Giải pháp nâng cao hiệu quả FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2015

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ĐTNN : Đầu tư nước ngoài CNH - HĐH : Công nghiệp hoá - hiện đại hoá NN & PTNT : Nông nghiệp và Phát triển nông thôn NLN : Nông và lâm nghiệp TLSX : Tư liệu sản xuất FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) HTX : Hợp tác xã XĐGN : Xoá đói giảm nghèo TNHH : Trách nhiệm hữu hạn CTCP : Công ty cổ phần DANH M ỤC CÁC BẢNG VÀ ĐỒ THỊ Danh mục bảng: Bảng 1: Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP từ năm 1990 - 2007 22 Bảng 2: Kim ngạ

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1369 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch xuất khẩu Việt Nam từ năm 2004 - 2007 23 Bảng 3: Kế hoạch huy động vốn đầu tư phát triển cho nông lâm ngư nghiệp thời kỳ 2006 - 2010 31 Bảng 4: Cơ cấu của ĐTNN trong lĩnh vực nông lâm nghiệp 47 Bảng 5: Hệ số ICOR ngành nông nghiệp giai đoạn 2003 - 2008 49 Danh mục đồ thị: Đồ thị 1: ĐTNN vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp giai đoạn 1988 - 2008 40 Đồ thị 2: Tỷ trọng vốn đăng ký trong nông nghiệp 41 Đồ thị 3: Tỷ trọng vốn thực hiện trong nông nghiệp 42 Đồ thị 4: Cơ cấu hình thức ĐTNN ngành nông nghiệp 48 Đồ thị 5: Cơ cấu đối tác ĐTNN trong nông lâm nghiệp 49 Đồ thị 6: Hệ số ICOR ngành NN giai đoạn 2003 - 2008 50 Đồ thị 7: Tỷ số giá trị xuất khẩu với vốn FDI thực hiện trong nông nghiệp 51 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của nghiên cứu Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào nước ta ngày càng tăng, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Thế nhưng, lĩnh vực nông -lâm - ngư nghiệp dường như vẫn đứng ngoài sự phát triển này.Trong cơ cấu vốn FDI, lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ và ngày càng có xu hướng giảm, đặc biệt là trong 3 năm trở lại đây. Năm 2006, vốn FDI chiếm khoảng 6% tổng vốn đăng ký đầu tư, năm 2007 là 5,24%, nhưng đến tháng 11/2008 chỉ đạt 3,3% . Đặc biệt, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế giới chưa có dấu hiệu phục hồi như hiện nay, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng chắc chắn còn giảm sút. Hơn nữa, so với hoạt động đầu tư nước ngoài (ĐTNN) trong các lĩnh vực khác, hiệu quả thực hiện các dự án FDI trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn rất hạn chế, chưa phát huy đầy đủ tiềm năng, thế mạnh của nước ta trong lĩnh vực này. Ngoài một số dự án sản xuất giống cây, con, chế biến thức ăn gia súc và nông sản, nhìn chung các dự án FDI trong lĩnh vực này triển khai rất chậm, thậm chí đang trong tình trạng kinh doanh thua lỗ; tỷ lệ dự án bị giải thể trước thời hạn khá cao so với các lĩnh vực đầu tư khác (khoảng hơn 30% so với mức bình quân chung là 20%). Mặt khác, đối với lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, Đảng đã xác định mục tiêu “xây dựng một nền nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp) hàng hóa mạnh, đa dạng và bền vững dựa trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh; áp dụng khoa học công nghệ, làm ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và tăng khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường quốc tế; nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, lao động và nguồn vốn; tăng nhanh thu nhập và đời sống của nông dân, ngư dân, diêm dân và người làm nghề rừng” (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 2001). Để thực hiện mục tiêu trên đòi hỏi phải huy động tối đa mọi nguồn lực, trong khi đó nguồn vốn ngân sách Nhà nước còn hạn chế, nguồn vốn ODA có xu hướng giảm sút trong những năm gần đây. Vì thế việc tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả FDI trong lĩnh vực này là vô cùng quan trọng. Xuất phát từ lý do trên, việc tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2015” là cần thiết và có tính thực tiễn cao. 2. Câu hỏi nghiên cứu Câu hỏi nghiên cứu đặt ra trong luận văn là “Tại sao việc thu hút và sử dụng FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn thời gian qua lại chưa đạt hiệu quả cao?”. 3. Mục tiêu nghiên cứu Bước đầu hệ thống hoá những lý luận cơ bản về vốn đầu tư nước ngoài: khái niệm, phương pháp, vai trò, đặc điểm. Đánh giá thực trạng thu hút và sử dụng FDI trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp và phát triển nông thôn trong những năm gần đây. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng FDI trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2015. 4. Phạm vi nghiên cứu Do điều kiện còn hạn chế, luận văn tập trung phân tích các tài liệu, số liệu liên quan đến thực trạng thu hút và sử dụng FDI trong giai đoạn từ 2000 đến 2008, có sử dụng thêm số liệu của các năm khác để làm phong phú cho chuyên đề; các giải pháp đề xuất nâng cao hiệu quả sử dụng FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát phát triển nông thôn (NN & PTNT) đến năm 2015. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp các thông tin, tài liệu, báo cáo chính thức đã công bố của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các tổ chức quốc tế về các vấn đề có liên quan. Phương pháp biện chứng, kết hợp lý luận và thực tiễn. Phương pháp thống kê so sánh để làm rõ kết quả nghiên cứu. Bố cục luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 3 chương sau: + Chương 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài và hiệu quả đầu tu trực tiếp nước ngoài + Chương 2: Hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn + Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực NN & PTNT đến năm 2015 Chương 1 ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài là một quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giâ trị nào vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Căn cứ theo chức năng quản lý và tính chất sử dụng nguồn vốn thì đầu tư nước ngoài thường được chia làm hai hình thức chủ yếu đó là đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. 1.1.1.2. