Giải pháp chống tái nghèo ở tỉnh Sơn La

Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Khoa Kế hoạch và Phát triển Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Tên Đề tài: Giải pháp chống tái nghèo ở tỉnh Sơn La Họ và tên sinh viên : Nguyễn Hoài Thu Chuyên ngành : Kế hoạch và phát triển Lớp : Kinh tế phát triển A Khóa : 47 Hệ : Chính quy Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Ngọc Sơn Hà Nội - 2009 Mục lục Trang Danh mục bảng biểu i Danh mục các từ viết tắt ii Lời mở đầu 1 Chương 1: Những vấn đề về đói nghèo và công tác Xóa đói giảm nghèo Quan

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1782 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp chống tái nghèo ở tỉnh Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
niệm đói nghèo ở Việt Nam và trên thế giới 4 Quan niệm về đói nghèo 4 Quan niệm về đói nghèo trên thế giới 4 Quan niệm đói nghèo ở Việt Nam 7 Thước đo đói nghèo 8 Về thước đo mức sống 9 Về chuẩn nghèo 10 Nguyên nhân đói nghèo 17 Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên 17 Trình độ học vấn thấp 18 Nguyên nhân từ nhân khẩu học 19 Bệnh tật sức khỏe yếu kém 19 Quan niệm về tái nghèo 20 Quan niệm tái nghèo 20 Sự cần thiết chống tái nghèo 21 Kinh nghiệm chống tái nghèo tại một số tỉnh, huyện 22 Chống tái nghèo huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình 22 Kinh nghiệm chống tái nghèo tại xã Hương Phú – Huế 25 Kinh nghiệm chống tái nghèo tại Cà Mau 27 Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Sơn La 29 Chương 2: Thực trạng về công tác XĐGN và tái nghèo của tỉnh Sơn La Các yếu tố cơ bản và điều kiện phát triển của tỉnh Sơn La 31 Điều kiện tự nhiên 31 Vị trí địa lý, địa hình 31 Tài nguyên thiên nhiên 31 Nguồn nhân lực 33 Đặc điểm kinh tế xã hội tỉnh Sơn La 34 Tình hình kinh tế 34 Tình hình phát triển xã hội 36 Những lợi thế và hạn chế của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tới xóa đói giảm nghèo của tỉnh .39 Lợi thế 39 Hạn chế 40 Thực trạng đói nghèo của tỉnh Sơn La 41 Hiện trạng đói nghèo tỉnh Sơn La 41 Cơ cấu nghèo tỉnh Sơn La 43 Phân theo khu vực thành thị - nông thôn 43 Cơ cấu nghèo theo khu vực I,II,III 45 Cơ cấu nghèo theo huyện, thị xã 47 Cơ cấu nghèo theo dân tộc 49 Thực trạng tái nghèo và nguy cơ tái nghèo tỉnh Sơn La 51 Thực trạng tái nghèo 51 Nguy cơ tái nghèo tỉnh Sơn La 54 Nguyên nhân tái nghèo của tỉnh Sơn La 57 Nhóm nguyên nhân chủ quan 57 Nhóm nguyên nhân khách quan 58 Các chương trình giảm nghèo và chống tái nghèo ở tỉnh Sơn La 59 Chương trình 135 60 Chương trình 135 giai đoạn I 60 Chương trình 135 giai đoạn II 62 Dự án giảm nghèo khu vực miền núi phia Bắc 65 Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh bền vững đối với 61 huyện nghèo 67 Đánh giá chung về xóa đói giảm nghèo tỉnh Sơn La 68 Kết quả xóa đói giảm nghèo 68 Tồn tại hạn chế 70 Nguyên nhân tồn tại hạn chế 70 Chương 3: Một số giải pháp chống tái nghèo tại tỉnh Sơn La đến năm 2020 Bối cảnh về kinh tế xã hội đối với chống tái nghèo 72 Bối cảnh quốc tế 72 Bối cảnh trong nước 73 Bối cảnh tỉnh Sơn La 74 Định hướng và mục tiêu trong công tác XĐGN bền vững tỉnh Sơn La 75 Quan điểm xóa đói giảm nghèo của tỉnh 75 Mục tiêu xóa đói giảm nghèo bền vững tỉnh Sơn La 75 Giải pháp chống tái nghèo tại tỉnh Sơn La 77 Nhóm giải pháp tạo nguồn thu nhập ổn định hộ cận nghèo, mới thoát nghèo ngăn chặn nguy cơ tái nghèo 77 Nhóm giải pháp hỗ trợ sản xuất 77 Nhóm giải pháp đào tạo nghề hỗ trợ tìm việc làm ổn định cho lao dộng hộ cận nghèo 79 Nhóm giải pháp hạn chế rủi ro do thiên tai 81 Nhóm giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nông thôn tạo cơ sở tiền đề nguồn lực chống tái nghèo 82 Quy hoạch phát triển sản xuất đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 82 Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, nghề thủ công truyền thống và dịch vụ thương mại 84 Nhóm giải pháp tăng cường an sinh xã hội 85 Hỗ trợ về y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình 85 Hỗ trợ về giáo dục nâng cao trình dộ dân trí cho hộ nghèo hộ cận nghèo hạn chế tái nghèo 86 Chính sách về đất ở, nhà ở cho hộ cận nghèo 86 Nhóm giải pháp hỗ trợ cho hộ cận nghèo trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế và điều chỉnh chuẩn nghèo. 87 Nhóm giải pháp đẩy mạnh các biện pháp nâng cao nhận thức cho người dân về nguy cơ tái nghèo .87 Nâng cao năng lực quản lý xóa đói giảm nghèo cho cán bộ cho cấp huyện, cấp xã thôn bản 88 Một số kiến nghị về tăng cường công tác xóa đói giảm nghèo chống tái nghèo tại tỉnh Sơn La 89 Kết luận 90 Danh mục tài liệu tham khảo 91 Lời mở đầu Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu: Nghèo đói đã và đang tồn tại như một thách thức đối với sự phát triển của nhân loại, hiện nay một phần tư thế giới sống trong điều kiện cùng cực nghèo khổ không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu cơ bản, hàng triệu người khác có cuộc sống trong điều kiện ngấp nghé ranh giới của sự tồn tại. Vì vậy xóa đói giảm nghèo luôn là nhiệm vụ trọng tâm được quan tâm hàng đầu trong các chính sách phát triển xã hội của mọi các quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng. Tại Lễ công bố báo cáo giám sát toàn cầu do Ngân hàng thế giới tổ chức vào ngày 19/5/2008 Công tác xóa đói giảm nghèo của ta hiện nay đang được đánh giá là một trong những “câu chuyện thành công nhất”. Với tỷ lệ nghèo giảm một cách đáng kể từ 58% năm 1993 xuống còn 16% năm 2006 nước ta đã và đang được công nhận là một quốc gia xuất sắc trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh những thành công đó, với tình hình kinh tế xã hội đang diễn biến khá phức tạp: lạm phát, khủng hoảng tác động tới toàn cầu hay sự biến đổi khí hậu trầm trọng, sự bất thường của thiên tai bão lũ… đã đẩy Việt Nam vào nhóm những nước có nguy cơ rủi ro cao nhất về tình trạng tái nghèo, theo đánh giá của World Bank. Mặc dù được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm ưu đãi trong công cuộc xóa đói giảm nghèo nhưng Sơn La vẫn là một trong những tỉnh nghèo, tỷ lệ nghèo trong những năm qua giảm nhanh nhưng vẫn còn ở mức cao và chưa vững chắc. Mặt khác do điều kiện địa lý khắc nghiệt thiên tai bão lụt mất mùa xẩy ra liên tiếp nên tỷ lệ tái nghèo khá nhiều nhất là nhóm nằm sát chuẩn nghèo có nguy cơ tái nghèo rất cao. Để có cái nhìn tổng quát hơn và thực tiễn hơn về nguy cơ tái nghèo tiềm ẩn ở nước ta đặc biệt là tỉnh Sơn La nói em xin đi sâu nghiên cứu đề tài “ Giải pháp chống tái nghèo ở tỉnh Sơn La”. Bài viết đưa ra một một số phương hướng góp phần giảm nguy cơ tái nghèo tại tỉnh Sơn La nói riêng và rút ra bài học kinh nghiệm để áp dụng với các tỉnh khác. Mục đích của đề tài nghiên cứu: Phản ánh nguy cơ tái nghèo tiềm ẩn, tìm ra nguyên nhân gốc rễ của tái nghèo tại tỉnh Sơn La để từ đó đề xuất phương hướng giải pháp chống tái nghèo. Đối tượng nghiên cứu: thực trạng tái nghèo và phương hướng giải quyết nguy cơ tái nghèo tại tỉnh Sơn La Phạm vi nghiên cứu: địa bàn tỉnh Sơn La Nội dung chuyên đề: Tên chuyên đề: “Giải pháp chống tái nghèo ở tỉnh Sơn La” Ngoài phần phục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về đói nghèo, công tác xóa đói giảm nghèo và tái nghèo Chương 2: Thực trạng về công tác XĐGN và nguy cơ tái nghèo của tỉnh Sơn La Chương 3: Một số giải pháp chống tái nghèo tại tỉnh Sơn La đến năm 2015 Trong quá trình hoàn thành đề tài mặc dù em đã cố gắng nhưng do kiến thức kinh nghiệm bản thân, khả năng còn nhiều hạn chế nên báo cáo còn nhiều sai sót em rất mong được sự đóng góp của thầy giáo hướng dẫn và các cô các chú các anh chị trong Vụ. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình từ phía cơ quan thực tập, Vụ Kinh tế Địa phương và Lãnh thổ - Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư trong suốt 15 tuần thực tập. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy hướng dẫn TS.Nguyễn Ngọc Sơn đã tận tình chỉ bảo giúp em hoàn thành chuyên đề này. Hà Nội ngày 5 tháng 5 năm 2009 Sinh viên thực hiện Nguyễn Hoài Thu Chương 1 Những vấn đề về đói nghèo và công tác Xóa đói giảm nghèo Quan niệm đói nghèo ở Việt Nam và trên thế giới. Quan niệm về đói nghèo Quan niệm về đói nghèo trên thế giới Trong những năm gần đây với sự phát triển vượt bậc về kinh tế, xã hội thì nghèo đói được đặt ra là một vấn đề toàn cầu. Các câu hỏi được đặt ra: quan niệm thế nào là nghèo? Ai là người nghèo? Họ đang sống ở đâu? Họ đói nghèo vì nguyên nhân gì? Để trả lời được các câu hỏi như vậy thì cần hiểu rõ bản chất khái niệm của sự nghèo đói. Có một điều phải khẳng định là không có một sự thống nhất tuyệt đối nào về nghèo đói vì do bản thân quan niệm này đã thay đổi nhanh chóng theo thời gian. Nếu như ở những năm 70 nghèo đói chỉ được coi là sự thiếu hụt so với một mức sống nhất định, mà mức sống này được xác định theo các chuẩn mực xã hội và phụ thuộc vào không gian thời gian khác nhau. Cùng với thời gian khái niệm đói nghèo ngày càng được hoàn thiện bởi việc bổ sung các yếu tố như: nguồn lực người nghèo , mối quan hệ xã hội, khả năng tham gia đời sống chính trị, văn hóa, xã hội và khả năng bảo vệ, chống đỡ các rủi ro… Tại hội nghị chống nghèo đói khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan vào tháng 9 năm 1993 đã thống nhất khái niệm về nghèo đói như sau : “ Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương”.[PGS.TS.Phạm Văn Vận – Ths.Vũ Cương/2006]. Theo khái niệm này không có chuẩn nghèo chung cho toàn thế giới mà mỗi quốc gia sẽ có chuẩn nghèo riêng tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của quốc gia đó, có thể nói chuẩn nghèo thay đổi theo thời gian và không gian. Tại hội nghị thương đỉnh của thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhangen, Đan Mạch vào tháng 3 năm 1995 đã đưa ra một khái niệm cụ thể hơn về nghèo như sau: “ Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn 1USD mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”.[PGS.TS. Phạm Văn Vận – Ths.Vũ Cương/2006]. Ngày nay, hầu hết các tổ chức quốc tế như Ngân Hàng Thế Giới, Liên Hợp Quốc tuy chưa đưa ra được một khái niệm thống nhất và đầy đủ và chung nhất về nghèo đói nhưng khái niệm nghèo đối đều đã mở rộng để bao hàm cả các yếu tố về năng lực. Theo đó đói nghèo bao gồm những khía cạnh cơ bản sau: Trước tiên là sự khốn cùng về vật chất, được đo lường theo một tiêu chí thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo dục và y tế. Trong lĩnh vực giáo dục có thể dùng trình độ biết chữ như xác định chung một đặc trưng và ở mức nào đó đường nghèo được đánh giá như ngưỡng mù chữ. Tình trạng sức khỏe của các thành viên trong hộ gia định cũng có thể dùng làm chỉ tiêu quan trọng đo lường đói nghèo, người ta có thể tập trung vào tình trạng dinh dưỡng của trẻ em hay tuổi thọ của các nhóm dân cư để xác định sự nghèo khổ của người dân. Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro tức là khả năng một hộ gia đình hay một cá nhân bị rơi vào cảnh nghèo về thu nhập hoặc sức khỏe Tình trạng không có tiếng nói và quyền lực của người nghèo. Hay theo Baulch (1996) đã khái quát hóa quá trình biến chuyển về nhận thức nghèo đói thông qua sơ đồ sau: Sơ đồ kim tự tháp các khái niệm về đói nghèo Tiêu dùng Tiêu dùng + Tài sản Tiêu dùng + Tài sản + Con người Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa xã hội Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa xã hội + Chính trị Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa xã hội + Chính trị + Bảo vệ …….