩm 23 V. Hỗ trợ và tìm hiểu thị trường xúc tiến phát triển 23 Kết luận 25 Lời nói đầu Trong xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng gia tăng mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới hiện nay, việc mở rộng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan. Đây là một quá trình khai thác nguồn nhân lực phát triển bên ngoài để phát huy nội lực của các nền kinh tế của quốc gia nhằm thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững. Chúng ta cần có những biện pháp nhằm khai thác thuận lợi đồng thời giải quyết những khó khăn do qúa trình quốc tế hoá đem lại. Ngành may mặc xuất khẩu Việt Nam ra đời 1958 đã nhanh chóng trưởng thành tự khẳng định mình và có những thành tựu đáng khích lệ. Tỷ trọng ngành dệt may trong tổng kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng. Tuy nhiên bên cạnh những thành công đó đến nay hầu hết các doanh nghiệp trong ngành may mặc vẫn chỉ là dừng lại ở mức độ gia công xuất khẩu cho nước ngoài là chủ yếu. Hình thức này có hiệu quả kinh tế không cao bên cạnh việc tạo việc làm cho người lao động thì gia công xuất khẩu chủ yếu lấy gia công làm lãi. Bên cạnh đó hình thức xuất khẩu trực tiếp nó đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu và nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu hàng may mặc. Bởi vậy đứng trước tình hình đó thì việc chuyển từ hình thức gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp là một việc làm cần thiết và cấp bách. Chương I: tổng quan về gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp I. Vị trí, vai trò của hoạt động kinh doanh xuất khẩu: Vị trí: - Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là phương tiện cho việc chuyên môn hoá sâu rộng như phân công lao động quốc tế toàn cầu được thực hiện. - Quá trình tái sản xuất mở rộng gồm 4 khâu: sản xuất-phân phối-lưu thông- tiêu dùng. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động lưu thông hàng hoá của quá trình tái sản xuất mở rộng, nó liên kết sản xuất và tiêu dùng giữa các nước. Thông qua xuất khẩu mà các dòng hàng hoá có thể di chuyển vượt qua khỏi biên giới quốc gia làm tăng khả năng sản xuất tiêu dùng của một nước. Vai trò: - Tạo việc làm cho người lao động tăng khả năng tiêu dùng của dân cư, xuất khẩu tạo điều kiện cho các mối quan hệ tín dụng đầu tư, vận tải và các hoạt động dịch vụ khác đi kèm. - Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho việc những máy móc thiết bị công nghệ phục vụ cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xuất khẩu có ảnh hưởng lớn đến qui mô và tốc độ tăng của nhập khẩu máy móc thiết bị và công nghệ cũng như việc đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn vay ODA hay viện trợ nước ngoài. - Xuất khẩu tạo ra việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát ttiển. Xuất khẩu dựa trên những lợi thế về tự nhiên, lao động, chi phí sản xuất. Vì vậy hình thành các ngành kinh tế trọng điểm phục vụ xuất khẩu và các vùng kinh tế chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm có gía trị xuất khẩu. Từ đó sẽ nhập khẩu những máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại nguyên vật liệu đầu vào và làm tăng khả năng sản xuất của doanh nghiệp II. Nội dung cơ bản của Hoạt động xuất khẩu trực tiếp: Khái niệm: - Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu qua đó người xuất khẩu trực tiếp quan hệ giao dịch và giao hàng cho người tiêu dùng nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp thực chất các phương thức này là tự tổ chức sản xuất ra sản phẩm và tiêu thụ nó ra thị trường nước ngoài thông qua các tổ chức trung gian. Nội dung cơ bản của hoạt động xuất khẩu trực tiếp: * Nghiên cứu thị trường: Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông ở đâu có sản xuất và lưu thông thì ở đó có thị trường. Nghiên cứu thị trường để nắm vững các yếu tố của thị trường hiểu được các qui luật vận động của nó nhằm ứng xử kịp thời. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trực tiếp. Ngiên cứu thị trường phải trả lời được các câu hỏi: xuất khẩu cái gì?, dung lượng thị trường đó ra sao?, sự biến động của hàng hoá đó trên thị trường như thế nào?, thương nhân trong giao dịch đó là ai?, chiến lược kinh doanh cho từng giai đoạn?. - Nhận biết mặt hàng: Dựa vào nhu cầu tiêu dùng về qui cách, chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ, tập quán, tiêu dùng,…Một số nhân tố quan trọng để lựa chọn mặt hàng phải tính đến tỉ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu. - Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường. Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định trong một thời kì nhất định. Nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường: Do khủng hoảng kinh tế các nhân tố về khoa học kĩ thuật, biện pháp chính sách của Nhà nước, thị hiếu tập quán, hàng hoá thay thế, hoạt động đầu cơ, thiên tai bão lụt, động đất chiến tranh. - Lựa chọn khách hàng: Phải tìm hiểu khách hàng về thái độ chính trị của thương nhân, khả năng tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật, hình thức phạm vi kinh doanh và uy tín của họ trên thị trường. - Phương án kinh doanh: Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình ngiên cứu thị trường thì đơn vị kinh doanh sẽ lập phương án kinh doanh cho mình được xây dựng gồm các bước sau: + Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân. + Đề ra mục tiêu. + Đề ra các biện pháp thực hiện, + Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh bằng các chỉ tiêu khác nhau như: Tỷ suất ngoại tệ, tỉ suất doanh lợi. * Giao dịch kí kết hợp đồng: . Các bước đàm phán: - Hỏi giá: là việc người mua đề nghị người bán cho mình biết những điều kiện bán hàng. Sau khi nhận được thư hỏi giá phải thông báo kịp thời cho bộ phận sản xuất. Cần phải nhận biết các loại thư hỏi giá. Cần ưu tiên cho khách hàng truyền thống và thư hỏi giá có nội dung chi tiết kèm theo nhiều điều kiện khác. Phát giá: Luật pháp coi đây là lời đề nghị kí kết hợp đồng và như vậy phát giá có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. - Đặt hàng: Lời đề nghị kí kết hợp đồng từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng người mua đưa ra yêu cầu cụ thể về hàng hóa định mua và các nội dung cần thiết cho việc kí kết hợp đông. - Hoàn giá: Khi người nhận thư chào hàng không chấp nhận hoàn toàn nội dung thư chào hàng đó mà đưa ra đề nghị mới đề nghị này là hoàn giá. - Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng mà phía bên kia đưa ra. Khi đó một hợp đồng được thành lập. - Xác nhận: Hai bên mua và bán saukhi đã thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch có khi cẩn thận ghi lại mọi điều đã thoả thuận gửi cho bên kia đó là văn kiện xác nhận, xác nhận dược lập thành hai bản bên xác nhận kí trước rồi gửi cho bên kia, bên kia kí xong giữ lại một bản và gửi lại một bản. .Kí kết hợp đồng kinh tế và xuất nhập khẩu hàng hoá: Việc giao dịch và đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn đến việc kí kết hợp đồng mua bán ngoại thương. Hợp đồng thể hiện bằng văn bản có chữ kí của hai bên là hình thức bắt buộc đối với đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta. Khi tham gia kí kết hợp đồng các bên cần chú ý đặc điểm sau: - Cần có sự thoả thuận thống nhất với nhau tất cả mọi điều khoản cần thiết trước khi kí kết hợp đồng. - Hợp đồng cần trình bày rõ ràng sáng sủa, phản ánh đúng nội dung thảo luận không để tình trạng mập mờ có thể suy luận nhiều cách, không có điều khoản nào trái với luật lệ ở nước người bán và người mua. - Hợp đồng nên đề cập đến mọi vấn