Giải pháp nâng cao bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Thủ đô

DANH MỤC BẢNG BIỂU Tên bảng biểu Trang Bảng 1 Tình hình huy động vốn qua các năm 2008-2009 42 Bảng 2 Tình hình dư nợ qua các năm 2008-2009 44 Bảng 3 Tình hình nợ xấu qua các năm 2008-2008 45 Bảng 4 Kết quả kinh doanh qua các năm 2008-2009 46 Bảng 5 Tình hình cho vay cầm cố bằng TS của khách hàng 57 Bảng 6 Tình hình cho vay thế chấp bằng TS của khách hàng 59 Bảng 7 Dư nợ cho vay bảo đảm bằng TS của bên thứ ba 61 Bảng 8 DN cho vay bảo đảm bằng TS hình thành từ vốn vay

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1406 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Thủ đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
63 Bảng 9 DN cho vay không có bảo đảm bằng tài sản 64 BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT CBTD Cán bộ tín dụng DNNN Doanh nghiệp nhà nước DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh HTX Hợp tác xã KH Kì hạn KKH Không kì hạn NHNN Ngân hàng nhà nước NHNo&PTNT Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn NHTM Ngân hàng thương mại TCKT Tổ chức kinh tế TCTD Tổ chức tín dụng TG Tiền gửi TPKT Thành phần kinh tế TSBĐ Tài sản bảo đảm TSBL Tài sản bảo lãnh TSCC Tài sản cầm cố TSHTTVV Tài sản hình thành từ vốn vay TSTC Tài sản thế chấp UBND Uỷ ban nhân dân VHĐ Vốn huy động LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng được thành lập theo Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Trong các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng thì tín dụng là hoạt động mang lại cho ngân hàng nhiều lợi nhuận nhất nhưng ngược lại nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng, đó chính là rủi ro tín dụng. Đặc biệt rủi ro của ngân hàng rất dễ dẫn đến rủi ro hệ thống gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do đó để hạn chế những rủi ro đó các ngân hàng đã tiến hành áp dụng hàng loạt các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Một trong những biện pháp quan trọng nhất đó là bảo đảm tín dụng. Tài sản bảo đảm là một trong những căn cứ quan trọng để ngân hàng xác định mức cho vay đối với khách hàng. Ngân hàng coi bảo đảm tín dụng là nguồn trả nợ thứ hai sau nguồn trả nợ thứ nhất là thu nhập từ hoạt động kinh doanh của khách hàng. Cùng với sự gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới, thị trường tiền tệ Việt Nam cũng đón nhận sự gia nhập của nhiều tổ chức tín dụng quốc tế, đặc biệt là chi nhánh, phòng giao dịch của các ngân hàng lớn trên thế giới. Điều này đặt ra nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thách thức cho ngành ngân hàng Việt Nam. Dưới áp lực cạnh tranh, các ngân hàng thương mại Việt Nam thường coi lãi suất là công cụ cạnh tranh đắc lực và tương đối hiệu quả. Bên cạnh đó, một số ngân hàng đã bắt đầu nới lỏng các điều kiện cho vay nhằm thu hút các khách hàng mới. Một trong những điều kiện đó là điều kiện về tài sản bảo đảm. Hiện nay đã có những ngân hàng cho vay không cần tài sản bảo đảm đối với một số đối tượng khách hàng cụ thể. Hình thức cho vay không cần tài sản bảo đảm thu hút một số lượng khách hàng đáng kể tuy nhiên cũng đem đến cho ngân hàng những rủi ro tiềm ẩn khá lớn. Như vậy, tài sản bảo đảm có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế việc áp dụng các quy định về tài sản bảo đảm còn nhiều khó khăn không những từ phía khách hàng, ngân hàng mà cả từ phía Chính phủ và các bộ ngành có liên quan. Xuất phát từ tình hình thực tế của thị trường tiền tệ Việt Nam và cụ thể tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thủ đô, trên cơ sở các vấn đề lý thuyết về bảo đảm tín dụng, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của giảng viên Nguyễn Anh Tuấn, sự quan tâm giúp đỡ của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thủ Đô, em chọn đề tài "Giải pháp nâng cao bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thủ đô" để làm chuyên đề tốt nghiệp. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài tập trung tìm hiểu các vấn đề lý luận chung về bảo đảm tín dụng, làm sáng tỏ ý nghĩa của bảo đảm tín dụng đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng. Trên cơ sở lý luận chung, đề tài đi sâu nghiên cứu về thực trạng thực hiện bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thủ Đô. Qua đó thấy được những điểm mạnh và điểm yếu trong quá trình thực hiện bảo đảm tín dụng tại chi nhánh, phân tích những nguyên nhân của những hạn chế tồn tại, từ đó đưa ra một số hướng giải pháp cho chi nhánh và đề xuất một số kiến nghị đối với các cơ quan có thẩm quyền nhằm nâng cao chất lượng bảo đảm tín dụng tại chi nhán. 3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp trừư tượng hoá khoa học, phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, thống kê, so sánh phân tích trên cơ sở các số liệu thực tế tại chi nhánh qua các năm 2008, 2009. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các khoản tín dụng bao gồm cả có tài sản bảo đảm và không có tài sản bảo đảm của tất cả các đối tượng khách hàng tại chi nhánh. Phạm vi nghiên cứu: các khoản tín dụng tại chi nhánh trong các năm 2008. 2009. 5. Kết cấu chuyên đề Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về bảo đảm tín dụng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Chương này tập trung vào các vấn đề mang tính chất lý thuyết về bảo đảm tín dụng, làm rõ nội dung và quy trình thực hiện của từng hình thức bảo đảm tín dụng Chương 2: Thực trạng bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thủ Đô Thông qua các số liệu thực tế tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp Thủ Đô, chương này đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện bảo đảm tín dụng tại chi nhánh. Qua đó thấy được những khó khăn, tồn tại của việc thực hiện bảo đảm tín dụng tại chi nhánh và những nguyên nhân của những khó khăn tồn tại đó. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Thủ Đô Trên cơ sở đánh giá môi trường kinh doanh năm 2010 và định hướng phát triển của chi nhánh, chương này sẽ đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động bảo đảm tín dụng tại chi nhánh. CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. SỰ CẦN THIẾT THỰC HIỆN BẢO ĐẢM TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM 1.1.1. Khái niệm bảo đảm tín dụng Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn- tiền". Trong hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ do rủi ro tín dụng – rủi ro có thể dễ dẫn đến tổn thất lớn nhất cho ngân hàng. Không chỉ vậy, rủi ro của một ngân hàng hoàn toàn có thể kéo theo rủi ro cho toàn hệ thống, từ đó tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế. Do đó, việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tín dụng nhằm bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của khách hàng đi vay là điều cần thiết. Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 có giải thích “ Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.” Nguyên tắc có hoàn trả đã định rõ điều kiện quan trọng nhất khi ngân hàng thực hiện hoạt động kinh doanh. Theo đó, khi thực hiện cấp tín dụng, ngân hàng luôn phải xem xét thận trọng uy tín và năng lực ( bao gồm cả năng lực kinh doanh và năng lực hành vi ) của khách hàng để xác định hình thức cho vay phù hợp, hạn chế tối đa trường hợp khách hàng không trả được nợ. Bảo đảm tín dụng là thiết lập các cơ sở kinh tế và pháp lý tạo điều kiện cho ngân hàng thoả mãn nhu cầu thu hồi tín dụng đã cấp trong trường hợp người vay không thực hiện trả nợ theo quy định. Hay nói cách khác, bảo đảm tín dụng là việc bảo vệ quyền lợi của người cho vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Tài sản hoặc quyền sử dụng tài sản có thể được dùng làm tài sản đảm bảo bao gồm tất cả các tài sản có quyền giao dịch hoặc có khả năng lưu chuyển tiền tệ. Tài sản đảm bảo có vai trò rất lớn trong quyết định cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng Việt nam hiện nay không đơn giản vì nó là chỗ dựa tin cậy trong việc đưa ra quyết định cấp tín dụng mà hơn thế nữa, tài sản đảm bảo có tác dụng rất tốt trong việc ngăn ngừa sự xuất hiện của tâm lý ỷ lại của khách hàng sau khi đi vay. Đối với ngân hàng, việc cho vay có tài sản đảm bảo là cần thiết. Theo đó, các đặc trưng cần có của tài sản đảm bảo bao gồm : Ø Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm Bảo đảm tín dụng không chỉ là nguồn thu nợ của ngân hàng mà còn có ý nghĩa thúc giục người đi vay phải trả nợ, nếu không họ sẽ mất tài sản. Nhưng nếu giá trị của tài sản nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm thị người đi vay hoàn toàn không có động cơ trả nợ. Nghĩa vị được bảo đảm bao gồm vốn gốc, lãi (kể cả lãi quá hạn) và các chi phí khác trừ trường hợp các bên có thoả thuận lãi và các loại phí khác không thuộc phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Ø Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ Mức độ thanh khoản của tài sản bảo đảm có liên quan trực tiếp đến lợi ích của người cho vay. Mức độ thanh khoản thấp hay nói cách khác tài sản khó bán thường khó được ngân hàng chấp nhận. Mức độ thanh khoản trung bình có thể chấp nhận được tuy nhiên cần tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý. Ø Có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên về xử lý tài sản Đặc trưng này phải thể hiện được các mặt sau: Tài sản đem bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đi vay hoặc người bảo lãnh và được pháp luật cho phép giao dịch. Đồng thời phải có đủ cơ sở pháp lý để ngân hàng - chủ thể cho vay được quyền xử lý tài sản nhằm thu hồi nợ khi người đi vay không thanh toán đúng hạn 1.1.2.Ý nghĩa của việc thực hiện bảo đảm tín dụng «Đối với ngân hàng FBảo đảm tín dụng giúp cho ngân hàng bảo đảm an toàn trong cấp tín dụng Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính không cho vay tiền của bản thân mình mà nó huy động vốn từ khách hàng để cấp tín dụng nên trách nhiệm hàng đầu là bảo vệ lợi ích của người gửi tiền. Mặc dù phần lớn các ngân hàng đều dự tính trước những rủi ro có thể xảy ra nhưng những rủi ro này vẫn phải được kiểm soát chặt chẽ để bảo vệ số tiền mà ngân hàng đã huy động được. Tài sản bảo đảm góp phần kiểm soát hạn chế các rủi ro trên. Thực chất, bảo đảm tín dụng là thiết lập những cơ sở pháp lý để có thêm nguồn trả nợ thứ hai. Trong cho vay kinh doanh, nguồn trả nợ thứ nhất từ doanh thu thực tế đối với vay ngắn hạn, từ khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung dài hạn. Trong cho vay tiêu dùng, nguồn thu nợ thứ nhất là thu nhập cá nhân như tiền công, tiền lương, các khoản thu nhập tài chính (lãi tiền gửi, cổ tức, trái tức) và các khoản thu nhập khác. Các nguồn thu nợ thứ nhất này thể hiện dưới hình thức lưu chuyển tiền tệ của người đi vay. Trong hoạt động kinh doanh có muôn ngàn lý do dẫn đến nguồn thu nợ thứ nhất không thể thực hiện được, nếu không có một nguồn bổ sung thứ hai thì tất yếu ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Vì vậy để bảo vệ lợi ích của mình ngân hàng thường yêu cầu người đi vay phải có bảo đảm tín dụng ngoại trừ những khách hàng thật sự hoạt động tốt và có mối quan hệ tín dụng thường xuyên. F Bảo đảm tín dụng giúp ngân hàng tạo lập quan hệ tín dụng với khách hàng Khi quyết định cho vay ngân hàng phải phân tích đánh giá khách hàng dưới nhiều góc độ khác nhau trong đó bảo đảm tín dụng được coi là một trong những tiêu chuẩn xét duyệt cho vay và giới hạn cho vay vì nó trả lời được phần nào các câu hỏi: Khách hàng có mong muốn trả nợ không? Khách hàng có khả năng trả nợ không? Khả năng và ý muốn đó có duy trì trong suốt thời hạn vay vốn không? Tuy nhiên đây không phải là tiêu chuẩn mang tính bắt buộc khi cấp tín dụng cho khách hàng, nó chỉ là một trong những điều kiện cấp vốn. TSBĐ giúp cho khách hàng củng cố thêm lòng tin đối với ngân hàng. Lòng tin là một trong những đặc trưng quan trọng của hoạt động tín dụng do vậy lòng tin chính là một trong những căn cứ để ngân hàng quyết định cho vay. F Bảo đảm tín dụng nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người vay vốn trong việc quản lý và sử dụng tiền vay Trong nền kinh tế, chủ thể kinh doanh( người vay vốn) khó có thể tránh hết được các rủi ro. Do vậy khi đem tài sản của mình ra làm bảo đảm cho khoản vay họ sẽ có trách nhiệm hơn trong việc quản lý và sử dụng vốn vay vì khi không trả được khoản vay họ sẽ bị mất tài sản bảo đảm đó. Tài sản bảo đảm thường có giá trị lớn hơn khoản vay. Mặt khác, bảo đảm tín dụng giúp ngân hàng giảm thiểu những rủi ro đạo đức có thể xảy ra. Đây được coi là ý nghĩa quan trọng nhất của bảo đảm tín dụng. F Bảo đảm tín dụng là tiêu chuẩn bổ sung những mặt hạn chế của nhà quản trị tín dụng cũng như phòng tránh những diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh Nâng cao năng lực thẩm định của cán bộ nhân viên ngân hàng khi thực hiện bảo đảm tiền vay. Để phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, để bảo đảm cho nguồn trả nợ thứ hai có thể bù đắp được các tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra thì việc định giá tài sản bảo đảm là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, việc định giá tài sản bảo đảm thường có ý nghĩa hơn trong trường hợp cho vay đối với khách hàng tư nhân, ít uy tín hoặc những doanh nghiệp nhỏ mới thành lập, làm ăn không ổn định. Đối với những doanh nghiệp lớn có chính sách quản lý hiệu quả, có sản phẩm và dịch vụ được thị trường chấp nhận, có lợi nhuận tương đối ổn định và có tình hình tài chính tốt, lành mạnh, uy tín thanh toán nợ cũ thì đó là những khách hàng tiềm năng. Trong trường hợp này, ngân hàng sẵn sàng cho vay không cần có tài sản bảo đảm hoặc tài sản bảo đảm có giá trị nhỏ hơn giá trị khoản vay. Do vậy, cán bộ tín dụng cần vận dụng bảo đảm tiền vay một cách linh hoạt trong từng điều kiện cụ thể nhằm đảm bảo an toàn cho ngân hàng đồng thời thu hút các khách hàng tốt. «Đối với khách hàng FNgười gửi tiền: Bảo đảm tín dụng cho người gửi tiền tăng thêm niềm tin vào ngân hàng, yên tâm hơn về khoản tiết kiệm của mình. FNgười vay vốn: Khách hàng vay vốn phải sử dụng tài sản của mình để bảo dảm cho khoản vay, do đó họ sẽ có trách nhiệm hơn trong quản lý và sử dụng vốn vay. Vì vậy, bảo đảm tín dụng là độnglực thúc đẩy khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay có hiệu quả đúng mục đích để có khả năng trả nợ và nhận lại tài sản của mình. «Đối với nền kinh tế Bảo đảm tiền vay được thực hiện tốt sẽ có vai trò hạn chế nợ quá hạn, nợ khó đòi, hạn chế rủi ro tín dụng. Ngân hàng là một tổ chức tín dụng có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, rủi ro trong ngành ngân hàng dễ dẫn đến rủi ro hệ thống toàn nền kinh tế. Do vậy bảo đảm tín dụng góp phần giữ cho nền kinh tế hoạt động lành mạnh, hạn chế những tổn thất. Mặt khác, bảo đảm tín dụng giúp cho ngân hàng tăng thêm uy tín thu hút được người gửi tiền để cho vay mở rộng sản xuất kinh doanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM TÍN DỤNG 1.2.1. Các hình thức bảo đảm tín dụng Bộ luật dân sự năm 2005 xác định "Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: a)Cầm cố tài sản b)Thế chấp tài sản c)Đặt cọc d)Ký cược đ)Ký quỹ e)Bảo lãnh g)Tín chấp Tuy nhiên hiện nay các ngân hàng thương mại chủ yếu áp dụng 2 hình thức bảo đảm tín dụng cơ bản là bảo đảm đối vật (trong đó có 3 phương thức chính là cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay vốn và bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay) và bảo đảm đối nhân( hay còn gọi là bảo lãnh) 1.2.1.1. Bảo đảm đối vật 1.2.1.1.1. Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay vốn a) Khái niệm Có hai quan điểm về cầm cố tài sản thể hiện trong Luật Dân sự năm 1999 và Luật Dân sự năm 2005. Theo Bộ Luật dân sự năm 1999: "Cầm cố tài sản là việc bên có nghĩa vụ( khách hàng hay bên cầm cố) giao tài sản là động sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên có quyền ( bên cho vay hay nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự( nghĩa vu vay và trả lãi tiền vay khi đến hạn). Theo Luật Dân sự năm 2005- điều 326, "Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điểm khác biệt cơ bản nhất của hai quan điểm trên là quan niệm về tài sản cầm cố là động sản hay không? Hiện nay các ngân hàng đang áp dụng theo Luật Dân sự năm 2005, do đó quan điểm về tài sản cầm cố là động sản rất khó xác định, phân biệt và không thật sự có ý nghĩa. b) Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch cầm cố tài sản Ø Bên cầm cố tài sản FQuyền của bên cầm cố tài sản(Theo điều 331-Luật Dân sự năm 2005) Bên cầm cố có các quyền sau đây: 1.Yêu cầu bên nhận cầm cố đình chỉ việc sử dụng tài sản cầm cố trong trường hợp quy định tại khoản 3 điều 333 của Bộ luật này, nếu do sử dụng mà tài sản cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị; 2..Được bán tài sản cầm cố nếu được bên nhận cầm cố đồng ý; 3..Được thay thế tài sản cầm cố bằng một tài sản khác nếu có thoả thuận; 4.Yêu cầu bên nhận cầm cố giữ tài sản cầm cố trả lại tài sản cầm cố khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt; 5.Yêu cầu bên nhận cầm cố bồi thường thiệt hại xảy ra đối với tài sản cầm cố. FNghĩa vụ của bên cầm cố tài sản ( Theo điều 330- Luật Dân sự 2005) Bên cầm cố tài sản có các nghĩa vụ sau: 1. Giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố theo đúng thoả thuận; 2. .Báo cho bên nhận cầm cố về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố, nếu có; trong trường hợp không thông báo thì bên nhận cầm cố có quyền huỷ hợp đồng cầm cố tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố; 3.Thanh toán cho bên nhận cầm cố chi phí hợp lí để bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Ø Bên nhận cầm cố FQuyền của bên nhận cầm cố tài sản ( Theo điều 333- Luật Dan sự 2005) Bên nhận cầm cố tài sản có các quyền sau đây: 1.Yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản đó; 2.Yêu cầu xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ; 3.Được khai thác công dụng tài sản cầm cố và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, nếu có thoả thuận; 4.Được thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản cầm cố khi trả lại tài sản cho bên cầm cố. FNghĩa vụ của bên nhận cầm cố (theo điều 332-Luật Dân sự) Bên nhận cầm cố tài sản có các nghĩa vụ sau đây: 1.Bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố; nếu làm mất hoặc hư hỏng tài sản cầm cố thì phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố; 2.Không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn tài sản cầm cố; không được đem tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác; 3.Không được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố nếu không được bên cầm cố đồng ý; 4.Trả lại tài sản cầm cố khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác. c)Những loại tài sản cầm cố thông dụng để đảm bảo tiền vay Ø Cầm cố hàng hoá Cho vay cầm cố hàng hoá là nghiệp vụ cho vay có bảo đảm áp dụng phổ biến tại các NHTM hiện nay vì hình thức này có nhiều ưu thế hơn bảo đảm bằng bất động sản: FKhi khách hàng không thanh toán được nợ đúng hạn, ngân hàng có thể bán được hàng hoá một cách dễ dàng hơn so với bất động sản FGiúp cho các doanh nghiệp thực hiện dự trữ vật tư hàng hoá theo chu kì và thời vụ nhằm ổn định sản xuất và đáp ứng được nhu cầu của thị trường Để phát huy ưu thế trên đây ngân hàng thường chấp nhận các hàng hoá có đủ các điều kiện sau đây được dùng làm thế chấp để vay vốn: Hàng hoá có giá cả ổn định Hàng hoá dễ tiêu thụ trong hiện tại và tương lai Hàng hoá được phép lưu thông và khách hàng được phép kinh doanh loại hàng hoá đó Trên thực tế, hàng hoá cầm cố thông dụng bao gồm: - Nguyên vật liệu dùng cho sản xuất - Hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu - Thiết bị, máy móc, xe cộ thông dụng Các ngân hàng thường cầm cố các loại hàng hoá mới (chưa sử dụng) và chỉ chấp nhận các loại hàng hoá đã sử dụng với điều kiện thị trường chấp nhận một cách rộng rãi, ví dụ như phương tiện vận chuyển phổ cập. Việc quản lý hàng hoá cầm cố được thực hiện theo các cách sau: - Quản lý tại kho ngân hàng - Quản lý tại kho của khách hàng hàng cầm cố - Quản lý tại kho của bên thứ bao Ø Chiết khấu kí hoá thương phiếu Chiết khấu ký hoá thương phiếu là hình thức cho vay có bảo đảm bằng quyền về tài sản xuất phát từ hợp đồng ký thác bằng hàng hoá. Các công ty kinh doanh kho được pháp luật cho phép kí gửi hàng hoá của các doanh nghiệp. Cần lưu ý, các công ty kinh doanh kho trước khi được cấp giấy phép hoạt động phải có hệ thống kho an toàn và được trang bị hệ thống phòng cháy chữa cháy. Mặt khác, công ty kinh doanh về kí thác hàng hoá không được làm chức năng mua bán hàng hoá. Khi người kí thác hàng hoá có nhu cầu vốn ngắn hạn, họ có thể đến ngân hàng xin vay nợ trên cơ sở bảo đảm bằng hàng hoá đã kí thác tại công ty kinh doanh kho. Ngân hàng căn cứ vào biên lai và kí hoá phiếu - hai chứng từ của công ty kinh doanh kho giao cho người kí thác- để quyết định cho vay bằng một tỷ lệ nhất định của giá trị hàng hoá. Chiết khấu kí hoá phiếu tương đối an toàn và có nhiều thuận lợi vì các lí do sau: -Kí hoá phiếu đại diện cho một lượng hàng hoá có được lưu trữ tại các kho an toàn, mặt khác các hàng hoá thường xuyên được bảo hiểm đầy đủ -Ngân hàng ít bị rủi ro về hư hỏng và mất mát hàng hoá, vì tại đây việc quản lý đã có một đội ngũ nhân sự có năng lực về kiểm soát và bảo quản hàng hoá -Chiết khấu kí hoá phiếu sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại có thêm nguồn vốn thông qua tái chiết khấu ở ngân hàng trung ương. Ø Cầm cố các chứng khoán Cho vay cầm cố chứng khoán là một nghiệp vụ cho vay đơn giản, khách hàng chuyển giao chứng khoán cho ngân hàng để nhận tiền vay. Khi đáo hạn khách hàng trả nợ cho ngân hàng và nhận lại các chứng khoán đã cầm cố. Hình thức cầm cố này rất phổ biến ở các nước trên thế giới. Riêng ở nước ta do thị trường chứng khoán cũng mới phát triển do đó hình thức này mới trong quá trình hình thành, tuy nhiên trong vài năm tới hình thức này hứa hen sẽ phát triển rất nhanh. FCác loại chứng khoán cầm cố: -Công trái; -Tín phiếu kho bạc; -Trái phiếu đô thị; -Cổ phiếu; -Trái phiếu công ty; -Các loại giấy nợ khác. Về phía ngân hàng, khi nhận hồ sơ xin vay cầm cố bằng chứng khoán, ngân hàng phải nghiên cứu mức độ rủi ro của từng loại chứng khoán, đặc biệt đối với các chứng khoán công ty. Giá trị của các chứng khoán phần lớn được xác định theo giá thị trường chứ không phải theo mệnh giá của chúng và đây là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi phải có các chuyên gia chứng khoán mới có khả năng định giá được. Thông