Giải pháp góp phần phát triển hoạt động cho vay người nghèo tại ngân hàng NHCSXH Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu toàn diện to lớn và hết sức quan trọng. Nhờ đổi mới mà nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện. Chính sách đổi mới đã tạo ra nguồn động lực sáng tạo cho hàng triệu người Việt Nam thi đua sản xuất, đưa kinh tế đất nước tăng trưởng trung bình trên 7%/năm từ năm 1987. Với khoảng 2

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1255 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp góp phần phát triển hoạt động cho vay người nghèo tại ngân hàng NHCSXH Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5 triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là quốc gia thành công nhất trên thế giới trong việc thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo. Giảm đói nghèo là cuộc chiến thiên niên kỷ, diễn ra với những quy mô, cấp độ, hình thức khác nhau ở nhiều quốc gia, khu vực. Với chúng ta, công cuộc đổi mới, xét về mục đích, thực chất là hướng tới sự phồn thịnh, ấm no; và về phương pháp là thay đổi tư duy, cách thức làm giàu, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người được sáng tạo, làm giàu. Công cuộc xoá đói giảm nghèo như Thủ tướng Phan Văn Khải chỉ rõ, là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 - 2010), kế hoạch 5 năm (2001 - 2005) và hàng năm của cả nước, các ngành, các địa phương. Trên thực tế, công cuộc xoá đói giảm nghèo những năm qua đã được triển khai với nhiều biện pháp quyết liệt, đồng bộ. Để từng bước thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, Nhà nước đã có nhiều cơ chế, chính sách trợ giúp cho người nghèo trên nhiều phương diện, trong đó chính sách quan trọng nhất và có thểt nói là mang lại hiệu quả cao nhất chính là chính sách tín dụng ưu đãi với người nghèo, được thực hiện qua Ngân hàng Chính sách xã hội. Tiền thân là Ngân hàng Phục vụ người nghèo được thành lập năm 2002, chính thức trở thành Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam năm 2003, qua 4 năm hoạt động, Ngân hàng Chính sách xã hội đã trở thành công cụ quan trọng, hữu hiệu để góp sức xoá đói giảm nghèo với những thành tích đáng ghi nhận: dư nợ cho vay hộ nghèo tăng từ 8.249 tỷ đồng năm 2003 lên 19.292 tỷ đồng năm 2006; mở rộng mạng lưới hoạt động, thực hiện cho vay hộ nghèo trên phạm vi cả nước theo các vùng kinh tế; cơ chế cho vay ngày càng được hoàn thiện; thông qua vốn tín dụng ưu đãi từng bước giúp các hộ nghèo làm quen với nền kinh tế thị trường... Tuy nhiên, hoạt động cho vay với đối tượng hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội hiện nay vẫn còn một số hạn chế. Đó là: vốn vay chưa đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu của các hộ nghèo trên địa bàn cả nước; cơ chế cấp vốn vay cho các hộ nghèo còn tiềm ẩn rủi ro cao...Những hạn chế này làm giảm hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội, cũng đồng nghĩa với việc là giảm ý nghĩa của chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước với người nghèo. Chuyên đề: “ Giải pháp góp phần phát triển hoạt động cho vay người nghèo tại Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam” nghiên cứu thực trạng cho vay hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, đánh giá những thành tựu, phân tích những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động cho vay hộ nghèo tại ngân hàng, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp khắc phục những hạn chế đó, góp phần phát triển hoạt động cho vay người nghèo tại Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam. Chuyên đề gồm 3 phần: Chương 1: Cho vay người nghèo trong nền kinh tế. Chương 2: Thực trạng cho vay người nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam. Chương 3: Giải pháp góp phần phát triển ổn định cho vay người nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam. CHƯƠNG 1 CHO VAY NGƯỜI NGHÈO TRONG NỀN KINH TẾ 1.1.Tình trạng đói nghèo trong nền kinh tế 1.1.1.Quan điểm về đói nghèo Hội nghị giảm đói nghèo Châu Á – Thái Bình Dương tại Bangkok, Thái Lan tháng 9/ 1993 định nghĩa: “Nghèo là tình trạng trong đó các nhu cầu thiết yếu của bộ phận dân cư không được thoả mãn, đó là những nhu cầu đã được xã hội thừa nhận, tuỳ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế xã hội và các phong tục tập quán của địa phương”. Hiện nay, chuẩn đói nghèo của thế giới quy định quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người hàng năm là 735 USD, thu nhập bình quân của Việt Nam khoảng 400 USD, dù có quy đổi về giá trị so sánh tương đương vẫn chưa qua chuẩn nghèo. Ngày 29/3/2005, tại Hội thảo “Hợp tác giữa các nhà tài trợ và các Tổ chức phi Chính phủ trong xoá đói giảm nghèo”, theo định hướng giảm nghèo toàn diện hơn, bền vững hơn và hội nhập hơn, Việt Nam sẽ nâng chuẩn nghèo lên gấp 2 lần. Chuẩn đói nghèo trước đây theo mức thu nhập bình quân đầu người/ tháng theo khu vực miền núi, nông thôn và thành thị trước năm 2000 là 45.000đ, 70.000đ và 100.000đ. Sau năm 2000, theo Quyết định 1413/2000/QĐ của Bộ Lao động thương binh và Xã hội, các mức nghèo là 80.000đ/người/tháng (khoảng 5,3 USD) với các khu vực nông thôn miền núi và hải đảo; 100.000đ/người/tháng (khoảng 6,7 USD) với nông thôn đồng bằng và 150.000đ/người/tháng (khoảng 10 USD) với người sống ở thành thị. Sau Hội thảo, Chính phủ ra Nghị quyết 06/NQ-CP ngày 6/5/2005 quy định chuẩn nghèo mới cho giai đoạn 2006-2010 là 200.000đ/người/tháng cho khu vực nông thôn và 260.000đ/ người/tháng cho khu vực thành thị. Với chuẩn nghèo này, Việt Nam có khoảng 4,6 triệu hộ nghèo, chiếm 26% tổng số hộ toàn quốc, trong đó khu vực nông thôn miền núi chiếm khoảng 45,9%, nông thôn đồng bằng 23,2%. 1.1.2.Vài nét về tình trạng đói nghèo tại Việt Nam 1.1.2.1. Thực trạng đói nghèo tại Việt Nam Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước nghèo trên thế giới, tỷ lệ hộ đói nghèo còn khá cao. Nghèo đói xuất hiện ở những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh, thu nhập của bộ phận lớn dân cư nằm ở khu vực giáp ranh nghèo, vì vậy, chỉ điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo cũng khiến cho tỷ lệ hộ nghèo tăng. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, khí hậu tự nhiên khắc nghiệt khiến cho các điều kiện sản xuất bị ảnh hưởng tiêu cực. Sự kém phát triển về hạ tầng cũng là nguyên nhân đặc biệt khiến cho các vùng này bị tách biệt với các vùng khác, càng làm hạn chế khả năng phát triển kinh tế. Nghèo đói là hiện tượng phổ biến ở nông thôn với trên 90% số người nghèo cả nước. Phần đông số người nghèo là nông dân với trình độ tay nghề thấp, khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất như vốn, công nghệ, kỹ thuật, thị trường tiêu thụ. Những người nông dân nghèo thường không có điều kiện chuyển đổi sang các ngành phi nông nghiệp đem lại thu nhập cao và ổn định hơn. Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và mức sống trung bình cao hơn mức sống trung bình cả nước nhưng mức độ cải thiện điều kiện sống không đồng đều. Đa số người nghèo ở thành thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định ảnh hưởng đến sự ổn định của thu nhập. Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước dẫn đến dư thừa lao động gây mất việc làm của một bộ phận người lao động trong khu vực này, làm cho điều kiện sống càng khó khăn hơn. Đói nghèo mang tính chất phân vùng rõ rệt. Tỷ lệ đói nghèo khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, núi cao nơi các dân tộc ít người sinh sống. Điều kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở kém phát triển càng làm tăng tỷ lệ hộ đói nghèo khu vực này. Nhóm các dân tộc ít người chiếm tỷ lệ hộ đói nghèo đặc biệt cao. Mặc dù trong thời gian qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ rất tích cực nhưng cuộc sống của các dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn và bất cập. Đa số các dân tộc ít người sống ở các vùng bị cô lập về địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã hội cơ bản. 1.1.2.2. Nguyên nhân tình trạng đói nghèo tại Việt Nam Có rất nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng đói nghèo ở Việt Nam. Nguyên nhân đầu tiên chính là đa số người nghèo đều có trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định. Mức thu nhập của những người nghèo chỉ đủ bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu, họ không có điều kiện để nâng cao trình độ để thoát khỏi cảnh nghèo đói. Do trình độ học vấn thấp, người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp. Nhân khẩu cũng là một trong những nguyên nhân của đói nghèo. Quy mô hộ gia đình có ảnh hưởng quan trọng đến thu nhập bình quân đầu người của những thành viên trong hộ. Người nghèo là đối tượng dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác. Do nguồn thu nhập bấp bênh, khả năng tích luỹ kém, họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống như bệnh tật, mất mùa, mất việc làm, thiên tai, những đột biến này sẽ gây ra những bất ổn lớn trong cuộc sống của người nghèo. Những biến cố này cùng với trình độ học vấn thấp là nguyên nhân khiến cho các rủi ro trong sản xuất kinh doanh của người nghèo luôn rất cao. Ngoài những nguyên nhân chủ quan trên còn có các nguyên nhân khách quan gây nên tình trạng đói nghèo của những hộ nghèo. Thứ nhất là những tác động của chính sách vĩ mô và chính sách cải cách đến nghèo đói. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những thành tích giảm nghèo đa dạng và trên diện rộng, tuy nhiên, quá trình phát triển và mở cửa nền kinh tế cũng đã gây ra những tác động tiêu cực đến người nghèo. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp, chủ yếu tập trung cho thuỷ lợi, các trục công nghiệp chính, chú trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, nhiều chính sách trợ cấp không đúng đối tượng làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, vùng sâu vùng xa. Cải cách doanh nghiệp Nhà nước làm mất đi gần 800.000 việc làm trong giai đoạn đầu cải cách, gây khó khăn cho đời sống của những công nhân mất việc, nhiều người không tìm được việc làm mới và rơi vào cảnh nghèo đói. Nguyên nhân thứ hai chính là việc một bộ phận không nhỏ người nghèo chưa có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khuyến nông, khuyến ngư, các yếu tố đầu vào sản xuất như điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là người nghèo ở vùng sâu, vùng xa do kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng này còn thiếu và yếu kém. Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng. Sự hạn chế về nguồn vốn là một trong những nguyên nhân quan trọng trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới. Khi hình thức cho vay lãi suất tín dụng ưu đãi chưa ra đời, do không có tài sản thế chấp, người nghèo phải dựa vào tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp làm giảm khả năng hoàn trả vốn, mặt khác, do đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng vốn không đúng mục đích nên khó có khả năng tiếp cận các nguồn vốn của các tổ chức tín dụng. 1.1.2.3. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Cuối năm 2005, Việt Nam có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, đến cuối năm 2006, số hộ nghèo đã giảm 3%. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 của Việt Nam mà Bộ Lao động thương binh và Xã hội trình Thủ tướng Chính phủ là đưa thu nhập của nhóm hộ nghèo lên 1,5 lần so với năm 2005, giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 22% năm 2005 xuống còn 10-11% năm 2010 (tức là giảm 50% số hộ nghèo). Để thực hiện mục tiêu trên, cần huy động tổng hợp các nguồn lực trong và ngoài nước, kêu gọi sự tham gia của đông đảo các tổ chức và tầng lớp nhân dân. Có thể tăng tốc độ thực hiện xoá đói giảm nghèo bằng những nỗ lực to lớn hơn nữa nhằm giảm mức độ cách biệt của người dân, tăng phạm vi lựa chọn và khả năng tiếp cận với các nguồn lực hiện có, kiểm soát tốt hơn các rủi ro, đảm bảo môi trường bền vững cũng như bảo đảm sự tham gia rộng rãi hơn của quần chúng nhân dân trong quá trình lập kế hoạch và ra quyết định. Việc mở rộng sự lựa chọn trong lĩnh vực phát triển con người cho người nghèo là một chiến lược quan trọng trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. Người nghèo cần phải có nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn nghề nghiệp cũng như lối sống. Con đường ngắn nhất để đạt được mục tiêu xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, nơi có 90% người nghèo vẫn đang sinh sống, là tạo ra một môi trường thuận lợi hơn giúp cho người dân nông thôn có thể sử dụng hiệu quả hơn những nguồn lực sẵn có, tăng khả năng tiếp cận những nguồn lực mới và được hưởng thụ một cách hợp lý và công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản để người nghèo có thể tự giúp mình thoát khỏi cảnh nghèo đói. Một trong những nguồn lực giúp người nghèo tự thoát khỏi cảnh nghèo đói chính là chính sách tín dụng ưu đãi. 1.2. Chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo 1.2.1. Sự cần thiết của tín dụng ưu đãi đối với người nghèo 1.2.1.1 Tín dụng ngân hàng Tín dụng là mối quan hệ giao dịch giữa 2 chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên chuyển giao tiền hoặc tài sản vô điều kiện theo thời hạn đã thoả thuận. Tín dụng ngân hàng là một quan hệ kinh tế giữa NH và khách hàng, trong đó NH chuyển giao tiền hay tài sản cho khách hàng trong một thời gian nhất định với những thoả thuận hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định giữa NH và khách hàng. Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ tín dụng bằng tiền giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, với một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội mà trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Tín dụng ngân hàng có nhiều cách phân loại: Căn cứ theo thời hạn tín dụng: Tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Căn cứ theo mức độ trách nhiệm với khách hàng: Tín dụng có bảo đảm và tín dụng không bảo đảm. Căn cứ theo xuất xứ: Tín dụng trực tiếp và tín dụng gián tiếp. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn: Tín dụng xã hội và lưu thông hàng hoá, tín dụng tiêu dùng. Căn cứ theo phương pháp hoàn trả: Cho vay trả góp, cho vay phi trả góp và cho vay hoàn trả theo yêu cầu. 1.2.1.2. Tín dụng ưu đãi và chính sách tín dụng ưu đãi Tín dụng ưu đãi là loại hình tín dụng xã hội, ra đời là một tất yếu khách quan. Giai đoạn đầu thời kỳ đổi mới đầu thập niên 90, kinh tế Việt Nam bước đầu kiềm chế được lạm phát, đạt được một số thành quả nhất định, tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, đời sống của nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên theo quy luật phát triển không đồng đều trong xã hội, một số doanh nghiệp và một bộ phận cư dân có vốn, có tri thức, nhạy bén với cơ chế thị trường đã nhanh chóng trở nên giàu có, bên cạnh đó là một bộ phận doanh nghiệp và cư dân do thiếu kinh nghiệm sản xuất, không hoà nhập kịp với cơ chế thị trường và đặc biệt là thiếu vốn đã trở nên nghèo khó. Sự phân cực trái chiều làm cho phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng rõ nét, khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo ngày càng rộng. Lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng bước sang một trang mới, từng bước xoá bỏ bao cấp trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng tự chủ về vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính. Chính vì vậy, để bảo toàn nguồn vốn hoạt động của mình, các ngân hàng thực hiện lựa chọn khách hàng, cho vay đòi hỏi tài sản thế chấp dẫn tới việc một bộ phận dân nghèo không có tài sản thế chấp không được vay vốn của ngân hàng. Không có vốn để sản xuất, đời sống của các hộ nghèo ngày càng khó khăn, bế tắc. Trước tình hình ấy, để giúp các hộ nghèo thoát khỏi cảnh khó khăn, phát triển sản xuất đòi