đề, tránh việc áp dụng tập quán đề giải quyết những điểm hai bên không đề cập đến. Người đứng ra ký kết hợp đồng phải là người có thẩm quyền ký kết. - Ngôn ngữ hai bên dùng để xây dựng hợp đồng phải là thứ ngôn ngữ hai bên đều thông thạo. Những điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán ngoại thương: + Tên hàng, qui cách, phẩm chất, số lượng, bao bì, kí mã hiệu. + Giá cả, đơn giá, tổng giá. + Thời hạn và địa diểm giao hàng, điều kiện giao nhận. + Điều kiện thanh toán + Điều kiện khiếu nại trọng tài. + Điều kiện bất khả kháng. + Điều kiện cấm tái xuất. Thực hiện hợp đồng kiểm tra LC Xin giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá Kiểm tra chất lượng hàng hoá Giao hàng với tàu Làm thủ tục hải quan Mua bảo hiểm Thuê tàu lưu cước Làm thủ tục thanh toán Khiếu nại và giải quyết khiếu nại Bước 1: Kiểm tra LC Sau khi kí kết hợp đồng, đơn vị xuất khẩu trực tiếp tiến hành giục người mua LC (nếu trong hợp đồng qui định sử dụng phương thức tín dụng chứng từ) khi nhận được LC bên bán phải tiến hành kiểm tra chống việc bên mua đưa vào những điều khoản bất lợi. Nếu có sai sót bên bán cần thông báo ngay cho bên mua để sửa chữa bổ sung kịp thời. Bước 2: xin giấy phép xuất khẩu Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu trực tiếp thì doanh nghiệp phải xin giấy phép xuất khẩu nếu hàng hoá đó thuộc diện phải có giấy phép. Doanh nghiệp phải trình hồ sơ xin giấy phép gồm có hợp đồng, phiếu hạn ngạch (nếu hàng thuộc diện quản lí bằng hạn ngạch) và các giấy tờ liên quan khác cho phòng cấp giấy phép của Bộ thương mại và sau 3 ngày có kết quả trả lời. Bước 3: Chuẩn bị hàng hoá để giao. Đối với các đơn vị ngoại thương thì công việc đầu tiên là thu gom hàng hoá tập trung từ nhiều nguồn khác nhau thành các lô hàng xuất khẩu. Còn đối với các doan nghiệp công nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu trực tiếp thì tiến hành sản xuất hoặc tiếp tục sản xuất mặt hàng xuất khẩu theo kế hoạch của doanh nghiệp. Sau đó hàng hoá phải được tập trung để đóng gói theo bao bì, loại vật liệu làm bao bì, chủ hàng xuất khẩu cần xét đến những điều kiện đã thảo luận trong hợp đồng. Sau đó đến chất lượng của hàng hoá dưới tác động của môi trường và điều kiện bốc xếp. Ngoài ra còn yếu tố về điều kiện vận tải, luật pháp, thuế quan. Hàng hoá sau khi được đóng gói phải kẻ vẽ kí mã hiệu đảm bảo cho quá trình giao nhận hướng dẫn phương pháp kĩ thuật, bảo quản, vận chuyển bốc dỡ hàng hoá. Bước 4: Kiểm tra chất lượng hàng hoá. Trước khi giao hàng người xuất có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng hoá về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì hoặc nếu hàng hoá là động vật thì phải kiểm dịch. Bước 5: Thuê tàu và lưu cước hoặc uỷ thác thuê tàu. Việc thuê tàu dựa vào 3 căn cứ sau: Những điều khoản hợp đồng, đặc điểm hàng hoá mua bán và điều kiện vận tải. Việc thuê tàu đòi hỏi các bộ phận làm công tác xuất nhậpkhẩu phải có kinh nghiệm và tinh thông nghiệp vụ Bước 6: mua bảo hiểm Tuỳ theo điều kiện cơ sở giao hàng theo nội dung hợp đồng xuất khẩu mà doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu có thể buộc phải mua hoặc thoả thuận với bên nhập khẩu mua bảo hiểm. Bước 7: Làm thủ tục hải quan. Trải qua 3 bước: + Khai báo hải quan. + Xuất trình hàng hoá. +Thực hiện các quyết định của hải quan. Bước 8: giao hàng với tàu. Hàng hoá giao bằng đường biển thì phải tiến hành những công việc sau: - Lập bảng đăng kí hàng chuyên chở cho người vận tải để đổi lấy sơ đồ xếp hàng. - Trao đổi với cơ quan điều độ để nắm vững ngày giờ làm hàng. Bố trí phương tiện đem hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu. - Lấy biên lai thuyền phó và đổi lấy vận đơn đường biển vận đơn này phải là vận đơn hoàn hảo đã xếp hàng và chuyển nhượng được. Bước 9: làm