…… Tiêu dùng: Thu nhập/ tiêu dùng Tài sản : Tài sản tự nhiên như ruộng đất vật chất như khả năng tiếp cận hạ tầng cơ sở, tài chính như tiết kiệm hoặc tín dụng. Con người: Vốn tài sản của con người như giáo dục, kỹ năng, sức khỏe. Văn hóa – xã hội: Mạng lưới quan hệ xã hội. Chính trị: Khả năng tham gia và trao quyền Khả năng bảo vệ: Khả năng chống đỡ và giảm thiểu rủi ro. Sơ đồ đã thể hiện rõ nét sự phát triển của khái niệm đói nghèo, đầu tiên người ta quan niệm đói nghèo chỉ dựa trên tiêu chí thu nhập, tiêu dùng và những người không đủ thu nhập hay tiêu dùng để đảm bảo nhu cầu cơ bản được coi là người nghèo. Theo cách hiểu này các chính sách XĐGN sẽ phải tập trung vào việc tăng năng suất, tạo việc làm…qua đó nâng cao thu nhập cho người dân để họ có được mức thu nhập cần thiết để thỏa mãn các nhu cầu cơ bản ăn, mặc, ở... Khi xã hội ngày càng phát triển đi kèm với nhu cầu của con người ngày càng mở rộng theo thời gian thì thu nhập chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ trong khái niệm đói nghèo, nó còn được đánh giá thông qua nhiều khía cạnh khác nữa như khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng, y tế giáo dục, văn hóa giải trí mạng lươi quan hệ xã hội, khả năng tham gia trao quyền, khả năng chống đỡ và giảm thiểu rủi ro.. cũng chính vì vậy để hoàn thiện hơn khái niệm đói nghèo được bổ sung thêm các yếu tố: tài sản, con người, văn hóa xã hội, chính trị, khả năng bảo vệ. Quan niệm đói nghèo ở Việt Nam Để nhận diện đói nghèo thì với từng cách tiếp cận và quan niệm khác nhau mà mỗi tổ chức giảm nghèo chính phủ phay phi chính phủ tại mỗi quốc gia lại đưa ra các tiêu chí đánh giá đói nghèo khác nhau. Tại Việt Nam khái niệm nghèo đói cũng ngày càng được mở rộng, nếu như nhu cầu hỗ trợ của những người nghèo của năm 90 chỉ được giới hạn đến các nhu cầu ‘ăn’, ‘xóa đói’ thì ngày nay người nghèo phải được hỗ trợ cả về giáo dục, y tế và các giải pháp khác. Hay nói cách khác nghèo đói đã mở rộng từ khái niệm nghèo đói tiêu dùng, thu nhập đến nhìn nhận nghèo đói là khái niệm đa chiều, nghèo đói con người. Có thể đưa ra một quan niệm chung chung về nghèo đói ở nước ta như sau: “ nghèo đói là một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người, nhu cầu mà xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. Cụ thể hơn nghèo đói không chỉ thể hiện qua thu nhập lương thực mà còn cả các yếu tố: nhà cửa, mặt bằng hưởng thụ các dịch vụ thị trường, giao thông thông tin, y tế giáo dục văn hóa và kết cấu hạ tầng.. Ngoài ra tại Việt Nam còn có sự khác biệt nhất định về quan niệm đói nghèo giữa người dân tộc thiểu số và người Kinh. Phụ thuộc vào nông nghiệp canh tác trên đất dốc vốn du canh và quảng canh cao mà quan niệm về giàu nghèo của các dân tộc thiểu số thường đơn giản chủ yếu lấy lương thực và một tài sản phi sản xuất đặc trưng của địa phương làm tiêu chí và chuẩn mức phân chia. Quan niệm nghèo khác nhau ở từng vùng từng dân tộc và dễ bị coi là xa lạ với quan niệm và tiêu chí của người Kinh. Ví dụ, tại dân tộc người Thái và các dân tộc khác ở Tây Bắc thì nghèo đói là thiếu ruộng thiếu gạo ăn thiếu chăn đắp và không có bạc trắng và giàu là ngược lại. Còn ở các dân tộc Trường Sơn – Tây Nguyên thì nghèo đói là không đủ lúa về mùa giáp hạt, không có tài sản được coi là vật ngang giá trao đổi như trâu, bò, chiêng, ché… Vì tập quán du canh du cư nên nhà ở và đáp ứng các tiện nghi trong nhà ít khi được coi là tiêu chí dánh giá phân loại hộ nghèo và hộ khá giả. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự sai lệch khác nhau về kết quả điều tra hộ nghèo của chính người dân với kết quả điều tra hộ nghèo của nhà nước Đồng thời ở nước ta đói nghèo cũng được chia thành hai mức: hộ đói có thu nhập 13 kg lương thực/người/tháng trở xuống và hộ nghèo có thu nhập 15kg lương thực/người/tháng trở xuống. (theo tiêu chí của Bộ LĐ – TB – XH ) Thước đo đói nghèo Tỷ lệ nghèo là một trong những chỉ tiêu cơ bản để đo lường nghèo đói, tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm của dân số và việc sử dụng chỉ số này là cần thiết để đánh giá tình trạng nghèo đói và những thành công trong mục tiêu “giảm nghèo” của quốc gia và thế giới. Để tính được tỷ lệ nghèo thì người ta cần lựa chọn thước đo mức sống và xây dựng chuẩn nghèo. Hộ hoặc người được coi là nghèo khi họ có mức sống thấp hơn chuẩn nghèo. Về thước đo mức sống Thu nhập hoặc chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia đình từ các cuộc điều tra thu nhập, chi tiêu hoặc điều tra mức sống hộ gia đình do các cơ quan thống kê quốc gia tiến hành thường được các nước sử dụng làm thước đo mức sống. Các nước chọn thước đo thu nhập cho rằng chỉ có thu nhập mới phản ánh thực chất mức sống của hộ gia đình vì các hộ nghèo thường có các nguồn thu đơn giản và không nhiều nên họ dễ nhớ và hộ nghèo thường ít giấu thu nhập nên đây là một thông tin tương đối chính xác. Thước đo chi tiêu cũng có hạn chế là người nghèo thường kê khai vống chi tiêu của họ vì tính sĩ diện tuy nhiên trường hợp này chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Ngoài ra chi tiêu còn bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố bất thường không dự tính trước được như có thể bị tăng đột do gia đình có người ốm nặng hay mất của cải do bão lũ thiên tai.. làm cho hộ trở thành không nghèo về hình thức nhưng thực chất chi tiêu sinh hoạt ngày càng eo hẹp. Ngược lại các nước chọn chi tiêu làm thước đo mức sống lại cho rằng mức chi tiêu phản ánh thức chất mức sống thực chất của hộ tại thời điểm điều tra và độ chính xác của số liệu chi tiêu thường cao hơn so với số liệu thu nhập. Mặt khác có thể một hộ có thu nhập cao nhưng chi tiêu thấp do phải trả nợ hoặc lo sợ tương lai mất mùa kinh doanh thua lỗ, những hộ này nếu tính theo mức thu nhập sẽ không thuộc hộ nghèo nhưng thực tế họ lại có mức sống thấp. Thực tế việc đo lường nghèo đói ở các nước đang phát triển cho thấy gần một nửa còn lại dùng thước đo thu nhập, đối với Việt Nam có hai cơ quan có nhiệm vụ xác định nghèo đói chính là Tổng Cục Thống Kê và Bộ Lao Động Thương binh và Xã hội đều sử dụng thước đo thu nhập còn tổ chức Thế giới là Ngân Hàng Thế Giới lại sử dụng thước đo chi tiêu khi ước lượng tỷ lệ nghèo cho Việt Nam. Về chuẩn nghèo 1.2.2.1 Khái niệm chuẩn nghèo Theo một thực tế thông thường, người nghèo thường không được đáp ứng đủ những nhu cầu tiêu dùng cơ bản, bao gồm lương thực thực phẩm và các nhu cầu phi lương thực, thực phẩm. Chuẩn nghèo là một chỉ tiêu tổng hợp tiêu dùng được xem là đầy đủ cho các nhu cầu tiêu dùng cơ bản và từ đó ước tính chi phí cho những nhu cầu cơ bản này. Nói một cách khác,Chuẩn nghèo (hay còn gọi là ngưỡng nghèo hoặc tiêu chuẩn nghèo): là công cụ để phân biệt người nghèo với người không nghèo. Hầu hết các chuẩn nghèo đều dựa trên thu nhập hoặc chi tiêu. Những người được coi là người nghèo khi mức sống của họ được đo qua thu nhập ( hoặc chi tiêu) thấp hơn một mức tối thiểu chấp nhận được, tức là thấp hơn chuẩn nghèo. Có hai cách chính để xác định ngưỡng nghèo (hay chuẩn nghèo): Chuẩn nghèo tuyệt đối: là chuẩn tuyệt đối về mức sống được coi là tối thiểu cần thiết để cá nhân hoặc hộ gia định có thể tồn tại khỏe mạnh. Phương pháp luận xây dựng chuẩn nghèo tuyệt đối đã được thế giới hình thành và pháp triển tương đối hoàn chỉnh. Chuẩn nghèo tuyệt đối của thế giới do Word Bank xác định là 1,25USD/người/ngày (tương đương với 600.000 đồng/người/tháng) và chuẩn nghèo của Châu Á là 1,35USD mỗi ngày mỗi người tính theo ngang giá sức mua (PPP) (650.000 đồng/người/tháng). Theo ước tính của Ngân Hàng Thế Giới (WB) với chuẩn nghèo 1,25USD/người/ngày thì năm 2005 trên thế giới có khoảng 1,4 tỉ người nghĩa là trên 20% dân số thế giới sống ở mức nghèo khổ con số này lớn hơn hẳn ước tính 985 triệu người nghèo công bố năm 2004; ước tính cho thấy nghèo đói vẫn gia tăng và giảm không nhiều như suy nghĩ của nhiều chuyên gia. Tuy nhiên nếu tính theo sự tăng dân số thế giới thì tốc độ giảm nghèo đã giảm đi một nửa trong 25 năm. Cũng theo WB thì Châu Phi vẫn là vùng kém thành công nhất thế giới trong việc giảm đói nghèo, số người nghèo tại đây tăng gần gấp đôi từ 200 triệu người năm 1981 lên 380 triệu người năm 2005, trung bình người nghèo ở đây chỉ sống với mức 70xu/ngày/người. Trung Quốc là nước đạt kết quả thành công nhất khi số nghèo giảm hơn 600 triệu từ 835 triệu người năm 1981 xuống còn 207 triệu người năm 2006, nghĩa là tỷ lệ nghèo giảm khoảng 70% Chuẩn nghèo tương đối: đôi khi chúng ta tập trung vào phần dân số nghèo nhất (1/5 hay 2/5) vì vậy ta có khái niệm ngưỡng nghèo tương đối được xác định theo phân phối thu nhập hoặc tiêu dùng chung trong cả nước để phản ánh tình trạng của một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng. Chuẩn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau cho một xã hội. Một ngưỡng hay được sử dụng để đo lường nghèo tương đối đó là 50 hay 60% mức thu nhập bình quân đầu người trong một nền kinh tế bền vững. Tuy nhiên trên thực tế chuẩn nghèo tương đối với đo như vậy sẽ không phản ánh chính xác về mức sống của con người vì khi thu nhập đồng loạt tăng hoặc giảm thì tỷ lệ người nghèo vẫn không thay đổi trong khi thu nhập thực tế của họ có thay đổi. Để đánh giá đói nghèo người ta thường sử dụng ngưỡng nghèo tuyệt đối vì nó cho phép thực hiện các phân tích có tính so sánh, trong khi đó do có sự pha trộn cả vấn đề phân phối thu nhập nên nghèo đói tương đối được coi là tiêu chuẩn đánh giá sự công bằng của Chính phủ đối với một bộ phận dân cư có thu nhập thấp. 1.2.2.2. Chuẩn nghèo tại Việt Nam Trong những năm qua Việt Nam tồn tại hai phương pháp xác định chuẩn nghèo nhằm phục vụ các mục đích khác nhau. Đó là: Phương pháp xác định chuẩn nghèo của Tổng Cục thống kê: Tổng cục Thống kê là cơ quan đóng vai trò thu thập, công bố và đánh giá số liệu ở cấp quốc gia và so sánh với quốc tế, Tổng cục thống kê đã cùng với WB áp dụng phương pháp xác định chuẩn nghèo theo phương pháp nghiên cứu đo lường mức sống. Đây là phương pháp phát triển và được sử dụng rộng rãi vào đầu thập niên 80 cho các nước phát triển, phương pháp này cho phép các kết quả tính toán có thể so sánh được với các nước trong khu vực và so sánh theo thời gian. Chuẩn nghèo do Tổng cục Thống kê điều chỉnh đã được áp dụng qua 4 cuộc điều tra mức sống hộ gia đình năm 1992, 1998, 2002 và 2004. Chuẩn nghèo này có 2 mức: Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm: được xác định bằng giá trị của một rổ hàng hóa lương thực thực phẩm thiết yếu đảm bảo khẩu phần ăn duy trì với nhiệt lượng tiêu dùng 1 người/1 ngày là 2.100k.cal. Chuẩn nghèo lương thực thực phẩm của năm 1998 là : 1.287 ngàn đồng/ người/ năm Chuẩn nghèo chung: được xác định bằng giá trị của một số rổ hàng lương thực thực phẩm cộng với mức chi tiêu tối thiểu các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm. Gồm nhà ở, quần áo, đồ dùng gia đình, học tập, văn hóa, giải trí, y tế, đi lại, thông tin liên lạc.. Chuẩn nghèo chung được xác định cho năm 1998 là : 1.790 ngàn đồng/ người/ năm. Những hộ nghèo có mức thu nhập bình quân đầu người dưới tiêu chuẩn được xác định trên là hộ nghèo. Song phương pháp của TCTK vẫn còn tồn tại một số hạn chế đó là: phương pháp này chỉ sử dụng 1 chuẩn nghèo duy nhất áp dụng cho cả khu vực thành thị và nông thôn nên việc đánh giá thực trạng đói nghèo cả nước gặp vài khó khăn, hơn nữa trong phương pháp này khi chi tiêu của hộ được tính trên cơ sở giá khai báo của hộ gia đình thì chi phí rổ hàng hóa lại tính theo giá thị trường nên mức giá khai báo thường thấp hơn so với điều tra thị trường. Phương pháp xác định chuẩn nghèo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: Bộ LĐTB và XH là cơ quan thường trực chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo, bộ đã tiến hành xây dựng và rà soát chuẩn nghèo qua các thời kỳ nhằm xác định đối tượng cụ thể của chương trình xóa đói giảm nghèo tại cấp thôn, lên danh sách hộ nghèo, chỉ ra các nguyên nhân đói nghèo và đề xuất các giải pháp hỗ trợ. Bộ luôn cập nhật chuẩn nghèo theo mức độ cải thiện của đời sống dân cư và người