hỏi một cơ chế tín dụng đặc biệt dành riêng cho đối tượng người nghèo, giúp cho người nghèo dễ tiếp cận với vốn vay ngân hàng hơn đó chính là chính sách tín dụng ưu đãi. Chính sách tín dụng ưu đãi là việc Nhà nước sử dụng các nguồn lực tài chính của mình cho vay ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng ưu đãi khác nhằm phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, giúp người nghèo cũng như các đối tượng khác từng bước hoà nhập và phát triển đồng đều với các thành phần khác trong xã hội. Chính sách tín dụng ưu đãi được thiết kế phù hợp với khả năng tài chính của Nhà nước, tránh việc sử dụng tín dụng ưu đãi như một kênh bao cấp của NSNN tạo tâm lý trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, đồng thời được xây dựng đảm bảo không làm xáo trộn thị trường tín dụng tại khu vực, đảm bảo sự tồn tại phát triển hài hoà của tín dụng thương mại và tín dụng ưu đãi. 1.2.1.3. Tác dụng của chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo Hộ nghèo đa phần là những người thiếu kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh vì vậy để hộ nghèo thoát nghèo nhất thiết cần đến sự hỗ trợ của Nhà nước để đảm bảo thực hiện mục tiêu “tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội”. Một trong những hình thức hỗ trợ người nghèo hiệu quả nhất là thông qua kênh tín dụng ưu đãi. Thông qua con đường trợ giúp bằng vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, người nghèo sẽ được tiếp cận với nền kinh tế thị trường. Việc cho vay ưu đãi hộ nghèo bằng vốn của Chính phủ đã làm giảm hẳn nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn và việc bán nông sản non khi các hộ nghèo cần vốn cho sản xuất hoặc chi tiêu trong gia đình, trên cơ sở đó góp phần tăng thu nhập thực tế cho các hộ nghèo. Mặt khác, vốn tín dụng ưu đãi đã thu hút lực lượng lao động dôi thừa ở nông thôn vào sản xuất ngành nghề phụ, tránh được tình trạng “nhàn cư vi bất thiện”. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả, người nghèo sẽ thoát khỏi cảnh nghèo đói, một bộ phận người nghèo sẽ từng bước vươn lên trở thành giàu có. Đối tượng người nghèo từ chỗ tiềm ẩn nảy sinh các vấn đề về mặt xã hội trở thành nguồn lực trong phát triển kinh tế xã hội. Đây là một vấn đề quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở vùng sâu, vùng xa, nơi người nghèo luôn chiếm tỷ lệ khá cao và còn mang tính chất của một nền kinh tế tự nhiên. 1.2.2. Nội dung chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo 1.2.2.1. Nguồn vốn tín dụng ưu đãi Nguồn vốn tín dụng ưu đãi là nguồn vốn được động viên từ các nguồn trong và ngoài nước để cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác vay ưu đãi phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ, tạo việc làm, giải quyết đời sống; góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội. Nguồn vốn tín dụng ưu đãi bao gồm: - Nguồn vốn từ NSNN + Vốn điều lệ + Vốn cho vay xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm và chính sách xã hội khác. + Uỷ ban nhân dân các cấp được trích một phần từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách địa phương hàng năm để tăng nguồn vốn cho vay xoá đói giảm nghèo trên địa bàn. + Vốn ODA được Chính phủ giao. - Vốn huy động + Nhận tiền gửi có trả lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Các tổ chức tín dụng Nhà nước có trách nhiệm duy trì số dư tiền gửi thường xuyên tại NHCSXH. + Tiền gửi tự nguyện không lấy lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. + Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. + Huy động tiết kiệm trong người nghèo. - Vốn đi vay + Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước. + Vay Tiết kiệm Bưu điện, Bảo hiểm Xã hội Việt nam. + Vay Ngân hàng Nhà nước. - Vốn đóng góp tự nguyện không hoàn trả của các tổ chức kinh tế, tài chính, tín dụng và các tổ chức chính trị - xã hội trong và ngoài nước. - Các vốn khác. 1.2.2.2. Lãi suất tín dụng ưu đãi Tín dụng phục vụ người nghèo là loại hình tín dụng đặc thù vì đối tượng cho vay là hộ nghèo đói, do đó cần có sự ưu đãi về thủ tục vay vốn, lãi suất cho vay và các chính sách hỗ trợ để tạo cơ hội làm ăn cho người nghèo. Thực tế, các chương trình tín dụng người nghèo thành công ở các nước trên thế giới, trong chính sách tín dụng với người nghèo, người ta thường quan tâm đến thủ tục vay, các chính sách hỗ trợ, hạn chế và thường không áp dụng chính sách lãi suất ưu đãi vì cho rằng lãi suất ưu đãi sẽ dẫn đến bao cấp, làm suy yếu và giảm vai trò đòn bẩy tín dụng dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu áp dụng chính sách tín dụng ưu đãi với người nghèo thì thực hiện ưu đãi về lãi suất là điều hoàn toàn phù hợp. Đối tượng người nghèo ở Việt Nam có điều kiện và hoàn cảnh riêng so với người nghèo trên thế giới, nếu ngay từ đầu thực hiện cho vay người nghèo theo lãi suất thị trường thì người nghèo khó có điều kiện để tiếp thu vốn vay và gặp khó khăn trong việc hoàn trả đủ vốn và lãi. Lãi suất tín dụng ưu đãi thống nhất một mức trong phạm vi toàn quốc, do Thủ tướng Chính phủ quyết định từng thời kỳ, chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay được Bộ Tài chính cấp bù. Sau Nghị định 106/2004/NĐ-CP, Nhà nước giảm dần sự bao cấp qua kênh tín dụng ưu đãi để phù hợp với cam kết hội nhập kinh tế của Việt Nam. Nghị định quy định rõ mức lãi suất tín dụng ưu đãi tương đương 70% lãi suất cho vay trung và dài hạn của các NHTM quốc doanh. Khi lãi suất thị trường có biến động từ 15% trở lên, Bộ Tài chính sẽ điều chỉnh lãi suất vay tín dụng ưu đãi, nhưng tối đa chỉ 2 lần 1 năm. 1.2.2.3. Đối tượng người nghèo được vay ưu đãi Để được vay vốn tín dụng ưu đãi, người vay là hộ nghèo có địa chỉ cư trú hợp pháp và phải có trong danh sách hộ nghèo được Uỷ ban nhân dân cấp xã quyết định theo chuẩn nghèo do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội công bố, được Tổ tiết kiệm và vay vốn của ngân hàng bình xét, phải là hộ nghèo có sức lao động, có điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn sản xuất và có khả năng hoàn trả vốn. Vốn vay phải bảo đảm được sử dụng vào việc mua sắm vật tư, thiết bị, giống cây trồng, vật nuôi, thanh toán các dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh, mua sắm các công cụ lao động, đầu tư làm các nghề thủ công trông hộ gia đình, chi phí nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản; góp vốn thực hiện các dự án hợp tác sản xuất, kinh doanh được cấp có thẩm quyền phê duyệt; giải quyết một phần nhu cấu tất yếu về nhà ở, điện thắp sáng, nước sạch, học tập. Trên thực tế, việc lập danh sách hộ nghèo do cộng đồng dân cư địa phương thực hiện, phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương nên mang tính tương đối và có sự khác nhau về chuẩn mực đói nghèo của từng địa phương. 1.2.2.4. Loại cho vay, thời hạn và mức cho vay Do hộ nghèo là đối tượng vay vốn đặc biệt, mục đích sử dụng vốn cũng như khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh khác với các đối tượng vay vốn khác nên về loại cho vay, thời hạn và mức cho vay ưu đãi hộ nghèo có những đặc điểm riêng. Loại cho vay: Gồm cho vay ngắn hạn và cho vay trung hạn. Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng, áp dụng cho khoản vay sử dụng vào việc chăn nuôi gia súc, gia cầm; trồng cây lương thực, hoa màu có thời hạn sinh trưởng dưới 12 tháng; chi phí để dịch vụ, kinh doanh nhỏ. Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn từ 12 đến 60 tháng, áp dụng cho những khoản vay sử dụng vào việc trồng cây công nghiệp, cây ăn quả; nuôi trồng thuỷ, hải sản, con đặc sản; mua máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, phương tiện vận tải; chăn nuôi đại gia súc (trâu bò) sinh sản, lấy sữa, lấy lông, lấy sừng… Thời hạn cho vay: Bên cho vay và hộ vay thoả thuận về thời hạn cho vay căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, chu kỳ sản xuất kinh doanh (đối với cho vay sản xuất kinh doanh dịch vụ), khả năng trả nợ của hộ vay và nguồn vốn cho vay của NHCSXH. Mức cho vay: Mức cho vay đối với từng hộ nghèo được xác định căn cứ vào nhu cầu vay vốn, vốn tự có và khả năng hoàn nợ của hộ vay, mỗi hộ có thể vay nhiều lần nhưng tổng dư nợ không được vượt quá dư nợ cho vay tối đa với một hộ nghèo được quy định theo từng thời kỳ. Hiện nay mức cho vay tối đa là 7 triệu đồng/hộ, riêng cho vay chăn nuôi đại gia súc; trồng cây lâu năm; đánh bắt thuỷ hải sản thì mức cho vay tối đa 15 triệu đồng/hộ. 1.2.2.5. Xử lý rủi ro Rủi ro tín dụng phát sinh khi một bên đối tác không thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ theo hợp đồng với NH hay các tổ chức tín dụng khác, thường gặp nhất là tình trạng khách hàng không thanh toán được nợ khi đến hạn, bao gồm cả nợ gốc và lãi. Do đối tượng người nghèo đa phần là thiếu kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh, nên cho vay đối với đối tượng người nghèo là loại hình cho vay chứa đựng nhiều rủi ro nhất, khả năng không thu hồi được món vay cao hơn nhiều so với cho vay các đối tượng khác, chính vì vậy, việc xử lý rủi ro trong chính sách tín dụng ưu đãi được quy định như sau: - Hộ vay không trả được nợ do nguyên nhân khách quan gây ra như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, chính sách Nhà nước thay đổi, biến động giá cả thị trường không có lợi cho hộ vay, nếu xảy ra trên diện rộng, việc xử lý rủi ro được thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, nếu xảy ra đơn lẻ, cục bộ được cho gia hạn nợ, giãn nợ hoặc xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro. - Nếu là thiệt hại do nguyên nhân chủ quan của hộ vay, tổ chức nhận uỷ thác hay cán bộ tín dụng thì xử lý theo mức độ vi phạm. 1.2.3. Các phương thức cho vay ưu đãi với người nghèo 1.2.3.1. Cho vay trực tiếp Là phương thức cho vay thực hiện trong thời kỳ đầu, khi chưa xây dựng được mạng lưới trung gian chuyển tải vốn. Vốn vay được chuyển giao trực tiếp từ NH tới hộ nghèo thông qua các tổ vay vốn. Tổ vay vốn ở đây bao gồm tất cả các loại tổ nhóm đang tồn tại và hoạt động với nhiều tên gọi khác nhau như Tổ Tiết kiệm và Vay vốn, Tổ tương trợ, Tổ tín chấp…Tổ vay vốn là hình thức tập hợp các hộ gia đình nghèo có nhu cầu vay vốn, được thành lập trên cơ sở tự nguyện của các hộ gia đình nghèo cư trú trên một địa bàn hành chính có nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh, tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống, cũng chịu trách nhiệm liên đới trong việc vay vốn và trả nợ NH. Phương thức này gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức cho vay và quản lý tín dụng, mặt khác, hoạt động của các tổ vay vốn nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Đối với những vùng sâu, vùng xa, nơi cách xa trụ sở NH thì việc cho vay trực tiếp và giám sát tín dụng càng khó khăn. SƠ ĐỒ QUY TRÌNH CHO VAY NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỔ TIẾT KIỆM & VAY VỐN BAN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO XÃ, UBND XÃ HỘ NGHÈO (1) (6) (2) (5) (7) (4) (3) (1) Hộ nghèo viết giấy đề nghị vay vốn gửi tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn. (2) Tổ tiết kiệm và vay vốn bình xét hộ được vay và lập danh sách hộ nghèo đề nghị vay vốn gửi lên Ban Xoá đói giảm nghèo và Uỷ ban nhân dân cấp xã. (3) Ban Xoá đói giảm nghèo và Uỷ ban nhân dân cấp xã xét duyệt và chuyển danh sách lên NH. (4) NH xét duyệt và thông báo danh sách các hộ được vay, lịch giải ngân, địa điểm giải ngân tới Uỷ ban nhân dân cấp xã. (5) Uỷ ban nhân dân cấp xã thông báo kết quả phê duyệt của NH đến tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn. (6) Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn thông báo cho hộ vay biết kết quả phê duyệt của NH, thời gian, địa điểm giải ngân đến các hộ được vay vốn. (7) NH cùng tổ tưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn giải ngân đến từng hộ gia đình được vay vốn. 1.2.3.2. Cho vay gián tiếp Là phương thức cho vay hộ nghèo thông qua các tổ chức tín dụng, tổ chức chính trị - xã hội. Với phương thức cho vay này, vốn vay không được chuyển trực tiếp từ NH đến tay người nghèo mà chuyển từ NH tới các tổ chức tín dụng, tổ chức chính trị - xã hội nhận uỷ thác, và các tổ chức này có trách nhiệm chuyển giao vốn tới người nghèo. Phương thức cho vay qua uỷ thác mang lại hiệu quả cao, tiết kiệm do: Các tổ chức tín dụng, tổ chức chính trị - xã hội có nhiều lợi thế hơn so với NHCSXH vì sẵn có mạng lưới hoạt động khắp các xã, phường, thôn, bản ở cả đồng bằng và vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Các tổ chức tín dụng gồm NHNNo & PTNT, hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân, một số NHTM cổ phần. Các tổ chức chính trị - xã hội gồm Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên… Tạo điều kiện cho hộ nghèo dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay. Hộ nghèo phần lớn cư trú ở vùng sâu, vùng xa, phương tiện đi lại, thông tin liên lạc khó khăn, tốn kém, số tiền vay không lớn, chưa quen thủ tục, giấy tờ hành chính, trong khi mạng lưới hoạt động của NHCSXH còn chưa rộng khắp, không thể trực tiếp giải ngân nguồn vốn đến người dân. Việc quản lý vốn được thực hiện hiệu quả và bảo đảm hơn, đặc biệt, đối với tổ chức nhận uỷ thác là tổ chức tín dụng thì ngoài lợi thế là có mạng lưới rộng khắp còn phải kể đến khả năng bù đắp rủi ro do nguyên nhân chủ quan gây ra nhờ có năng lực tài chính theo đúng quy chế và hợp đồng uỷ thác. Về cơ bản, quy trình cho vay uỷ thác qua các tổ chức hội cũng đầy đủ các bước như quy trình cho vay trực tiếp, tuy nhiên có sự tham gia của đại diện các tổ chức hội ở mỗi bước giúp NH trong việc thẩm định, giải ngân cũng như giám sát vốn vay được sử dụng hiệ quả và đảm bảo không làm mất vốn cũng như sử dụng vốn sai mục đích. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay ưu đãi đối với người nghèo 1.3.1. Các nhân tố thuộc về phía NH 1.3.1.1. Mô hình tổ chức của NH Đối tượng người nghèo tập trung chủ yếu ở các vùng nông thôn, phân bố rải rác trên một địa bàn rộng lớn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, chính vì vậy, việc thiết lập mô hình tổ chức hoạt động của NH cũng phải thích ứng với điều kiện này. Có như vậy, việc đưa vốn tín dụng ưu đãi đến với người nghèo mới đạt được mục tiêu và yêu cầu đề ra là hỗ trợ tích cực hộ nghèo từng bước thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Nếu NH không có một mô hình tổ chức hợp lý, việc chuyển giao vốn từ NH đến người nghèo sẽ gặp nhiều khó khăn, người nghèo có thể không tiếp cận được với nguồn vốn ưu đãi, chính sách tín dụng ưu đãi không phát huy tác dụng. Mặt khác, nếu NH không giám sát được việc sử dụng vốn, vốn có thể bị sử dụng sai mục đích, thậm chí gây mất vốn, thất thoát NSNN. 1.3.1.2. Chiến lược hoạt động của NH Đây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến cho vay ưu đãi đối với người nghèo của NH. Nếu NH hoạt động không có định hướng cụ thể và có chiến lược hoạt động phù hợp với từng thời kỳ, phù hợp với đối tượng phục vụ là hộ nghèo thì chất lượng hoạt động của NH không được nâng cao, đồng nghĩa với việc khả năng đáp ứng nhu cầu tín dụng ưu đãi không được nâng cao, không đảm bảo thực hiện tốt chương trình mục tiêu Quốc gia về xoá đói giảm nghèo. 