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư nước ngoài trong đó chủ đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân) đưa vào nước tiếp nhận một số vốn đủ lớn để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm tìm kiếm lợi nhuận và đạt được những hiệu quả xã hội. Đây là loại hình di chuyển vốn quốc tế mà trong đó người chủ sở hữu đồng thời là người trực tiếp quản lý điều hành việc sử dụng vốn đầu tư. 1.1.2. Đặc điểm của FDI So với các nguồn vốn khác, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số đặc diểm sau: - FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà cùng với số vốn có thể có cả thiết bị kỹ thuật, bí quyết công nghệ phục vụ sản xuất, kinh doanh, năng lực quản lý điều hành, năng lực marketing… Chủ đầu tư khi đưa vốn vào đầu tư là đã tiến hành việc tổ chức sản xuất kinh doanh và sản phẩm làm ra được tiêu thụ ở thị trường nước chủ nhà hoặc thị trường lân cận. - Việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ nần cho nước chủ nhà, trái lại nước chủ nhà còn có điều kiện để phát triển tiềm năng trong nước. - Chủ thể của FDI chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này chiếm tới 90% khối lượng FDI của thế giới. FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các doanh nghiệp với nhau. Những hoạt động này diễn ra ở các nước sở tại nên toàn bộ quá trình triển khai, kết thúc dự án phải tuân theo sự điều chỉnh của một bộ luật tương ứng của nước này, thường là Luật đầu tư nước ngoài. Trong quá trình thực hiện dự án, nhà ĐTNN phải đóng góp một số vốn tối thiểu theo luật của mỗi nước. 1.1.3. Các hình thức đầu tư FDI Theo Luật ĐTNN tại Việt Nam thì: FDI là việc nhà ĐTNN đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiền hành hoạt dộng đầu tư theo quy định của Luật này. Các nhà ĐTNN được đầu tư vào nước ta dước các hình thức sau đây: - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp thuộc quyến sở hữu của nhà ĐTNN, do họ thành lập tại Việt Nam, tự đầu tư, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. - Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở Hợp đồng liên doanh hoặc Hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài. Đặc trưng cơ bản của hình thức này là các nhà đầu tư cùng góp vốn, cùng điều hành, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và cùng chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Hợp doanh): là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam mà không thành lập pháp nhân mới. Đây là hình thức đặc thù trong các hình thức FDI tại Việt Nam. Hình thức này cũng có các đặc trưng cơ bản về kinh doanh giống hình thức liên doanh nhưng lại có điểm khác biệt cơ bản là nó không thành lập nên pháp nhân mới và căn cứ pháp lý duy nhất cho hoạt động của hình thức này chính là Hợp đồng hợp tác kinh doanh. 1.1.4. Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 1.1.4.1. FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH Đây là tác động rất quan trọng của FDI. Vì lợi thế chủ yếu của FDI là đầu tư trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Qua đó làm tăng nhanh tỷ trọng sản lượng, việc làm, xuất khẩu… của các ngành này. Tuy nhiên, mức độ tác động còn phụ thuộc vào chiến lược CNH – HĐH và chính sách thu hút FDI của nước nhận đầu tư. Ngoài ra, FDI còn thúc đẩy phát triển đầu tư nội địa thông qua các mối liên kết với các công ty nội địa (cung cấp nguyên liệu, dịch vụ), gắn kết các công ty này với thị trường thế giới. Điều này khiến cho các tiềm năng trong nước được khai thác có hiệu quả. 1.1.4.2. FDI làm tăng thêm tích lũy và bù đắp sự thiếu hụt về ngoại tệ Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào vòng luẩn quẩn, đó là: thu nhập thấp à tích lũy thấp à đầu tư thấp à thu nhập thấp. Có lẽ đây chính là khó khăn lớn nhất mà các nước đặc biệt là các nước đang phát triển phải vượt qua để hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Muốn đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhất định thì cần phải có một tỷ lệ tích lũy nhất định. Vốn là cơ sở để tạo công ăn việc làm trong nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật…từ đó tạo tiền đề để tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên để tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông chờ vào tích lũy nội bộ, thì hậu quả khó tránh khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Vốn nước ngoài là một cú hích để góp phần đột phá cái vòng luẩn quẩn đó. FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây gánh nợ cho nước đầu tư, nước đầu tư chỉ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Một nước muốn có được một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhất định cần phải hạ tỷ lệ tư bản đầu ra. Biện pháp này chỉ có thể thực hiện được khi trình độ kĩ thuật và quản lý được nâng cao. Điều này FDI có thể đáp ứng được. Bên cạnh tỷ lệ tích lũy thấp, các nước đang phát triển còn thiếu nhiều ngoại tệ không thể thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu đầu tư thiết bị, FDI cũng lấp được lỗ hổng này. Ngoài ra, FDI còn góp phần làm cho nước nhận đầu tư tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng xuất khẩu; thu được một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài; và thu được ngoại tệ qua hoạt động dịch vụ phục vụ cho FDI. 1.1.4.3. FDI giúp các nước tiếp nhận được công nghệ và kỹ thuật hiện đại, trình độ chuyên môn và quản lý tiên tiến Đây có thể coi là một lợi ích quan trọng do FDI mang lại. Đó là công nghệ kĩ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến, thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật trong nước, góp phần tăng năng suất, thay đổi cấu thành của sản phẩm và xuất khẩu, thúc đẩy phát triển các ngành, nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao. Vì thế FDI có tác dụng lớn đối với quá trình hiện đại hóa sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Ngoài ra, FDI còn là yếu tố quan trọng để tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu CNH. Ngoài việc chuyển giao công nghệ, nhà ĐTNN còn xây dựng các cơ sở nghiên cứu và phát triển (R & D), đào tạo kĩ thuật cho đội ngũ lao động nước chủ nhà để phục vụ cho các dự án đầu tư của họ. Nhờ đó góp phần nâng cao năng suất lao động trong quá trình CNH - HĐH. Thực tiễn cho thấy hầu hết các nước thu hút FDI đã cải thiện đáng kể trình độ kỹ thuật công nghệ của mình. Chẳng hạn như, đầu những năm 60, Hàn Quốc còn có nhiều hạn chế trong việc lắp ráp xe hơi, nhưng nhờ tiếp nhận công nghệ của Mỹ, Nhật và một số nước khác mà năm 1993 họ đã trở thành nước sản xuất ô tô lớn thứ 7 trên thế giới. 1.1.4.4. Giúp nước nhận đầu tư tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. 