thủ tục thanh toán. Nếu hợp đồng qui định thanh toán bằng thư tín dụng thì sau khi giao hàng chủ hàng xuât khẩu phải nhanh chóng hoàn thàng bộ chứng từ tín dụng một cách chính xác phù hợp với nội dung của LC cả về nội dung và hình thức.Sau đó phải gửi ngay đến ngân hàng đã cấp LC hay đại lý của nó ở trong nước để được thanh toán. Nếu thanh toán bằng phương thức nhờ thu thì chủ hàng xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ và xuất trình cho ngân hàng để uỷ thác việc thu đòi tiền. Sau một thời gian nhất định nếu đơn vị nhập khẩu không có lý do chính đáng từ chối thanh toán thì ngân hàng coi như yêu cầu đòi tiền là hợp lệ. Bước 10: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu hàng hoá bị tổn thất, hư hỏng, thanh toán bị nhầm lẫn,…thì hai bên có thể khiếu nại lẫn nhau. Đối tượng khiếu nại cũng có thể là người vận tải nếu hàng hoá bị tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ, các rủi ro khác được mua bảo hiểm. c. Ưu-nhược điểm Ưu diểm: - Doanh nghiệp được hoàn toàn tự chủ trong sản xuất kinh doanh của mình từ khâu tìm kiếm nguyên vật liệu đầu vào, lập kế hoạch sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm ra thị trường nước ngoài và các dịch vụ đi kèm. - Việc trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và thị trường nên có thể nắm bắt được một cách nhanh nhất các thông tin của thị trường và ý kiến khách hàng do đó có thể đưa ra các biện pháp để giải quyết các vấn đề liên quan đến sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng một cách tốt hơn nữa nhu cầu của khách hàng hoàn thành mục tiêu đề ra và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhược điểm: - Do doanh nghiệp phải chủ động hoàn toàn trong sản xuất kinh doanh vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải có năng lực sản xuất, có khả năng khai thác thị trường, có tiềm lực tài chính đủ mạnh. Bên cạnh đó phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ có kinh nghiệm. - Doanh nghiệp bị sức ép về cạnh tranh rất lớn có thể phải đối mặt với khách hàng ở thị trường mới nên khả năng rủi ro cao. - Khối lượng hàng hoá phải đủ lớn để bù đắp chi phí và có lợi nhuận. 2 .Gia công xuất khẩu a. Khái niệm: Là hình thức trong đó một bên (bên nhận gia công) nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (phí gia công). Nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh gia công xuất khẩu. - Do hoạt động gia công xuất khẩu phụ thuộc vào phía nước ngoài nên hoạt động nghiên cứu tiếp cận thị trường không được coi trọng hầu như không được thực hiện. Hiệu quả của hoạt động gia công xuất khẩu thấp nên không đủ các chi phí thực hiện nghiên cứu thị trường. Đàm phán và kí kết hợp đồng được tiến hành như hoạt động xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên khi đi đến kí kết hợp đồng thì bên đặt gia cồng mẫu hàng được sản xuất thử và tính định mức tiêu hao nguyên liệu phụ, thù lao gia công. Giá gia công gồm tất cả các chi phí trong nước như khấu hao tài sản cố định, thiết bị máy móc, chi phí quản lí, thuế, lãi ngân hàng, công lao động, chi phí vận chuyển nội địa, bao bì, chi phí thủ tục xuất nhập khẩu. Sơ đồ để thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu Kí hợp đồng gia công xuất khẩu Xin giấy phép xuất nhập khẩu Mở LC khi bên bán báo Đôn đốc giao thiết bị nguyên vật liệu Nhận hàng Làm thủ tục hải quan Mua bảo hiểm Thuê tàu Kiểm tra LC Gia công sản xuất chuẩn bị hàng hoá Cân đối Kiểm tra hàng Giao hàng lên tàu Làm thủ tục hải quan Kiểm nghiệm hàng hoá Uỷ thác thuê tàu Mua bảo hiểm Làm thủ tục thanh toán Giải quyết khiếu nại Qua các bước trên ta có thể chia làm ba giai đoạn. Nhập máy móc thiết bị nguyên liệu. - Xin giấy phép xuất nhập khẩu. - Mở LC: Nếu bên đặt gia công bán đứt nguyên phụ liệu sau đó mua lại thành