1.3.1.3. Chính sách tín dụng của NH Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố giới hạn cho vay đối với một hộ nghèo, kỳ hạn khoản tín dụng, lãi suất cho vay, các loại cho vay được thực hiện, sự bảo đảm và khả năng thanh toán nợ của khách hàng…Chính sách tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động tín dụng. Toàn bộ hoạt động cho vay nói chung và cho vay ưu đãi người nghèo nói riêng đều phải tuân theo hướng dẫn của chính sách tín dụng đã đề ra. Chính sách tín dụng hợp lý sẽ tác động tốt tới chất lượng tín dụng. Tín dụng ưu đãi được thực hiện thông qua vốn NSNN, nhưng khách hàng là các hộ nghèo lại khá đa dạng, nguồn gốc nghèo khó của họ lại hoàn toàn không giống nhau, chính vì vậy, chính sách tín dụng hợp lý phải bảo đảm các yêu cầu: Thứ nhất: Đáp ứng đúng nhu cầu về sự hỗ trợ. Trên thực tế có những hộ nghèo chỉ cần hỗ trợ đủ vốn theo đúng lã._.i suất thị trường, nhưng cũng có những hộ nghèo cần được hỗ trợ vốn với lãi suất ưu đãi, có những hộ cần được hỗ trợ vốn để vươn lên làm giàu, nhưng cũng có những hộ không thể cho vay lớn vì khả năng sử dụng vốn hạn chế… Chính vì vậy, sự linh hoạt trong công tác cho vay ưu đãi với hộ nghèo là rất cần thiết, có như vậy, vốn tín dụng ưu đãi mới phát huy hiệu quả. Thứ hai: Bảo đảm bình đẳng trong tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi. Trong mỗi vùng, mức giá chung là khác nhau, cơ hội tạo việc làm để thoát khỏi nghèo đòi hỏi nhu cầu về vốn khác nhau, chuẩn nghèo ở mỗi vùng cũng có sự phân biệt. Chính vì vậy, việc quy định mức vốn tối đa cho vay, lãi suất cho vay các đối tượng phải linh hoạt để đảm bảo bình đẳng trong tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi. 1.3.1.4. Cơ sở vật chất của NH Cơ sở vật chất cho hoạt động của NH được hoàn thiện sẽ tạo tiền đề cho NH mở rộng các loại hình dịch vụ phục vụ khách hàng. Nếu cơ sở vật chất và trang thiết bị của NH thiếu thốn thì việc thực hiện nhiệm vụ giải ngân vốn tín dụng ưu đãi sẽ gặp khó khăn. Trong lĩnh vực tài chính, có rất nhiều loại hình dịch vụ hỗ trợ nhau, việc thực hiện đồng thời các loại hình dịch vụ này sẽ cho phép NH tăng hiệu quả hoạt động, tăng uy tín với khách hàng. 1.3.1.5. Phẩm chất, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên trong NH. Cho vay hộ nghèo là loại hình cho vay chứa đựng rủi ro rất cao do đa phần hộ nghèo là những người thiếu kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, trình độ nhận thức nhìn chung bị hạn chế. Do đó, hoạt động tín dụng với đối tượng người nghèo đòi hỏi cán bộ có trình độ cũng như năng lực chuyên môn cao mới có thể giảm thiểu rủi ro tín dụng. Mặt khác, nhìn chung tâm lý người nghèo thường mặc cảm, vì vậy, tạo sự gần gũi với khách hàng là việc làm cần thiết của cán bộ tín dụng để khách hàng coi NH thực sự gần gũi và họ muốn giữ chữ tín với NH. 1.3.2. Các nhân tố thuộc về phía khách hàng 1.3.2.1. Trình độ nhận thức của khách hàng Nhận thức của khách hàng về quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến khoản vay là nhân tố rất quan trọng trong hoạt động cho vay ưu đãi với người nghèo. Nếu người nghèo nhận thức sai về các khoản vay ưu đãi, coi đây như hình thức trợ cấp của Chính phủ, nhận thức sai dẫn đến họ không quan tâm đến việc trả nợ và vốn vay sẽ có nguy cơ cao bị sử dụng sai mục đích, thất thoát, không đem lại hiệu quả, không thực hiện được đúng chức năng của mình. 1.3.2.2. Năng lực sản xuất kinh doanh của khách hàng Năng lực kinh doanh của khách hàng là nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của NH. Nếu năng lực sản xuất kinh doanh của người nghèo bị hạn chế thì vốn vay không thể phát huy hiệu quả. Sản xuất kinh doanh không hiệu quả, người nghèo không thể hoàn trả vốn vay cho NH, họ không những không thoát khỏi tình trạng nghèo khó mà thậm chí còn nghèo thêm do tích tụ thêm khoản nợ NH. Về phía NH, khi người nghèo sản xuất kinh doanh không hiệu quả, NH không thể thu hồi được vốn, gây thiệt hại cho hoạt động của NH và thiệt hại cho NSNN. 1.3.3. Các nhân tố khác 1.3.3.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Do tín dụng ưu đãi với hộ nghèo là hình thức tín dụng chính sách xã hội, chính vì vậy, những chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước là nhân tố quan trọng tác động mạnh tới hoạt động cho vay ưu đãi với hộ nghèo. Khi Đảng và Nhà nước có những quyết sách và chủ trương đúng đắn và phù hợp giúp đỡ hộ nghèo thì vốn hoạt động của NH sẽ được hỗ trợ tích cực, NH có điều kiện thuận lợi để mở rộng cho vay, sẽ có nhiều người nghèo được tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi hơn, họ có nhiều cơ hội thoát nghèo hơn. 1.3.3.2. Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Nếu trong môi trường kinh tế có tỷ lệ hộ nghèo cao thì mặc dù mức cho vay tăng cao nhưng chất lượng của khoản tín dụng ưu đãi sẽ bị ảnh hưởng xấu. Môi trường kinh tế lành mạnh tạo điều kiện cho NH có thể huy động được nhiều hơn các nguồn vốn khác ngoài nguồn từ NSNN bổ sung vào nguồn vốn tín dụng ưu đãi của mình. Mặt khác, môi trường kinh tế lành mạnh là thuận lợi để những hộ nghèo, với đặc trưng là hạn chế về năng lực và khả năng sản xuất kinh doanh, sẽ ít gặp những rủi ro trong sản xuất, sử dụng vốn có hiệu quả, mang lại lợi ích cho chính họ và bảo đảm hoàn trả vốn cho NH. 1.3.3.3. Môi trường tự nhiên Do đặc điểm của hộ nghèo là đa phần hoạt động sản xuất trong ngành nông nghiệp, với 90% số người nghèo ở Việt Nam sinh sống tại những vùng nông thôn, nên môi trường tự nhiên là nhân tố quan trọng tác động tới những rủi ro trong sản xuất kinh doanh của hộ nghèo. Môi trường tự nhiên thuận lợi sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay của các hộ nghèo. Ngược lại, môi trường tự nhiên không thuận lợi, thiên tai lũ lụt sẽ tác động rất xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ nghèo, đồng nghĩa với tác động xấu đến tính hiệu quả của vốn vay ưu đãi và khả năng thu hồi vốn của NH. 1.3.3.4. Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý là nền tảng để mọi hoạt động kinh doanh diễn ra an toàn. Môi trường pháp lý đồng bộ và hoàn thiện là điều kiện đảm bảo cho hoạt động của hệ thống NH nói chung. Đặc biệt, trong hoạt động cho vay ưu đãi với người nghèo, đối tượng khách hàng có nhận thức chung về luật pháp còn ít nhiều bị hạn chế nên việc tạo ra một môi trường pháp lý gồm hệ thống pháp luật về hoạt động NH đồng bộ và hoàn thiện, khả năng nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của người dân cùng những chế tài phù hợp để răn đe là điều kiện thuận lợi để hoạt động cho vay ưu đãi với người nghèo được thực hiện hiệu quả. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHO VAY NGƯỜI NGHÈO TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VIỆT NAM 2.1. Khái quát về Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam 2.1.1. Nhiệm vụ và bộ máy tổ chức hoạt động kinh doanh NHCSXH được thành lập theo Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 04/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo (được thành lập theo Quyết định số 230/QĐ-NH5 ngày 01/09/1995v của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thực hiện chính sách tín dụng với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, quy các hoạt động chính sách về một mối. 2.1.1.1. Nhiệm vụ chức năng NHCSXH ra đời với mục đích tách hoạt động tín dụng chính sách ra khỏi các ngân hàng thương mại, đồng thời thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội, thực hiện tín dụng ưu đãi với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Nhiệm vụ cụ thể: - Huy động vốn Tổ chức huy động vốn trong và ngoài nước có trả lãi của mọi tổ chức và tầng lớp dân cư bao gồm tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, huy động tiết kiệm trong người nghèo. + Nhận tiền gửi có trả lãi của các cá nhận, tổ chức trong và ngoài nước theo kế hoạch được duyệt hàng năm. + Các tổ chức tín dụng Nhà nước có trách nhiệm duy trì số dư tiền gửi tại NHCSXH bằng 2% số dư nguồn vốn huy động bằng đồng Việt Nam tại thời điểm ngày 31/12 năm trước. Việc thay đổi tỷ lệ duy trì số dư tiền gửi do Thủ tướng quyết định. Tiền gửi của tổ chức tín dụng Nhà nước tại NH được trả lãi suất bằng lãi suất tính trên cơ sở bình quân lãi suất huy động các nguồn vốn hàng năm của tổ chức tín dụng kèm phí huy động hợp lý do hai bên thoả thuận. + Tiền gửi tự nguyện không lấy lãi của các tổ chức cá nhân trong và ngòi nước. + Huy động tiết liệm của người nghèo. - Đi vay + Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá khác. + Vay các tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước. + Vay Tiết kiệm Bưu điện, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam. + Vay NHNN. - Nhận vốn đóng góp tự nguyện Được nhận các nguồn vốn đóng góp tự nguyện không có lãi hoặc không hoàn trả gốc của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính tín dụng và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các tổ chức phi Chính phủ trong nước và nước ngoài. Nhận làm dịch vụ uỷ thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các Hội, các tổ chức phi Chính phủ trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác. Các chức năng khác: + Mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho tất cả khách hàng trong và ngoài nước. + Tham gia hệ thông liên ngân hàng trong và ngoài nước. + Thực hiện các dịch vụ NH về thanh toán và ngân quỹ như: Cung ứng các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước, thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ bằng tiền mặt và không bằng tiền mặt. + Các dịch vụ khác theo quy định của Thống đốc NHNN. Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn phục vụ cho sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội. 2.1.1.2. Đối tượng phục vụ - Hộ nghèo: Gồm hộ nghèo ở vùng II, III và các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu vùng xa; hộ nghèo thuộc các khu vực khác trên cả nước. - Học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, vay vốn để mua sắm phương tiện học tập và các chi phí khác phục vụ cho việc học tập. - Các đối tượng cần vay vốn để giải quyết việc làm, các tổ chức sản xuất của thương binh, người tàn tật và các đối tượng chính sách khác. - Các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài, cho vay xuất khẩu lao động, vay vốn để trả phí đào tạo, phí dịch vụ, tiền đặt cọc, vé máy bay… - Các đối tượng khác theo Quyết định của Chính phủ: Cho vay doanh nghiệp làm nhà ở bán trả chậm cho các hộ dân, cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường, cho vay làm nhà vượt lũ Đồng bằng sông Cửu Long. 2.1.1.3. Bộ máy tổ chức NHCSXH 2.1.1.3.1. Bộ máy quản trị NHCSXH a. Hội đồng quản trị Hội đồng quản trị NHCSXH gồm 12 thành viên, trong đó 3 thánh viên chuyên trách gồm: Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Trưởng ban kiểm soát; 9 thành viên kiêm nhiệm là các Thứ trưởng hoặc cấp tương đương, đương chức của các Bộ, ban, ngành, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tại Trung ương. Hội đồng quản trị có chức năng quản trị NHCSXH, ban hành các văn bản về chủ trương, chính sách, chiến lược phát triển NHCSXH hàng năm và 5 năm, cơ chế tổ chức và hoạt động của NHCSXH các cấp, nghị quyết các kỳ họp Hội đồng quản trị đột xuất, thường kỳ hàng quý, hàng năm. Ngoài các nhiệm vụ trên, các thành viên kiêm nhiệm Hội đồng quản trị còn trực tiếp chỉ đạo hệ thống của mình tham gia quản lý, giám sát hoạt động của NHCSXH. b. Bộ máy giúp việc cho Hội đồng quản trị Bộ máy giúp việc cho Hội đồng quản trị gồm: Ban chuyên gia tư vấn: Có chức năng tư vấn cho Hội đồng quản trị trong việc thực hiện chức năng quản trị NHCSXH. Thành viên Ban chuyên gia tư vấn gồm các chuyên gia cao cấp do các Bộ, ngành, tổ chức hội, đoàn thể chính trị - xã hội có lãnh đạo tham gia Hội đồng quản trị cử và một số chuyên gia do Chủ tịch lựa chọn. Ban kiểm soát Hội đồng quản trị: Có chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động của Ban đại diện Hội đồng quản trị cấp tỉnh, huyện và bộ máy điều hành của NHCSXH trong việc thực hiện chủ trương, chính sách pháp luật của Chính phủ, điều lệ của NHCSXH và các văn bản, nghị quyết của Hội đồng quản trị. Ban đại diện Hội đồng quản trị cấp tỉnh, huyện: Là đại diện của Hội đồng quản trị NHCSXH tại địa phương, có chức năng giám sát việc thực hiện các văn bản chỉ đạo, nghị quyết Hội đồng quản trị tại chi nhánh NHCSXH tỉnh và Phòng giao dịch cấp huyện, phối hợp chỉ đạo việc gắn tín dụng chính sách với việc thực hiện kế hoạch xoá đói giảm nghèo và dự án phát triển kinh tế xã hội tại địa phương để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 2.1.1.3.2. Bộ máy điều hành NHCSXH NHCSXH có hệ thống mạng lưới hoạt động từ Trung ương đến tỉnh, thành phố, quận, huyện theo địa giới hành chính. Điều hành hoạt động của hệ thống NHCSXH là Tổng giám đốc, giúp việc cho Tổng giám đốc là các Phó Tổng giám đốc và các Phòng chuyên môn nghiệp vụ tại Hội sở chính. Cụ thể: Tại Trung ương Hội sở chính NHCSXH tại Hà Nội, điều hành Hội sở chính là Tổng giám đốc, giúp việc Tổng giám đốc là các Phó Tổng giám đốc và các Phòng nghiệp vụ. Tại địa phương Chi nhánh NHCSXH tại tỉnh, thành phố và Sở giao dịch, các Phòng giao dịch cấp huyện, tổ tiết kiệm và vay vốn. Chi nhánh NHCSXH cấp tỉnh, thành phố: là đơn vị trực thuộc Hội sở chính, đại diện pháp nhân theo uỷ quyền của Tổng giám đốc trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt động của NHCSXH tại đại bàn. Điều hành hoạt động của chi nhánh cấp tỉnh là Giám đốc, giúp việc Giám đốc là các Phó Giám đốc và các Phòng chức năng tại Hội sở chính. Phòng giao dịch cấp huyện: là các đơn vị thuốc chi nhánh NHCSXH cấp tỉnh, đặt tại các quận, huyện, trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ của NHCSXH trên địa bàn. Điều hành Phòng giao dịch quận, huyện là Giám đốc, giúp việc Giám đốc là Phó Giám đốc và các Tổ nghiệp vụ. Tổ tiết kiệm và vay vốn: NHCSXH thực hiện phương thức cho vay đến người nhận thông qua tổ chức nhận uỷ thác. Tổ tiết kiệm và vay vốn của các tổ chức nhận uỷ thác là cánh tay nối dài của NHCSXH đảm bảo vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ đến đúng người nghèo cũng như các đối tượng chính sách khác. SƠ ĐỒ TỔ CHỨC HỆ THỐNG Hội đồng quản trị Hội sở chính Chi nhánh tỉnh, thành phố, Sở giao dịch Phòng giao dịch quận, huyện Ban chuyên gia tư vấn Ban Kiểm soát HĐQT Ban đại diện HĐQT tỉnh, thành phố Ban đại diện HĐQT quận, huyện Uỷ ban nhân dân xã, phường Ban xoá đói giảm nghèo xã, phường Tổ tiết kiệm và vay vốn Người vay Người vay Người vay Người vay Người vay Người vay 2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của NHCSXH 2.1.2.1. Huy động vốn Sau 4 năm kể từ ngày thành lập, hệ thống NHCSXH đã đạt tổng nguồn vốn 24.976 tỷ đồng, tăng trưởng đều đặn qua các năm. Tổng nguồn vốn năm 2003: 10.525 tỷ đồng; năm 2004: 15.529 tỷ đồng; năm 2005: 20.219 tỷ đồng và năm 2006 là 24.976 tỷ đồng. Nguồn: Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam - Cơ cấu vốn năm 2006 thể hiện: - Vốn từ NSNN: 7.793 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 31.2% tổng nguồn vốn, trong đó vốn điều lệ 4.788 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 19% tổng nguồn vốn; vốn nhận từ các chương trình: Cho vay giải quyết việc làm, cho vay trả chậm nhà ở 3.005 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 12% tổng nguồn vốn. Vốn đi vay: 1.684 tỷ đồng, chiếm 6,8% tổng nguồn vốn, trong đó vay NHNN 1.492 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 6% tổng nguồn vốn; vay nước ngoài 192 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,8% tổng nguồn vốn. Vốn huy động: 14.182 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 56,8% tổng nguồn vốn, trong đó huy động trên thị trường tự do 8.242 tỷ đồng, chiếm 33% tổng nguồn vốn; nhận tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng 5.940 tỷ đồng, chiếm 23,8% tổng nguồn vốn. Vốn nhận tài trợ, uỷ thác đầu tư: 1.157 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 5% tổng nguồn vốn. Vốn khác: 160 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1% tổng nguồn vốn. Từ khi thành lập kể từ Quyết định 131/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, với nguồn vốn năm đầu tiên (2003) 10.525 tỷ đồng, đến năm 2006, tổng nguồn vốn đã tăng lên 24.976 tỷ, điều này cho thấy NHCSXH đã khẳng định được uy tín của mình trên thị trường. Cơ cấu nguồn vốn cho thấy, mặc dù NSNN có nhiều khó khăn, còn phải cấp vốn cho các NHTMNN để đảm bảo lộ trình cơ cấu lại, nhưng NSNN vẫn cấp lượng vốn đáng kể