1.1.4.5. Tạo thêm nhiều việc làm Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 1.1.4.6. Giúp nước nhận đầu tư tiếp cận với thị trường thế giới Các nước tuy có khả năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh tranh được nhưng vẫn rất khó khăn trong việc thâm nhập thị trường nước ngoài. Thông qua FDI, các nước này có thể tiếp cận với thị trường thế giới vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các TNCs thực hiện. Các công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sỏ uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng sản phẩm, thời hạn…đã có từ lâu. Qua những phân tích ở trên, có thể kết luận rằng việc tiếp nhận FDI là lợi thế hiển nhiên mà thời đại tạo ra cho các nước, đặc biệt là các nước đi sau. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, vốn nước ngoài dù quan trọng đến đâu cũng không thể đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của một quốc gia. Mặt khác, FDI cũng có những mặt trái của nó như sự phụ thuộc của nền kinh tế các nước vào vốn kỹ thuật và thị trường tiêu thụ của các nhà ĐTNN, sự chuyển giao những kỹ thuật công nghệ cũ lạc hậu sang các nước nhận đầu tư đã gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tài nguyên thiên nhiên, con ngườ bị bóc lột quá mức…Song những ảnh hưởng tiêu cực này chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh cụ thể của từng nước. Các nước cần phải có những chính sách thích hợp, những biện pháp kiểm soát hữu hiệu, những chiến lược phát triển đúng đắn, những bước đi phù hợp với đặc điểm riêng của mình để phát huy những mặt tích cực, những lợi ích to lớn của FDI, đồng thời đẩy lùi, hạn chế những mặt trái, tiêu cực của dòng vốn này. 1.2. HIỆU QUẢ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại hiệu quả FDI 1.2.1.1. Khái niệm Hiệu quả vốn đầu tư nói chung hay hiệu quả vốn FDI nói riêng đều là biểu hiện mối quan hệ so sánh giữu các lợi ích thu được với khối lượng vốn đầu tư đã bỏ ra nhằm đạt được các lợi ích đó. Với cùng mức chi phí, khoản đầu tư nào mang lại lợi ích lớn hơn thì hiệu quả lớn hơn và ngược lại, với cùng lợi ích thu được thì khoản đầu tư nào được thực hiện với chi phí thấp hơn thì có hiệu quả cao hơn. 1.2.1.2. Đặc điểm Hiệu quả vốn FDI được xét trên 2 phương diện: chủ đầu tư nước ngoài và quốc gia nhận vốn đầu tư: Chủ đầu tư nước ngoài chỉ quan tâm đến hiệu quả vi mô ( dự án cụ thể của họ) và thường quan tâm đến hiệu quả kinh tế Nước nhận đầu tư thì quan tâm đến cả hiệu quả kinh tế lẫn hiệu quả xã hội, cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô và quan tâm đến cả 2 mặt của hoạt động FDI, đó là hiệu quả thu hút và sử dụng vốn FDI 1.2.1.3. Phân loại - Theo góc độ nghiên cứu, gồm: i) Hiệu quả cấp vĩ mô, là hiệu quả FDI được xem xét trên phạm vi một ngành, một địa phương hay trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế; ii) Hiệu quả cấp vi mô, là hiệu quả của từng dự án FDI hay từng doanh nghiệp FDI. Sự phân loại này chỉ mang tính tương đối. - Theo tính chất tác động, gồm: i) Hiệu quả kinh tế: biểu hiện ở mức độ thực hiện các mục tiêu kinh tế của vốn đầu tư nhằm chủ yếu thỏa mãn nhu cầu vật chất của xã hội; ii) Hiệu quả xã hội: thể hiện ở việc thực hiện các mục tiêu xã hội. 1.2.2.Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả FDI 1.2.2.1. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của FDI 1) Hiệu suất tài sản cố định Biểu hiện sự so sánh giữa khối lượng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) do khu vực FDI tạo ra trong kỳ với khối lượng giá trị tài sản cố định trong kỳ (FA). Hiệu suất tài sản cố định được tính theo công thức: H(fa) = êGDPfdi/FAfdi (1) H(fa): Hiệu suất tài sản cố định thuộc lĩn vực FDI êGDPfdi: Mức tăng GDP trong kỳ FAfdi: Giá trị tài sản cố định của khu vực FDI sử dụng trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết, trong thời kỳ nào đó, 1 đồng giá trị tái sản cố định sử dụng trong khu vực FDI sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng GDP. Tài sản cố định là kết quả do vốn FDI tạo ra, do đó, hiệu suất tài sản cố định phản ánh khái quát hiệu quả vốn FDI trong kỳ. Chỉ tiêu này được sử dụng rộng rãi trong phân tích kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên khi xác định hiệu quả vốn FDI, nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu này thì sẽ chưa thật chính xác, vì sự biến động của tài sản cố định và GDP của khu vực FDI không hoàn toàn phụ thuộc vào nhau. 2) Hiệu suất vốn FDI Hiệu suất vốn FDI biểu hiện mối quan hệ so sánh giữa mức tăng trưởng của GDP do khu vực FDI tạo ra và vốn FDI trong kỳ. Nó được tính theo công thức: Hfdi = êGDPfdi / FDI (2) Hfdi: Hiệu suất vốn FDI trong kỳ êGDPfdi : Mức tăng GDP trong kỳ Chỉ tiêu hiệu suất vốn FDI phản ánh tổng hợp hiệu quả vốn FDI, nhưng có nhược điểm cơ bản là sự hạn chế về tính so sánh tử số và mẫu số của chỉ tiêu, vì giữa êGDPfdi và vốn FDI trong cùng một kỳ không tồn tại mối quan hệ trực tiếp. Thời kỳ càng ngắn thì nhược điểm này càng lộ rõ, do đó việc phản ánh hiệu quả vốn FDI trong kỳ có phần kém chính xác. Để hạn chế nhược điểm này, người ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu suất vốn FDI biến tướng. Dạng phổ biến của hiệu suất vốn FDI biến tướng là hệ số K, được tính bằng cách so sánh mức tăng trưởng GDP năm sau với tổng số vốn đầu tư năm trước, theo công thức: K = êGDPfdi / FDIt-1 (3) 3) Hệ số gia tăng vốn - sản lượng (ICOR) Hệ số gia tăng vốn sản lượng là một chỉ tiêu hiệu quả hết sức quan trọng cho biết trong từng thời kỳ cụ thể muốn tăng thêm 1 đồng GDP thì cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Do đó, ICOR được sử dụng để xác định nhu cầu vốn đầu tư. Nó được tính theo công thức: ICOR = I / êGDP (4) I: Vốn đầu tư êGDP: Mức tăng GDP Nhưng vốn đầu tư thường có độ trễ, nên ICOR được tính cụ thể như sau: ICOR = I(t-1) / êGDP(t) (5) Công thức (4) phản ánh mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa hệ số ICOR và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Với cùng tỷ lệ đầu tư trong GDP, nước nào có hệ số ICOR thấp hơn sẽ đạt mức tăng trưởng cao hơn và ngược lại. Như vậy hệ số ICOR càng thấp, chứng tỏ hiệu quả đầu tư càng cao. Khi hệ số ICOR được sử dụng để đánh giá hiệu quả cho từng ngành, từng khu vực sẽ giúp chúng ta xác định được hiệu quả của vốn đầu tư và vai trò của vốn trong tăng trưởng của ngành, khu vực đó. Đối với khu vực có vốn FDI, hệ số ICOR năm t được xác định như sau: ICORt = FDIt-1 / êGDPfdi (6) Về mặt kỹ thuật, tính toán ICOR cho một thời gian dài sẽ chính xác hơn là tính ICOR cho một giai đoạn ngắn bởi vì trong thời gian ngắn sẽ có một lượng đầu tư mới chưa phát huy tác dụng, tức là tác động của đầu tư tới tăng trưởng có một độ trễ nhất định. Tuy nhiên xét trên tổng thể nền kinh tế thì mặc dù đầu tư chưa mang lại doanh thu tức thì cho doanh nghiệp nhưng nó đã tạo ra một sản lượng nhất định cho nền kinh tế vì đã tạo ra sự phát triển kéo theo của một số ngành khác. 4) Hệ số thực hiện vốn FDI Hệ số thực hiện vốn FDI cũng được coi là một chỉ tiêu hiệu quả quan trọng. Nó phản ánh mối quan hệ giữa khối lượng vốn FDI bỏ ra với các tài sản cố định được đưa vào sử dụng. Hệ số thực hiện vốn FDI được tính theo công thức: H(u) = FA / FDI (7) H(u): Hệ số thực hiện vốn FDI FA: Giá trị tài sản cố định của khu vực FDI sử dụng trong kỳ. Theo cách tính trên, hệ số thực hiện vốn FDI càng lớn biểu hiện hiệu quả vốn FDI càng cao. Tuy vậy, để chỉ tiêu này đạt giá trị thông tin cao cần chú ý loại trừ những khác biệt giữa tài sản cố định FA và vốn FDI nhằm đảm bảo tính so sánh được giữa tử số và mẫu số. 5) Tỷ số giá trị xuất khẩu/ vốn FDI thực hiện Chỉ tiêu này được đo lường bằng tổng giả trị xuất khẩu của khu vực FDI/ vốn FDI thực hiện trong kỳ. Đây là chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng tạo xuất khẩu của khu vực FDI. Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn FDI thực hiện sẽ tạo ra bao nhiêu giá trị xuất khẩu. Mối tương quan giữa tăng trưởng chung và tăng trưởng xuất khẩu đã cho thấy cách sử dụng FDI có hiệu quả tổng thể cao nhất là sử dụng nó trong khuôn khổ định hướng xuất khẩu. 6) So sánh đầu tư ròng với thu nhập từ vốn Chỉ tiêu này được xác định bằng thương số tổng thu nhập từ vốn trong nền kinh tế và tổng đầu tư ròng. Nó được dùng để xác định khả năng hấp thụ đầu tư của một nền kinh tế. Nếu trong một số năm liên tục mà thu nhập từ vốn luôn nhỏ hơn tổng đầu tư ròng thì chứng tỏ nền kinh tế đang đầu tư quá mức, hiệu quả đầu tư kém, vì toàn bộ lợi tức sinh ra không bù đắp được chi phí đầu tư. Trong trường hợp đó, nền kinh tế có thể sẽ thu được lợi ích ròng nếu như giảm đầu tư. Tuy nhiên trong một số trường hợp, nếu vẫn tiếp tục gia tăng đầu tư (thu hút đầu tư) nhưng theo một cơ cấu mới, hướng vào những ngành có tiềm năng và lợi thế phát triển thì về lâu dài sẽ cải thiện, gia tăng hiệu quả đầu tư. Do đó khi xem xét đến hiệu quả của vốn đầu tư (xác định khả năng hấp thụ vốn đầu tư), không nhất thiết phải giảm đầu tư (đế giảm tổn thất do hiệu quả đầu tư giảm) mà vấn đề là cần thay đổi cơ cấu đầu tư theo chiều hướng tích cực, phù hợp hơn. 7) Hệ số lợi tức/ vốn FDI Hệ số này được tinh bằng cách lấy tổng lợi tức của một ngành nào đó chia cho tổng giả trị vốn FDI của ngành đó. Ngành nào có hệ số lợi tức so với vốn cao hơn có nghĩa ngành đó đang hoạt động hiệu quả hơn. 8) Một số chỉ tiêu khác Đó là những đóng góp của FDI cho sự phát triển kinh tế, CNH-HĐH đất nước, bao gồm: Giá trị đóng góp trong nguồn vốn đầu tư Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng kinh tế Đóng góp vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu Đóng góp trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HDH Đóng góp cho Ngân sách Giải quyết việc làm, phát triển nguồn nhân lực Cải thiện, mở rộng quan hệ đối ngoại… 1.2.2.2. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của FDI 1) Thời gian hoàn vốn Thời gian hoàn vốn giản đơn (PP): là khoảng thời gian khai thác dự án mà các khoản thu nhập có thể bù đắp toàn bộ vốn đầu tư của dự án. Công thức tính: Trong đó: TRi: Thu nhập của dự án vào năm thứ i Ci: Vốn đầu tư của dự án năm thứ i PP: Thời gian hoàn vốn n: Tổng thời gian của dự án - Thời gian hoàn vốn có chiết khấu (DPP): Công thức tính: Thời gian thu hồi vốn là chỉ tiêu hiệu quả được các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp rất quan tâm. Thời gian càng ngắn, hiệu quả càng cao vì tạo điều kiện thu hồi vốn nhanh, đồng thời tạo điều kiện cho tái đầu tư. Tuy nhiên, chỉ tiêu này có nhược điểm là nó chỉ đánh giá được hiệu quả của dự án trong thời gian thu hồi vốn mà không đánh giá được hiệu quả sau thời gian hoàn vốn. 2) Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng: NPV Giá trị hiên tại ròng là giá trị hiện hành của tổng tài sản ròng trong khi thực hiện dự án, được xác định bằng hiệu số của tổng thu nhập ròng trừ đi tổng vốn đầu tư ban đầu. Công thức tính: Trong đó: TRi: Thu nhập hàng năm của dự án Ci: Chi phí hàng năm của dự án r: suất chiết khấu của dự án (%) i=1,2,...,n -các năm của dự án. Ý nghĩa: Chỉ tiêu NPV cho biết mức chênh lệch giữa thu nhập thật của dự án so với thu nhập mong đợi của dự án (thể hiện qua tỷ lệ sinh lời kỳ vọng-expected rate of return). Chính vì thế: NPV < 0 : Dự án không có hiệu quả-không thể đầu tư NPV = 0 : Có thể đầu tư NPV > 0 : Đầu tư hiệu quả Giá trị của NPV càng lớn thì dự án càng có hiệu quả. Chỉ tiêu này thỏa mãn yêu cầu tối đa hóa lợi nhuận, phù hợp quan điểm nguồn của cải ròng được tạo ra phải là lớn nhất. Tuy nhiên chỉ tiêu NPV có một số nhược điểm: + NPV phụ thuộc nhiều vào tỷ lệ chiết khấu dùng để tính toán. Việc xác định tỷ lệ chiết khấu là rất khó khăn trong thị trường vốn đầy biến động. + Sử dụng chỉ tiêu này đòi hỏi xác định rõ ràng dòng thu và chi của cả đời dự án. Đây là công việc khó khăn không phải lúc nào cũng dự kiến đúng được. + Chỉ tiêu này chưa nói lên hiệu quả sử dụng 1 đồng vốn. + Chỉ tiêu này chỉ sử dụng để lựa chọn các phương án loại bỏ nhau trong trường hợp tuổi thọ của đối tượng các phương án là như nhau. Nếu tuổi thọ khác nhau, dùng chỉ tiêu này để đánh giá, lựa chọn phương án sẽ không có ý nghĩa. 