thường đối với các chứng khoán nhà nước, tỷ lệ cho vay so với giá trị định giá cao hơn so với các chứng khoán công ty, vì chứng khoán công ty thường có mức độ rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất cao hơn, hay nói cách khác các chứng khoán công ty có khả năng hoàn trả thấp và có giá cả biến động với biên độ cao. Ø Đảm bảo bằng tiền gửi Tiền gửi dùng làm bảo đảm cho khoản ứng trước của ngân hàng thường là tiền gửi có kì hạn và tiết kiệm, còn đối với tiền gửi thanh toán khi dùng làm bảo đảm cho ngân hàng phải được chuyển sang một tài khoản phong toả. Tiền gửi là tài sản bảo đảm an toàn và ít tốn kém vì lí do sau: -Không cần định giá; -Chi phí phát sinh trong việc quản lý tiền gửi bảo đảm không đáng kể; -Việc xử lý tài sản để thu hồi nợ khi khách hàng không có khả năng trả nợ tương đối đơn giản. Với hình thức bảo đảm này thì tỷ trọng cho vay của ngân hàng tương đối cao và mức cho vay được tính dựa vào công thức: TV = TG (1+r1) 1+r2 Trong đó : TV:Số tiền cho vay tối đa TG: Mệnh giá của tiền gửi r1:Lãi suất tiền gửi r2:Lãi suất cho vay Lãi suất tiền gửi được sử dụng trong công thức trên là lãi suất ngân hàng chấp nhận thanh toán, khi phải thanh lý tiền gửi để trả nợ. Thông thường mức lãi suất này nhỏ hơn mức lãi suất tiền gửi theo hợp đồng và thậm chí bằng 0. Mức lãi suất cụ thể được quy định phụ thuộc vào từng ngân hàng. Trong trương hợp tiền vay và tiền gửi bảo đảm là hai loại tiền khác nhau thì phải có một mức dự phòng về thay đổi tỷ giá hối đoái. Trong trường hợp tiền gửi được ký thác ở một ngân hàng khác hoặc chi nhánh khác thì ngân hàng cho vay phải thẩm tra tính hiện thực của tiền gửi đó, đồng thời phải có sự xác nhận của ngân hàng nhận kí thác chấp nhận cho phép ngân hàng cho vay được phép thu nợ từ khoản tiền gửi của khách hàng trong trường hợp khách hàng không thanh toán tiền vay đúng hạn. Ø Bảo đảm bằng vàng Bảo đảm bằng vàng là hình thức bảo đảm trong cho vay cá nhân. Vàng dùng bảo đảm được kí gửi và bảo quản tại ngân hàng. Phần lớn các NHTM Việt Nam đều có nghiệp vụ kinh doanh vàng, đây là một điều kiện thuận lợi cho việc phân kim và định giá vàng làm cơ sở để xác định mức cho vay. Đối với các ngân hàng hoặc chi nhánh không có nhân viên kĩ thuật về vàng nhất thiết phải nhờ đến dịch vụ phân kim và định giá của các công ty kinh doanh vàng. Ø Bảo đảm bằng các khoản phải thu Các khoản nợ của người thứ ba đối với khách hàng vay vốn được coi là tài sản bảo đảm cho các khoản vay ngắn hạn. Việc bảo đảm bằng các khoản phải thu được thực hiện theo hai cách: - Bảo đảm không thông báo: Các khoản phải thu dùng làm bảo đảm chỉ có sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng vay vốn- chủ nợ của khoản phải thu, mà không thông báo cho con nợ biết về sự cầm cố này. Theo cách này, khách hàng vay vốn cam kết sẽ chuyển giao cho ngân hàng khi con nợ thanh toán. - Bảo đảm có thông báo: Theo cách này, việc cầm cố khoản phải thu phải thông báo cho con nợ biết và người này phải thanh toán trực tiếp cho ngân hàng thay vì thanh toán cho chủ nợ- người vay vốn. Bảo đảm bằng các khoản phải thu không phải là hình thức bảo đảm có độ an toàn cao, vì vậy khi thực hiện việc cho vay theo hình thức này ngân hàng phải nghiên cứu và đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn sau: -Tính liêm khiết của khách hàng vay vốn; -Bản chất và đặc tính của các khoản phải thu; -Xác định mức độ rủi ro của các khoản phải thu để định tỷ trọng cho vay. Nếu rủi ro thấp thì tỷ trọng cho vay cao và ngược lại. Đối với các nước phát triển, cho vay có bảo đảm bằng các khoản phải thu tương đối phát triển, điều này tạo điều kiện để mở rộng tín dụng. Riêng ở Việt Nam hình thức này chưa phổ biến do việc thanh toán qua ngân hàng còn rất hạn chế, do đó ngân hàng không thể kiểm soát được các khoản chi trả của con nợ với khách hàng vay vốn. Ø Bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu Các công ty xây dựng hoặc các công ty thiết bị vật tư có hợp đồng về xây dựng hoặc hợp đồng về cung cấp, nếu thiếu vốn để thực hiện hợp đồng có thể nhượng lại hợp đồng đó cho ngân hàng để được tài trợ vốn ngắn hạn. Cho vay bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu đôi lúc cũng có rủi ro cho ngân hàng, rủi ro này xuất phát từ những nguyên nhân sau: -Người nhận thầu không đủ khả năng thực hiện hợp đồng -Chủ đầu tư hay người nhận thầu chính không sẵn lòng thanh toán khi bên nhận thầu đã thực hiện theo hợp đồng Các hợp đồng nhận thầu xây dựng hoặc cung cấp hàng hoá cho các tổ chức nhà nước được coi là an toàn hơn so với các hợp đồng tư nhân, tuy nhiên trong một số trường hợp cũng có thể gặp rủi ro thanh toán chậm. Các hợp đồng tư nhân có rủi ro cao hơn do đó ngân hàng phải nghiên cứu kĩ các bên hợp đồng đặc biệt là nghiên cứu nguồn vốn thanh toán của chủ đầu tư. 1.2.1.1.2. Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay vốn a) Khái niệm Cũng như cầm cố, thế chấp cũng có thể hiểu theo hai quan điểm: theo Luật Dân sự năm 1999 và theo Luật Dân sự năm 2005. Theo Luật Dân sự năm1999: "Thế chấp là việc bên đi vay dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho vay. Theo Luật Dân sự năm 2005:"Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp." b) Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thế chấp tài sản Ø Bên thế chấp tài sản FQuyền của bên thế chấp tài sản (theo điều 349-Luật Dân sự 2005) Bên thế chấp tài sản có các quyền sau: 1. Được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp, trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức cũng thuộc tài sản thế chấp theo thoả thuận; 2. Được đầu tư để làm tăng giá trị của tài sản thế chấp; 3. Được bán, thay thế tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp bán tài sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh thì quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền, số tiền thu được hoặc tài sản hình thành từ từ số tiền thu được trở thành tài sản thế chấp thay thế cho số tài sản đã bán. 4. Được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý. 5. Được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp nhưng phải thông báo với bên thuê, bên mượn biết về việc tài sản cho thuê, cho mượn đang được dùng để thế chấp và phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết; 6. Nhận lại tài sản thế chấp do người thứ ba giữ, khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác. FNghĩa vụ của bên thế chấp (theo điều 348 -Luật Dân sự 2005) Bên thế chấp tài sản có các nghĩa vụ sau đây: 1.Bảo quản, giũ gìn tài sản thế chấp; 2.áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục, kể cả phải ngừng việc khai thác công dụng tài sản thế chấp nếu do việc khai thác đó mà tài sản thế chấp có nguy cơ mất giá trị hoặc giảm sút giá trị; 3.Thông báo cho bên nhận thế chấp về các quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấ, nếu có; trong trường hợp không thông báo thì bên nhận thế chấp có quyền huỷ hợp đồng thế chấp tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp; 4.Không được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp trừ trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 điều 349 của Bộ luật này. Ø Bên nhận thế chấp FQuyền của bên nhận thế chấp (theo điều 351-Luật Dân sự 2005) Bên nhận thế chấp tài sản có các quyền sau đây: 1.Yêu cầu bên thuê, bên mượn tài sản thế chấp trong trường hợp quy định tại khoản 5 điều 349 của Bộ luật này phải chấm dứt việc sử dụng._. tài sản thế chấ, nếu việc sử dụng làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản đó; 2.Được xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản thế chấp, nhưng không được cản trở hoặc gây khó khăn cho việc sử dụng, khai thác tài sản thế chấp; 3.Yêu cầu bên thế chấp phải cung cấp thông tin về thực trạng tài sản thế chấp; 4.Yêu cầu bên thế chấp áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn taid sản, giá trị tài sản trong trường hợp có nguy cơ làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản do việc khai thác, sử dụng; 5.Yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử lý trong trường hợp đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; 6.Giám sát, kiểm tra quá trình hình thành tài sản trong trường hợp nhận thế chấp tài sản hình thành trong tương lai; 7.Yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo quy định tại điều 355 hoặc khoản 3 điều 324 của Bộ luật này và được ưu tiên thanh toán. FNghĩa vụ của bên nhận thế chấp (theo điều 350-Luật Dân sự 2005) Bên nhận thế chấp tài sản có các nghĩa vụ sau đây: 1.Trong trường hợp các bên thoả thuận bên nhận thế chấp giữ giấy tờ về tài sản thế chấp thì khi chấm dứt thế chấp phải hoàn trả cho bên thế chấp giấy tờ về tài sản thế chấp; 2.Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng kí giao dịch bản đảm xoá đăng ký trong các trường hợp quy định tài các điều 355, 356 và 357 của Bộ luật này. Ø Bên thứ ba giữ tài sản thế chấp FQuyền của người thứ ba giữ tài sản thế chấp( theo điều 353-Luật Dân sự 2005) Người thứ ba giữ tài sản thế chấp có các quyền sau đây: 1.Được khai thác công dụng của tài sản thế chấp, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp, nếu có thoả thuận; 2.Được trả thù lao và được thanh toán chi phí bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thoả thuận khác. FNghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp (theo điều 352-Luật Dân sự 2005) Người thứ ba giữ tài sản thế chấp có các nghĩa vụ sau đây: 1.Bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp, nếu làm mất tài sản thế chấp, làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản thế chấp thì phải bồi thường; 2.Không được khai thác công dụng của tài sản thế chấp, trong trường hợp quy định tại khoản 1 điều 353 của Bộ luật này, néu việc tiếp tục khai thác có nguy cơ làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản thế chấp; 3.Giao lại tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp hoặc bên thế chấp theo thoả thuận. c) Các loại thế chấp Ø Căn cứ vào nội dung pháp lý, thế chấp được chia làm 2 loại: FThế chấp pháp lý: là hình thức thế chấp trong đó người đi vay( người thế chấp) thoả thuận chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng khi không không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Theo hình thức này, khi người đi vay không thanh toán được nợ ngân hàng được quyền bán tài sản hoặc cho thuê với tư cách là người chủ sở hữư mà không cần thực hiện các thủ tục tố tụng để nhìư sự can thiệp của toà án. Ưu điểm của loại thế chấp này là: -Đảm bảo cho ngân hàng thu hồi nợ bằng cách bán tài sản thế chấp -Không bị các chủ nợ khác tham gia chia phần đối với số tiền bán tài sản Nhược điểm của thế chấp pháp lý: -Tốn kém chi phí đăng kí và công chứng -Mỗi hợp đồng vay gắn với một hợp đồng thế chấp riêng biệt vì vậy khi cấp tín dụng theo hợp đồng vay mới lại phải lập lại hợp đồng thế chấp FThế chấp công bằng( thế chấp thông thường) là hình thức thế chấp trong đó ngân hàng chỉ nắm giữ giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm cho món vay. Khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng, việc xử lý tài sản phải dựa trên sự thoả thuận của người đi vay và người cho vay hoặc phải nhờ đến sự can thiệp của toà án nếu có tranh chấp. Ưu điểm của thế chấp công bằng: -Thủ tục đơn giản, chi phí cho thủ tục