nghèo và luôn xác định hai mức chuẩn nghèo riêng biệt cho khu vực thành thị và nông thôn. Trong điều kiện hạn chế về nguồn lực tài chính và nhân sự thì phương pháp của Bộ LĐTBXH đơn giản và ít tốn kém hơn. Quan trọng hơn là nó tạo điều kiện cho các cơ sở có thể triển khai nhanh việc xác định và lập danh sách hộ nghèo cần hỗ trợ bảo đảm đối tượng của chương trình tương ứng với khả năng nguồn lực để giải quyết vấn đề nghèo đói của chính phủ đồng thời phát huy tính tự chủ và sáng tạo của địa phương trong việc huy động nguồn lực XĐGN. Ngoài ra chuẩn nghèo của Bộ LĐTBXH còn một ưu điểm nữa là được điều chỉnh gắn với tăng trưởng kinh tế, mức độ cải thiện đời sống của người dân và thu hút được sự tham gia rộng rãi của các địa phương trong việc điều chỉnh chuẩn nghèo. Chuẩn nghèo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội điều chỉnh theo giai đoạn: Giai đoạn 1993 – 1995 - Hộ đói: Bình quân thu nhập đầu người quy gạo/ tháng dưới 13kg đối với thành thị và dưới 8kg đối với khu vực nông thôn - Hộ nghèo: Bình quân đầu thu nhập đầu người quy gạo/ tháng dưới 20kg đối với khu vực thành thị và dưới 15kg đối với khu vực nông thôn. Giai đoạn 1995 – 1997: - Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong một hộ một thang qui ra gạo dưới 13kg, tính cho mọi vùng. - Hộ nghèo: là hộ có thu nhập + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15kg/người/tháng. + Vùng nông thôn đồng bằng, trung du : dưới 20kg/người/tháng. + Vùng thành thị: dưới 25kg/người/tháng. Giai đoạn 1997 – 2000 ( công văn số 175/LĐTBXH): - Hộ đói: là hộ có mức thu nhập /người trong hộ một tháng qui ra gạo dưới 13kg tương đương 45 ngàn đồng( giá năm 1997, tính cho mọi vùng). - Hộ nghèo : là hộ có thu nhập tùy theo từng vùng ở các mức tương ứng như sau: + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15kg/người/tháng (tương đương 55 ngàn đồng). + Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg/người/tháng (tương đương 70 ngàn đồng) + Vùng thành thị :dưới 25kg/người/tháng (tương đương 90 ngàn đồng) Giai đoạn 2001 – 2005 ( Quyết định số 1143/2000/QĐ – LĐTBXH): - Nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng. - Nông thôn đồng bằng : 100.000 đồng/người/tháng. - Thành thị : 150.000 đồng/người/tháng Giai đoạn 2006 – 2010 ( Quyết định số 170/2005/QĐ – TTg) - Khu vực nông thôn là: 200.000 đồng/người/tháng. - Khu vực thành thị là: 260.000 đồng/người/tháng. Nguồn: Văn phòng chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và Việc làm Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, dự kiến mức tăng trưởng kinh tế năm 2008 là 7% trong khi chỉ số giá CPI có thể lên tới >25% ( lạm phát gần 30%) thì mức chuẩn nghèo cũ đã trở nên không còn phù hợp, trên thực tế với mức chuẩn nghèo 2006 – 2010 ở khu vực nông thôn là 200.000 đồng/tháng/người tương đương với 30kg gạo thì nay chỉ mua được 20kg nghĩa là đời sống người dân đang nghèo đi và nếu không có sự điều chỉnh chuẩn nghèo thì một bộ phận khó khăn đã vô tình bị đẩy ra khỏi đối tượng được thụ hưởng chính sách. Trước tình hình chuẩn nghèo hiện tại không phản ánh đúng thực tế tỷ lệ nghèo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã đề xuất với Thủ tướng Chính Phủ 2 phương án điều chỉnh chuẩn nghèo: - Phương án 1: chuẩn nghèo được cập nhật chỉ số CPI năm 2007 (12,63%) và năm 2008 ( dự kiến 24,5%). Chuẩn nghèo được tính ở 2 khu vực Khu vực Nông thôn: những hộ có thu nhập từ 270.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo. Khu vực thành thị: những hộ có thu nhập bình quân 360.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo. - Phương án 2: chuẩn nghèo cập nhật theo chỉ số CPI 2007 (12,63%) và năm 2008 (dự kiến 27,5%) bao gồm chuẩn nghèo ở 2 khu vực là: Chuẩn nghèo mới khu vực nông thôn là : 300.000 đồng/người/tháng Chuẩn nghèo mới khu vực thành thị là : 390.000 đồng/người/tháng Theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006 – 2010 thì tính tới cuối năm 2008 Việt Nam có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo ( chiếm 14,7% tổng số hộ dân cả nước) tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn, miền núi ( chưa thống kê số hộ đã thoát khỏi diện nghèo nhưng tái nghèo do ảnh hưởng bởi lạm phát hoặc sau những đợt thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tục trong năm 2007 – 2008). Nếu áp dụng chuẩn nghèo theo phương án 2 thì ước tính tỷ lệ nghèo cả nước sẽ tăng lên khoảng từ 16,5 đến 17%. Nguyên nhân đói nghèo Nguyên nhân dẫn tới đói nghèo thường hết sức đa dạng tùy điều kiện tự nhiên, đặc điểm dân cư kinh tế xã hội, phong tục tập quán của mỗi quốc gia lãnh thổ mà nguyên nhân đói nghèo khác nhau. Sau đây là một số nguyên nhân chính của đói nghèo: Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên Điều kiện tự nhiên không thuận lợi như: khí hậu khắc nghiệt, thiên tai bão lũ, hạn hán đất đai xấu địa hình phức tạp… là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn tới đói nghèo. Một thực tế điển hình ở Việt Nam là tỷ lệ nghèo hay tốc độ giảm nghèo giữa các vùng không đồng đều, tỷ lệ đói nghèo cao thường tập trung ở các vùng đồi núi. Bị cách biệt về địa lý, cơ sở hạ tầng yếu kém.. đã cản trở người dân giao lưu văn hóa hay kinh doanh thương mại tiếp cận thông tin nên thu nhập chủ yếu của họ chỉ dựa vào nông nghiệp bấp bênh không ổn định nên tỷ lệ tích lũy nên tỷ lệ nghèo cao ở các vùng này là một điều không khó giải thích. Ngoài ra điều kiện tự nhiên không thuận lợi cũng ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống con người cũng như sự phát triển của xã hội đặc biệt Việt Nam là một quốc gia dễ bị tổn thương trước bão lũ và hạn hán do đó có ngày coàng nhiều người bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Theo ước tính của Văn phòng chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung Ương từ năm 1997 trở lại đây trung bình mỗi năm có khoảng 700 người thiệt mạng vì thiên tai, số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai từ 1 – 1,2 triệu người và đẩy hàng nghìn hộ xuống mức đói nghèo. Trình độ học vấn thấp Trình độ học và nghèo đói là hai yếu tố có sự tác động qua lại lẫn nhau “giáo dục vì nghèo mà không được thực hiện tốt, còn nghèo là vì giáo dục không khởi sắc”, người nghèo thường là những người học vấn thấp ít có cơ hội tìm được việc làm tốt mà chỉ nhận làm thuê mướn những công việc lao đọng chân tay thủ công thu nhập không ổn định và thấp chỉ đủ đảm bảo những nhu cầu tói thiểu không đủ điều kiện đầu tư học tập nâng cao trình độ cho bản thân và thế hệ tương lai để thoát nghèo. Ở Việt Nam theo số liệu thống kê trình độ học vấn thì có khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổng thông cơ sở hay thấp hơn, tỷ lệ người chưa bao giờ đi học là 18%, tốt nghiệp tiểu học 39%, THCS 37% tỷ lệ nghèo giảm khi trình độ giáo dục tăng. Do trình độ học vấn thấp và khả năng nhận thức người nghèo hạn chế đã cản trở họ tiếp cận với các dịch vụ kết cấu hạ tầng và kỹ thuật sản xuất mới. Trước hết là khả năng tiếp cận và sử dụng cơ sở hạ tầng, theo kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo giao thông, cơ sở hạ tầng là tiền đề tăng cường thông tin và đẩy mạnh các dịch vụ sản xuất mới mở rộng cơ hội việc làm cho người dân nhưng do trình độ thấp họ chưa tìm ra phương thức kinh doanh chưa có vốn thì những người ngoài không thuộc nhóm nghèo đã chớp lấy cơ hội. Như vậy để giảm nghèo có hiệu quả phải thực hiện đồng bộ phát triển giao thông và giáo dục. Hơn nữa trình độ học vấn thấp làm họ thích ứng chậm với các phương tiện máy móc sản xuất tiên tiến hiện đại hay các dịch vụ khuyến nông, khuyến ngư bảo vệ thực vật các yếu tố đầu vào cây trồng vật nuôi mới.. Thiếu cơ hội áp dụng các phương thức sản xuất mang lại lợi nhuận cao và ổn định nên học càng ngày càng nghèo hơn. Nguyên nhân từ nhân khẩu học Quy mô hộ gia đình là yếu tố tác động khá rõ rệt tới nghèo đói, một thực tế là khi quy mô hộ gia đình càng lớn thì cơ hội về học vấn hay đảm bảo dinh dưỡng điều kiện sống của các thành viên trong._. gia đình càng bị thu hẹp, thu nhập bình quân đầu người các thành viên càng giảm tỷ lệ người ăn theo cao. Hơn nữa người nghèo với tư tưởng lạc hậu trọng nam khinh nữ hay suy nghĩ có thêm con là thêm lao động cộng thêm sự thiếu kiến thức hiểu biết về sức khỏe sinh sản, chưa ý thức về kế hoạch hóa gia đình đã đẩy họ càng lấn sâu vào vòng luẩn quẩn : Đông con – Đói nghèo, đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của đói nghèo. Một nghịch lý ở Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung là tỷ lệ sinh con trong hộ gia đình nghèo đặc biệt là ở các vùng nông thôn, vùng khó khăn còn cao trong khi khả năng làm kinh tế ơ các vùng này lại hữu hạn đất đai ít năng suất thấp nên những đứa trẻ sinh ra trong gia đình đông con này ăn chẳng đủ no, áo chẳng đủ mặc, chẳng được tới trường; cha mẹ thì đầu tắt mặt tối bươn trải vất vả quanh năm vẫn không đủ ăn. Nhưng những người này lại cho rằng “ nghèo là do số mệnh” chứ không nghĩ rằng do mình sinh quá nhiều mà khả năng đáp ứng nhu cầu lại hạn chế và cái nghèo cứ thế quẩn quanh. Bệnh tật sức khỏe yếu kém Có thể nói bệnh tật là một gánh nặng đối với người nghèo, khi mắc bệnh hay không có sức khỏe họ vừa phải gánh vác chi phí y tế chữa bệnh vừa mất đi thu nhập từ lao động mắc bệnh. Chi phí y tế cao đã đẩy nhiều hộ nghèo, cận nghèo lâm vào cảnh nợ nần cầm cố tài sản nên cơ hội để họ thoát khỏi cái nghèo ngày càng khó khăn hơn. Một số nghiên cứu đã chỉ ra người nghèo dễ mắc bệnh và khả năng chữa bệnh thường khó hơn, vì người nghèo thường phải sống và làm việc trong môi trường khắc nghiệt điều kiện bảo hộ lao động kém. Ngoài ra việc ăn uống của họ cũng không được đáp ứng đầy đủ chất nên sức đề kháng thường kém hơn. Vì vậy, việc hỗ trợ về y tế cho các hộ nghèo là một trong những bước khởi đầu của mỗi chiến lược xóa đói giảm nghèo của các quốc gia. Quan niệm về tái nghèo Quan niệm tái nghèo Đi đôi với phát triển tăng trưởng kinh tế thì việc quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội xóa đói giảm nghèo, giảm nghèo bền vững để nhân dân có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn là nhiệm vụ hàng đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Nước ta cũng là một quốc gia đang phát triển tỷ đói nghèo cao được xếp vào nhóm nước nghèo của thế giới trong những năm 90s nên nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo càng cấp thiết hơn, sau hơn hai mươi năm thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo các biện pháp chống đói nghèo ta đã thu được những thành quả đáng kể: tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam giảm nhanh chóng từ 17,2% năm 2001 xuống còn 6,3% năm 2005 ( theo chuẩn nghèo cũ) và theo chuẩn nghèo mới ta đã giảm từ 22% năm 2005 xuống còn 14,8% năm 2007, bình quân mỗi năm giảm được 2% ứng với khoảng hơn 30 vạn hộ. Tuy nhiên công tác xóa đói giảm nghèo của ta vẫn còn vẫn vấp phải một khó khăn rất lớn đó là trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt thiên tai bão lũ luôn xảy ra bất ngờ với quy mô tần suất lớn tập trung ở các vùng nghèo có khả năng phục hồi hậu quả rất hạn chế nên nguy cơ tái nghèo rất cao ảnh hưởng không nhỏ tới công tác xóa đói giảm nghèo. Vậy tái nghèo là gì? Hiện nay chưa có một tổ chức nào đưa ra một khái niệm chính thức về hiện tượng tái nghèo nhưng ta có thể hiểu một cách đơn giản Tái nghèo là sự quay trở lại với nghèo đói của một bộ phận dân cư đã thoát nghèo do sự tác động của các nhân tố như: thiên tai bão lũ, lạm phát khủng hoảng kinh tế, rủi ro trong việc đầu tư sản xuất, biến động giá cả, hình thức sản xuất chưa phát triển... Vì vậy muốn công tác xóa đói giảm nghèo đạt hiệu quả cao và bền vững thì trước hết ta phải hạn chế được nguy cơ tái nghèo. Sự cần thiết chống tái nghèo Với những nỗ lực nhất định của Nhà nước và xã hội, sau 20 năm đổi mới thành tựu xóa đói giảm nghèo của Việt Nam trong thập niên vừa qua được thế giới ghi nhận tuy nhiên Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp nghèo tính bền vững của nhóm dân cư mới thoát nghèo không được bảo đảm vững chắc, tái nghèo vẫn luôn là một hậu họa tiềm ẩn một dẫn chứng điển hình là khi kết thúc chương trình XĐGN quốc gia giai đoạn 2001 - 2005 bình quân mỗi năm giảm được trên 2% tương ứng với 34 vạn hộ nhưng lại có khoảng 40.000 hộ tái nghèo, bằng 10% thành quả giảm hộ nghèo của cả nước, cụ thể ở một số tỉnh tỷ lệ tái nghèo rất cao: chỉ trong năm 2002 Quảng Nam có 10.629 hộ thoát nghèo thì có tới 6.387 hộ tái nghèo; Lâm Đồng có 5.948 hộ thoát nghèo trong đó 2.510 hộ tái nghèo; Phú Yên có 5.611 hộ thoát nghèo có 3.248 hộ tái nghèo; Bình Định có 10.629 hộ thoát nghèo thì đến 4.465 hộ tái nghèo... Như vậy, nếu tính bình quân, phải có đến 60 - 70% hộ thoát nghèo tái nghèo ở các tỉnh này, tức là tình trạng nghèo đói tăng cấp số cộng so với kết quả xóa đói giảm nghèo. Tái nghèo không chỉ làm giảm hiệu quả, tính bền vững của công tác XĐGN gây lãng phí nguồn lực xã hội đầu tư cho XĐGN mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới người dân nghèo triệt tiêu ý chí, hi vọng thoát nghèo bền vững của các hộ nghèo cận nghèo. Các chuyên gia cảnh báo rằng trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế đe dọa ngăn chặn đà phát triển của Việt Nam, với tỷ lệ lạm phát không ổn định, giá cả leo thang và thiên tai, dịch họa liên tiếp xảy ra sẽ khiến hàng triệu người Việt Nam rơi vào tình trạng tái nghèo nghĩa là nguy cơ tái nghèo đang có xu hướng gia tăng tại nhiều vùng trong cả nước, nhất là ở khu vực nông thôn và miền núi. Một tính toán đơn giản cũng cho thấy rõ tái nghèo đang là một nguy cơ khó tránh. Vì vậy, để công tác xóa đói, giảm nghèo đạt hiệu quả bền vững thì việc hạn chế nguy cơ tái nghèo là một trong những vấn đề mấu chốt quan trọng nhất. Kinh nghiệm chống tái nghèo tại một số tỉnh, huyện Chống tái nghèo huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình Giới thiệu về huyện Bố Trạch: là một huyện nằm phía bắc tỉnh Quảng Bình có chung đường biên giới với nước bạn Lào gần 50km. Xét về địa lý huyện có thể chia thành 2 vùng kinh tế sinh thái: Vùng đồng bằng ven biển, vùng gò đồi trung du và vùng miền núi rẻo cao. Vùng dân tộc miền núi của huyện có 9 xã thị trấn miền núi và 2 xã rẻo cao, trong đó có 4 xã được hưởng lợi đầu tư từ Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn của Chính Phủ đó là : Thượng Trạch, Tân Trạch, Xuân Trạch và Lâm Trạch. Trong nhiều năm qua Bố Trạch luôn coi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc miền núi với trọng tâm là công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Huyện đã thực hiện lồng ghép các chương trình xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế xã hội; các dự án xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng; đầu tư y tế giáo dục đồng thời thực hiện tốt các chính sách dân tộc “ bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển” tất cả vì mục tiêu xóa đói giảm nghèo đảm bảo công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi. Với tinh thần nỗ lực giảm nghèo đó sau gần hai mươi năm đổi mới vùng dân tộc miền núi huyện Bố Trạch đã có những bước phát triển đáng kể trên tất cả các mặt kinh tế xã và đặc biệt là trong công tác Xóa đói giảm nghèo. Đối với vùng dân tộc thiểu số tuy đời sống người dân vẫn khó khăn hộ đói nghèo vẫn còn nhiều nhưng so với trước đây đời sống người dân đã khá hơn rất nhiều, trước năm 1999 số tháng thiếu lương thực của đồng bào dân tộc là 6 – 8 tháng thì đến năm 2004 số tháng thiếu lương thực chỉ còn 3 – 4 tháng và theo số liệu khảo sát năm 2007 thì hầu như bà con không còn thiếu lương thực. Trong 3 năm từ 2001 đến 2004 tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh, giảm trên 12%. Bên cạnh những kết quả đạt được có thể nói công tác giảm nghèo ở vùng dân tộc miền núi Bố Trạch vẫn còn tồn tại không ít khó khăn: xuất phát điểm của các xã miền núi thấp nhất là 2 xã đồng bào dân tộc thiểu số trước năm 2000 tỷ lệ hộ đói nghèo là 100%; tính đặc thù của vùng miền núi, vùng sâu vùng xã với những khó khăn vốn có về điều kiện tự niên thiên tai bất thường luôn rình rập, các hộ thoát nghèo nhưng chưa bền vững nguy cơ tái nghèo rất cao nên chủ trương trước mắt của xã là tiếp tục đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo nhưng phải đồng thời kết hợp các biện pháp để chống nguy cơ tái nghèo. Biện pháp chống tái nghèo hiệu quả nhất của huyện là việc “ Cải thiện nhà ở cho các hộ cận nghèo” đây là một chương trình có ý nghĩa quan trọng của huyện Bố Trạch trong việc thực hiện mục tiêu thoát nghèo và chống tái nghèo bền vững góp phần hoàn thành mục tiêu đưa huyện thoát nghèo bền vững năm 2010. Hậu quả của cơn bão số 3 năm 2002 cho thấy hàng trăm ngôi nhà bị thiệt hai đều là nhà tạm, hệ số an toàn thấp. Thiệt hại về nhà cửa làm cho các hộ nghèo càng nghèo thêm và những hộ cận nghèo thì nghèo đi nhanh chóng. Rất khó để thoát nghèo nếu người dân tiếp tục sống trong các ngôi nhà không còn đảm bảo chắc chắn mỗi khi có bão lụt ở một vùng mà bão lụt luôn là nỗi lo thường trực nhưn Miền Trung. Do đó huyện đã xác định cải thiện nhà ở là một biện pháp cần thiết để hỗ trợ đắc lực cho công cuộc chống nghèo và tái nghèo cho người dân. Chủ chương này của huyện nhanh chóng được triển khai và nhận được sự ủng hộ của nhân dân và đông đảo lực lượng trên địa bàn. Giai đoạn 2003 – 2007 huyện đã có 798 nhà tranh tạm bợ dột nát của hộ đồng bào dân tộc của hộ nghèo và cận nghèo được xây dựng lại chắc chắn phù hợp với tập quán và thuận lợi cho sinh hoạt của người dân, trị giá bình quân mỗi nhà là gần 20 triệu đồng/nhà. Tại thời điểm đầu năm 2008 toàn huyện còn 950 hộ gia đình có nhà tạm cần cải thiện chủ yếu là các hộ mới thoát nghèo, cận nghèo và hộ gia đình chính sách nên Huyện đã có chủ chương tiếp tục triển khai chương trình xóa nhà tạm trong 3 năm 2008 – 2010. Riêng năm 2008 huyện tập trung ưu tiên cải thiện cho các gia đình chính sách ở mức cận nghèo để phòng tránh nguy cơ tái nghèo. Với sự chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy và chính quyền các cấp, sự tham gia tích cực của các ban ngành tổ chức đoàn thể và sự hưởng ứng của người dân đến cuối tháng 8 năm 2008 đã có 213 ngôi nhà của các đối tượng cận nghèo được hoàn thành đưa vào sử dụng. Tuy nhiên chưa đầy 1 tháng sau cơn bão số 7 đã đổ về gây thiệt hại đáng kể cho huyện với 2.640 ngôi nhà bị tốc mái và 8 nhà bị sập. So với bão số 5 năm 2007 thì bão số 7 có cường độ mạnh hơn nên số nàh bị ảnh hưởng nhiều hơn nhưng số nhà bị sập lại ít hơn rất nhiều. Nguyên nhân trực tiếp là do hầu hết các nhà tạm đã được cải thiện. Nếu như các đối tượng cận nghèo không được cải thiện kịp thời thì sau cơn bão số 7 có thể lên tới hàng trăm ngôi nhà bị sập, con số tái nghèo của huyện không biết đã lên tới bao nhiêu. Cải thiện nhà ở cho các hộ cận nghèo vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão lụt đã góp phần giảm thiểu đáng kể thiệt hại do bão lũ gây ra qua đó tránh được nguy cơ tái nghèo. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc ổn định đời sống cho nhân dân và bài học thực tiễn trên một lần nữa khẳng định: Cải thiện nhà ở cho người dân vừa là mục tiêu vừa là giải pháp vô cùng hiệu quả góp phần giảm nghèo và chống tái nghèo bền vững cho người dân. Kinh nghiệm chống tái nghèo tại xã Hương Phú – Huế Tháng 10/2001, Hương Phú bắt đầu được hưởng lợi từ Chương trình 135 và sau 4 năm thực hiện, xã đã được đầu tư gần 2 tỷ đồng từ Chương trình 135, nhân dân đóng góp trên 2.400 ngày công lao động và vật liệu trị giá 26.400.000 đồng. Theo đó, đã góp phần thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển, tạo sự chuyển biến rõ rệt về cơ sở hạ tầng nông thôn, cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã. Các cụm dân cư đã có hệ thống đường liên thôn xi măng, cấp phối, ô tô có thể đến được các thôn xóm, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá phát triển. Nhờ có kênh mương kiên cố, đã đảm bảo lượng nước tưới cho đồng ruộng (kể cả những chân ruộng cao), góp phần đưa năng xuất lúa từ 41,7 tạ/ha (năm 2001) lên 50 tạ/ha (năm 2005). Từ hệ thống kênh mương, xã mở rộng thêm được 3 ha diện tích lúa nước và có nguồn nước tưới cho nhiều diện tích cây cao su. Có lẽ, Hương Phú là một trong những xã đặc biệt khó khăn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của cả nước. ở thời điểm năm 2001, đạt 11,6%, đến 2004 đột biến đạt 34%. Bình quân thu nhập đầu người từ 1,930 triệu đồng (năm 2000), tăng lên 3,8 triệu đồng (năm 2004). Từ năm 2003, Hương Phú đã chấm dứt được tình trạng đói. Tỷ lệ hộ nghèo từ 30% (năm 2000), giảm xuống còn 7% (năm 2004). Những thành tựu rất đáng phấn khởi ấy gắn liền với ý chí, sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân xã Hương Phú, trong đó có yếu tố quan trọng là phát huy hiệu quả tích cực từ Chương trình 135. Năm 2004, Hương Phú (Nam Đông - Thừa Thiên -Huế) là xã thứ hai trên toàn quốc tự nguyện rút khỏi Chương trình 135. Tuy nhiên, sau 2 năm, đầu tháng 10/2006, cơn bão số 6 đã làm thiệt hại nặng nề nhà cửa và tài sản của nhân dân, ước tính tổng thiệt hại khoảng 50 tỷ đồng, trong đó có hơn 140ha rừng trồng và 290ha cao su bị gãy đổ hoàn toàn. Hương Phú lại rơi vào nguy cơ tái nghèo khi cơn bão số 6 tràn qua khiến hàng trăm hộ dân trắng tay. Để giúp các hộ khôi phục sản xuất, đồng thời giảm nguy cơ tái nghèo, Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện đã lập danh sách để hỗ trợ giống cao su cho bà con chuẩn bị trồng mới vào tháng 9-2007. Đối với hộ nghèo, phòng hỗ trợ 80% giống nếu bị thiệt hại 100%; hỗ trợ 50% đối với những hộ thiệt hại dưới 80%. Trước mắt, xã áp dụng phương châm “lấy ngắn nuôi dài” bằng cách hướng dẫn người dân trồng sắn, khoai lang, ngô, đậu trên vườn cao su. Ngân hàng cũng hỗ trợ, tạo điều kiện cho bà con vay vốn mua phân bón, giống để tái sản xuất. Ngoài ra Tỉnh và huyện có chủ trương hỗ trợ người dân bị thiệt hại do bão. Đối với những hộ bị thiệt hại từ 80% trở lên được xoá nợ, hộ thiệt hại 60% - 80% được khoanh nợ. Hiện tại, huyện đang chỉ đạo xã đẩy mạnh sản xuất cây lương thực ngắn ngày để đề phòng tình trạng thiếu lương thực và hạn chế nguy cơ tái nghèo. Kinh nghiệm chống tái nghèo tại Cà Mau Là tỉnh có diện tích bờ biền và ngư trường rộng lớn trên 80.000 km2, Cà Mau có lợi thế để phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp chế biến mở ra nhiều ngành nghề dịch vụ phục vụ sản xuất. Từ nhận thức đúng đắn vai trò và ý nghĩa chính trị xã hội của xóa đói giảm nghèo nên giai đoạn 2001 – 2005 tỉnh đã tổ chức triển khai đồng bộ nhiều giải pháp thiết thực thu hút sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia công tác XĐGN, tỉnh chủ trương đưa Đề án xóa đói giảm nghèo thâm nhập vào cuộc sống tạo ra những biến đổi căn bản trong đời sống kinh tế xã hôi của người dân trong tỉnh nói chung và của hộ gia đình nghèo nói riêng. Các nguồn lực từ quỹ quốc gia xóa đói giảm nghèo từ Ngân hàng chính sách xã hội, quỹ tương trợ đoàn thể mỗi năm huy động được gần 100 tỷ đồng góp phần to lớn vào những thành quả đạt được của công tác XĐGN trong giai đoạn này. Qua 4 năm thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo tỉnh Cà Mau đã giảm được 13.700 hộ nghèo, đưa tỷ lệ nghèo từ 15,48% vào năm 2001 xuống còn 7,28% năm 2005 (theo chuẩn nghèo cũ). Thực hiện điều tra rà soát hộ nghèo năm 2005 theo tiêu chí mới thì tỷ lệ nghèo của tỉnh là 17,48% khoảng 42.039 hộ, công nhận 9 xã phường cơ bản đạt tiêu chuẩn thoát nghèo. Tuy nhiên công tác giảm nghèo của tỉnh vẫn tồn tại một thực tế là mặc dù tỷ lệ hộ nghèo đã giảm đáng