3) Tỷ số lợi ích/ chi phí (BCR) Chỉ số này được tính theo công thức: BCR = BCR giúp tính được khả năng sinh lời của dự án trên mỗi đơn vị vốn đã đầu tư. 4) Tỷ suất nội hoàn: IRR IRR là mức lãi xuất chiết khấu mà ứng với nó hiện giá thu nhập ròng bằng vốn đầu tư ban đầu tức là NPV = 0 hay BCR = 1. IRR của một dự án đầu tư là tỉ suất hoàn vốn mà khi sử dụng nó để quy đổi các dòng thu nhập và chi phí đầu tư của dự án về cùng một mặt bằng thời gian hiện tại thì sẽ đạt được cân bằng thu chi. Công thức tính: Ý nghĩa: IRR dùng để thẩm định sự đáng giá của dự án. Nếu IRR của dự án lớn hơn suất sinh lời kỳ vọng (expected rate) hoặc là lớn hơn tỷ suất lãi vay hoặc suất chiết khấu thị trường thì dự án được đánh giá là có hiệu quả và chấp nhận thực hiện. Trong một số trường hợp đặc biệt (Ví dụ dự án được tài trợ, không có thu từ hoạt động sản xuất) thì IRR lớn hơn r lại chưa chắc đã tốt. Lưu ý: IRR là một trong những chỉ tiêu dùng để thẩm định dự án. Tuy nhiên, đây chỉ là chỉ tiêu kết hợp, bổ trợ cho chỉ tiêu NPV. Chỉ tiêu IRR trong một số trường hợp không thể giải thích được tính hiệu quả của dự án, nhất là khi phải so sánh để lựa chọn các dự án hoặc khi đưa lạm phát vào các ngân lưu. Ví dụ như trong trường hợp: sắp xếp dự án ưu tiên hay dự án có ngân lưu bất đồng. Trường hợp dự án có những dòng thu nhập và đầu tư đan xen nhau, làm cho ngân lưu tiên tục đổi dấu. Khi đó phương trình sẽ cho kết quả với nhiều nghiệm số khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, không xác định chính xác được IRR. Vì vậy, trong trường hợp cần phải so sánh và lựa chọn một trong số các dự án có tính thay thế nhau, nếu chỉ có thông tin về chỉ tiêu IRR thì sẽ không thể xác định được dự án cần chọn, cần sử dụng kết hợp với NPV và các chỉ tiêu khác. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả FDI 1.2.3.1. Môi trường kinh doanh của nước nhận đầu tư 1) Sự ổn định của môi trường vĩ mô Điều này là yếu tố tiên quyết được các nhà đầu tư xét đến khi quyết định việc đầu tư. Trước hết, đó là sự ổn định về chính trị xã hội. Tình hình chính trị của một nước không ổn định sẽ không khuyến khích các chủ đầu tư vì khó đảm bảo được an toàn vốn và thực hiện được những cam kết giữa chủ đầu tư và nước nhận đầu tư làm giảm hiệu quả của FDI. Ngoài ra, sự không ổn định về chính trị còn có thể dẫn đến sự bất ổn định về tình hình kinh tế xã hội, càng làm tăng tính rủi ro của môi trường đầu tư cũng làm giảm hiệu quả của FDI. Có thể nói sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là nhân tố quan trọng quyết định tính hiệu quả của hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI. 2) Hệ thống luật pháp liên quan đến FDI Hệ thống luật pháp là sự cụ thể hóa các chiến lược, quy hoạch, chính sách thu hút và sử dụng FDI. Các phân tích cho thấy rằng, bản thân các tác động tiêu cực của FDI không phải hoàn toàn tự nó phát sinh ra mà phần lớn là do chính sách thu hút và sử dụng FDI của nước nhận đầu tư. Đây được coi là một nhân tố quan trọng tạo nên hiệu quả ở cả tầm vi mô cũng như tầm vĩ mô. Chỉ có dựa trên hệ thống luật pháp hiện hành về FDI của nước sở tại, nhà đầu tư mới có thể định hướng đầu tư, quyết định đầu tư và triển khai thực hiện dự án đầu tư. Tính ổn định, rõ ràng, minh bạch, thông thoáng, phù hợp với luật pháp quốc tế của hệ thống luật về FDI là một trong những nhân tố quyết định tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, khích lệ họ đầu tư (thu hút được nhiều), đồng thời làm cho các dự án đầu tư thực hiện có hiệu quả (sử dụng hiệu quả). 3) Quản lý Nhà nước về FDI Quản lý Nhà nước về FDI là xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch cho hoạt động FDI. Chúng có tầm quan trọng đặc biệt tới hiệu quả FDI ở cấp vĩ mô. Việc xác định ngành, lĩnh vực, đối tác cần thu hút sẽ là căn cứ để xác định phương thức, các biện pháp thu hút một cách có hiệu quả nhất, từ đó mới có thể đạt được mục tiêu đặt ra. Bên cạnh đó việc quản lý Nhà nước còn tạo nên cơ chế phối hợp giữa các ngành, các địa phương nhằm làm cho hoạt động FDI được triển khai thuận lợi ở mọi nơi mọi cấp. 1.2.3.2. Các chi phí cho hoạt động kinh doanh Chi phí tiện ích như điện, nước, hệ thống thoát nước. Chi phí hạ tầng: hệ thống đường xá, các phương tiện vận chuyển… Chi phí liên quan đến mặt bằng sản xuất như giá đất, chi phí đền bù giải tỏa, chi phí thuê văn phòng. Chi phí nguyên vật liệu, khả năng cung ứng nguyên vật liệu trong nước. Chi phí lao động, khả năng tuyển dụng lao động có trình độ trong nước Chi phí cho quảng cáo, tiếp thị Chi phí ngoại hối, quy đổi ngoại tệ Các chi phí không chính thức khác: chi phí hành chính, các sắc thuế… Đây là nhóm nhân tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của từng dự án FDI (ảnh hưởng ở cấp vi mô). Các nhà đầu tư hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Họ sẽ đầu tư vào những nơi, những ngành thu được nhiều lợi nhuận nhất. Chi phí cho đầu tư sẽ là nhân tố được các nhà đầu tư xem xét khi tiến hành hoạt động đầu tư. Nếu các chi phí đầu vào cao sẽ không hấp dẫn các nhà đầu tư (thu hút không hiệu quả) vì nó làm giảm số lợi nhuận thu được của nhà đầu tư. Điều này đồng nghĩa với việc làm giảm hiệu quả của dự án. 1.2.3.3. Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa và các chính sách kinh tế khác Các nước đang phát tr._.iển trong đó có Việt Nam đều chủ trương đảy mạnh phát triển công nghiệp hay còn gọi là quá trình CNH, để nhanh chóng thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Lựa chọn chiến lược CNH đúng sẽ tạo cho việc lựa chọn các chiến lược, các chính sách khác đúng. Đó là tiền đề hết sức quan trọng quyết định sự thành công của CNH – HĐH, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững, đó là kết quả của việc thu hút, sử dụng vốn đầu tư đặc biệt là vốn FDI có hiệu quả. Các chính sách kinh tế bao gồm: chính sách công nghiệp, chính sách thương mại, chính sách đầu tư… và các chính sách làm công cụ điều tiết vĩ mô, vi mô như: chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ…Các chính sách này góp phần tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý hay không hợp lý, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực. Điều này đồng nghĩa với việc thu