phẩm thì bên nhận gia công tiến hành mở LC khi bên bán báo. Đơn xin mở LC kèm theo bản hợp đồng gia công được gửi tới ngân hàng của bên nhận gia công. - Đôn đốc bên đặt gia công nhanh chóng giao nguyên phụ liệu và máy móc thiết bị để tiến hành gia công . - Thuê tàu nhận hàng nếu hợp đồng qui định bên nhận gia công phải chịu trách nhiệm thuê tàu hay điều kiện cơ sở giao hàng là FOB. - Mua bảo hiểm nếu hợp đồng qui định. - Làm thủ tục hải quan: Khi báo cáo hải quan bên nhận gia công cần xuất trình hợp đồng gia công, bản tính định mức nguyên phụ liệu, giấy phép xuất nhập khẩu. Hải quan sẽ cấp cho đơn vị gia công một sổ theo dõi hàng gia công để khi xuất khẩu để khi xuất khẩu sẽ trừ lùi số nguyên phụ liệu đã sử dụng cho sản xuất hàng xuất khẩu, số còn lại phải tái xuất nếu muốm sử dụng cho mục đích khác phải nộp thuế nhập khẩu. - Nhận hàng: Theo nghị định 200 CP-Ngày 31 tháng 12 năm 1973 các cơ quan vận tải có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của đơn vị đã nhập hàng đó. Đơn vị gia công có thể trực tiếp qua đơn vị khác nhận hàng để tiến hành các thủ tục giao nhận với các đơn vị vận tải. - Kiểm tra hàng hóa: Hàng hoá phải được kiểm tra kĩ nếu có nghi ngờ hay tổn thất cần mời cơ quan giám định đến kiểm tra ngay để giám định tổn thất và lập biên bản. - Cân đối: Sau khi nhận nguyên phụ liệu đơn vị gia công tiến hành cân đối nhu cầu với số lượng nhập về. Nếu thiếu thì báo cáo ngay với phía nước ngoài để bổ sung. * Gia công tái xuất và chuẩn bị giao hàng. Sau khi đã nhận đầy đủ nguyên phụ liệu đơn vị nhận gia công sẽ tiến hành sản xuất sản phẩm theo mẫu và các yêu cầu kĩ thuật mà đối tác cung cấp. Thông thường bên đặt gia công đưa chuyên gia của họ sang tiếp nhận kiểm tra thực tế các loại hàng gia công. Sau khi hàng được gia công xong thì được tập trung đóng gói bao bì có kiểm tra giám sát của đại diện bên đặt gia công và thông báo cho họ khi chuẩn bị giao hàng. * Giai đoạn giao hàng gia công xuất khẩu: Như xuất khẩu trực tiếp. b. Ưu - nhược điểm: * Ưu điểm: - Hạn chế được rủi ro ở thị trường đầu vào và đầu ra vì việc thực hiện gia công xuất khẩu chỉ thực hiện sản xuất sản phẩm trên cơ sở đã có nguyên phụ liệu của bên đặt gia công và tiêu thụ sản phẩm cũng do bên đặt gia công đảm nhận. - Thông qua hoạt động gia công xuất khẩu nó đã tạo việc làm cho người lao động, tích luỹ kinh nghiệm trong hoạt động xuất nhập khẩu cũng như sản xuất hàng hóa. - Trong hoạt động gia công xuất khẩu bên đặt gia công cung cấp toàn bộ nguyên phụ liệu, thậm chí cả máy móc thiết bị và chuyên gia. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp có các thiết bị máy móc và tiếp thu được kinh nghiệm quản lí tiên tiến của đối tác. * Nhược điểm: - Không nắm được kịp thời các thông tin của hai thị trường này dễ bị phía nước ngoài chèn ép giá. Bởi vì được cung cấp toàn bộ nguyên phụ liệu đầu vào và tiêu thụ đầu ra. - Đây là một hình thức lấy công làm lãi. Mặc dù giá trị sản lượng cao nhưng doanh thu thì không đáng kể. Do vậy mà không tạo được nguồn tích luỹ cao cho doanh nghiệp. - Doanh nghiệp bị tách khỏi thị trường đầu vào và đầu ra nên khó tiếp cần với sự biến động cung cầu trên hai thị trường này. Chương II: So sánh gia công xuất khẩu và xuẩt khẩu trực tiếp ngành dệt may Việt Nam I. Vài nét về ngành may xuất khẩu Việt Nam Ngành may xuất khẩu Việt Nam ra đời năm 1958 ở miền Bắc và những năm cuối của thập kỉ 70 ở miền Nam. Sản lượng may đến năm 1980 đã đạt gần 50 triệu sản phẩm các loại trong đó hơn 50% xuất khẩu sang LIÊN XÔ (Cũ) .Số còn lại sang các nước ĐÔNG ÂU và khu vực II .Nhưng đến cuối năm 90 có những biến động ảnh hưởng lớn đến thị trường của ngành may xuất khẩu khi LIÊN XÔ và các nước ĐÔNG ÂU tan rã . Ngành dệt may đứng trước những thử thách và khó khăn buộc nhiều doanh nghiệp phải