kể song kết quả vẫn chưa đồng đều và chưa thực sự vững chắc tình trạng tái nghèo đang là vấn đề đáng quan tâm đối với tỉnh, hàng năm còn 600 – 800 hộ phải cứu trợ giáp hạt. Cũng từ kết quả điều tra năm 2005, ước tính toàn tỉnh có khoảng 3000 hộ tái nghèo/ năm chiếm ½ trong tổng số hộ thoát nghèo mỗi năm. Tái nghèo ở Cà Mau do nhiều nguyên nhân: làm ăn thất bát liên tục, thiếu vốn thiếu đất sản xuất, một bộ phận người dân sa vào tệ nạn xã hội như rượu chè bài bạc hút chích..hầu hết các trường hợp này đều nợ ngân hàng và không có khả năng trả nợ theo thống kê của ngành Ngân hàng thì tính tới năm 2005 ngành đang giữ tới 80% số sổ đỏ ở nông thôn với 50% số đó nợ đã quá hạn. Từ nhiều năm nay tỉnh luôn huy động mỗi năm 10 tỷ đồng vào quỹ xóa đói giảm nghèo nhưng mỗi năm chỉ giảm được 2% hộ nghèo trong khi đó số tái nghèo thì ngày càng nhiều. Trước thực trạng đó cơ quan chức năng Cà Mau cảnh báo tình trạng tái nghèo và tiến hành đánh giá diễn biến tình hình tái nghèo để đưa ra một số biện pháp chống nguy cơ tái nghèo như sau: Trước mắt Cà Mau đã quan tâm nhiều hơn tới việc chống tái nghèo nên tăng cường và cải thiện lại công tác tuyên truyền vận động người dân cũng như các cấp chính quyền, đoàn thể xã hội coi trọng hơn nữa công tác XĐGN và chống tái nghèo. Đưa tái nghèo thành một tiêu chuẩn để xét thi đua các xã các hộ gia đình, những hộ tái nghèo không được công nhận gia đình đạt chuẩn văn hóa những xã có tỷ lệ cái nghèo cao sẽ không được nhận cờ thi đua khen thưởng. Tỉnh tiếp tục hỗ trợ các nguồn vốn ưu đãi để các hộ mới thoát nghèo có điều kiện sản xuất tiếp tục phát triển kinh tế gia đình tăng thu nhập tạo thêm việc làm nhưng việc hỗ trợ vốn phải gắn với gợi mở cách làm ăn để đồng vốn được sử dụng đúng mục đích và đạt nhiều quả cao ngăn ngừa tình trạng ‘ăn mất vốn”. Nâng mức vốn vay từ 1 triệu đồng/ hộ trở lên, đặc biệt ưu tiên đối với hộ có đề án sản xuất hoặc kinh doanh thì được vay với mức cao hơn tùy theo quy mô sản xuất. Tiếp tục rà soát từng xã từng ấp và phân loại đối tượng nghèo đối tượng cận nghèo có nguy cơ tái nghèo cao để hướng vào đầu tư có trọng tâm trọng điểm theo phương châm làm đến đâu chắc tới đó hạn chế triệt để nguy cơ tái nghèo. Mỗi huyện mỗi thành phố chọn một hai xã phường khóm ấp để làm điểm chỉ đạo xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo, cách làm phải dễ áp dụng đẽ phổ biến nhằm nhân rộng trên địa bàn, tổ chức thành từng nhóm 5 – 7 hộ nghèo, hộ cận nghèo hộ khá để kèm cặp giúp đỡ chia sẻ kinh nghiệm làm ăn. Với tinh thần kiên quyết và thực hiện nghiêm túc các giải pháp xóa đói giảm nghèo và chống tái nghèo tỉnh đã thu được những kết quả đáng kể. Năm 2006 tỉnh đã có 5.300 hộ thoát nghèo tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm chỉ còn hơn 16%, việc xóa nhà tạm nhà dột nát, đầu tư cho y tế giáo dục được quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt nguy cơ tái nghèo đã được hạn chế. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Sơn La Cũng giống như Bố Trạch, Sơn La là một tỉnh miền núi địa hình hiểm trở thường xuyên xảy ra thiên tai bất thường như: mưa bão, lốc, mưa đá, lũ quét kèm theo sạt lở đất cuốn trôi những tảng đá cực lớn… Sau mỗi trận thiên tai như vậy là hàng trăm ngôi nhà bị thiệt hại, đó hầu hết là các ngôi nhà tạm không có khả năng chống chịu với mưa bão, thiệt hại về nhà cửa khiến hàng trăm hộ gia đình mất nhà đã nghèo lại nghèo thêm và những hộ cận nghèo lại tái nghèo. Vì vậy chủ trương xóa nhà tạm, cải thiện nhà đặc biệt ở các vùng có nguy cơ xảy ra bão lũ cao là bài học đầu tiên cần áp dụng với tỉnh Sơn La trong công cuộc giảm nghèo bền vững chống tái nghèo. Tỉnh cần khẩn trương đánh giá diễn biến thực trạng tái nghèo hàng năm và dự báo tình hình tái nghèo trong năm sau để có chủ trương xây dựng các chương trình dự án xóa đói giảm nghèo và chống tái nghèo hiệu quả. Đặc biệt tái nghèo là một thực trạng đã diễn ra nhiều năm nhưng chưa có một khái niệm định nghĩa cụ thể nên chính quyền tỉnh, huyện, xã cần quan tâm nhiều hơn tới việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của bà con về nguy cơ tái nghèo. Ngoài ra tỉnh có thể tham khảo các biện pháp chống tái nghèo hiệu quả của tỉnh Cà Mau như: đưa tái nghèo thành một tiêu chuẩn xét thi đua, tiếp tục hỗ trợ các hộ mới thoát nghèo để tạo thu nhập ổn định, tăng cường rà soát đối tượng cận nghèo và phân loại đối với đối tượng này để có mức hỗ trợ hợp lý… Chương 2 Thực trạng về công tác XĐGN và tái nghèo của tỉnh Sơn La Các yếu tố cơ bản và điều kiện phát triển của tỉnh Sơn La Điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý, địa hình Vị trí địa lý : Sơn La là một tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, có diện tích tự nhiên là 1.412.500ha chiếm 4.27% tổng diện tích cả nước, đứng thứ 3 về độ rộng lớn trong số 64 tỉnh thành phố trong cả nước Tọa độ địa lý : 20°39’ – 22°02’ vĩ độ Bắc 103°11’ - 105°02’ kinh độ Đông Phía Tây giáp tỉnh Điện Biên; Phía Nam giáp tỉnh Thanh Hóa và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; Phía Bắc giáp các tỉnh Yên Bái, Lai Châu; Phía Đông giáp các tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình. Về mặt địa hình: Địa hình tỉnh Sơn La bị chia cắt sâu mạnh với vùng núi chiếm tới trên 85% diện tích tự nhiên toàn tỉnh,độ cao trung bình 600 – 700 km so với mặt nước biển. Ngoài ra, Sơn La có 2 cao nguyên là Mộc Châu và Sơn La – Nà Sản là địa hình tương đói bằng phẳng. Sơn La không giáp bờ biển là một tỉnh nằm sâu trong nội địa nên việc thông thương ngoại tỉnh chủ yếu phải dựa vào hệ thống đường bộ; đường sông: Sông Đà, Sông Mã..; đường hàng không Nà Sản – Hà Nội.. Tài nguyên thiên nhiên Sơn La có tài nguyên thiên nhiên khá phong phú đa dạng nhưng chủ yếu vẫn ở dạng tiềm năng chưa được khai thác để phát triển kinh tế - xã hội. Tài nguyên đất: tổng diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh là 1.412.500 ha trong đó đât đang sử dụng chỉ chiếm khoảng 61,6% đất tự nhiên. Tài nguyên đất cũng là một tiềm năng của Sơn La cần có các phương khai thác để phát triển kinh tế nông lâm nghiệp nâng cao đời sống cho nhân dân như: trồng rừng kinh tế, trồng cây công nghiệp dài ngày ngắn ngày có giá trị kinh tế cao hay tạo thêm lương thực thực phẩm. Khí hậu và thủy văn: Đặc điểm khí hậu Sơn La là khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh khô mùa hè nóng ẩm mưa nhiều. Đặc điểm địa hình bị chia cắt đã hình thành nên nhiều tiểu vùng khí hậu ở Sơn La tạo thuận lợi cho phát triển ngành nông – lâm nghiệp phong phú đa dạng. Tuy nhiên vài năm gần đây nhiệt độ trung bình có xu hướng tăng còn lượng mưa trung bình và độ ẩm không khí lại giảm, số ngày có gió Tây khô nóng tăng lên gây nên tình hình hạn hán kéo dài vào mùa đông. Hiện tượng biến đổi phức tạp của khí hậu đã ảnh hưởng tương đối lớn tới sản xuất nông nghiêp và đời sống của một số vùng trong tỉnh Sơn La như: khó tăng vụ trên diện tích đất canh tác, sương muối mưa đá lũ quét thất thưởng tổn hại tới cây trồng vật nuôi... Tài nguyên nước: tỉnh có hệ thống sông suối khá dầy đặc nhưng phần lớn mặt nước thấp hơn mặt đất canh tác với địa hình khó khăn hiểm trở phức tạp đòi hỏi phải có vốn đầu tư xây dựng lớn. Rừng: Rừng ở Sơn La cùng với các tỉnh Tây Bắc là mái nhà xanh của đồng bằng Bắc Bộ nên diện tích rừng và đất có tiềm năng phát triển lâm nghiệp là thế mạnh của Sơn La (chiếm 73% diện tích đất tự nhiên) đất đai phù hợp với nhiều loại cây tạo thuận lợi cho việc xây dựng hệ thống rừng phòng hộ và các vùng rừng kinh tế hàng hóa có giá trị cao. Trong những năm gần đây do hiện tượng chặt phá rừng tràn lan nên thường xuyên xảy ra lũ quét gây thiệt hại lớn cho bà con nhân dân đặc biệt là những hộ nghèo cận nghèo. Tài nguyên khoáng sản: Sơn La có nhiều loại khoáng sản song chủ yếu là các mỏ nhỏ phân bố rải rác khắp địa bàn rộng nên khai thác gặp nhiều khó khăn. Tiềm năng du lịch: Là vùng được thiên nhiên khá ưu đãi với các danh lam thắng cảnh: các hang động kỳ thú, các mỏ suối nước khoáng nóng, các di tích lịch sử cách mạng nhà tù Sơn La, cây đa bản Hẹo, Văn bia Quế lâm ngự chế.. Tuy nhiên việc khai thác du lịch vẫn chưa phát triển do còn nhiều trở ngại về cơ sở hạ tầng. Nguồn nhân lực Tỉnh có 12 dân tộc anh em ( là một trong những tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số nhất trên toàn quốc) trong đó dân tộc Thái có dân số lớn nhất chiếm gần 55% dân số toàn tỉnh. Nhìn chung phong tục tập quán của các dân tộc là rất phong phú đa dạng và đang được bảo tồn phát huy cùng với việc du nhập các giá trị văn hóa mới hiện đại. Lực lượng lao động khá dồi dào, bình quân hàng năm lực lượng lao động của tỉnh tăng thêm khoảng 2 vạn người. Phân theo khu vực địa lý thì lao động thành thị chỉ chiếm 16,91% tổng lao động của tỉnh còn lao động nông thôn là 436.181 người chiếm 83,09% tổng số lao động toàn tỉnh. Theo ngành kinh tế thì lao động trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao 85% tổng lao động hoạt động trong các ngành kinh tế.. Song trình độ nhân lực của tỉnh vẫn còn thấp năm 2007 tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ đạt 17% trong đó có trên 20.000 người có bằng cấp với trình độ trên đại học là 252 người, đại học cao đẳng là 6.521 người, trung học và đào tạo nghề là 7.427 người. Đặc điểm kinh tế xã hội tỉnh Sơn La Tình hình kinh tế Tốc độ tăng trưởng So với cả nước Sơn La là một tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn với đặc điểm diện tích đất đai rộng lớn nhưng dân cư phân bố thưa thớt, diện tích ruộng nước bình quân đầu người rất thấp chỉ khoảng 0,02 ha/ người (so với cả nước là 0,05ha/người). Dân số của tỉnh chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống phương thức làm ăn còn lạc hậu chủ yếu là sản xuất nông nghiệp nên thu nhập người dân chưa cao. Tuy vậy đánh giá ở tầm vĩ mô trong những năm qua nền kinh tế tỉnh Sơn La đã có những dấu hiệu tăng trưởng ổn định cố tốc độ tăng trưởng khá đồng đều, năm sau luôn cao hơn năm trước, năm 2007 nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng thần kỳ phát và tỉnh Sơn La cũng có tốc độ tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay với GDP là 15,38%. Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng GDP tỉnh Sơn La 0 2% 4% 6% 8% 10% 12% 14% 16% 18% Giai đoạn 1995 -2000 Giai đoạn 2001 -2005 2006 2007 2008 GDP Nguồn: dựa theo bảng số liệu Báo cáo phát triển kinh tế xã hội tỉnh Sơn La Sở dĩ tốc độ tăng trưởng năm 2008 có phần sụt giảm hơn hẳn so với năm 2006, 2007 là do tình hình kinh tế thế giới có nhiều bất ổn nên ít nhiều ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam nói chung và kinh tế Sơn La nói riêng. Việc sụt giảm tốc độ tăng trưởng năm nay dự kiến sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh. Về cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế của tỉnh đang chuyển dịch theo đúng hướng hoàn toàn phù hợp với đướng lối phát triển kinh tế của đất nước nghĩa là tỷ trọng nông nghiệp đang giảm dần, đồng thời tăng giá trị dịch vụ - thương mại và công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, qua đó tạo tiền đề để xóa đói giảm nghèo và chống tái nghèo. Bảng 1: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu tỉnh Sơn La Năm Đơn vị 2004 2005 2006 2007 2008 GDP % 100 100 100 100 100 Nông nghiệp % 47,99 46,71 45,41 44,17 43,25 CN – XD % 17,51 18,23 18,95 19,65 19,97 Dịch vụ % 34,5 35,06 35,64 36,18 36,68 Nguồn số liệu: Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Sơn La Dựa vào bảng số liệu ta thấy cơ cấu kinh tế tỉnh Sơn La đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trong các năm qua đang dần dịch chuyển từ kinh tế thuần nông tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa gắn với phát triển thị trường. Tuy vậy ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao còn tỷ trọng công nghiệp tăng nhưng tỷ lệ tăng còn rất nhỏ, nguyên nhân do sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp của tỉnh gặp rất nhiều khó khăn : cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, máy móc thiết bị nghèo nàn lạc hậu, thiếu vốn sản xuất nên sản phẩm chưa phong phú đa dạng và chất lượng chưa cao. Mặc dù công nghiệp có tăng trưởng song tăng trưởng hàng năm không đều có năm tốc độ tăng trưởng lên tới 50% nhưng có năm chỉ đạt 3%. Về thương mại dịch vụ Sơn La có vị trí địa lý là trung tâm khu vực Tây Bắc có hai cửa khẩu quốc gia tiếp giáp với các tỉnh Bắc Lào thuận lợi để xây dựng các trung tâm phân phối hàng hóa và dịch vụ. Hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, hàng không khá đồng bộ tạo điều kiện cho thị trường Sơn La giao thương với tất cả các tỉnh Tây Bắc như: Hòa Bình, Điện Biên, Yên Bái. Ngoài ra Sơn La có vị trí rất đắc địa để tổ chức các tua du lịch liên vùng như : tuyến du lịch Tây Bắc ( Hà Nội – Sơn La- Điện Biên Phủ - Sa Pa – Lào Cai), tuyến du lịch liên quốc gia ( Hà Nội – Sơn La - Luông Pha Băng, cố đô Lào – Thái Lan..) tuy nhiên do chưa biết cách tận dụng hiệu quả các lợi thế nên ngành thương mại dịch vụ của tỉnh vẫn chưa phát triển tỷ trọng đóng góp trong GDP vẫn thấp, chưa tạo được nhiều việc làm cho người dân bản xứ. Tình hình phát triển xã hội Giáo dục – đào tạo Công tác giáo dục của Sơn La trong những năm qua nói chung là đang được củng cố và phát triển hoàn thiện ở mọi cấp học, ngành học với nhiều loại hình theo hướng xã hội hóa, phát triển mạnh về quy mô; chất lượng giáo dục từng bước được cải thiện; mạng lưới trường lớp ngày càng được phát triển tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi tới trường ngày càng tăng đặc biệt là con em dân tộc thiểu số vùng đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn của tỉnh; việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng được chú trọng; công tác xã hội hóa bước đầu thu được những kết quả đáng trân trọng tạo nên phong trào học tập khá sôi nổi ở khắp các địa bàn, các tầng lớp xã hội của tỉnh. Về quy mô giáo dục: Năm 2006 – 2007 các huyện thị đều có đầy đủ trường trung học phổ thông, phổ thông dân tộc nội trú, trung tâm giáo dục thường xuyên. Trường cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp cũng đang tiếp tục được hoàn thiện và mở rộng về quy mô. Tuy còn lẻ tẻ chưa đồng đều ở tất cả các xã nhưng đã có sư thành lập các Hội nghề nghiệp để bồi dưỡng kiến thức văn hóa, kỹ thuật sản xuất chuyển giao công nghệ áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất cho lao động sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp nông thôn. Về chất lượng giáo dục: Chất lượng giáo dục được cải thiện đáng kể, công tác giáo dục toàn diện được thực hiện rộng rãi, nhiều đối tượng vùng sâu vùng xa không chỉ học văn hóa đơn thuần mà còn được tiếp cận với các môn học hiện đại như ngoại ngữ hay tin học.. Đến năm 2007 toàn tỉnh đã có 23 trường đạt chuẩn quốc gia gồm 3 trường mầm non, 12 trường tiểu học, trung học cơ sở 7 trường và trung học phổ thông 1 trường. Tồn tại yếu kém: Song ngành giáo dục - đào tạo tỉnh Sơn vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn hạn chế như: Qui mô giáo dục phát triển nhanh, song các điều kiện đảm bảo như cơ sở vật chất kỹ thuật, ngân sách, đội ngũ giáo viên… còn chưa đáp ứng kịp thời; công tác đào tạo nguồn nhân lực về cơ cấu, chất lượng còn nhiều bất cập, có nhiều chuyên ngành thừa, song cũng còn rất nhiều chuyên ngành thiếu và có sự chênh lệch giữa các dân tộc, các vùng, các ngành trong tỉnh; chất lượng giáo dục – đào tạo so với toàn quốc nhìn chung còn thấp chưa đồng đều giữa các vùng; quy mô đào tạo nghề còn nhỏ các Trung tâm học tập cộng đồng phát triển chậm, chưa đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên của nhân dân các dân tộc trong tỉnh.. Nhìn chung trình độ học vấn của học sinh các vùng sâu vùng xa vùng khó khăn, con em các gia đình nghèo cận nghèo còn thấp và tỷ lệ bỏ học còn cao. Y tế sức khỏe người dân Thời gian gần đây công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng của tỉnh đã thu được những thành t._.o sư trường Đại học Princeton (Mỹ) cho biết cuộc khủng hoảng hiện nay tác động tới người nghèo nặng hơn người giàu. Nhiều người tại các quốc gia phát triển có thể cảm thấy cay đắng khi phải rời bỏ mức sống sung túc quen thuộc, nhưng đa số dân ở các nước đang phát triển vẫn còn xa mới với tới được mức “nghèo” đó. Nhiều người ở các nước phát triển kêu ca bị mất việc làm, nhưng họ vẫn được hệ thống an sinh hỗ trợ, được hưởng chăm sóc y tế, giáo dục miễn phí cho con cái, được hưởng các điều kiện sinh hoạt, nước uống bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh... Trong khi người nghèo ở các quốc gia đang phát triển không được hưởng những lợi ích như vậy, dẫn đến 18 triệu người chết mỗi năm, cao hơn cả số người tử vong hàng năm trong thời kỳ Thế chiến II. Tình trạng đói nghèo nếu cứ tiếp tục tăng sẽ gây nên nhiều nguy cơ mới đặc bietj là nguy cơ tái nghèo ở các nước đang phát triển. Trong báo cáo "Khủng hoảng Kinh tế toàn cầu: Đánh giá mức độ tổn thương qua tình hình nghèo đói", WB cho biết với tốc độ tăng trưởng kinh tế tiếp tục suy giảm trong năm 2009 sẽ đẩy thêm 53 triệu người nữa rơi vào tình trạng nghèo đói, thêm vào con số 130-155 triệu người của năm 2008, khi giá nhiên liệu và thực phẩm tăng cao và gần 40% trong 107 các nước đang phát triển chịu ảnh hưởng nặng nề từ những tác động gây nghèo đói của cuộc khủng hoảng hiện nay. Các nước còn lại thì chịu ảnh hưởng ở mức độ vừa phải, với chưa tới 10% không phải đối mặt với nhiều nguy cơ. Báo cáo kêu gọi sự hỗ trợ tài chính dưới dạng các khoản viện trợ và khoản vay lãi suất thấp hoặc lãi suất bằng 0 cho các nước không có các biện pháp huy động vốn trong nước hoặc quốc tế cho các dự án nhằm kiềm chế tác động của cuộc suy thoái. Ông Zoellick gần đây cũng kêu gọi các nước phát triển đóng góp 0,7% giá trị gói kích thích tài chính trong nước cho "Quỹ Tổn thương", nhằm mục tiêu đảm bảo tài chính cho các chương trình an toàn và đầu tư cho cơ sở hạ tầng, đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các thể chế tài chính vi mô.  Nguồn: Theo BBCVietnamese “Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những hệ quả đáng lo ngại” Có thể thấy hiện nay bối cảnh thế giới có rất nhiều bất lợi cho công tác xóa đói giảm nghèo và nguy cơ tái nghèo đang đe dọa rất nhiều nước đang phát triển vì vậy ta cần có sự nỗ lực và quyết tâm giảm nghèo, chống tái nghèo nhiều hơn nữa hướng tới hoàn thành được mục tiêu thiên niên kỷ. Bối cảnh trong nước Thuận lợi: Xóa đói giảm nghèo có ý nghĩa kinh tế - xã hội, chính trị và nhân văn sâu sắc và luôn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Và trong giai đoạn hiện nay thì công tác chống tái nghèo cũng đang được nhà nước hết sức quan tâm. Khó khăn thách thức: tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, khủng hoảng kinh tế đang lan rộng ra toàn cầu trong đó Việt Nam nằm trong nhóm những nước có nguy cơ rủi ro cao nhất về tình trạng tái nghèo (theo đánh giá của World Bank). Theo ước tính, tỷ lệ hộ đói nghèo vừa xuống 14,7% trong năm 2008 sẽ lại tăng do có thêm những người vừa thoát khỏi diện đói nghèo vẫn ngấp nghé cận ngưỡng nghèo. Thực tế, biến động của nền kinh tế, giá cả diễn biến bất thường đang đánh trực diện vào miếng cơm, manh áo những người có thu nhập thấp nên Nguy cơ tái nghèo rất cao đặc biệt là đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số, nơi có tỷ lệ người nghèo khó rất cao. Bối cảnh tỉnh Sơn La Thuận lợi: Là tỉnh có vị trí địa lý quan trọng nên tỉnh luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm hỗ trợ trong các công tác xóa đói giảm nghèo phát triển sản xuất cải thiện đời sống nhân dân Khó khăn thách thức: Sơn La vẫn đang là một trong những tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo xã nghèo cao so với cả nước. Hộ thoát nghèo có nguy cơ tái nghèo cao do thời gian qua diễn biến thời tiết của tỉnh khá phức tạp, dịch cúm gia cầm lợn tai xanh liên tục bùng phát.. Ở nhiều vùng trên địa bàn tập quán sản xuất còn lạc hậu, cơ sở hạ tầng giao thông thủy lợi còn thiếu thốn nên công tác XĐGN còn gặp rất nhiều khó khăn thách thức. Bộ máy cán bộ làm công tác giảm nghèo vừa thiếu vừa yếu và chính các cán bộ này vẫn chưa nhận thức được về nguy cơ tái nghèo trong thời kỳ kinh tế nhiều biến động phức tạp như hiện nay. Định hướng và mục tiêu trong công tác XĐGN bền vững tỉnh Sơn La Quan điểm xóa đói giảm nghèo của tỉnh Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng bộ tỉnh Sơn La đã xác định rõ “ Giảm nghèo là một trong những chương trình phát triển kinh tế, xã hội vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài. Giảm nghèo được ưu tiên hàng đầu trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội từng giai đoạn. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân và ổn định xã hội, công tác XĐGN phải góp phần thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, giữa nhóm giầu và nhóm nghèo đồng thời từng bước tiếp cận chuẩn quốc gia”. Thực hiện tốt chương trình giảm nghèo nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, truyền thống tương thân tương ái, xây dựng phát triển hoàn thành mục tiêu giảm nghèo bền vững giảm tỷ lệ nghèo của tỉnh Sơn La xuống dưới 25% năm 2010 và xuống dưới 10% năm 2020. Mục tiêu xóa đói giảm nghèo bền vững tỉnh Sơn La Phấn đấu đến năm 2010 giảm tỷ lệ hộ nghèo tỉnh xuống dưới 25% và đến năm 2020 giảm tỷ lệ nghèo toàn tỉnh xuống dưới 10%. Tiến hành giảm nghèo toàn diện công bằng bền vững hơn nghĩa là công tác xóa đói giảm nghèo phải được tiến hành song song với các giải pháp chống tái nghèo như: tạo môi trường và điều kiện cho người nghèo tiệp cận tốt hơn với các dịch vụ sản xuất, dịch vụ xã hội cơ bản để tự lực vượt nghèo bền vững, từng bước nâng mức đời sống của nhóm hộ nghèo, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các vùng, các khu vực và giữa nhóm hộ giầu và nhóm hộ nghèo, giữa các dân tộc. Tập trung giải quyết về cơ bản các vấn đề bức xuc về đời sống an sinh xã hội và sản xuất của các xã bản ĐBKK, các hộ gia đình cận nghèo sát ngưỡng nghèo, nền sản xuất và nguồn thu nhập bà con chưa ổn định, khả năng xảy ra thiên tai bão lũ lớn nên nguy cơ tái nghèo cao. Một số mục tiêu cụ thể : Năm 2010 hoàn thành xây dựng cơ bản các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu ở 100% số xã 100% đường ô tô đến trung tâm xã cơ bản đã hoàn thành việc nâng cấp đi lại được cả trong 4 mùa. 100% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tê và 80% trạm y tế có bác sỹ, nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân, mọi người dân đều được hưởng thụ dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng cao để xóa bỏ hoàn toàn nguy cơ tái nghèo do chi phí y tế gây nên. Nâng cao tuổi thọ bình quân lên 72 – 73 tuổi vào năm 2020. 