hút, sử dụng vốn đầu tư nói chung, vốn FDI nói riêng có hiệu quả hay không hiệu quả. Nếu chính sách kinh tế xác định không phù hợp, thiếu tính hệ thống, đồng bộ và nhất quán thì sự nghiệp CNH – HĐH sẽ gặp nhiều trở ngại, khi đó vốn đầu tư sẽ có hiệu quả thấp. Các nước NICs ở Đông Nam Á và một số nước khác như: Trung Quốc, Thái Lan… là những nước tiêu biểu cho việc xác định chính sách kinh tế phù hợp với mô hình chiến lược CNH. Các nước này đã thu hút được nhiều và sử dụng có hiệu quả vốn FDI phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH – HDH đất nước. 1.3. SỰ CẦN THIẾT THU HÚT VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ FDI VÀO PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN 1.3.1. Vai trò của ngành nông nghiệp đối với sự phát triển KT- XH 1.3.1.1. Đặc điểm của ngành nông nghiệp 1) Đối tượng sản xuất của ngành là các loài sinh vật: là ngành có sự gắn bó chặt chẽ với môi trường tự nhiên. Đối tượng sản xuất của ngành là các loại cây, con, các loài sinh vật. Mỗi loại yêu cầu một điều kiện thích hợp với nó, do đó đòi hỏi có những cách thức riêng trong quá trình sản xuất, canh tác. 2) Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt: Ngành nông nghiệp gắn liền với đất đai, trong nông nghiệp đất đai là tài sản quý giá nhất. Tuy nhiên, đất đai lại là một TLSX có tính chất đặc biệt, không giống như các TLSX trong các ngành khác các giàu lên cùng với quá trình sản xuất. Nó là tài sản ngày càng bị thu hẹp quy mô, cùng với sự phát triển nhanh của  xã hội loại người, của quá trình đô thị hóa thì đất đai cho nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp (mỗi năm nước ta bị mất khoảng 72000 ha đất nông nghiệp), chưa kể đến việc độ màu mỡ của đất đai đang ngày càng đi xuống, không thể canh tác được. 3) Phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên: Nông nghiệp là gắn với điều kiện tự nhiên, do vậy nó gần như là phụ thuộc vào tự nhiên từ tính chất đất đai, đến môi trường khí hậu, thời tiết… chính vì vậy, nên ngành có hạn chế rất lớn. Ngày nay, cùng với việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thì đã có thể hạn chế một phần nào với tự nhiên, tuy nhiên nó vẫn là yếu tố chính tác động đến hiệu quả và kết quả của ngành. 4) Là ngành sản xuất mang tính chất mùa vụ và có chu kỳ sản xuất kéo dài: Trong ngành nông nghiệp, mỗi loại sản phẩm chỉ sản xuất được trong một mùa nhất định do những yêu cầu về tính chất sinh lý của nó. Hơn nữa, chu kỳ sản xuất trong ngành nông nghiệp là kéo dài; không như các ngành khác có chu kỳ sản xuất ngắn, chu kỳ của ngành nông nghiệp thường là 3 - 4 tháng, 1 năm hoặc thậm chí là 5 năm hay lâu hơn nữa (cà phê, tiêu, điều, các loại cây ăn quả lâu năm…) 5) Khả năng sinh lợi trong ngành nông nghiệp là không cao: Yếu tố này được quyết định bởi tính chất của hoạt động sản xuất nông nghiệp. Chu kỳ sản xuất dài, giá trị sản phẩm nông nghiệp không cao, sản phẩm chủ yếu là hàng thứ cấp, giá cả không ổn định; lại phụ thuộc vào tự nhiên nên cho nên không thể lường trước được kết quả sản xuất kinh doanh, nếu được mùa, giá cả nông sản sẽ giảm theo quy luật cung cầu, nếu mất mùa, giá tăng nhưng tính ra nông dân cũng không được lợi do sản lượng thấp. Nếu muốn tăng giá trị cho nông sản thì phải kéo dài chuỗi giá trị của nó, tức là gắn liền với công nghiệp chế biến. Bên cạnh đó, nền nông nghiệp Việt Nam cũng có những đặc điểm riêng. Nền nông nghiệp Việt Nam là nền nông nghiệp mang tính chất lạc hậu, mang tính tự cung tự cấp do thói quen canh tác lâu đời, năng suất lao động thấp do chủ yếu là lao động chân tay. Ruộng đất canh tác thì đang giảm đi nhanh chóng do nhiều nguyên nhân trong đó có sự phát triển nhanh của quá trình đô thị hóa, cũng một phần do công tác quy hoạch chưa cao. Khí hậu tự nhiên của Việt Nam lại rất khắc nghiệt do nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, gây ảnh hưởng và tổn thất không nhỏ cho sản xuất nông nghiệp. Mục đích của các nhà đầu tư luôn là lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh. Nhưng do đặc điểm của ngành nông nghiệp mà việc thu hút đầu tư vào ngành vẫn còn gặp nhiều hạn chế, vốn đầu tư thu hút vào nông nghiệp có tỷ lệ nhỏ hơn nhiều so với các ngành khác. 1.3.1.2. Vai trò của ngành nông nghiệp 1) Là ngành đóng vai trò quan trọng trong tổng sản phẩm quốc dân với tỷ lệ chiếm trong GDP ở mức cao: Số liệu Bảng 1 cho thấy, nông nghiệp là ngành luôn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân, với mức hơn 30% (31.83%) năm 1990 và vẫn chiếm ở mức 17.83% năm 2007. Sản lượng ngành nông nghiệp không ngừng tăng trong quá trình phát triển. Đóng góp của ngành là vô cùng to lớn. Bảng 1: Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP từ năm 1990 – 2007 Đơn vị: % Năm Nông, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ 1990 31,83 25,17 43 1991 30,74 25,63 43,64 1992 30,22 26,59 43,19 1993 28,88 27,71 43,41 1994 27,43 28,87 43,7 1995 26,24 29,94 43,82 1996 25,06 31,34 43,6 1997 24,17 32,64 43,2 1998 23,66 33,43 42,91 1999 23,76 34,36 41,88 2000 23,28 35,41 41,3 2001 22,43 36,57 41 2002 21,82 37,39 40,79 2003 21,06 38,48 40,45 2004 20,39 39,35 40,25 2005 19,56 40,17 40,27 2006 18,7 40,98 40,31 2007 17,83 41,78 40,39 Nguồn: Tổng cục thống kê, 1990 - 2007 2) Đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho con người: Nông nghiệp là ngành duy nhất thỏa mãn cho nhu cầu thiết yếu nhất của con người - nhu cầu tồn tại, và hiện nay chưa có ngành nào có thể thay thế được vai trò này của ngành. Với Việt Nam vai trò của ngành lại càng to lớn hơn khi phải bảo đảm an ninh lương thực cho hơn 80 triệu dân. 3) Là ngành cung cấp đầu vào cho các ngành công nghiệp như công nghiệp chế biến: Công nghiệp chế biến là một ngành có vai trò quan trọng, trong đó nguồn nguyên liệu chính của một số ngành này là các sản phẩm từ nông nghiệp. Do vậy, sản phẩm nông nghiệp là một trong những nguyên liệu quan trọng của ngành công nghiệp, muốn phát triển các ngành công nghiệp chế biến thì yêu cầu phát triển nông nghiệp là điều kiện tất yếu. Ở Việt Nam hiện nay, khi mà các ngành công nghiệp chế tạo còn phát triển ở mức độ hạn chế do yêu cầu về vốn thì ngành công nghiệp chế biến chiếm một tỷ trọng lớn, do