cho NHCSXH. Do đặc thù của NHCSXH hoạt động chính là cho vay theo mục tiêu chính sách, lãi suất cho vay thường thấp hơn lãi suất cho vay của các NHTM, hoạt động phi lợi nhuận nên vốn huy động phải có lãi suất thấp, điều này là một thách thức cho NH trong hoạt động tạo vốn. Trên thực tế, nguồn vốn huy động của NHCSXH vẫn chiếm tỷ trọng lớn hơn vốn cấp từ NSNN, trong đó vốn huy động trên thị trường tự do chiếm tỷ trọng khá cao, còn lại là nhận tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng, tuy nhiên nguồn này về lâu dài sẽ bị hạn chế do việc yêu cầu các NHTM phải chuyển nguồn sang cho NHCSXH sẽ ảnh hưởng đến chế độ hạch toán của các NHTM. Về huy động tiết kiệm, NHCSXH phải huy động tiết kiệm với mặt bằng chung của các NHTM khác trên địa bàn. Qui mô huy động phụ thuộc vào mạng lưới quầy, lãi suất, và dịch vụ khác đi kèm. Địa bàn cho vay chủ yếu ở vùng khó khăn, đói nghèo, trong khi muốn huy động được tiết kiệm nhiều, NHCSXH phải phát triển mạng lưới ở đô thị. Mở rộng mạng lưới sẽ làm gia tăng chi phí. Hơn nữa, là ngân hàng chuyên doanh, NHCSXH không thể cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích như NHTM. Những yếu tố trên cho thấy khó khăn của NHCSXH trong việc huy động và tăng trưởng nguồn huy động tiết kiệm. Nguồn vốn nhận tài trợ, uỷ thác đầu tư chiếm tỷ trọng 5% tổng nguồn vốn, nguồn tài trợ này gồm tài trợ của các chính phủ và tổ chức tài chính quốc tế cho Chính phủ Việt Nam phù hợp với mục tiêu của NHCSXH: Một số nguồn được tài trợ của Chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế cho chương trình xoá đói giảm nghèo, cải thiện môi trường, trồng rừng...phù hợp với cương lĩnh hoạt động của NH. Tuy nhiên nguồn loại này thường hay bị phân tán cho các tổ chức chính trị xã hội khác. Các nguồn vốn khác chiếm tỷ trọng 1% tổng nguồn vốn, gồm đóng góp của các tổ chức và cá nhân từ thiện và các nguồn khác. Rất nhiều tổ chức và cá nhân muốn hỗ trợ người nghèo. Thông qua NHCSXH, số tiền hỗ trợ được quay vòng nhiều lần và có hiệu quả. Tuy nhiên qui mô nguồn này không lớn. 2.1.2.2. Cho vay NHCSXH thực hiện tốt chức năng của mình là cho vay ưu đãi với đối tượng người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Đến hết năm 2006, tổng dư nợ của NHCSXH đã lên tới con số 24.076 tỷ đồng, tăng với tốc độ nhanh, dư nợ năm 2003: 10.349 tỷ đồng; năm 2004: 14.302 tỷ đồng và năm 2005 là 18.426 tỷ đồng. Như vậy, qua 4 năm, tổng dư nợ của NHCSXH đã tăng gấp 2,3 lần. Nguồn: Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam Cơ cấu dư nợ năm 2006: Dư nợ cho vay hộ nghèo: 19.292 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 80,1% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay giải quyết việc làm: 2.772 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 11,5% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay học sinh, sinh viên: 233 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay xuất khẩu lao động: 579 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,4% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường: 797 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3.3% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay mua trả chậm nhà ở: 320 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1,3% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay khác: 83 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,4% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay hộ nghèo chiếm tỷ trọng cao nhất trên tổng dư nợ, vốn cho vay lồng ghép vào các chương trình dự án của địa phương với mức cho vay được nâng lên đã giúp cho hộ nghèo có vốn sản xuất kinh doanh, cải thiện thu nhập và đời sống. Cho vay xuất khẩu lao động chiếm tỷ trọng 2,4% tổng dư nợ, góp phần giải quyết khó khăn về tài chính cho người đi lao động ở nước ngoài, vốn cho vay không chỉ giả quyết lao động dư thừa trong nước mà còn góp phần không nhỏ thu hút ngoại tệ cho quốc gia. Từ năm 2004, Chính phủ giao cho NHCSXH triển khai chương trình quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường là một trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân theo Quyết định 62/2004/QĐ-TTg ngày16/4/2004. Đến nay, vốn vay của NHCSXH đã giúp các hộ mua sắm vật te kỹ thuật xây dựng các công trình nước sạch và vệ sinh môi trường, cải thiện điều kiện sống. Cho vay học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn chiếm tỷ trọng 1% tổng dư nợ với số vốn 233 tỷ, đã tăng gấp 3 lần so với khi nhận bàn giao, nguồn vốn này được các hộ gia đình và học sinh, sinh viên hết sức hoan nghênh. Cho vay giải quyết việc làm được triển khai từ năm 2003, dư nợ năm sau cao hơn năm trước, tạo việc làm cho hơn 554.000 lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp ở nông thôn, ổn định trật tự xã hội. Cho vay trả chậm nhà ở ban đầu chỉ triển khai ở khu vực đồng bằng song Cửu Long, đến nay đã triển khai ở cả khu vực Tây Nguyên, chiếm tỷ trọng 1,3% tổng dư nợ. Vốn vay đã giúp hạn chế thiệt hại do lũ lụt gây ra ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời bao hàm ý nghĩa kinh tế - chính trị, góp phần xoá đói giảm nghèo, ổn định đời sống cho đồng bào. 2.1.2.3. Công tác đối ngoại và quản lý dự án NHCSXH đã thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với các tổ chức tài chính quốc tế lớn như: Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD)…; cơ quan Chính phủ như: Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Viện nghiên cứu Chính sách (Bộ Tài chính Nhật Bản); với các hiệp hội: Hiệp hội các tổ chức tín dụng Châu Á -Thái Bình Dương (APRACA)...; các tổ chức phát triển và phi Chính phủ quốc tế (INGO) như: Tổ chức tầm nhìn Thế giới (World Vision), tổ chức ADETEF GRET (Pháp)... Sự hội nhập quốc tế của NHCSXH thể hiện qua việc NH gia nhập tổ chức APRACA (tháng 5/2005). Đây là lần đầu tiên NHCSXH tham gia vào một hiệp hội quốc tế. Sự kiện này cho thấy NHCSXH nói chung và hoạt động đối ngoại nói riêng đã thực sự trưởng thành, chủ động và tham gia tích cực vào cộng đồng tổ chức tín dụng quốc tế. Hoạt động đối ngoại góp phần để NHCSXH được tiếp nhận một phần từ những nguồn ODA dành cho Việt Nam để bổ sung vốn điều lệ và ký một số thoả thuận thực hiện dự án mới. Các dự án mới này không chỉ góp phần gia tăng nguồn vốn cho vay của NHCSXH, mà còn làm đa dạng phương thức cho vay của NH. Tính đến hết năm 2005, NHCSXH đang theo dõi và quản lý 14 dự án và chương trình hợp tác với các đối tác nước ngoài với tổng số vốn khoảng 996 tỷ VNĐ (trong đó gồm cả vốn tham gia của NHCSXH, bằng khoảng 5,33% so với tổng nguồn vốn hoạt động của NH), trong số đó các dự án có nguồn vốn tín dụng lớn như: IFAD (2,66 triệu SDR), OPEC (10 triệu USD), Dự án Phát triển ngành lâm nghiệp vay vốn Ngân hàng Thế giới (trị giá 22,6 triệu SDR), Dự án cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn KfW (trị giá 7 triệu EURO). Cụ thể: 11 dự án, chương trình đã được ký kết và đang triển khai thực hiện, 3 dự án đang trong giai đoạn chuẩn bị (KfW về mở tài khoản tiền gửi, IFAD Hà Giang - Quảng Bình, OPEC 2)... 