100% xã có trường THCS và tiểu học kiên cố,mở rộng quy mô trường lớp loại hình đào tạo. Nâng cao tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đúng độ tuổi và hoàn toàn không còn tình trạng ngồi nhầm lớp, thực hiện xong phổ cập phổ thông trung học vào năm 2020. Trung bình mỗi năm giải quyết việc làm cho khoảng 14 nghìn lao động để người dân có việc làm ổn định tự đảm bảo được các nhu cầu cơ bản của mình. Đến năm 2010 xóa nhà tạm dột nát cho 10.551 hộ nghèo và tăng gấp đôi số này trong năm 2020 để giảm thiểu rủi ro thiệt hại khi xảy ra thiên tai bão lũ bất thường. Tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo từ cấp trung ương tới cấp cơ sở, trong đó 97% là cán bộ xã, bản, tiểu khu, tổ dân phố. Giải pháp chống tái nghèo tại tỉnh Sơn La Nhóm giải pháp tạo nguồn thu nhập ổn định hộ cận nghèo, mới thoát nghèo ngăn chặn nguy cơ tái nghèo Nhóm giải pháp hỗ trợ sản xuất Để hạn chế tái nghèo cần giúp người dân vừa có ‘cần câu’ tốt vừa có ‘kỹ thuật câu’ thuần thục nhưng cũng cần phải chỉ rõ chỗ này câu cái gì bán nó cho ai ở đâu nghĩa là phải phối hợp chặt chẽ thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp ưu đãi tín dụng, hướng dẫn phương pháp sản xuất và hỗ trợ đầu ra tiêu thụ sản phẩm đối với các hộ nghèo hộ cận nghèo. Hỗ trợ vốn ,ưu đãi tín dụng: Ngoài những hộ nghèo ưu tiên cho cả những hộ cận nghèo có nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh hưởng chế độ ưu đãi tín dung ( vay vốn với lãi suất thấp hoặc bằng không với kỳ hạn dài) để giảm nghèo bền vững. Tuy nhiên cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các cấp chính quyền giám sát các đối tượng vay vốn để đảm bảo việc cho vay đúng đối tượng, đúng mục đích, phát huy được hiệu quả của đồng vốn. Đồng thời phải tính toán kỹ về lượng và thời hạn vốn được vay sao cho phù hợp với khả năng phát triển sản xuất của từng hộ gia đình, phù hợp với chu kỳ phát triển của cây, con được đầu tư để người dân có đủ thời gian thu hồi vốn có lãi và kịp thời tích lũy vốn, tài sản mở rộng sản xuất, tránh tình trạng bà con nông dân phải bán sớm sản phẩm của mình để trả nợ. Tỉnh nên lập một quỹ hỗ trợ dự phòng để sử dụng trong các trường hợp như: hỗ trợ tạm thời cho lao động bị mất việc đứng trước nguy cơ tái nghèo; hỗ trợ cho các hộ cận nghèo gặp rủi ro đột xuất trong sản xuất nông nghiệp do dịch bệnh, thiên tai, hạn hán mất mùa ... Hỗ trợ kỹ thuật: Trước tiên tiến hành nâng cao năng lực chuyên môn của các cán bộ khuyến nông xã, huyện và lãnh đạo thôn bản để tham gia thực hiện các dự án phát triển và xây dựng mô hình khuyến nông tại các thôn bản. Sau đó tăng cường công tác khuyến nông từ cấp xã, bản đến cấp huyện cho các vùng đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn với mục tiêu cán bộ khuyến nông luôn đi sâu đi sát tình hình sản xuất của nhân dân đặc biệt là các hộ nghèo hộ cân nghèo để góp phần quan trọng  giúp nông dân thay đổi tập quán sản xuất cũ, tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật,  sử dụng đất đai có hiệu quả. Ðồng thời,chú trọng tập huận kĩ thuật cho các cán bộ khuyến nông xã và nông dân nòng cột về những kỹ thuật mới, giống mới thử nghiệm nếu thành công thì dần dần mở rộng mô hình khuyến nông giúp bà con áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới giống mới đó vào sản xuất, từ các chương trình này, nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới có giá trị kinh tế cao được bà con đưa vào sản xuất đại trà nhằm ổn định an ninh lương thực và xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn trong tỉnh. Đối với nhiều hộ nghèo cận nghèo đã được hỗ trợ vốn nhưng còn lúng túng trong sản xuất thì tỉnh phải chủ động phân công các hội viên khuyến nông xã, những người có kinh nghiệm hơn đã thoát nghèo bền vững hướng dẫn các hộ này nên mua sắm phương tiện gì, giống cây trồng gì, kịp thời hỗ trợ phân bón, thuốc trừ sâu … Hỗ trợ đầu ra tiêu thụ sản phẩm: Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ đầu ra tiêu thụ sản phẩm nhằm giúp người nghèo ổn định và yên tâm đầu tư cho sản xuất, mạnh dạn vay vốn mở rộng quy mô sản xuất, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho hộ gia đình. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia tiêu thụ sản phẩm cho người nghèo, có chính sách về thuế, cước vận chuyển cho các tổ chức kinh tế, cá nhân tham gia tiêu thụ sản phẩm của người nghèo, nhất là ở các xã vùng III. Xây dựng mới các cụm công nghiệp chế biến nông, lâm sản nhằm làm giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá trị hàng hoá. Vừa khai thác khả năng tiêu thụ sản phẩm tại thị trường nội địa vừa tổ chức các hội trợ thương mại giới thiệu sản phẩm ra ngoài để tìm kiếm thị trường tiềm năng xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế so sánh. Nhóm giải pháp đào tạo nghề hỗ trợ tìm việc làm ổn định cho lao dộng hộ cận nghèo: Đào tạo nghề: Tăng cường công tác đào tạo lao động kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển nông thôn như: Sửa chữa máy động lực nông nghiệp, kỹ thuật thuỷ lợi, thuỷ điện nhỏ, điện dân dụng, mộc, nề, sửa chữa xe máy, trồng trọt, chăn nuôi…Tuy nhiên trước khi mở lớp dạy nghề cần có sự điều tra khảo sát nhu cầu việc làm và học nghề để chủ trương đào tạo nghề phù hợp với lợi thế so sánh, tình hình sản xuất kinh doanh của địa phương. Đặc biệt ưu tiên đào tạo nghề, hỗ trợ học phí, tìm việc làm sau khi tốt nghiệp cho lao động thuộc hộ nghèo cận nghèo, thanh niên dân tộc, lao động tái định cư thủy điện Sơn La và lao động tham gia phục vụ cho công trình xây dựng thuỷ điện Sơn La. Xã hội hóa và đa dạng hoá các loại hình đào tạo, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường dạy nghề, các trung tâm giới thiệu việc làm và dạy nghề đảm bảo hoàn thành mục tiêu đến hết năm 2010 có từ 25% trở lên người lao động được đào tạo nghề. Giải pháp hỗ trợ tìm việc làm cho người dân hộ cận nghèo: Xây dựng các trung tâm điều phối việc làm vừa cung ứng, tư vấn giới thiệu việc làm vừa đào tạo nghề ngắn hạn miễn phí cho lao động nông thôn và thanh niên dân tộc thiểu số, lao động của các hộ nghèo hộ cận nghèo. Sở Lao động Thương binh Xã hội phải phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp, khu công nghiệp trong và ngoài tỉnh các trung tâm việc làm ở các tỉnh lân cận để nắm chắc thông tin về nhu cầu thị trường lao động làm cầu nối giữa trung tâm việc làm và trung tâm việc làm. Ngoài ra tỉnh phải có các chính sách ưu đãi tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, giảm giá thuê mặt bằng đối với các công ty lớn trong tỉnh nhận giúp đỡ một huyện nghèo trong việc đào tạo nghề miễn phí và nhận lao động vào làm việc. Xúc tiến đào tạo ngoại ngữ, đào tạo nghề, cho vay vốn với lãi suất thấp tạo điều kiện cho lao động các hộ nghèo cận nghèo xuất khẩu lao động. Việc thực hiện chương trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài không những giúp các hộ cận nghèo có thu nhập cao và ổn định hơn mà còn là cơ hội giúp họ cải thiện tác phong lao động công nghiệp, tay nghề kỹ thuật chuyên môn. Có thể nói xuất khẩu lao động là cách làm hiệu quả nhanh nhất giúp bà con thoát nghèo bền vững, tuy nhiên với tập quán không muốn xa nhà của bà con vùng cao miền núi thì việc xuất khẩu lao động phải đồng thời thực hiện công tác vận động tuyên truyền để người dân thấy được hiệu quả của việc XKLĐ. Hơn nữa phải có các phương án hỗ trợ rủi ro cho người lao động khi làm việc ở nước ngoài nếu phải về nước trước thời hạn mà không phải do lỗi của người lao động để bà con yên tâm hơn vào việc XKLĐ. Nhóm giải pháp hạn chế rủi ro do thiên tai Tỉnh chủ trương thành lập các quỹ dự phòng hỗ trợ thiệt hại do thiên tai để chủ động hỗ trợ và giúp bà con nhanh chóng phục hồi sản xuất ngăn chặn nguy cơ rơi vào tình trạng tái nghèo. Sơn La là một trong những tỉnh nguy cơ xảy ra lũ quét luôn thường trực vì vậy để chống tái nghèo trước tiên ta phải tăng cường đầu tư cho ngành khí tượng thủy văn theo hướng hiện đại hóa, nhằm nâng cao năng lực dự báo phục vụ, đặc biệt là phòng chống thiên tai thiết để kịp thời cảnh báo cho người dân. Kết hợp với việc xuất bản các bản tin dự báo thời tiết hàng ngày, tuần báo, tháng báo đúng thời hạn phục vụ tốt các yêu cầu của địa phương về công tác khí tượng thủy văn, góp phần chỉ đạo sản xuất, phục vụ phát triển kinh tế- xã hội, phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra .Về lâu dài, chúng ta phải triệt để bảo vệ rừng song song với việc trồng rừng ở những khu vực đã phá, trồng rừng phòng hộ và tiếp tục thực hiện việc giao đất lâm nghiệp, giao rừng cho từng bản, từng hộ, khoanh nuôi bảo vệ rừng, tăng cường kiểm tra sử lý tình trạng phá rừng làm nương rẫy, khai thác lâm sản trái phép, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, tạo điều kiện để đồng bào sinh sống ổn định, bền vững. Đây là biện pháp rất phổ biến đã được đề xuất rất nhiều nhưng thực tế làm rất kém. Hướng dẫn người dân tránh canh tác ở những sườn núi dốc từ 30 độ trở lên vì đây là những nơi có nguy cơ xảy ra lũ quét cao nhất dưới 30 độ thì được canh tác, nhưng phải có biện pháp chống xói mòn kèm theo. Một biện pháp quan trọng không kém là phải quy hoạch khu dân cư hợp lý tránh an cư ở những vùng đồi dốc, các thung lũng hẹp, vùng hẻm có nguy cơ bị lũ quét rất lớn. Chủ động tổ chức các ban ngành phòng chống lụt bão thiên tai luôn trong tư thế sẵn sàng cứu hộ ứng phó với bão lũ đặc biệt và vào mùa mưa bão từ khoảng tháng 5 đến tháng 10. Thường xuyên kiểm ra gia súc gia cầm để phát hiện sớm ngăn ngừa kịp thời, luôn vạch sẵn phương án xử lý với các dịch bệnh khác nhau của các loại gia súc gia cầm khác nhau để không bị lúng túng khi có dịch bùng phát. Nhóm giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nông thôn tạo cơ sở tiền đề nguồn lực chống tái nghèo Quy hoạch phát triển sản xuất đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Hiện nay Sơn La có lợi thế là tỉnh có đất đai rộng lớn và tương đối tốt khí hậu đa dạng phù hợp với nhiều loại cây trồng nên giải pháp trước mắt là tập trung huy động mọi nguồn lực cho phát triển sản xuất nông nghiệp tạo nguồn thu nhập ổn định làm cơ sở nguồn lực phát triển công nghiệp và dịch vụ đồng thời để cải thiện đời sống người dân đặc biệt là hộ nghèo và cận nghèo nhằm giảm tỷ lệ nghèo và nguy cơ tái nghèo của tỉnh. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển nông nghiệp: Xóa bỏ thực trạng du canh du cư đốt nương làm rẫy ở vùng đồng bào dân tộc ít người, chuyển sang thâm canh tăng vụ ruộng lúa nước, đưa giống mới vào sản xuất đảm bảo an ninh lương thực. Đồng thời mở rộng các vùng trồng cây công nghiệp ngắn ngày có hiệu quả và giá trị kinh tế cao như: chè, cà phê, mía đường, đậu tương… Tổ chức sản xuất nông nghiệp nông thôn phát triển kinh tế trang trại lấy kinh tế hộ gia đình làm đơn vị tự chủ các doanh nghiệp, hợp tác xã nông lâm trở thành đơn vị dịch vụ hai đầu cho phát triển kinh tế hộ gia đình. Phát triển sản xuất phải gắn với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật , chuyển giao công nghệ nâng cao chất lương sản phẩm kết hợp với việc khuyến khích, ưu đãi hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm cho người dân đặc biệt là những nơi không thuận lợi về đường giao thông cần hướng dẫn các hộ phấn đấu để đảm bảo nguồn lương thực, thực phẩm tại chỗ, để giảm nghèo có tính ổn định bền vững. Tận dụng ưu thế của một tỉnh miền núi đất rộng rừng nhiều cỏ sẵn đẩy mạnh phát triển nhanh các loại gia súc ăn cỏ có giá trị kinh tế cao như bò thịt lai Zeebu, bò sữa, trâu, dê… Về lâm nghiệp thì nhiệm vụ hàng đầu là ngăn chặn hiện tượng phá rừng khai thác gỗ bừa bãi, đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống rừng phòng hộ, rừng sản xuất vừa có ý nghĩa cho quốc kế dân sinh vừa phù hợp với điều kiện tự nhiên sinh thái tỉnh Sơn La Tóm lại với những hướng bố trí hợp lý như vậy nông nghiệp Sơn La sẽ phát triển ổn định ở mức cao, cơ cấu nông nghiệp sẽ chuyển dịch hợp lý các nguồn thu của người dân từ nông nghiệp sẽ nhiều hơn ổn định hơn và số người tái nghèo do rủi ro trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp sẽ giảm mạnh. Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, nghề thủ công truyền thống và dịch vụ thương mại Ngành công nghiệp tuy luôn có tỷ trọng thấp hơn nông nghiệp nhưng cũng đóng vai trò quyết định đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế làm tiền đề XĐGN, chống tái nghèo của tỉnh. Các giải pháp hỗ trợ phát triển công nghiệp: Cần chú trọng đầu tư phát triển ngành công nghiệp chế biến nông lâm sản: phải khai thác và phát huy hiệu quả các nhà máy đã được xây dựng như nhà máy đường Mai Sơn, các cơ sở chế biến cà phê chè nhà máy chế biến thức ăn gia súc, nhà máy chế biến dầu thực vật… Ngoài ra liên tục cấp nhập khuyến khich các doanh nghiệp ứng dụng các công nghệ sản xuất mới không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí sản xuất. Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác chế biến khoáng sản cũng là một ngành tiềm năng của tỉnh cần được mở rộng, đặc điểm của ngành này là sử dụng nhiều nhân công như vậy có thể giảm bớt một phần gánh nặng việc làm của tỉnh. Đặc biệt nên phát tập trung triển các ngành tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp vừa và nhỏ, khôi phục các làng nghề truyền thống gắn với các nét đặc trưng của dân tộc có lợi thế, tìm nguồn tiêu thụ đầu ra mang lại thu nhập ổn định như làng gốm sứ Mường Chanh, các làng nghề thổ cẩm, nghề mộc.. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng chuyển khoảng trên 30% lao động thuần nông sang sản xuất hàng hoá, dịch vụ gắn với nhu cầu của thị trường. Khôi phục các di tích lịch sử gắn liền với nền văn hoá giàu bản sắc dân tộc để thu hút khách du lịch... Nhóm giải pháp tăng cường an sinh xã hội cho xã hội Hỗ trợ về y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình Gánh nặng về chi phí khám chữa bệnh là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tái nghèo vì vậy ta phải có chủ trương biện pháp tăng hỗ trợ cho người nghèo, cận ngưỡng nghèo qua thuốc men và BHYT tổ chức các đợt kiểm tra sức khỏe từ thiện thường xuyên cho họ để phát hiện bệnh sớm kịp thời chữa trị. Bên cạnh việc mở rộng qui mô của các cơ sở y tế , tỉnh cũng chú trọng phát triển các loại hình y tế như: các dội y tế lưu động,các trạm y tế dự phong nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân vùng sâu, vùng xa. Sự quan tâm , hỗ trợ kịp thời của tỉnh cũng được thể hiên qua các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ y tế như: xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư các trang thiết bị y tế hiện đại, cung ứng nguồn thuốc chữa bệnh cho các tuyến cơ sở song song với việc tăng cường về số lượng và chật lượng các cán bộ y tế ở địa phương,… Mặt khác tỉnh cũng thường xuyên tiến hành điều tra khảo sát và hỗ trợ mua BHYT cho các trường hợp kinh tế khó khăn ốm đau bệnh tật dài ngày, tai nạn rủi ro hoặc già cả không nơi nương tựa. Tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân những bất lợi của việc sinh đẻ không có kế hoạch, mối quan hệ của vỡ kế hoạch hóa gia đình với nguy cơ tái nghèo. Hỗ trợ về giáo dục nâng cao trình dộ dân trí cho hộ nghèo hộ cận nghèo hạn chế tái nghèo Có các chính sách hỗ trợ sách giáo khoa, vở viết, dụng cụ học tập và miễn tất cả các khoản học phí cho tất cả con em của hộ dân tộc thiểu số hộ nghèo và cận nghèo. Tăng cường công tác vận động tuyên truyền để bà con dân tộc thấy được lợi ích của giáo dục nâng cao dân trí góp phần giảm tỷ lệ học sinh có hoàn cảnh khó khăn bỏ học, còn đối với các bản địa hình đi lại phức tạp thì tạm thời đưa giáo viên về bản mở lớp học xóa tình trạng mù chữ ở bàn làng. Huy động nguồn lực từ các tổ chức cá nhân doanh nghiệp hay ngân sách nhà nước đầu tư nâng cấp cải thiện hệ thống giao thông, trường lớp học, kí túc xá cho học sinh ở xa và giáo viên để các em có thêm động lực tới lớp. Chính sách về đất ở, nhà ở cho hộ cậni nghèo. Khai hoang, khôi phục hóa mở rộng quỹ đất và phân bổ lại đất sản xuất, ưu tiên cho hộ nghèo, cận nghèo có đủ đất sản xuất. Những nơi thiếu đất sản xuất trầm trọng chưa có biện pháp khắc phục thì cần có phương án hỗ trợ vốn, phương tiện sản xuất, dạy nghề giúp cho người nghèo chuyển nguồn thu nhập chính từ nông nghiệp sang các tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Huy động nguồn nhân lực nhàn rỗi, lực lượng biên phòng đóng trên địa bàn tỉnh đóng góp sức lực thực hiện xóa triệt để nhà tạm, nhà dột nát, tranh tre nứa lá để người dân yên tâm sinh hoạt hăng hái sản xuất và giảm nguy cơ tái nghèo khi bão lũ diễn ra bất ngờ. Nhóm giải pháp hỗ trợ cho hộ cận nghèo trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế và điều chỉnh chuẩn nghèo. Trong tình hình lạm phát giá cả leo thang ( chỉ số giá sinh hoạt năm 2007 là 12,63% và 4 tháng đầu năm 2008 là 11,6%) đã khiến cho giá trị thực tế của chuẩn nghèo giảm ít nhất 30% vì thế những hộ thuộc hộ chuẩn nghèo lại càng nghèo thêm và các hộ cận nghèo trên thực tế đã thuộc diện nghèo nhưng chưa được hưởng ưu đãi hay trợ cấp gì. Vì vậy mặc dù chuẩn nghèo chưa có sự điều chỉnh ( vẫn là chuẩn nghèo cũ 2006 – 2010) nhưng tỉnh phải tiến hành việc điều tra khảo sát sơ kết hộ nghèo hộ cận nghèo và chuẩn bị phương án hỗ trợ các hộ này để khi Chính phủ thông qua mức chuẩn nghèo mới thì tỉnh có thể thống kê được số hộ nghèo theo chuẩn mới dễ dàng nhanh chóng hơn và có thể đưa ra những chính sách hỗ trợ kịp thời cho các hộ này nhằm thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững. Nhóm giải pháp đẩy mạnh các biện pháp nâng cao nhận thức cho người dân về nguy cơ tái nghèo. Tuyên truyền vận động làm chuyển biến nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ngành, các đoàn thể và của từng người dân, giúp mọi người hiểu rõ về thực trạng nghèo, nhận thức được nguy cơ tái nghèo và sự cần thiết của xóa đói giảm nghèo chống nguy cơ tái nghèo. Giáo dục cho người dân, đặc biệt là những hộ gia đình nghèo và cận nghèo tự vận động vượt nghèo nhằm xóa bỏ hoàn toàn tư tưởng trông chờ ỷ lại của người dân vào sự hỗ trợ của chính quyền . Nhà nước và cộng đồng chỉ đóng vai trò hỗ trợ tác động thêm, như hỗ trợ cho họ về cây giống, con giống, giúp đỡ họ về kinh nghiệm làm ăn, kỹ thuật chăn nuôi trồng trọt, khuyến khích động viên để họ tự đứng ra sản xuất, chăn nuôi, tạo ra nguồn thu nhập do chính họ làm nên. Có như vậy người nghèo thoát nghèo mới có tính bền vững, nguy cơ tái nghèo thấp. Ngoài ra cần bổ sung thêm các biện pháp mở rộng quy chế dân chủ nhằm tăng cường vai trò của cộng đồng trong các dự án XĐGN chống tái nghèo. Nâng cao năng lực quản lý xóa đói giảm nghèo cho cán bộ cho cấp huyện, cấp xã thôn bản Tổ chức các lớp ngắn hạn trang bị cán bộ giảm nghèo các cấp đặc biệt là cấp thôn bản các khái niệm liên quan tới tái nghèo, sự cần thiết của chống tái nghèo và phổ biến thực trạng tái nghèo của tỉnh để họ có nhận thức đúng đắn hơn cả mặt lý thuyết và thực tiễn về nguy cơ tái nghèo tạo động lực tâm huyết đối với cán bộ trong các công tác xóa đói giảm nghèo bền vững chống tái nghèo. Bên cạnh đó cũng có các hình thức khen thưởng phụ cấp đối với các cán bộ làm tốt nhiệm vụ của mình. Có chính sách ưu đãi, luân chuyển cán bộ về làm việc tại các huyện để có sự đổi mới. Liên tục mở các lớp đào tạo tập huấn nâng cao trình độ cán bộ các cấp xã huyện về công tác xóa đói giảm nghèo, chống tái nghèo. Khuyến khích tổ chức giao lưu họp mặt liên xã liên thôn cho các cán bộ giảm nghèo ở các huyện, xã, thôn bản để chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau chủ chương bàn bạc, tiếp thu các phương pháp hay hiệu quả cao về công tác xóa đói giảm nghèo để áp dụng vào huyện mình, xã mình… Một số kiến nghị về tăng cường công tác xóa đói giảm nghèo chống tái nghèo tại tỉnh Sơn La Đa dạng hóa các nguồn lực (Nhà nước, cộng đồng dân cư, hỗ trợ của các tổ chức, doanh nghiệp và hợp tác quốc tế) cho việc giảm nghèo, chống tái nghèo kết hợp với chủ trương đầu tư theo trọng điểm vào các xã có tỷ lệ tái nghèo cao nhất thường xuyên xảy ra thiên tai bão lũ nhất... Đồng thời phát huy tối đa các nguồn lực tại địa phương, hướng dẫn cho cơ sở phát hiện và tận dụng các lợi thế sẵn có của địa phương. Khơi dậy trách nhiệm của dòng họ, làng xóm trong cộng đồng, phát huy truyền thống tương thân, tương ái vận động hộ khá giúp đỡ hộ nghèo, bản khá giúp bản nghèo, xã hội hóa tối đa công tác giảm nghèo. Đẩy mạnh các phong trào thi đua ở tất cả các cấp, các ngành, các hội, đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội và mọi người dân tham gia tích cực vào công cuộc giảm nghèo. Tiến hành sơ kết, tổng kết, nhân rộng những mô hình giảm nghèo có hiệu quả, kịp thời khen thưởng những tập thể cá nhân điển hình, tiên tiến. Đưa tỷ lệ tái nghèo thành một tiêu chí bình xét xã tiên tiến làng tiên tiến, tuyên dương những xã có tỷ lệ tái nghèo thấp và tước danh hiệu thi đua của những xã, thôn bản có tỷ lệ tái nghèo cao. Tạo mối liên kết bền vững giữa các làng, xã, thôn bản bằng cách giao cho mỗi xã đạt thành tích tốt trong công tác xóa đói giảm nghèo hướng dẫn một xã khác có điều kiện địa lý hay xuất phát điểm tương tự nhau về cách thức mô hình kinh nghiệm thoát nghèo bền vững. Kết luận Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển có tỷ lệ đói nghèo còn cao nên đi đôi với đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế xóa đói giảm nghèo luôn là một trong những chủ trương chính sách lớn của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng bền vững gắn với đảm bảo công bằng xã hội. Thành tựu giảm nghèo của ta trong những năm qua đã được các tổ chức quốc tế công nhận là “ câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế” song công tác xóa hộ nghèo chưa thực sự vững chắc, tỷ lệ tái nghèo đói lớn do thiên tai, bão lụt; đặc biệt nhiều hộ gia đình khi tham gia vào công tác XĐGN thực hiện các kế hoạch và chương trình còn thiết kiến thức kinh nghiệm sản xuất nguồn thu nhập và tài sản sở hữu ít ỏi nên kh gặp rủi ro các hộ gia đình mới thoát nghèo không vượt qua được khó khăn và tái nghèo trở lại. Thực trạng tái nghèo không chỉ làm giảm hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo mà còn gây lãng phí nguồn lực của xã hội, triệt tiêu ý chí thoát nghèo của bộ phận dân nghèo, cận nghèo. Từ những nhận thức có tính lý thuyết về giảm nghèo bền vững bài viết đã làm rõ về khái niệm tái nghèo, nguyên nhân tái nghèo và sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo. Bài viết đã lấy tỉnh Sơn La , là một tỉnh miền núi có tỷ lệ đói nghèo cao gấp đôi tỷ lệ đói nghèo bình quân cả nước làm địa bàn nghiên cứu phân tích thực trạng đói nghèo, tái nghèo để có một cái nhìn tổng quát hơn về sự ảnh hưởng nghiêm trọng của tái nghèo đến công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh nói riêng và của nước ta nói chung. Ngoài ra kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình xóa đói giảm nghèo tạo tiền đề nghiên cứu cho tỉnh đưa ra các giải pháp hợp lý hơn trong công cuộc xóa đói giảm nghèo chống tái nghèo nhằm đạt được mục tiêu giảm nghèo bền vững. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Bộ môn Kinh tế phát triển, Khoa Kế hoạch & phát triển, Trường ĐHKTQD: Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội 2005 Bộ môn Kinh tế Công Cộng, Khoa Kế hoạch & Phát triển, Trường ĐHKTQD: Giáo trình kinh tế Công Cộng, NXB Thống Kê, Hà Nội 2006 Sách & tài liệu, tạp chí tham khảo Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam – Thành tựu., thách thức và giải pháp, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, NXB Hà Nội, 2007 Thực trạng đói nghèo và một số giải pháp xóa đói giảm nghèo đối với dân tộc thiểu số, Bùi Minh Đạo, NXB Khoa học & Xã Hội, 2005. Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, Nguyễn Thị Hằng, NXB Chính trị quốc gia, 2007 Báo cáo tình hình, kết quả thực hiện công tác giảm nghèo định canh định cư tỉnh Sơn La năm 2006 – 2008, UBND Tỉnh Sơn La - 2008 Kế hoạch Giảm nghèo 2006 – 2010, UBND Tỉnh Sơn La – 2005 Báo cáo kết thúc dự án “ Giảm nghèo khu vực miền núi phía Bắc” của tỉnh Sơn La, Ban quản lý dự án tỉnh Sơn La – 2008 Báo cáo thực hiện chương trình 135 giai đoạn I & II Tạp chí Cộng sản số 764, 9/2008. Website tham khảo www.sonla.gov.vn/ cema.gov.vn/ www.bbc.co.uk/vietnamese/ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2042.doc
Tài liệu liên quan