giảm sản lượng xuất khẩu thậm chí đứng trước nguy cơ giải thể nếu không sớm vượt qua thì hàng vạn người lao động mất việc làm . Sau năm 1990 khi công việc đổi mới của Đảng và nhà nước có những thắng lợi trong các quan hệ đối ngoại .Cùng với chính sách mở cửa đã tạo điều kiện cho ngành may xuất khẩu mở rộng và thâm nhập vào thị trường thế giới .Năm 1992 đánh dấu bước phát triển mới của ngành dệt may VIệT NAM. Hiện nay nước ta có trên 300 Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng may mặc xuất khẩu thu hút khoảng 400.000 lao động với hơn 60.000 đơn vị máy móc thiết bị may mặc xuất khẩu ,năng lực sản xuất có thể đạt trên 2,15tỷ USD .Hầu hết các địa phương có xí nghiệp may ra đời nhằm giải quyết một phần khó khăn về việc làm cho địa phương . Từ một ngành hàng chưa có tên tuổi trong danh mục các mặt hành xuất khẩu của VIệT NAM,thậm chí có dấu hiệu suy sụp vào năm 1991 thì đến năm 1995 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã đứng thứ hai trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ lực . Hàng dệt may không ngừng khẳng định uy tín trên thị trường thế giới hàng năm thu về hơn một tỷ USD.Hiện tại ngành may xuất khẩu của Việt Nam có quan hệ với trên 200 công ty thuộc 40 quốc gia khác nhau trong khu vực và trên thế giới . Bảng 1: Trị giá xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam: Năm Ngành dệt Ngành may Ngành dệt- may 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 6,5 11,1 13,3 15,8 25,1 27,8 29,4 39,6 61,7 107,8 147,8 175,5 - - 21,1 36,0 27,4 27,0 68,1 90,7 142,9 357,2 521,0 691,6 878,8 1 162,7 - - 27,5 47,1 40,6 42,8 93,1 118,5 172,3 396,8 582,7 799,4 1 026,6 1 338,2 1 349 1 351 (Nguồn UNIDO, Bộ kế hoạch và đầu tư tổng cục Thống kê, Vietnam Economic News số 6/1998, số 4/1999) Trong điều kiện nay đứng trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng dệt may các nước, tiếp quản một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật cũ nát lạc hậu, vốn đầu tư thiết bị mới thiếu đội ngũ công nhân cán bộ kỹ thuật còn ít, trình độ quản lý còn hạn chế thiếu kinh nghiệm ... Những điều này khiến cho ngành dệt may xuất khẩu chỉ dừng lại ở hình thức gia công xuất khẩu cho nước ngoài . II.So sánh gia công xuất khẩu và xuất khẩu trực tiếp hàng dệt may của Việt Nam Trong những năm trước đây khi nền kinh tế vận đọng theo cơ chế tập trung chỉ huy, đầu vào và đầu ra của các doanh nghiệp do nhà nước chi phối và quản lý, doanh nghiệp chỉ thực hiện một trong các khâu của quá trình sản xuất đó là sản xuất sản phẩm. Theo cơ chế nay doanh nghiệp muốn có hàng, phải làm đơn lên cơ quan quản lý ngành, cơ quan này gửi lên bộ chủ quản, bộ chủ quản tổng hợp các đơn hàng gửi lên cơ quan quản lý trung ương (bộ kế hoạch và đầu tư).Tại đây lập kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân trong đó có phần thương mại, dịch vụ với hai nội dung: cân đối hàng hoá dịch vụ và phân phối. Sau đó gửi lên hội đồng chính phủ, hội đồng chính phủ phê duyệt, gửi lại cho cơ quan quản lý trung ương, rồi đến các doanh nghiệp, doanh nghiệp nhận được chỉ tiêu phân phối hàng hoá của nhà nước . Bộ kế hoạch và đầu tư thông báo cho các tổng công ty và các tổng công ty thông báo cho các công ty có nhiệm vụ bán ra. Khi đó doanh nghiệp có chỉ tiêu gặp gỡ các công ty bán ra này để tiến hành mua bán. Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường cùng với việc mở cửa đã tạo ra cho những doanh nghiệp những cơ hội làm ăn mới. Trong giai đoạn đầu do những hiểu biết về thị trường thế giới còn hạn chế, hơn nữa nhằm giải quyết việc làm cho người loa động nên các doanh nghiệp trong ngành chọn hình thức gia công xuất khẩu. Như ta đã biết hiệu quả kinh tế của hình thức gia công xuất khẩu không cao. Mặt khác nhằm duy trì sản xuất nên các doanh nghiệp trong ngành cạnh tranh với nhau thông qua việc hạ giá công để lôi kéo khách hàng, tất cả những điều này làm cho hiệu quả kinh tế của hình thức này vốn đã thấp lại càng thấp hơn . Trong khi đó cũng sản phẩn đó được các bạn hàng tác xuất lại được hiệu quả kinh tế cao . Để làm rõ thêm về lợi thế của xuất khẩu trực tiếp so với gia công xuất khẩu, chúng ta cùng đi xem xét một số ví dụ điển hình của Công Ty May “Đáp Cầu” trong xu hướng chuyển đổi hình thức gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp . Doanh thu “ gia công xuất khẩu”. Chi tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 Tổng doanh thu XK Triệu đồng 24.746 27.236 30.753 44.760 Doanh thu GCXK Triệu đồng 21.015 21.952 26.494 24.455 Tỷ lệ Y 85 81 86 55 Qua các số liệu trên cho ta thấy mặc dù kim ngạch gia công xuất khẩu có xu hướng gia tăng nhưng doanh thu gia công xuất khẩu lại có xu hướng giảm. Năm 1996 kim ngạch gia công xuất khẩu là 6664 ngàn USD, doanh thu gia công xuất khẩu là 1910 ngàn USD đến năm 1999 kim ngạch gia công xuất khẩu là 7783 ngàn USD, doanh thu gia công xuất khẩu lại giảm xuống còn 1747 ngàn USD. Điều này phản ánh có sự giảm xuống của giá gia công . Mặt khác do có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành nên tạo điều kiện cho bên nước ngoài đặt gia công chèn ép giá. Đơn cử như mặt hàng áo khoác năm 1996 giá gia công là 2.5 USD / chiếc trong khi đó bán FOB là 9.1 USD / chiếc. Đến năm 1999 giá gia công là 1.5 USD / chiếc trong khi bán giá FOB là 13.3 USD / chiếc. Điều này lý giải phần nào doanh thu gia công lại có xu hướng giảm. Bên cạnh đó nhưng ta thấy rằng doanh thu bán FOB cao hơn gấp nhiều lần doanh thu gia công . -Xuất khẩu hàng may mặc trực tiếp ( ở Công ty may Đáp Cầu gọi là hàng FOB) Là một hoạt động xuất khẩu đang được công ty quan tâm hàng đầu trong thời điểm hiện nay bởi hiệu quả kinh tế của nó hơn hẳn hình thức gia công xuất khẩu. Thực chất của hình thức xuất khẩu trực tiếp là việc dựa trên cơ sở hợp đồng xuất khẩu trực tiếp công ty tự tìm kiếm nguồn phụ liệu, tiến hành sản xuất sản phẩm và giao cho khách hàng . Doanh thu “ Xuất khẩu trực tiếp ”- và tổng doanh thu của Công ty . Tổng doanh thu xuất khẩu Doanh thu xuất khẩu trực tiếp Với những nỗ lực to lớn đó hoạt động xuất khẩu trực tiếp cuả Công ty trong những năm gần đây đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Nếu năm 1996 doanh thu xuất khẩu là 3731 triệu đồng chiếm 15% tổng doanh thu xuất khẩu thì năm 1999 con số này là 20.305 triệu đồng chiếm 45% .. Nếu so sánh năm 1999 so với năm 1996 thì doanh thu xuất khẩu trực tiếp tăng tuyệt đối 16.574 triệu đồng tương ứng 544,2% .. Từ chỗ doanh thu xuất khẩu trực tiếp chỉ chiếm 15% tổng doanh thu xuất khẩu vào năm 1996, nhưng qua 3 năm tỷ lệ này là 45%. Những con số này khẳng định đường lối đúng đắn của công ty trong quá trình chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp, đồng thời lý giải phần nào tại sao tỷ trọng doanh thu gia công xuất khẩu lại có xu hướng giảm trong tổng doanh thu xuất khẩu . Tuy nhiên còn một số khó khăn của Công ty tồn tại : - Hoạt động nghiên cứu thị trường còn nhiều hạn chế: kinh phí đầu tư, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác ngiên cứu thị trường còn nhỏ. Chính vì vậy phần lớn các đơn đặt hàng của Công ty là do khách hàng vào Việt nam tiếp cận và ký hợp đồng. Do đó với khách hàng thì họ hiểu Công ty rất rõ còn Công ty am hiểu thị trường và bạn hàng nước ngoài chưa được là bao. Công ty như dừng lại ở mức phục thị trường chứ chưa chủ động tìm đến thị trường và làm thoả mãn các nhu cầu của thị trường . - Chất lượng sản phẩm may mặc chưa cao: Sản phẩm trong xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi chất lượng phải cao đặc biệt đối với khách hàng thuộc thị trường EU, Mỹ, Nhật. Do đó