thế chấp thấp -Khi thay đổi điều kiện vay theo hợp đồng mới không cần lập lại hợp đồng thế chấp Nhược điểm của thế chấp công bằng: -Tốn kém thời gian và chi phí liên quan đến toà án để có thể bán tài sản -Có thể bị các chủ nợ khác tham gia chia phần trên số tiền bán tài sản thế chấp Ø Căn cứ vào thứ tự thế chấp: FThế chấp thứ nhất: là việc thế chấp tài sản để bảo đảm cho món nợ thứ nhất. Cần lưu ý rằng, thế chấp thứ nhất không có nghĩa là lần đầu tiên đem tài sản đi thế chấp cho một khoản vay, mà thế chấp thứ nhất được xác định trong mối tương quan giữa các khoản vay có thế chấp, tức là việc sử dụng một tài sản làm bảo đảm cho nhiều khoản vay và thế chấp cho khoản vay đầu tiên đang tồn tại gọi là thế chấp thứ nhất. FThế chấp thứ hai: là hình thức thế chấp trong đó người đi vay sử dụng phần giá trị chênh lệch giữa giá trị tài sản thế chấp với khoản nợ thứ nhất được bảo đảm bằng tài sản đó để bảo đảm cho khoản nợ thứ hai. Trong thế chấp để thực hiện nhiều nghĩa vụ(thế chấp thứ nhất và thế chấp thứ hai) có một số điểm cần lưu ý sau: -Trong trường hợp phải xử lý tài sản thế chấp để thanh toán một khoản nợ đến hạn, thì các khoản nợ khác chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn. -Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng kí thế chấp Ø Căn cứ vào phạm vi thế chấp: FThế chấp toàn bộ bất động sản: là hình thức thế chấp bất động sản trong đó nếu bất động sản có vật phụ thì vật phụ cũng thuộc tài sản thế chấp. FThế chấp một phần bất động sản: với hình thức thế chấp này, nếu bất động sản có vật phụ thì vật phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thoả thuận Riêng đối với thế chấp quyền sử dụng đất thì nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng trồng vườn cây và các tài sản khác của người thế chấp gắn liền với đất chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thoả thuận. 1.2.1.1.3. Cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay Cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay có thể được hiểu là việc khách hàng vay dùng chính tài sản hình thành từ vốn vay làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với tổ chức tín dụng. Theo nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm thì: " Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm." Tại nghị định này cũng quy định rõ:" Trong trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai thì khi bên bảo đảm có quyền sở hữu đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm có các quyền đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản đó. Đối với tài sản phải đăng kí quyền sở hữu mà bên bảo đảm chưa đăng kí thì bên nhận bảo đảm vẫn có quyền xử lý tài sản khi đến hạn xử lý." 1.2.1.2. Bảo đảm đối nhân (Bảo lãnh) 1.2.1.2.1. Khái niệm Theo điều 361-Bộ Luật Dân sự "Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay thế cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình." Người bảo lãnh Người nhận bảo lãnh (Ngân hàng) Người được bảo lãnh (Khách hàng vay vốn) (1) (2) (3) Người bảo lãnh là người thực hiện nghĩa vụ thay cho người đi vay đối với người cho vay (ngân hàng). Người bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Một bảo lãnh có thể có nhiều người cùng tham gia bảo lãnh. Trong trường hợp này, những người tham gia bảo lãnh phải liên đới chịu trách nhiệm và ngân hàng cho vay có quyền yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trả nợ. Người nhận bảo lãnh là người chủ nợ, người hưởng thụ bảo lãnh, trong quan hệ tín dụng thì đó là các ngân hàng cho vay. Người được bảo lãnh là người đi vay, người có nghĩa vụ phải thanh toán nợ cho ngân hàng cho vay. (1)Trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và người đi vay được thể hiện trên hợp đồng tín dụng, ngân hàng là người có quyền yêu cầu người đi vay thanh toán nợ khi đáo hạn. (2)Người bảo lãnh và người đi vay thoả thuận về việc bảo lãnh, việc thực hiện nghĩa vụ thay khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ. (3)Người bảo lãnh cam kết với ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người đi vay khi khoản nợ đáo hạn mà người đi vay không thực hiện được. 1.2.1.2.2. Phân loại bảo lãnh Ø Căn cứ vào hình thức bảo lãnh: FBảo lãnh bằng tài sản: Là hình thức bảo lãnh trong đó bên bảo lãnh phải có tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc bảo lãnh bằng tài sản có thể kèm theo biện pháp thế chấp hoặc cầm cố tài sản để thực hiện nghĩa vụ. FBảo lãnh bằng uy tín: Là hình thức bảo lãnh chỉ dựa vào uy tín của người bảo lãnh. Theo quy định hiện hành bên bảo lãnh không phải là tổ chức tín dụng chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình. Còn các tổ chức tín dụng có thể bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Ø Căn cứ vào phạm vi bảo lãnh: FBảo lãnh toàn bộ: là hình thức bảo lãnh trong đó người bảo lãnh cam kết thực hiện thay toàn bộ nghĩa vụ của người được bảo lãnh nếu người đó không thực hiện được nghĩa vụ của mình khi đến hạn. FBảo lãnh một phần:Là hình thức bảo lãnh trong đó người bảo lãnh chỉ cam kết thực hiện thay một phần nghĩa vụ khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp này phải ghi rõ số tiền bảo lãnh. Ø Căn cứ vào nghĩa vụ phải bảo lãnh: FBảo lãnh riêng biệt: Là hình thức bảo lãnh được áp dụng cho một số tiền vay cụ thể theo hợp đồng tín dụng và được hạch toán riêng trên tài khoản cho vay. FBảo lãnh duy trì: Là hành vi bảo lãnh cho một loạt các giao dịch và mức bảo lãnh theo hạn mức tối đa. Phương thức bảo lãnh này được áp dụng khi cho vay bằng kĩ thuật thấu chi trên tài khoản vãng lai. 1.2.2.Quy trình thực hiện bảo đảm tín dụng Định giá TSBĐ Xác định mức cho vay Nhận và kiểm tra hồ sơ bảo đảm Thẩm định TSBĐ Lập hợp đồng bảo đảm Tái định giá TS và xử lý sau tái định giá Xử lý TSBĐ khi đáo hạn Sơ đồ: Quy trình thực hiện bảo dảm tín dụng 1.2.2.1. Nhận và kiểm tra hồ sơ bảo đảm Quy trình tín dụng bắt đầu từ khâu lập hồ sơ tín dụng. Trong giai đoạn này cán bộ tín dụng yêu cầu khách hàng vay vốn lập các tài liệu liên quan đến khách hàng, phương án kinh doanh và tài sản bảo đảm. Việc nhận và kiểm tra hồ sơ tài sản bảo đảm là một phần trong khâu lập hồ sơ tín dụng. Với bước này, nhiệm vụ chủ yếu của cán bộ tín dụng là kiểm tra về tính đầy đủ của hồ sơ bảo đảm so với hồ sơ tín dụng. 1.2.2.2. Thẩm định tài sản bảo đảm Ngân hàng sẽ phải thẩm định đánh giá tài sản khi áp dụng phương pháp cho vay có tài sản bảo đảm đối với khách hàng. Việc thẩm định đánh giá tài sản có ý nghĩa rất quan trọng nhằm xác định tính hợp pháp của giao dịch bảo đảm, bảo vệ quyền lợi của cả khách hàng và ngân hàng, làm cơ sở để định giá tài sản. ØViệc thẩm định các điều kiện của tài sản bảo đảm phải thực hiện trên các khía cạnh sau: Thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm Được phép giao dịch và không có tranh chấp Được mua bảo hiểm đối với những tài sản Nhà nước quy định phải mua bảo hiểm Xem xét đánh giá tính thị trường của tài sản bảo đảm Đánh giá xu hướng biến động giá trị tài sản Đánh giá giá trị tài sản Ø Việc thẩm định tài sản bảo đảm thực hiện dựa vào 3 nguồn thông tin: FHồ sơ tài liệu và thông tin do khách hàng cung cấp: Đây là nguồn thông tin chủ yếu để xem xét đánh giá tình trạng và giá trị của tài sản bảo đảm vì vậy cần cố gắng thu thập càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên cũng cần chú ý, nguồn thông tin của khách hàng luôn có ý muốn chủ quan để làm tốt hồ sơ tín dụng do đó cũng cần chú ý đánh giá mức độ chính xác của nguồn thông tin này FKhảo sát thực tế: Khảo sát thực tế nhằm khẳng định lại các thông tin mà khách hàng cung cấp và phát hiện những vấn đề mới cần thẩm định tiếp. Kết quả khả sát thực tế phải được lập thành biên bản làm việc và có ít nhất hai chữ kí nhằm đảm bảo tính khách quan của việc thẩm định. FCác nguồn khác(Chính quyền địa phương, công an, toà án, cơ quan đăng kí giao dịch bảo đảm,…):Thực tế cho thấy những thông tin lấy từ nguồn này thường mang tính chất khách quan và chính xác cao. Kết quả buổi làm việc với cơ quan hữu quan cũng phải ghi chép lai, có chữ kí của ít nhất hai người và được lưu giữ cùng các hồ sơ khác. Chú ý: Việc xác định tính chất pháp lý về quyền sở hữu tài sản hoặc quyền sử dụng đất thực ra không quá phức tạp nhưng ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn và xảy ra nhiều rủi ro liên quan đến thủ tục pháp lý do những nguyên nhân sau: -Nhiều loại tài sản chưa thực hiện việc đăng kí tài sản và cấp giấy chứng nhận về quyền sở hữu tài sản như nhà ở vùng nông thôn, các cơ sở kinh doanh. Riêng đối với doanh nghiệp nhà nước việc thế chấp chỉ dựa trên cơ sở giấy xác nhận của cơ quan quản lý vốn nhà nước. -Các cơ quan quản lý nhà nước chưa quản lý hết tài sản có đăng kí hoặc quản lý phân tán ở nhiều đơn vị. Từ đó không xác định được một cách chắc chắn các giấy tờ hợp pháp về sở hữu tài sản.Như trường hợp có cá nhân có 2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sử dụng nó để thế chấp cho hai ngân hàng. -Đất đã giao cho cá nhân và tổ chức sử dụng nhưng chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sự thiếu đồng bộ này sẽ dẫn đến tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong các hợp đồng thế chấp. 1.2.2.3. Định giá tài sản bảo đảm Về nguyên tắc, việc định giá tài sản bảo đảm phải thực hiện theo giá thị trường. Nếu định giá cao hơn giá thị trường có thể sẽ dẫn đến khi phát mại tài sản thế chấp (hoặc chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng) trong trường hợp khách hàng không trả được nợ không thu hồi đủ gốc, lãi và các khoản chi phí khác. Nếu định giá thấp hơn giá thị trường thì an toàn cho ngân hàng nhưng sẽ ảnh hưởng đến việc đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng và làm suy yếu tính cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng. Định giá tài sản là một công việc phức tạp đòi hỏi phải có các cán bộ có chuyên môn và nhiều kinh nghiệm. Đối với tài sản có giá trị lớn, phức tạp cần thiết phải thuê các tổ chức tư vấn để thực hiện việc định giá tài sản thế chấp. 1.2.2.4. Xác định mức cho vay tối đa theo giá trị tài sản bảo đảm Có 3 căn cứ để ngân hàng xác định mức cho vay đối với một khách hàng đó là: Nhu cầu vốn của khách hàng, khả năng đáp ứng nhu cầu của ngân hàng và giá trị của tài sản bảo đảm. Tài sản bảo đảm là nguồn thu nợ thứ hai vì vậy thông thường giá trị tài sản thế chấp khi thanh lý dưới hình thức chuyển nhượng để thu hồi nợ (phát mại hoặc chuyển chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng) phải lớn hơn số tiền vay ban đầu cộng với lãi và các chi phí liên quan khác. Như vậy giá trị tài sản thế chấp dùng để tính toán ở đây là giá trị dự kiến cho tương lai, tuy nhiên để đơn giản hoá việc tính toán các ngân hàng thường điều chỉnh tỷ lệ cho vay so với giá của tài sản thế chấp. Đối với tài sản có giá trị ổn định thì áp dụng tỉ lệ cho vay cao, còn đối với các tài sản thế chấp có xu hướng giảm giá hoặc giá cả biến động thất thường thì áp dụng tỷ lệ cho vay thấp. Các ngân hàng được quyền quyết định tỷ lệ cho vay thích hợp so với giá trị tài sản bảo đảm, trừ trường hợp thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay ( theo quy định của thông tư số 06/2000/TT-NHNN ngày 4/4/2000). Ø Nguyên tắc khi cấp tín dụng: FMức tín dụng cấp phải nhỏ hơn giá thị trường của TSBĐ (để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi vay và các chi phí liên quan khác trong trương hợp người đi vay không trả được nợ) FDuy trì tỷ lệ cho vay trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng tín dụng. Hiện nay các ngân hàng thường áp dụng tỷ lệ cho vay so với giá trị tài sản bảo đảm là 50-70%. Một trong những tài sản thế chấp, cầm cố có giá trị bảo đảm cao được các ngân hàng chấp nhận cho vay với tỷ lệ rất lớn đó là cầm cố thế chấp sổ tiết kiệm do chính ngân hàng phát hành. Có những ngân hàng chấp nhận cho vay có bảo đảm bằng sổ tiết kiệm do chính ngân hàng mình phát hành với tỷ lệ lên đến 90-95% giá trị sổ tiết kiệm. Tuy nhiên việc bảo đảm này cũng chứa đựng nhiều rủi ro xuất phát từ chính thái độ chủ quan của ngân hàng đối với tài sản bảo đảm. Theo quy định hiện hành (Bộ Luật Dân sự 2005 và Nghị định 163/2006/NĐ-CP), một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ dân sự. Trong trường hợp thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự thì hợp đồng bảo đảm đó bắt buộc phải đăng kí giao dịch bảo đảm.Cần chú ý rằng đăng kí giao dịch bảo đảm là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm. Tuy nhiên, một số ngân hàng khi chấp nhận bảo đảm bằng thế chấp sổ tiết kiệm do chính ngân hàng mình phát hành lại không thực hiện điều khoản trên. Điều này có thể dẫn đến rủi ro về thứ tự ưu tiên thanh toán hay rủi ro hợp đồng thế chấp vô hiệu. Như vậy mặc dù ngân hàng có nắm giữ tài sản bảo đảm là sổ tiết kiệm do chính ngân hàng mình phát hành nhưng vẫn có nguy cơ không thu hồi được khoản vay. Do đó ngân hàng cần đảm bảo thực hiện đúng đầy đủ các quy định về quy trình cho vay cầm cố thế chấp và cho vay với tỷ lệ an toàn so với giá trị của tài sản bảo đảm. 1.2.2.5. Lập hợp đồng bảo đảm Hợp đồng bảo đảm tín dụng thường được kí kết cùng với hợp đồng tín dụng sau khi các giấy tờ thủ tục liên quan được hoàn tất. Tuỳ theo hình thức bảo đảm và loại tài sản bảo đảm mà hợp đồng bảo đảm được lập riêng hay nằm trong hợp đồng tín dụng, phải có công chứng của Nhà nước theo quy định và đăng kí giao dịch bảo đảm hay không. Một trong những vấn đề khó khăn nhất hiện nay đối với các ngân hàng là việc công chứng và đăng kí giao dịch bảo đảm. Thời gian công chứng là một trong những vấn đề nan giải của bộ máy hành chính hiện nay. Khó khăn thứ hai liên quan đến việc công chứng là công chứng đối với tài sản hình thành từ vốn vay. Thực tế hình thức bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay là hình thức bảo đảm có nhiều tiện ích cho khách hàng vay vốn đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên kể từ khi Luật công chứng được Quốc hội khoá XI, kì họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 các ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn với việc công chứng các hợp đồng bảo đảm bằng tào sản hình thành từ vốn vay. Theo quan điểm của các công chứng viên thì đối tượng của hợp đồng giao dịch phải là "có thật", nghĩa vụ được bảo đảm là "có thật" và "phải được xác định cụ thể" do vậy không thể công chứng với các hợp đồng, giao dịch bảo đảm bằng các tài sản hình thành từ vốn vay(hình thành trong tương lai) vì đối tượng của hợp đồng này có đặc trưng là tài sản hình thành trong tương lai và không thể xác nhận cho hợp đồng. Bên cạnh những khó khăn về công chứng, việc đăng kí giao dịch bảo đảm cũng có nhiều vấn đề gây nên nhiều tranh chấp trong thời gian qua. Ø Khó khăn đầu tiên là hệ thống các cơ quan chịu trách nhiệm đăng kí giao dịch bảo đảm quá nhiều, phân tán ở nhiều nơi, từng loại tài sản khác nhau lại phải đăng kí ở một cơ quan khác nhau:Tàu biển phải đăng kí tại cơ quan đăng kí tàu biển và thuyền viên khu vực; máy bay phải đăng kí tại Cục hàng không dân dụng Việt Nam; Quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất nếu bên bảo đảm là tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, người nước ngoài phải đăng kí tại văn phòng đăng kí thuộc Sở tài nguyên môi trường(nơi có đất và tài sản gắn liền với đất),nếu bên bảo đảm là hộ gia đình, cá nhân là người Việt Nam sinh sống tại Việt Nam thì đăng kí tại Phòng đăng kí thuộc Phòng Tài nguyên mội trường... Giả sử có một hợp đồng tín dụng được bảo đảm bằng nhiều loại tài sản thì việc đăng kí giao dịch bảo đảm đã chiếm rất nhiều thời gian. Ø Khó khăn thứ hai liên quan đến việc đăng kí giao dịch bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Như trên đã phân tích, quan điểm về đối tượng của hợp đồng bảo đảm phải "có thật" của các công chứng viên gây không ít khó khăn cho việc đăng kí giao dịch bảo đảm đối với các tài sản hình thành trong tương lai. Một số địa phương từ chối công chứng đối với giao dịch bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai. Mặc dù quan điểm này đã được Bộ tư pháp chấn chỉnh bằng các văn bản số 2057/BTP-HCTP ngày 09/05/2007, văn bản số 3744/BTP-HCTP ngày 04/09/2007 nhưng thực tế việc thực hiện các quy định trên vẫn còn nhiều bất cập. 1.2.2.6. Tái định giá tài sản bảo đảm và xử lý sau tái định giá Thực tế, tài sản bảo đảm có những mức biến động giá nhất định hoặc bất thường trong suốt thời gian khách hàng vay vốn. Sự biến động này được ghi nhận tại một tài khoản ngoại bảng của phòng kế toán. Trong cho vay trung dài hạn, hàng năm ngân hàng phải đnáh giá lại giá trị của tài sản bảo đảm nhằm duy trì tỷ lệ cho vay trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng. Nếu giá trị của tài sản bảo đảm bị giảm sút thì ngân hàng phải xử lý theo một trong hai cách sau: FYêu cầu khách hàng vay vốn bổ sung tài sản bảo đảm FThu hồi phần nợ thiếu bảo đảm Nợ gốc * Giá trị tái định giá Giá trị thu hồi = Nợ gốc - ------------------------------------ Giá trị định giá ban đầu 1.2.2.7. Xử lý tài sản bảo đảm khi đáo hạn Khi hợp đồng tín dụng hết thời hạn có hai tình huống xảy ra: Thứ nhất khách hàng thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và lãi vay cho ngân hàng, khi đó ngân hàng tiến hành các thủ tục giải chấp và thanh lý hợp đồng tín dụng nhằm trả lại các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu hay trả lại tài sản cầm cố cho khách hàng. Trường hợp thứ hai là khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình. Với trường hợp này ngân hàng phải tiến hành xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ gốc, lãi và các chi phí liên quan khác. Việc xử lý tài sản là một biện pháp thu hồi nợ khó đòi, tuy nhiên vấn đề đặt ra là khi nào thì phát sinh việc xử lý tài sản bảo đảm. Không phải cứ khi nào phát sinh tình trạng khách hàng không trả nợ đúng hạn thì ngân hàng tiến hành xử lý tài sản bảo đảm. Thông thường ngân hàng sẽ tiến hành xem xét khả năng khả năng trả nợ của khách hàng và cho gia hạn nợ nếu xét thấy khó khăn của khách hàng chỉ là tạm thời và vẫn còn có khả năng thanh toán. Mục tiêu của ngân hàng không phải là bắt nợ khách hàng mà là cố gắng tối đa để khách hàng trả nợ cho mình. Ngân hàng có thể cấp thêm vốn sau khi xem xét dự án và khả năng kinh doanh của khách hàng, đồng thời với những khoản cấp vốn bổ sung này ngân hàng phải theo dõi sát sao việc sử dụng vốn. Việc xem xét đến tài sản bảo đảm chỉ nên áp dụng khi ngân hàng đánh giá khách hàng không còn khả năng trả nợ, phương án kinh doanh của khách hàng không còn tính khả thi hoặc doanh nghiệp bị phá sản. Ø Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm: -Khi đến hạn mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với TCTD thì tài sản bảo đảm được xử lý để thu hồi nợ. - Tài sản bảo đảm phải được xử lý theo các phương thức mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng, trường hợp các bên không xử lý được theo các phương thức đã thoả thuận thì TCTD có quyền: + Bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ; + Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nếu bên bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thì xử lý tài sản của bên bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. -TCTD có quyền chuyển giao quyền thu hồi nợ và uỷ quyền cho bên thứ ba xử lý tài sản bảo đảm tiền vay; trong trường hợp này bên thứ ba cũng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ như TCTD. -Trường hợp một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ trả nợ, nếu phải xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ trả nợ khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn và được xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ. Thứ tự thanh toán được tiến hành theo thứ tự đăng kí giao dịch bảo đảm hoặc thứ tự xác lập hợp đồng tín dụng. -Trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo thoả thuận phải được tiến hành nhanh chóng, công khai , bảo đảm lợi ích của các bên, nếu tài sản không xử lý được do không thống nhất được giá bán thì TCTD có quyền quyết định giá bán tài sản để thu hồi nợ - Các chi phí phát sinh từ việc xử lý tài sản bảo đảm do khách hàng vay, người bảo lãnh chịu. Tiền thu từ xử lý tài sản bảo đảm sau khi trừ đi chi phí xử lý thì TCTD thu nợ theo thứ tự: nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, các chi phí khác (nếu có).Tài sản bảo đảm tiền vay sau khi xử lý nếu không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì khách hàng vay, bên bảo lãnh phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ đã cam kết. - Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm tạo điều kiện hỗ trợ các bên xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho TCTD. -Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là biện pháp để thu hồi nợ không phải là hoạt động kinh doanh tài sản của TCTD. 1.3. CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ THỰC HIỆN BẢO ĐẢM TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM Cho đến nay đã có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về giao dịch bảo đảm và biện pháp bảo đảm tiền vay của các TCTD. Thời kì đầu căn cứ pháp lý về bảo đảm tiền vay được quy định trong Bộ Luật Dân sự ngày 28/10/1995 bao gồm 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, kí quỹ, kí cược, bảo lãnh, phạt vi phạm. Đến năm 1999 sau hơn 3 năm Bộ Luật Dân sự có hiệu lực mới có nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ quy định chi tiết về 3 biên pháp cầm cố, thế chấp và bảo lãnh trong số 7 biện pháp nói trên. Ngày 19/12/1999 Chính phủ ban hành nghị định số 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các TCTD. Cả hai nghị định trên đều có hiệu lưc thi hành sau 15 ngày. Nghị định 178 ra đời đánh dấu sự phát triển hoàn thiện của hệ thống pháp luật về bảo đảm tiền vay của các TCTD. So với các quy định của pháp luật trước đây thì nghị định 178 có nhiều điểm thông thoáng cởi mở hơn trong việc nhận cầm cố, thế chấp, bảo lãnh và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các TCTD và đây cũng là một biện pháp cấp bách kịp thời để giải ngân nguồn vốn tín dụng và số lượng lớn tài sản thế chấp cầm cố còn tồn đọng tại các TCTD. Ngày 04/04/2000, NHNN ban hành thông tư số 06/2000/TT-NHNN1, về việc hướng dẫn thực hiện nghị định 178/1999/NĐ-CP. Thông tư này hướng dẫn về các biện pháp bảo đảm tiền vay áp dụng trong việc các TCTD cấp tín dụng dưới hình thức cho vay đối với khách hàng vay theo quy định của Luật các TCTD, Ngày 23/4/2001, liên bộ NHNN Việt Nam, Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính, Bộ Tài nguyên môi trường đã ban hành