2.2. Thực trạng cho vay người nghèo tại NHCSXH 2.2.1. Quy mô cho vay Với chức năng tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo, NHCSXH sau một thời gian hoạt động đã cho vay ưu đãi người nghèo trên phạm vi cả nước với quy mô ngày càng rộng. Dư nợ cho vay hộ nghèo tăng với tốc độ khá nhanh theo từng năm. Tổng dư nợ cho vay hộ nghèo NHCSXH qua 4 năm từ 2003 đến 2006 Đơn vị: tỷ đồng Năm 2003 2004 2005 2006 Dư nợ cho vay hộ nghèo 8.249 11.609 14.891 19.292 Tỷ trọng trên tổng dư nợ (%) 79,7 81,16 80,82 80,10 Nguồn:Báo cáo thường niên Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam Dư nợ cho vay hộ nghèo năm 2004 so với 2003 tăng 3.360 tỷ đồng, năm 2005 so với 2004 tăng 3.282 tỷ đồng và năm 2006 so với năm 2005 tăng 4.311 tỷ đồng. Điều này cho thấy tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay hộ nghèo tại NHCSXH tăng khá đều đặn, trung bình mỗi năm tăng lên 1,33 lần. Sở dĩ có được tốc độ tăng như vậy do quy mô hoạt động của NHCSXH ngày càng được mở rộng với nguồn vốn tín dụng ưu đãi dành cho đối tượng người nghèo ngày càng tăng. Mặt khác, việc tổ chức giao dịch tại xã, phường mà NH thực hiện ngày càng đưa NHCSXH đến gần với người nghèo hơn, ngày càng có thêm nhiều người nghèo có điều kiện tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ hơn. Hiện nay, NHCSXH thực hiện cho vay ưu đãi với người nghèo trên phạm vi cả nước; tại 65 tỉnh, thành phố chia theo 7 vùng kinh tế là: Miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Khu Bốn, Miền Trung, Tây Nguyên, Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Do đặc điểm tự nhiên và xã hội, Miền núi phía Bắc và khu Bốn là những vùng có tổng dư nợ cho vay hộ nghèo lớn nhất cả nước. Tổng dư nợ cho vay hộ nghèo theo vùng kinh tế tính đến tháng 2/2007 Đơn vị: tỷ đồng. Vùng Miền núi phía Bắc Đồng bằng sông Hồng Khu Bốn Miền Trung Tây Nguyên Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long Tổng dư nợ 4.873 2.958 3.232 2.196 1.497 1.430 3.156 Tỷ trọng trên tổng dư nợ cả nước (%) 25,19 15,29 16,71 11,35 7,74 7,40 16,32 Nguồn: Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam Số liệu trên cho thấy, dư nợ cho vay hộ nghèo tập trung phần lớn ở Miền núi phía Bắc (chiếm 25,19% tổng dư nợ); khu Bốn (chiếm 16,71% tổng dư nợ) và Đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 16,32% tổng dư nợ). Điều này hoàn toàn hợp lý do đặc điểm của nhưng khu vực này hầu hết là những địa phương khó khăn trong cả nước với số người nghèo tập trung đông, đặc biệt là ở miền núi phía Bắc, nơi tập trung nhiều dân tộc thiểu số, trình độ lạc hậu, cơ sở vật chất khó khăn, nghèo nàn. Tây Nguyên cũng là một vùng kinh tế khó khăn trong cả nước, tuy nhiên, dư nợ tín dụng hộ nghèo ở khu vực này không cao (chiếm 8,73% tổng dư nợ) do mạng lưới hoạt động của NHCSXH chưa phát triển mạnh, số người nghèo được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi còn hạn chế. 2.2.2. Phương thức cho vay đang được áp dụng Cho vay với đối tượng người nghèo tại NHCSXH hiện nay được thực hiện dưới 2 hình thức: cho vay trực tiếp và cho vay uỷ thác qua tổ chức hội. Tính đến hết tháng 2/2007, tổng dư nợ cho vay hộ nghèo trực tiếp tại NHCSXH đạt gần 179 tỷ đồng, chiếm 0,92% tổng dư nợ; cho vay uỷ thác qua tổ chức hội đạt tổng dư nợ 19.163 tỷ đồng, chiếm hơn 99% tổng dư nợ. Điều này cho thấy cho vay uỷ thác là hình thức cho vay hộ nghèo chủ yếu tại NHCSXH. - Cho vay trực tiếp hộ nghèo tại NHCSXH là hình thức cho vay gặp nhiều khó khăn và khó triển khai, đặc biệt ở những vùng cơ sở vật chất hạ tầng khó khăn, mạng lưới hoạt động của NHCSXH chưa tiếp cận được, chính vì vậy, hình thức này chỉ được triển khai tại một số địa phương nhất định. Thực tế hiện nay, Tổ chức mạng lưới của NHCSXH đã hình thành 64 chi nhánh tỉnh, thành phố, 592 Phòng giao dịch NHCSXH cấp huyện, 239.647 Tổ tiết kiệm và vay vốn ở các thôn, ấp, bản, làng để chuyển tải vốn đến với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Đã có 8.076 điểm giao dịch lưu động tại xã, phường trên tổng số 10.857 xã, phường trong cả nước, đưa hoạt động NH xuống tận dân. Mặt khác, để khắc phục hạn chế về cơ sở vật chất và phạm vi hoạt động của mạng lưới giao dịch, NHCSXH đã thành lập các Tổ tiết kiệm và vay vốn trên cơ sở quy định của Chính phủ: “Tổ tiết kiệm và vay vốn là tổ chức do các tổ chức chính trị - xã hội hoặc cộng đồng dân cư tự nguyện thành lập trên địa bàn hành chính của xã, được UBND cấp xã chấp thuận bằng văn bản”. Tổ tiết kiệm và vay vốn là một mô hình tài chính nhỏ, có thể coi là mô hình tài chính vi mô ở nông thôn, nhưng theo sự hướng dẫn, quản lý thống nhất của NHCSXH. Sau một thời gian hoạt động, mô hình này thực sự đã giải đáp được nhiều yêu cầu về tổ chức và quản lý tín dụng ở nông thôn, nhất là tín dụng chính sách. Có thể khẳng định mô hình Tổ tiết kiệm và vay vốn là trợ thủ đắc lực không thể thay thế hoặc làm khác đối với hoạt động của NHCSXH, bởi vì: Trong điều kiện đối tượng thụ hưởng tín dụng chính sách là hộ cư trú trên địa bàn rộng, nếu chỉ dựa vào đội ngũ cán bộ tín dụng của Ngân hàng thì chúng ta phải có một số lượng cán bộ tín dụng hàng vạn người. Một giải pháp trong điều hành rất thực tế là tổ chức giao dịch tại xã, phường theo lịch cố định, với 8.076 điểm giao dịch tại xã, phường,đưa hoạt động của NHCSXH đến tận dân, tạo điều kiện cho người nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận trực tiếp với Ngân hàng, thực hiện công khai việc vay vốn, trả nợ, trả lãi của khách hàng và Tổ tiết kiệm và vay vốn. - Cho vay gián tiếp thông qua uỷ thác vốn cho các tổ chức hội là một nghiệp vụ sáng tạo của NHCSXH. Trước đây, cơ chế uỷ thác từng phần mà NHCSXH nhận chuyển giao từ NHNg bộc lộ nhiều hạn chế, NHCSXH là một tổ chức tài chính - tín dụng trực tiếp thực hiện cho vay vốn đến hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, nhưng với phương thức uỷ thác như NHNg thì NHCSXH trở thành tổ chức trung gian; có bộ máy quản lý và điều hành thống nhất trong phạm vi cả nước, nhưng việc điều hành phải thông qua bộ máy của một tổ chức tín dụng khác không chịu sự quản lý của NHCSXH; là một pháp nhân có vốn điều lệ, có tài sản và bảng cân đối tài chính hoàn chỉnh, nhưng tài sản và bảng cân đối không thể hiện đầy đủ vốn tín dụng chính sách đã thực sự đến với đối tượng thụ hưởng, vốn cho vay chỉ thể hiện số vốn đã chuyển cho bên nhận uỷ thác, có thời gian vốn cho vay hộ nghèo đã đọng hàng ngàn tỷ đồng; toàn bộ chứng từ cho vay vốn đối với người nghèo và việc hạch toán kế toán đến người vay do bên nhận uỷ thác thực hiện, nên việc kiểm soát hệ thống giao dịch từ Trung ương đến địa phương tuỳ thuộc vào sự chỉ đạo và điều hành của tổ chức nhận uỷ thác... Việc phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội tuy đã được đặt ra, nhưng chỉ dừng lại ở hình thức bằng Văn bản liên tịch ở Trung ương, không có hiệu lực ở cơ sở và trong thực tế. Vì vậy, tuy là một Ngân hàng nhưng chỉ là hình thức, thực chất là một Quỹ không hơn không kém. Chính vì nguyên nhân trên mà phương thức uỷ thác từng phần thong qua các tổ chức hội ra đời. Cơ chế uỷ thác từng phần là cơ chế uỷ thác một số công việc của quy trình tín dụng đối với người vay, các công việc liên quan đến vốn và tài sản như: phát tiền vay, thu nợ, thu lãi, tổ chức hạch toán quản lý hồ sơ vay vốn do Ngân hàng thực hiện. Việc ký kết hợp đồng uỷ thác phải được thực hiện do các tổ chức trực tiếp ở cơ sở mà cụ thể là Phòng giao dịch NHCSXH huyện, quận (được Tổng giám đốc uỷ quyền) với tổ chức chính trị - xã hội xã, phường. Như vậy, cơ chế uỷ thác từng phần khác biệt với cơ chế uỷ thác thông thường, khác với cơ chế uỷ thác mà NHNg uỷ thác (được gọi là toàn phần) cho NHNo&PTNT, và cơ chế uỷ thác (được gọi là bán phần) cho các tổ chức chính trị - xã hội. Khi thực hiện cơ chế uỷ thác từng phần cho các tổ chức chính trị - xã hội, NHCSXH đã thực hiện được việc thu lãi và thu nợ đạt tỷ lệ trên 90%, nợ quá hạn giảm dần từ 13,75% khi nhận bàn giao giảm xuống còn 4,6% cuối năm 2005, các khoản cho vay mới từ khi thành lập NHCSXH đến nay phát sinh nợ qua hạn không đáng kể. Đến thời điểm này, cơ chế uỷ thác từng phần cho các tổ chức chính trị - xã hội có thể khẳng định là cơ chế phù hợp, sáng tạo và có hiệu quả của hoạt động tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Đây cũng là một cơ chế riêng có của NHCSXH rất thành công. Do đó, tổng dư nợ thực hiện qua cơ chế vay uỷ thác từng phần chiếm tỷ trọng cao trên tổng dư nợ cho vay hộ nghèo: hơn 99% tổng dư nợ (tháng2/2007) và trở thành phương thức cho vay chính của NHCSXH. 2.2.3. Lãi suất áp dụng NHCSXH thực hiện cho vay ưu đãi với người nghèo với lãi suất tín dụng ưu đãi. Kể từ ngày 01/01/2006, NHCSXH được phép điều chỉnh tăng lãi suất cho vay đối với hộ nghèo và cá._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32121.doc