Công ty như dừng lại ở mức gia công xuất khẩu cho thị trường này. Nó thể hiện thiết bị công nghệ chưa hiện đại hoá, trình độ tay nghề của công nhân chưa tốt. Sản phẩm may mặc mẫu mã, kiểu dáng...chưa đáp ứng được thị hiếu. công việc thiết kế mẫu do phòng kỹ thuật đảm nhận chưa phát huy hết hiệu qủa. - Nguồn nguyên liệu chủ yếu được nhập ngoại Do các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu ngành may trong nước chưa đáp ứng về yêu cầu chất lượng, mẫu mã, chủng loại, màu sắc, giá cả, khả năng cung ứng kịp thời. Từ đó dẫn đến hiệu quả thấp . Việc thiếu vốn là khó khăn chung của các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp . chương iii: một số kiến nghị nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tếp hàng dệt may việt nam . I .Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam . - Trong thời gian tới, nhờ một số thay đổi trong hiệp định buôn bán hàng dệt may EU- Việt Nam giai đoạn 1998-2000. ký kết ngày 17/11/1997. Ngành may mặc của nước ta sẽ có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường tiêu thụ sang EU, theo hiệp định từ năm 1998 Việt Nam đã được phép chuyển đổi qua lại giữa các mặt hàng một cách rộng rãi hơn ( 17% so với trước kia là 12%) Hơn nữa Việt Nam còn được hưởng quy chế và quy chế ưu đãi phổ cập của EU. Như vậy một số mặt hàng của Việt Nam sẽ được hưởng thuế quan nhập khẩu 0% làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu nước ta nói chung trong đó có hàng dệt may . - Mục tiêu chiến lược của ngành dệt may trong giai đoạn 2000-2001. là hướng vào xuất khẩu nhằm tăng thu ngoại tệ đảm bảo cân đối trả nợ và tác xuất mở rộng. Các cơ sở sản xuất của ngành thoả mãn nhu cầu trong nước và số lượng chất lượng, chủng loại giá cả đảm bảo đến năm 2010 công nghệ tương đương với Nics, Châu á như Hồng Công, Thái Lan tạo việc làm cho khoảng 2.76 triệu người, với mức thu nhập bình quân 100 USD /người /tháng từng bước đưa ngành dệt May trở thành ngành sản xuất mũi nhọn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế chung của ngành cả nước . II .Chính sách về vốn đầu tư, thuế, tỷ giá hối đoái, trợ cấp xuất khẩu Vốn đầu tư : Dự kiến nguồn vốn đầu tư chiều sâu để phát triển sản xuất và xuất khẩu của ngành Dệt May rất lớn khoảng 5 tỷ USD đến năm 2010. Hàng năm chính phủ nên dành một phần vốn ODA cho ngành Dệt May với lãi suất ưu đãi để mua nguyên phụ liệu dự trữ đầu tư vào các ngành công trình vừa và nhỏ, nghiên cứu tạo mẫu thời trang. Ngoài ra các chính sách về vốn của nhà nước đối với ngành Dệt May cần chú ý một số vấn đề sau : - Nhà nước cần cấp đủ định mức vốn lưu động cho doanh nghiệp Dệt May bằng cách bổ sung vốn lưu động bằng vốn ngân sách - Cho phép các doanh giữ lại lợi nhuận sau thuế để đầu tư phát triển - Ngân hàng nên nới lỏng điều kiện cho vay, quy định mức lãi suất hợp lý. Đổi mới cơ cấu vốn vay theo hướng tăng vốn trung hạn và dài hạn để ngành Dệt May đủ điều kiện đôỉ mới trang thiết bị 2. Thuế: - Trong tình hình hiện nay ngành Dệt May phải nhập khẩu hầu hết các nguyên phụ liệu cho sản xuất, để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu của ngành này nên áp dụng thuế suất 0% đối với các nguyên liệu chính nhập khẩu . - Điều chỉnh thời hạn tạm miễn thuế nhập khẩu để sản xuất trong nước và thời hạn tái sản xuất của các doanh nghiệp gia công xuất khẩu từ 90 ngày lên 120 ngày – 180 ngày phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Tiến hành nhanh chóng việc hoàn thuế nhập khẩu nguyên phụ liệu gia công khi xuất khẩu tránh tình trạng chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp xuất khẩu. Nhà nước nên quy định việc thu thuế và hoàn thuế cho một cơ quan có chức năng tránh tình trạng thu một nơi hoàn thuế một nơi gâ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29579.doc