thông tư liên tịch số 3 hướng dẫn cho việc thi hành nghị định 178 được tốt hơn. Từ đó công tác bảo đảm tiền vay ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực và thông thoáng hơn. Nhằm đảm bảo tính thống nhất thi hành nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp ban hành thông tư số 06/2002/TT-BTP ra ngày 28/02/2002. Thông tư này ra đời tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các bên tham gia giao dịch bảo đảm tài sản vì nó cụ thể hơn những quy định tại nghị định 165. Ngày 25/10/2002, Nghị định 85/2002/NĐ-CP được Chính phủ ban hành nhằm sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay. Nghị định này có ý nghĩa lớn trong việc tháo gỡ các vướng mắc trong thực tế thực hiện bảo đảm bằng tài sản, tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho các bên tham gia, đồng thời góp phần làm hoàn thiện hơn công tác bảo đảm tín dụng của các NHTM. Việc đăng kí giao dịch bảo đảm được quy định trong nghị định 08/2002/NĐ-CP ngày 10/03/2002 và hướng dẫn thực hiện chi tiết tại thông tư 01/2002/TT-BTP ngày 09/01/2002 đối với động sảm và thông tư 03/2003/TTLT-BTP-BTNMT ngày 4/7/2003 đối với bất động sản. Ngày 19/05/2003 NHNN ban hành thông tư số 07/2003/TT-NHNN về hướng dẫn thực hiện một số quy định về bảo đảm tiền vay của các TCTD. Thông tư này nhằm cụ thể hoá và thống nhất thực hiện những quy định trong nghị định số 178/1999/NĐ-CP và nghị định 85/2002/NĐ-CP. Thông tư này thay thế cho thông tư số 06/2000/TT-NHNN1 ngày 4/4/200 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Bộ Luật Dân sự 2005 được Quốc hội nước ta thông qua ngày 14/6/2005 cũng quy định có 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng thay thế biện pháp phạt vi phạm bằng hình thức tín chấp, cụ thể 7 biện pháp đó là: Cầm cố, thế cháp, bảo lãnh, kí cược, kí quỹ, đặt cọc và tín chấp. Bộ Luật Dân sự 2005 thay thế Bộ Luật Dân sự 1999 nhằm bảo đảm sự phù hợp của luật pháp với tình hình kinh tế, chính trị trong thời kì phát triển kinh tế hội nhập. Ngày 29/12/2006, Chính phủ ban hành nghị định số 163/2006/NĐ-CP. Nghị định này quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ Luật Dân sự 2005 về việc xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và xử lý tài sản bảo đảm. Nghị định 163 ra đời thay thế nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 về giao dich bảo đảm. Nghị định 163 cũng bãi bỏ nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các TCTD, bãi bỏ nghị định 85/2002/NĐ-CP về việc sửa đổi bổ sung một số điều của NĐ 178/1999/NĐ-CP. Nghị định 163 về giao dịch bảo đảm ra đời nhằm thống nhất các quy định hiện hành về giao dịch bảo đảm với các quy định mới của Bộ Luật Dân sự 2005. Nó đánh dấu bước phát triển mới của luật pháp Việt Nam trong thời kì kinh tế hội nhập. Tuy nhiên do Bộ Luật Dân sự mới đi vào có hiệu lực được 3năm nên các văn bản pháp lý quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện Bộ Luật Dân sự còn ít và chưa thật sự đồng bộ. Đặc biệt hình thức bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay còn rất nhiều khúc mắc trong quá trình thực hiện và chưa có các văn bản hướng dẫn thực hiện chi tiết. Tóm lại, các giao dịch bảo đảm hiện nay được thực hiện theo Bộ Luật Dân sự 2005 và nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm. Bên cạnh đó các ngân hàng thương mại có thể ban hành các quyết định nhằm cụ thể hoá nghị định 163 như NHNo&PTNN Việt Nam có quyết định số 300/QĐ-HĐQT-TD ngày 24/9/2003 quy định về các hình thức bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại hệ thống NHNo&PTNN Việt Nam. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH THỦ ĐÔ 2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH D._. 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CHI NHÁNH NHNO&PTNT THỦ ĐÔ 3.1.1.Đánh giá môi trường kinh doanh năm 2009 Theo TS.Đoàn Hồng Quang, Chuyên gia cao cấp của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cho biết: Kinh tế thế giới năm 2010 chắc chắn sẽ phục hồi nhưng vẫn còn nhiều dấu hiệu bất ổn. Tăng trưởng của các nước phát triển chủ yếu dựa vào các gói kích thích khổng lồ và mức tăng trưởng còn rất khiêm tốn. Từ góc độ điều hành chính sách tiền tệ, TS.Nguyễn Thị Kim Thanh, Viện trưởng Viện Chiến lược Phát triển Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho rằng: Chính sách lãi suất năm 2010 của Ngân hàng Nhà nước sẽ phải thận trọng và linh hoạt, đảm bảo tính ổn định và thanh khoản cho hệ thống, đảm bảo lãi suất thị trường ở mức hợp lý và thực dương, đảm bảo lợi ích hài hòa giữa việc huy động vốn của ngân hàng thương mại cũng như tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn sản xuất kinh doanh; Chính sách tỷ giá đảm bảo khuyến khích xuất khẩu, hỗ trợ tăng trưởng bền vững 3.1.2. Định hướng phát triển của chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô Ø Định hướng chung Ngân hàng NN& PTNT Thủ Đô tiếp tục thực hiện định hướng kinh doanh đã lựa chọn, điều chỉnh chiến lược kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển kinh tế, đảm bảo tăng trưởng đều và vững chắc. Mở rộng quy mô gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh, đa dạng các hình thức huy động vốn, từng bước nâng cao tỷ trọng nguồn vốn có tính ổn định, có mức lãi suất đầu vào thấp, ổn định, thực hiện cho vay có chọn lọc trong phạm vi khả năng kiểm soát. Tích cực đào tạo nâng cao trình độ cán bộ để tạo ra ưu thế trong cạnh tranh, đảm bảo ổn định việc làm, thu nhập và nâng cao đời sống người lao động trong toàn Chi nhánh. Ø Các chỉ tiêu tăng trưởng cụ thể - Tổng nguồn vốn đạt 1.924 tỷ đồng, tăng trưởng 58% so với năm 2009. Trong đó tiền gửi dân cư chiếm 29%. - Tổng dư nợ: 1.343 tỷ đồng, tăng trưởng 65% so với năm 2008. - Tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ nhỏ hơn 5% - Đủ quỹ tiền lương, thưởng theo quy định. Ø Các giải pháp thực hiện F Giải pháp huy động vốn: - Tiếp tục củng cố mở rộng màng lưới, trong năm 2010 nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư và các TCKT. Chú trọng tập trung các doanh nghiệp các hộ kinh doanh lớn ở khu vực phố Huế, chợ Hôm, chợ Trời… - Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn (tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm xây nhà, phát hành chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá...) đi kèm với các hình thức marketing thích hợp nhằm thu hút nguồn tiền gửi từ dân cư. - Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt đối với khách hàng dân cư và doanh nghiệp theo hướng chuyển dịch sang cơ cấu huy động vốn từ các TCKT và dân cư. - Nâng cao chất lượng dịch vụ huy động vốn, đặc biệt các Phòng giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. - Hợp tác với các tổ chức cung cấp các dịch vụ, hàng hoá công cộng như: Thu học phí, trả lương, phí điện thoại, phí bảo hiểm) để thu hút các khoản tiền thu dịch vụ, kết nối thanh toán với khách hàng. - Giao chỉ tiêu dư nợ gắn với chỉ tiêu tăng trưởng vốn huy động. - Giao chỉ tiêu kế hoạch cho các bộ phận, gắn với thi đua khen thưởng kịp thời. F Giải pháp về tín dụng: - Tiếp tục thay đổi cơ cấu đầu tư, chuyển hướng đầu tư sang cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh, dự án có hiệu quả. - Cho vay gắn liền với sử dụng các dịch vụ, tiện ích của ngân hàng (dịch vụ tài khoản, thanh toán, chuyển tiền, phát hành thẻ tín dụng và dịch vụ ngân hàng điện tử). - Nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế tối đa nợ quá hạn, tăng cường kiểm tra sau cho vay...Từng bước nâng cao trình độ cán bộ tín dụng để đáp ứng với nhu cầu hội nhập trong thời gian tới. - Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay, coi trọng chất lượng tín dụng, đảm bảo các khoản cho vay có chất lượng tốt. - Chấn chỉnh công tác tín dụng, nâng cao trình độ cũng như kỹ năng cho cán bộ tín dụng. - Đặc biệt coi trong công tác phân tích, đánh giá, xếp loại khách hàng, thông qua đó để có hướng đầu tư chuẩn xác và hiệu quả cao F Giải pháp nâng cao năng lực tài chính: - Tăng trưởng nguồn vốn, dư nợ ngay từ những tháng đầu năm, tạo nguồn thu ổn định trong năm. - Tiếp tục điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu đầu tư tín dụng theo hướng giảm thiểu rủi ro lãi suất, giảm thấp lãi suất đầu vào, nâng cao chênh lệch lãi suất tiến tới 0.3%. - Tiết kiệm chi phí trong việc chi tiêu nội bộ phục vụ hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của chi nhánh. - Thực hiện tốt công tác khoán tài chính đến các phòng giao dịch và cán bộ tín dụng, phát huy tính chủ động sáng tạo của các bộ phận trong kinh doanh. - Tiếp tục triển khai công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, mở các lớp đào tạo theo các chuyên đề như: Tín dụng, kế toán, thẩm định, ngoại ngữ cơ bản, nâng cao, lớp tin học. - Phát huy truyền thống anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới của NHNN&PTNT Việt Nam, kết hợp chặt chẽ giữa chuyên môn và công tác đoàn thể; động viên khuyến khích tập thể cán bộ công nhân viên thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. - Tập thể cán bộ công nhân viên chức Chi nhánh NHNN&PTNT Thủ Đô thi đua phấn đấu hoàn thành tốt các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra. Xây dựng đơn vị trong sạch vững mạnh có vị thế trong hệ thống. F Giải pháp thu dịch vụ: Đẩy mạnh các dịch như chuyển tiền, thẻ ATM, thẻ tín dụng VISA, MASTER CARD, chi trả ngoại tệ WESTERN UNION, bảo lãnh, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, bảo hiểm Prudential, chi trả tiền đền bù giải phóng mặt bằng ... có chính sách miễn, giảm phí dịch vụ cho khách hàng lớn, giao dịch thường xuyên, khách hàng có số dư tiền gửi thanh toán lớn và một số khách hàng mới có tiềm năng nhằm thu hút khách hàng, tăng tỷ lệ thu dịch vụ trên tổng thu nhập của chi nhánh. 3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO BẢO ĐẢM TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT THỦ ĐÔ 3.2.1. Tập trung xử lý nợ quá hạn nợ khó đòi nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính của chi nhánh Qua phân tích ở chương 2 ta thấy tỷ lệ nợ xấu của chi nhánh khá cao. Nếu trong năm 2009 chi nhánh không tập trung vào việc xử lý nợ quá hạn thì việc hoàn thành chỉ tiêu nợ xấu trong năm tới là rất khó khăn. Do vậy điều cần thiết đầu tiên trong năm 2010 là chi nhánh cần thu hồi các khoản nợ quá hạn của năm 2009 nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính của chi nhánh. Đối với các khoản nợ khó đòi có nguyên nhân khách quan như do tình hình chung của toàn ngành nghề kinh doanh của khách hàng, ngân hàng cần chủ động khuyến khích người vay trả nợ gốc, có thể gia hạn nợ hoặc cho vay thêm nếu phương án kinh doanh của khách hàng thực sự khả quan và nguyên nhân của việc nợ quá hạn hoàn toàn không do chủ định của khách hàng. Đối với các khoản nợ đã được ngân hàng xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng, chi nhánh vẫn phải tích cực thu hồi nợ bằng cách xử lý tài sản bảo đảm. Với những tài sản bảo đảm có đủ hồ sơ pháp lý, có thể phát mại nhanh thì cần nhanh chóng xử lý tránh tình trạng vốn bị ứ đọng trong các khoản nợ xấu. Với những tài sản thị trường tiêu thụ ít hoặc tài sản chuyên dụng có thể cho thuê nhằm tạo nguồn thu bù đắp chi phí huy động vốn. 3.2.2. Hoàn thiện hệ thống thông tin về bảo đảm tiền vay Đây là một giải pháp đòi hỏi phải có nhiều sự quan tâm chỉ đoạ của ban lãnh đạo chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô. Hệ thống thông tin tín dụng phải đảm bảo chính xác nhanh nhạy mới đáp ứng được yêu cầu hạn chế rủi ro tín dụng ở mức thấp nhất. Trong quá trình thẩm định TSBĐ, CBTD phải sử dụng thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để xác định chính xác tính chất pháp lý cũng như giá trị của TS. Một điều dễ nhận thấy tại hầu hết các ngân hàng hiện nay là việc xác định quyền sở hữu hay sử dụng tài sản và định giá tài sản chủ yếu dựa vào các tài liệu, thông tin do chính khách hàng vay vốn cung cấp. Tình hình này rất dễ dẫn đến rủi ro do thông tin không cân xứng. Phía khách hàng có nhu cầu vay vốn thường mong muốn làm cho tài sản của mình có giá trị hơn nhằm vay được vốn nhiều hơn. Phía ngân hàng lại có xu hướng định giá tài sản thấp xuống nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của mình. Một nguồn thông tin khác được đánh giá là có chất lượng và khách quan đó là từ các cơ quan chức năng có liên quan như cơ quan địa chính, công an, phòng đăng kí giao dịch bảo đảm và trung tâm thông tin tín dụng của NHNN. Tuy nhiên, trình tự thủ tục tại các cơ quan chức năng tương đối phức tạp và mất thời gian, còn hoạt động của trung tâm tín dụng của NHNN thực tế chưa đáp ứng được yêu cầu do nguồn thông tin còn rất hạn chế. Do vậy thiết nghĩ chi nhánh nên chủ động thành lập hệ thống thông tin bảo đảm tiền vay của riêng mình. Hệ thống này trước tiên cần cập nhật thông tin giá thị trường của các TSBĐ phổ biến nhất tại chi nhánh để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định tài sản của CBTD. Bên cạnh đó có thể thu thập các thông tin khác như nhu cầu thị trường của loại TSBĐ… 3.2.3. Xây dựng một bộ phận tín dụng chuyên đánh giá và quản lý giá trị tài sản bảo đảm. Qua nghiên cứu lý thuyết ta thấy có nhiều loại tài sản khác nhau được dùng làm tài sản bảo đảm. Các loại tài sản này không chỉ khác nhau về hình thức, công dụng, mà còn khác nhau về giá trị, tính thanh khoản và mức độ rủi ro. Để đánh giá được các mức độ đó yêu cầu cán bộ tín dụng phải có nhiều hiểu biết chuyên sâu về thẩm định tài sản cũng như nhiều kinh nghiệm trong quá trình làm việc định giá tài sản. Thực tế tại chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô không có phòng thẩm định tài sản riêng. Mặt khác, cũng cần xác định đúng mức tầm quan trọng của việc thẩm định khách hàng cũng như tài sản của khách hàng vay vốn.Vì với khối lượng công việc nhiều, số lượng cán bộ hạn chế thì hiệu quả công việc có thể sẽ bị ảnh hưởng, nhất là với các thủ tục mang tính chất chi tiết đòi hỏi kinh nghiệm làm việc nhiều như công tác thẩm định khách hàng. Do đó, chi nhánh nên thành lập một tổ chuyên môn đánh giá và quản lý TSBĐ nhằm hạ bớt khối lượng công việc của các cán bộ tín dụng, bảo đảm công tác thẩm định được thực hiện hiệu quả hơn. Nhân viên thuộc tổ chuyên môn này nên là các cán bộ tín dụng có nhiều năm kinh nghiệm trong công tác tín dụng và thẩm định khách hàng để đảm bảo đánh giá khách hàng một cách khách quan và chính xác. 3.2.4. Đa dạng hoá các hình thức bảo đảm tín dụng Bộ Luật Dân sự 2005 quy định có 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, thực tế các ngân hàng chỉ sử dụng 4 trong số 7 biện pháp này để thực hiện bảo đảm tiền vay và cụ thể tại từng chi nhánh số lượng các hình thức bảo đảm tiền vay lại càng giảm xuống. Như thực tế tại chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô, các khoản nợ có TSBĐ chỉ tập trung vào hai hình thức bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay và hình thức thế chấp. Việc áp dụng ít các hình thức đảm tín dụng gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng và bản thân ngân hàng cũng hoạt động kém hiệu quả do khối lượng mở rộng tín dụng bị hạn chế. Mặt khác, cần đa dạng hoá các loại tài sản được dùng để thực hiện bảo đảm tiền vay nhằm lựa chọn ra các loại tài sản có khả năng thanh khoản tốt nhất, an toàn nhất cho hoạt động của ngân hàng. 3.2.5. Xây dựng một hệ thống chỉ tiêu nhằm đánh giá rủi ro của các tài sản bảo đảm Giá trị tài sản bảo đảm là một căn cứ để ngân hàng xác định mức cho vay đối với khách hàng. Ngân hàng cấp tín dụng trên cơ sở xem xét khả năng hoàn trả của khách hàng, mức cho vay của ngân hàng phải bảo đảm nếu rủi ro tín dụng thực sự xảy ra thì ngân hàng vẫn thu hồi được vốn và các chi phí khác từ việc xử lý TSBĐ. Như vậy có thể cho rằng, nguyên nhân của tổn thất trong bảo đảm tiền vay là do đánh giá mức độ rủi ro của TSBĐ không chính xác. Như đã trình bày ở trên, mức độ rủi ro của từng loại tài sản phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhau do đó việc xây dựng một hệ thống chỉ tiêu đánh giá rủi ro của TSBĐ tương đối khó khăn, đòi hỏi nhiều trình độ kinh nghiệm. Hệ thống này có thể bao gồm các chỉ tiêu như tính thanh khoản của tài sản, thị trường tiêu thụ, thị trường sản phẩm thay thế, mức độ phát triển của công nghệ trong việc tạo ra tài sản,mức độ biến động giá thị trường,...Bên cạnh đó, mức độ rủi ro của TSBĐ phải được đánh giá trong mối tương quan của giá trị, thời hạn khoản vay cũng như uy tín của khách hàng vay vốn. 3.2.6.Thực hiện nghiêm túc quy trình bảo đảm tín dụng, nâng cao công tác quản lý TSBĐ NHNo Việt Nam đã xây dựng một quy trình bảo đảm tín dụng tương đối hoàn chỉnh căn cứ vào các quy định của NHNN và của Chính phủ. Như vậy xét về mặt lý thuyết công tác bảo đảm tín dụng phải được thực hiện rất hiệu quả tại các chi nhánh của NHNo. Tuy nhiên, thực tế áp dụng lại có nhiều rủi ro do các chi nhánh không tuân thủ đúng các nguyên tắc đề ra. Mặc dù có thể thấy việc áp dụng linh hoạt các quy định trong từng hoàn cảnh cụ thể là cần thiết, tuy nhiên công tác thẩm định tài sản bảo đảm phải được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Có như vậy mới bảo đảm hạn chế tối đa mức độ thiệt hại cho ngân hàng. Trong quy trình bảo đảm tín dụng cần chú ý đến khâu định giá tài sản bảo đảm. Chi nhánh cần áp dụng các biện pháp định giá tài sản thích hợp vừa đảm bảo an toàn cho hoạt động của chi nhánh vừa mở rộng được quy mô tín dụng. Bên cạnh đó, cũng cần chú trọng công tác quản lý TSBĐ trong suốt quá trình vay vốn. Việc định đúng giá trị TSBĐ ban đầu chỉ thực sự có hiệu quả khi giá trị của TSBĐ không bị giảm sút hay mất mát trong suốt quá trình khách hàng sử dụng vốn vay. Đối với giấy tờ có giá được cầm cố tại chi nhánh cần có kho lưu trữ đảm bảo an toàn và có các biện pháp phong toả hoạt động của các giấy tờ này. Đối với tài sản thế chấp, chi nhánh cần có các biện pháp kiểm tra tình trạng thực tế của tài sản bảo đảm nhằm duy trì tỷ lệ cho vay an toàn. Đặc biệt chú ý đến các tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay. Đây là loại tài sản bảo đảm khó quản lý và dễ dẫn đến tranh chấp do khó khăn trong việc định giá cũng như công chứng, đăng kí giao dịch bảo đảm. Hơn nữa, các tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay của chi nhánh chủ yếu là nhà đất của các công ty xây dựng và kinh doanh bất động sản, do đó khi tài sản thực sự được hình thành các công ty(khách hàng vay vốn) lại bán cho khách hàng. Ngân hàng cần chú ý kiểm soát vòng luân chuyển vốn của khách hàng vay để đảm bảo an toàn và có hiệu quả. 3.2.7. Hoàn thiện công tác xử lý TSBĐ của người vay Nhận thấy tỷ lệ nợ xấu của chi nhánh khá cao. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của chi nhánh. Do đó chi nhánh cần hoàn thiện công tác xử lý TSBĐ nhằm thu hồi vốn vay lành mạnh hoá tình hình tài chính của chi nhánh. Các văn bản hướng dẫn thực hiện bảo đảm tiền vay quy định khá cụ thể các yêu cầu đối với TS dùng làm BĐ, yêu cầu đối với khách hàng, các quy trình thủ tục thực hiện bảo đảm tín dụng. Tuy nhiên công tác xử lý tài sản bảo đảm lại có nhiều vướng mắc khó khăn do chưa có những quy định cụ thể chi tiết nhất là khó khăn trong việc định giá bán tài sản để thu hồi vốn. Để chủ động khắc phục tình trạng trên chi nhánh cần có kế hoạch chương trình đào tạo chuyên môn sâu về lĩnh vực thẩm định tài sản, khuyến khích cán bộ tự nâng cao trình độ. Nếu vốn của ngân hàng bị ứ đọng trong các TSBĐ chưa xử lý được, cần dựa vào đặc tính của TSBĐ để xử lý nhanh chóng: -Với những tài sản mang đặc tính chuyên dùng có thể cho thuê và trực tiếp thu tiền hoặc có thể dùng tài sản làm vốn góp liên doanh. -Nếu tài sản bảo đảm là bất động sản có vị trí thuận lợi có thể sử dụng để mở thêm phòng giao dịch. -Nếu tài sản bảo đảm là bất động sản vị trí không thuận lợi nhưng diện tích rộng, chi nhánh có thể xây dựng thành kho chứa hàng để mở rộng hoạt động cho vay cầm cố. 3.2.8. Tăng cường mối quan hệ bền vững lâu dài với các cơ quan hữu quan Một trong những khó khăn của ngân hàng khi thực hiện công tác bảo đảm tín dụng là hệ thống thông tin liên lạc giữa các cơ quan chức năng rất hạn chế. Điều này dễ dẫn đến những kẽ hở pháp luật để khách hàng lợi dụng thực hiện hành vi lừa đảo. Do đó việc tăng cường mối quan hệ bền vững lâu dài bền vững với các cơ quan hữu quan trong việc quản lý giao dịch bảo đảm là rất cần thiết. Nó giúp cho ngân hàng nắm bắt chính xác tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm cũng như năng lực pháp lý của khách hàng vay vốn. Tăng cường mối quan hệ bền vững với các cơ quan chức năng cũng giúp ngân hàng nhanh chóng nắm bắt được những quy định liên quan đến bảo đảm tín dụng giúp cho hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng được thực hiện nhanh chóng đầy đủ và đúng pháp luật. 3.3.KIẾN NGHỊ VỀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ Bộ Luật Dân sự 2005 ra đời thay thế cho Bộ Luật Dân sự 1999, kéo theo đó là một loạt các quyết định mới được ban hành nhằm thống nhất tính pháp lý của các văn bản hiện hành. Nghị định 163/2006/NĐ-CP ban hành ngày 29/12/2006 quy định chi tiết một số điều của Bộ Luật Dân sự 2005 về giao dịch bảo đảm, nghị định này ra đời đã thay thế và bãi bỏ rất nhiều các nghị định trước đó về giao dịch bảo đảm và bảo đảm tiền vay của các TCTD. Nhìn chung, nghị định 163 ra đời đã có nhiều tác động tích cực tới công tác bảo đảm tín dụng tại các ngân hàng, tuy nhiên như phân tích quá trình áp dụng nghị định vẫn có những khó khăn nhất định. Do vậy có thể kiến nghị với Chính phủ một số vấn đề sau: 3.3.1.1 .Nên ban hành các văn bản luật đúng lúc, đúng thời điểm. Hiện nay, công tác xây dựng các văn bản luật vẫn còn chậm và thường đi sau tình hình thực tế. Không chỉ có vậy, tốc độ thay đổi các văn bản luật hiện nay quá nhanh cho thấy tầm nhìn dài hạn trong các văn bản luật hầu như còn chưa có. Điển hình như một bộ luật quy mô lớn và quan trọng như Bộ Luật Dân sự thì thời gian duy trì cũng chỉ khoản 5-6 năm ( Bộ Luật Dân sự 1999- Bộ Luật Dân sự 2005). Với các văn bản dưới luật thì tốc độ thay đổi càng nhanh. Điều này làm cho các ngân hàng rất khó khăn trong việc thích nghi với các thay đổi pháp lý, giảm tính chủ động của ngân hàng trong việc huy động và sử dụng vốn. 3.3.1.2. Tích cực đẩy mạnh công tác cải cách hành chính nhằm hạn chế những tiêu cực trong việc đăng kí và công chứng giao dịch bảo đảm. Cải cách thủ tục hành chính là công việc Chính phủ đang ưu tiên thực hiện. Một trong những biểu hiện dễ thấy nhất hiện nay là các đơn vị hành chính đang đẩy nhanh việc xây dựng mà hoàn thiện mô hình giao dịch một cửa nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho khách hàng. Tuy nhiên đó mới chỉ là lý thuyết, thực tế, việc thực hiện các thủ tục hành chính vẫn còn nhiều khó khăn tiêu biểu là thủ tục công chứng. Trong năm 2009, Chính phủ đã cho phép một vài phòng công chứng tư được thực hiện nhằm giảm bớt áp lực cho các phòng công chứng Nhà nước. Tuy nhiên, có thật sự các phòng công chứng Nhà nước đã quá tải đến mức không thể làm hết công việc của mình? Thực tế cho thấy vẫn có những giao dịch được công chứng rất nhanh nhờ vào các mối quan hệ quen biết hoặc một vài con đường tiêu cực khác. Trong khi đó lại có những giao dịch phải chờ đời hết thời gian quy định và phải đi lại khá nhiều lần mới có thể lấy được công chứng. Đó là những biểu hiện tiêu cực trong công tác hành chính mà thời gian tới Chính phủ cần có những biện pháp mạnh mẽ hơn để hạn chế tiêu cực tiếp diễn. 3.3.1.3. Chính phủ cần có các quy định rõ hơn về giao dịch bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai Bộ Luật Dân sự 2005 có đề cập đến hình thức cầm cố thế chấp tài sản hình thành trong tương lai, tuy nhiên trong nghị định 163 vẫn chưa có những quy định chi tiết về hình thức bảo đảm này. Đây là hình thức bảo đảm phổ biến đang có xu hướng tăng tỷ trọng trong cơ cấu dư nợ của các ngân hàng, tuy nhiên thực tế thời gian qua đã xảy ra không ít các vụ tranh chấp giữa ngân hàng và khách hàng vay vốn về xử lý tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay, do đó Chính phủ cần có những quy định chi tiết hơn về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hình thức giao dịch bảo đảm này cũng như phương thức xử lý TSBĐ. 3.3.2.4. Chính phủ cần có các quy định rõ hơn về việc mua bảo hiểm đối với TSBĐ. Hiện nay việc mua bảo hiểm cho TSBĐ còn thực hiện quá hình thức và mang tính chất bắt buộc. Thực tế việc áp dụng bảo hiểm TSBĐ làm tăng chi phí sử dụng vốn của khách hàng do đó khách hàng thường tìm đến các ngân hàng có cơ chế cho vay thông thoáng hơn để vay vốn. Các NHTM Nhà nước phải thực hiện nghiêm túc sự quản lý của nhà nước về bảo hiểm đối với TSBĐ, trong khi các NHTMCP hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép linh động hơn trong việc cho vay vốn. Để đảm bảo công bằng Chính phủ cần quy định thống nhất về việc mua bảo hiểm đối với TSBĐ. Bên cạnh đó Chính phủ cũng cần có những quy định chi tiết về loại tài sản phải mua bảo hiểm và mức phí bảo hiểm áp dụng đối với từng loại tài sản. Thông thường các loại tài sản có độ rủi ro cao như phương tiện vận tải, dây truyền máy móc chuyên dụng buộc phải mua bảo hiểm và mức phí bảo hiểm đối với các loại tài sản này phải cao hơn các loại tài sản có độ rủi ro thấp. 3.3.2.5. Có những biện pháp để thị trường bất động sản không bị đóng băng Thời gian qua thị trường bất động sản gần như không hoạt động do giá của nguyên vật liệu đầu vào tăng cao trong khi đó lãi suất ngân hàng cũng biến động bất thường gây khó khăn cho việc tiêu thụ sản phẩm của các công ty xây dựng. Trong thời gian tới Chính phủ cần tiếp tục có các biện pháp hỗ trợ tích cực để thị trường bất động sản không bị đóng băng và hoạt động bình thường. Một trong những khó khăn khi xử lý TSBĐ là quyền sử dụng đất đó là thuế chuyển quyền sử dụng đất. Loại thuế này đối với việc chuyển quyền sử dụng đất của khách hàng cho ngân hàng khi thực hiện xử lý TSBĐ thiết nghĩ là không cần thiết, nên loại bỏ. Ngoài ra Chính phủ cũng cần nhanh chóng thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp để làm cơ sở cho việc thế chấp tài sản tại ngân hàng được thuận lợi hơn. 3.3.2.6. Cần có những biện pháp để thị trường chứng khoán phát triển ổn định, không ảnh hưởng xấu đến hoạt động của thị trường tiền tệ Ngân hàng và thị trường chứng khoán có thể coi là hai đối thủ cạnh tranh trong việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư. Thông thường khi thị trường chứng khoán phát triển sôi động thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn và ngược lại. Tuy nhiên trong năm 2009 vừa qua cả hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán đều có chiều hướng giảm sút. Đầu tháng 3/2009 do những tín hiệu đáng mừng của thị trường chứng khoán thế giới nên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có những bước tiến khả quan. Tuy nhiên, tình hình này có thật sự ổn định lâu dài hay không thì cần có những biện pháp điều tiết của Chính phủ. Thị trường chứng khoán phát triển ổn định góp phần lành mạnh hoá các khoản cho vay đầu tư chứng khoán của ngân hàng. Do vậy, Chính phủ cần có những biện pháp ổn định thị trường chứng khoán bảo đảm hoạt động an toàn cho cả hai lĩnh vực chứng khoán và ngân hàng. 3.3.2.7. Ngăn chặn nạn giấy tờ giả về sở hữu tài sản Sự chủ quan của ngân hàng, sự tinh vi của hoạt động làm giả giấy tờ đã gây ra không ít tổn thất cho ngân hàng trong thời gian qua. Chính phủ cần có những biện pháp mạnh mẽ hơn trong việc ngăn chặn và xử lý giấy tờ giả cũng như những cá nhân, tổ chức làm giả giấy tờ. Đặc biệt với các trường hợp làm giả giấy tờ để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt cần có những biện pháp trừng phạt thích đáng. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. Ø Cần thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra giám sát thực hiện quy trình bảo đảm tín dụng tại các ngân hàng, phát hiện sớm các sai phạm để có những biện pháp khắc phục kịp thời, tránh để xảy ra các các tổn thất. Ø Tăng cường hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng làm cơ sở cho các ngân hàng thực hiện tốt công tác thẩm định khách hàng và TSBĐ Ø Phối hợp thường xuyên và có hiệu quả với các cơ quan bộ ngành khác để đưa ra văn bản thống nhất. Ø Nâng cao khả năng đánh giá, phân tích tình hình để đưa ra các văn bản quy định kịp thời có tính định hướng lâu dài Ø Nâng cao năng lực của đội ngũ chuyên môn làm công tác thanh tra nhằm giúp các ngân hàng phát hiện và xử lý kịp thời các sai sót 3.3.3. Kiến nghị với các bộ ngành liên quan Ø Bộ tư pháp cần có những quy định cụ thể chính xác hơn giúp cho các công chứng viên hiểu đúng quy định về thủ tục công chứng giao dịch liên quan đến tài sản hình thành trong tương lai. Ø Tổng cục địa chính và Ban Vật giá Chính phủ nên có những phối hợp công bố công khai giá thị trường nhà đất tại từng vùng địa phương làm cơ sở cho các CBTD định giá TSBĐ Ø Bộ công an, phòng đăng kí giao dịch bảo đảm quốc gia nên có những kênh thông tin liên lạc nhằm bảo đảm tính hợp pháp của TSBĐ cũng như năng lực pháp lý của khách hàng vay vốn. 3.3.4. Kiến nghị với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Ø Cần có những chính sách cụ thể, cập nhật hơn bảo đảm quy trình thủ tục thực hiện bảo đảm tín dụng được tiến hành đúng quy định của Nhà nước Ø Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo và đào tạo lại chuyên môn nghiệp vụ đặc biệt về kĩ năng thẩm định khách hàng và thẩm định TSBĐ. Bên cạnh đó cũng phải quan tâm nâng cao ý thức trách nhiệm của CBTD, bảo đảm các khoản vay đúng quy định và an toàn Ø Thiết lập một cơ sở dữ liệu về khách hàng, các loại TSBĐ nhất là các TSBĐ có tính chất chuyên dùng làm căn cứ định giá thống nhất cho toàn hệ thống NHNo. Ø Thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra chéo để kiểm tra hoạt động nghiệp vụ tại các chi nhánh đồng thời học hỏi kinh nghiệm của các chi nhánh hoạt động tốt và rút kinh nghiệm với những chi nhánh hoạt động chưa hiệu quả. KẾT LUẬN Cùng với sự hội nhập kinh tế thế giới ngành ngân hàng Việt Nam cũng có những bước tiến để tiếp cận với công nghệ ngân hàng hiện đại thông qua các dịch vụ phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu dịch vụ ngân hàng của người dân. Tuy nhiên, sự hội nhập cũng mang đến không ít khó khăn thách thức mà rõ ràng nhất là hoạt động cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài. Kết quả sau quá trình cạnh tranh là sự tồn tại của các ngân hàng thật sự có năng lực. Nằm trong bối cảnh chung của ngành ngân hàng, chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô cũng đang phấn đấu để đứng vững và mở rộng thị phần của mình trên thị trường đang cạnh tranh gay gắt này. Bảo đảm tín dụng có thể được coi là một trong những yếu tố cạnh tranh khá hiệu quả. Đứng trước sự cạnh tranh đó, chi nhánh cũng đứng trước hai lựa chọn: Một là, nới lỏng các quy định về bảo đảm tín dụng để thu hút khách hàng vay vốn. Hai là, thắt chặt các quy định về TSBĐ để giữ an toàn trong hoạt động kinh doanh của mình. Dù là lựa chọn nào thì cũng có những tích cực và những hạn chế riêng. Trong thời gian qua, các NHTM Việt Nam nói chung và chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô nói riêng đã thực hiện nhiều biện pháp bảo đảm tiền vay nhằm duy trì mức độ hoạt động an toàn của mình. Tuy nhiên, việc thực hiện bảo đảm tín dụng tại các ngân hàng chưa có nhiều kết quả tốt, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài "Giải pháp nâng cao bảo đảm tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô" , chuyên đề đã trình bày hai nội dung chính sau: -Thực trạng bảo đảm tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô -Đưa ra một số giải pháp và đề xuất nhằm nâng cao chất lượng của công tác bảo đảm tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Thủ Đô Những ý kiến đề xuất trong bài viết chỉ là những đóng góp nhỏ theo quan điểm của người viết. Những giải pháp này chỉ thực sự phát huy tác dụng khi có sự phối hợp hoạt động của các cơ quan hữu quan, sự quan tâm giúp đỡ của ban lãnh đạo các cấp và quan trọng nhất là sự nỗ lực của bản thân chi nhánh. Tuy nhiên do năng lực và vốn hiểu biết của bản thân còn hạn chế nên không thể tránh được những sai sót và tính chủ quan trong nhận xét đánh giá. Vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thày cô hướng dẫn để chuyên đề được thêm hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo NHNo&PTNT chi nhánh Thủ Đô, các cán bộ phòng Tổ chức hành chính, phòng Kế hoạch kinh doanh đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại chi nhánh, cũng như cung cấp tài liệu để em thực hiện bài viết này. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo Nguyễn Anh Tuấn đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình tín dụng ngân hàng – học viện Ngân hàng Giáo trình ngân hàng thương mại – đại học Kinh tế quốc dân Luật Dân sự 2005, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật các tổ chức tín dụng Các văn bản pháp luật và quy định của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam về bảo đảm tiền vay Tạp chí Ngân hàng các năm 2007-2009 Báo cáo thường niên về kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thủ Đô. Mạng Internet 8. Các tài liệu tham khảo khác NHẬN XÉT CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH THỦ ĐÔ ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… Hà Nội, ngày … tháng … năm 2010 Người nhận xét NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN Đề tài : “Giải pháp nâng cao chất lượng bảo đảm tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh thủ đô” Sinh viên : Đỗ Đình Long Lớp : NH48A ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... Số điểm: - Bằng số:…………………………………………………………… - Bằng chữ:………………………………………………………….. Hà nội, ngày …..tháng…..năm 2010 Giáo viên chấm. ( Ký , ghi rõ họ tên ) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25695.doc