vậy ngành nông nghiệp lại càng có vai trò quan trọng với các ngành công nghiệp này. 4) Là thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các ngành công nghiệp, dịch vụ: Ngành nông nghiệp có nhu cầu rất lớn đối với các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ phục vụ cho nhu cầu sản xuất của ngành, nhu máy móc, phân bón… và các dịch vụ nông nghiệp khác. Ngành nông nghiệp với đặc trưng là là gắn liền với đời sống nông thôn là nguồn cung cấp lao động chính cho các ngành công nghiệp và dịch vụ. Với hơn 70% dân số sống ở nông thôn (tính đến năm 2006 là 72,88%) thì đây chính là nguồn cung lao động lớn cho các khu vực phi nông nghiệp trong nền kinh tế. 5) Cung cấp ngoại tệ thông qua xuất khẩu hàng hóa nông nghiệp: Là một nước nông nghiệp, kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp của Việt Nam luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó có nhiều sản phẩm chiếm giữ mức kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD như gạo, cà phê, cao su… Dó đó, nông nghiệp vẫn là ngành xuất khẩu quan trọng để tăng thu ngoại tệ về cho đất nước. Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam từ năm 2004 - 2007                                                             Đơn vị: nghìn USD Tổng Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 26003 32233 39605 48387 Gạo 941 1399 1306 1458 Cà Phê 594 725 1101 1854 Rau quả 167 234 263 299 Caosu 579 787 1273 1400 Hạt tiêu 150 152 190 282 Hạt điều 425 468 505 649 Chè 93 100 111 131 Lạc 27 33 10.5 - Thủy sản 2379 2741 3364 3792 Gỗ 1054 1517 1094 2364 Nguồn: Tổng cục thống kê, 2007 6) Là ngành có vai trò quan trọng để bảo vệ môi trường sinh thái: Do việc gắn với tự nhiên nên phát triển sản xuất nông nghiệp có vai trò quan trọng trong đảm bảo môi trường sinh thái. Phát triển nền nông nghiệp sạch, sử dụng đất có hiệu quả gắn với chống lãng phí tài nguyên đất, đồng thời phát triển các nông – lâm trường theo hướng kinh doanh trang trại sẽ góp phần cải thiện môi trường sống và hướng tới phát triển bền vững. 1.3.2. Vai trò của FDI đối với sự phát triển của ngành nông nghiệp 1) Bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp: FDI là nguồn bổ sung vốn cho quá trình phát triển khi mà nguồn trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu, đối với ngành nông nghiệp nó lại có vai trò quan trọng hơn khi do đặc điểm của ngành nông nghiệp mà nguồn vốn vào ngành này lại càng trở nên ít ỏi. Trong 5 năm từ năm 2002 đến 2007, tổng vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn khoảng 113.116 tỷ đổng, chỉ đáp ứng được 17% nhu cầu, và chiếm một con số khiêm tốn trong tổng đầu tư cả nước (8.7%), chưa kể số vốn sử dụng chưa hiệu quả. Như vậy, nhu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp là rất lớn nhưng nguồn trong nước vẫn chưa đáp ứng được. Đặt ra vấn đề phải tăng cường thu hút vốn từ nước ngoài vào. Hiện nay, tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài vào trong ngành nông nghiệp là chưa cao (chiếm tỷ trọng khoảng 6,7% tỷ trọng vốn đầu tư FDI đăng ký cả nước) nhưng vẫn là nguồn lớn hỗ trợ cho nông nghiệp nước nhà. 2) Góp phần chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, đa dạng hóa và nâng cao giá trị sản phẩm: Mặc dù nguồn vốn đầu tư còn hạn chế song, các dự án FDI đã góp phần không nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn, nâng cao giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt Nam, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh khi tham gia hội nhập. Với 758 dự án đã và đang triển khai, lĩnh vực FDI trong nông nghiệp đem lại doanh thu hàng năm khoảng 312 triệu USD, xuất khẩu trên 100 triệu USD/năm và tăng mạnh trong thời gian gần đây. 3) Tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều lao động: Tuy các dự án đầu tư FDI vào nước ta là không lớn (khoảng hơn 950 dự án nông nghiệp trên cả nước so với tổng 8900 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cả nước) và số vốn mỗi dự án còn hạn chế nhưng các dự án này đã tạo ra công ăn việc làm, thu nhập ổn định cho khoảng 75 nghìn lao động trực tiếp tham gia cho các nhà máy, các khu chế xuất…, đồng thời còn giúp hàng vận hộ nông dân tham gia lao động tạo nguồn nguyên liệu thường xuyên cho dự án hoặc theo mùa vụ (trồng mía đường, khoai mì…), góp phần quan trọng thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo. Tính trung bình, ĐTNN vào nông nghiệp nói chung tạo ra tỷ lệ việc làm gián tiếp so với việc làm trực tiếp rất cao 34,5/1. Đặc biệt, ở một số địa phương, dự án ĐTNN tạo việc làm cho khoảng 1/4 dân cư trên địa bàn. Tuy nhiên, dù số lao động trong nông nghiệp và nông thôn vẫn chiếm tỉ cao tới gần 60% so với lao động chung của cả nước nhưng số lao động qua đào tạo nghề trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chỉ chiếm 13% trong số đó. Trong khi đó, hầu hết các dự án ĐTNN được triển khai tại các vùng nông thôn hoặc vùng lân cận đô thị, nhưng nguồn nhân lực tại chỗ đạt chất lượng, đủ trình độ đáp ứng yêu cầu nhà đầu tư lại quá thiếu, dù rằng số lượng đang quá dư dôi. Đòi hỏi trong thời gian tới phải tăng cường công tác đạo tạo lao động nông thôn đáp ứng nhu cầu phát triển ngành nông nghiệp và tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài 4) Tạo điều kiện cho nông sản nước ta có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới: Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có lợi thế về hệ thống phân phối của họ trên thị trường thế giới. Khi có sự tham gia của họ vào ngành nông nghiệp, thì tăng thêm cơ hội cho nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới. Đồng thời, với các dự án của các nhà đầu tư nước ngoài, thì giá trị của nông sản cũng được nâng cao, tăng thêm giá trị xuất khẩu. 5) Một số vai trò khác: Góp phần cải thiện công nghệ, kĩ thuật nông nghiệp nông thôn thông qua chuyển giao công nghệ; Cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn; Góp phần nâng cao việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên của ngành nông nghiệp. Việc tăng cường thu hút vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp sẽ tạo điều kiện cho ngành sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên đất - rừng - sông, hồ, biển… do có điều kiện đầu tư cho sản xuất, giảm thiểu tình trạng lãng phí tài nguyên đang diễn ra ở nhiều nơi do không có điều kiện đầu tư hoặc sử dụng không đúng cách. Hơn thế nữa, việc tăng  cường đầu tư cũng góp phần khai thác thế mạnh của vùng, tạo nên sản phẩm mang tính đặc sẳn, vừa nâng cao giá trij sản phẩm, vừa sử dụng tối đa nguồn tài nguyên nông nghiệp. Như vậy, ta có thể thấy rằng, là một ngành kinh tế chính của đất nước, nông nghiệp Việt Nam có vai trò quan trọng đối với cả kinh tế lẫn trong cả đời sống xã hội. Tuy nhiên, do những đặc điểm gắn liền với cách thức sản xuất của ngành mà ngành nông nghiệp vẫn chưa có được sự đầu tư thích đáng cho nhu cầu phát triển. Chính vì vây, yêu cầu phải tăng thêm thu hút đầu tư của từ nguồn trong nước và nước ngoài để tạo điều kiện cho ngành phát triển nhanh hơn và bền vững hơn. Yêu cầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thu hút công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại vào phát triển ngành là một yêu cầu khách quan đòi hỏi trong thời gian tới, Việt Nam phải có những chính sách, biện pháp, phương hướng tăng cường thu hút vốn FDI vào ngành nông nghiệp. 1.4. KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP CỦA MỘT SỐ NƯỚC 1.4.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành nông,  lâm, ngư nghiệp: chính phủ Trung Quốc thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư và các biện pháp khuyến khích cho đầu tư vào những dự án đầu tư vào ngành này, đặc biệt là các chính sách ưu đãi về thuế: ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (các mức thuế cũng được phân chia theo lĩnh vực đầu tư, vùng lãnh thổ đầu tư, công nghệ sử dụng, tỷ trọng lao động, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm…mà áp dụng các mức thuế suất, mức miễn giảm thuế khác nhau). Chích sách này có tác dụng to lớn khi tác động trực tiếp đến lợi nhuận mong muốn mà nhà đầu tư hi vọng  nhận được, nó cũng khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào những lĩnh vực mà chính phủ mong muốn phát triển nhưng chưa có điều kiện, ngành nông nghiệp là ngành có nhiều sự ưu tiên khi có mức miễn giảm thuế, đặc biệt đối với các vùng khó khăn, còn được miễn thuế hoàn toàn. Các chính sách miễn giảm thuế cũng phụ thuộc vào độ dài của các dự án đầu tư, do đó mà làm tăng tính bền vững và hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài.  Thực hiện nguyên tắc tự do hóa đầu tư: Với chính sách này, chính phủ Trung Quốc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào các lĩnh vực mà trước đây vẫn còn chưa mở cửa. Với chính sách này, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ cảm thấy được “đối xử” công bằng so với các nhà đầu tư trong nước, tạo môi trường đầu tư tự do và lành mạnh.   Bên cạnh các chính sách trên, Trung Quốc vẫn áp dụng một số quy định cấm hoặc hạn chế nhất định nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và truyền thống văn hóa dân tộc, bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên… Mặc dù thực hiện chính sách đa dạng hóa các loại hình đầu tư, chủ đầu tư, song đối với dự án vào các lĩnh vực phát triển và sản xuất ngũ cốc (bao gồm cả khoai tây), bông và cây lấy dầu, các loại thuốc gia truyền của Trung Quốc thì có sự hạn chế trong hình thức đầu tư: chỉ cho phép đầu tư với hình thức doanh nghiệp liên doanh và hạn chế tỷ lệ sở hữu nước ngoài không được chiếm tỷ lệ đa số. Chính sách này đảm bảo cho các sản phẩm nông nghiệp chính, các sản phẩm đặc trưng dân tộc không bị phụ thuộc vào nước ngoài.   Chính phủ Trung Quốc đặc biệt chú trọng đến bảo vệ môi trường, đặc biệt không cấp phép cho những dự án đầu tư có tác động đến nguồn tài nguyên và ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Cùng với các chính sách ưu đãi và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là vào lĩnh vực nông nghiệp, chính phủ Trung Quốc cũng có những chính sách nhằm kiểm soát mạnh mẽ, đảm bảo cho các dự án đầu tư mang lại lợi ích tối đa mà không gây ảnh hưởng đến an ninh lương thực, sản xuất trong nước, văn hóa dân tộc và tài nguyên môi trường, đảm bảo cho sự phát triển tự chủ của nền nông nghiệp nước nhà. 1.4.2. Kinh nghiệm của Thái Lan Thái Lan đặc biệt áp dụng chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế nhập khẩu đối với các chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Các dự án FDI trong nông nghiệp được miễn giảm đến 50% thuế nhập khẩu đối với các loại máy móc, thiết bị để thực hiện dự án mà được cơ quan quản lý đầu tư công nhận là thuộc loại thiết bị được khuyến khích đầu tư. Riêng đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt khó khăn và có sản phẩm xuất khẩu, được miến hoàn toàn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm. Đối với các dự án đầu tư và các lĩnh vực như trồng lúa, trồng trọt, làm vườn, chăn nuôi gia súc, các dự án về khai thác lâm sản, hải sản, khai thác muối… trong lãnh thổ Thái Lan thì có biện pháp hạn chế chặt chẽ, chỉ cho phép đầu tư đối với những dự án được hội đồng đầu tư cho phép, trong những dự án này cũng chỉ cho phép với hình thức liên doanh và các nhà đầu tư nước ngoài không được nắm phần sở hữu đa số. Thái Lan cũng hạn chế đầu tư nước ngoài trong những ngành nghề nhất định mà chưa thực sự sẵn sàng hợp tác với nước ngoài như: sản xuất bột mỳ, đánh bắt thủy sản, khai thác lâm sản… Là một quốc gia có nền nông nghiệp tương đồng với Việt Nam,thậm chí có những điều kiện còn hạn chế hơn so với Việt Nam, tuy nhiên, Thái Lan đã vươn lên trở thành một nước đứng đầu về xuất khẩu nông sản và với giá trị nông sản xuất khẩu cao hơn hẳn so với Việt Nam. Nguyên nhân có được điều đó là do Thái Lan đã biết định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việc khai thác đặc sản của từng vùng thậm chí cả những vùng khó khăn nhất. Chính chính sách này đã làm cho nền nông nghiệp Thái Lan có được những lợi thế về chất lượng và giá cả trên thị trường nông sản thế giới và hơn nữa, nông sản Thái Lan đã tạo được một thương hiệu tốt trên thị trường, điều mà nông sản Việt Nam vẫn đang tìm kiếm. 1.4.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Cần có một định hướng chiến lược đúng đắn về phát triển ngành nông nghiệp cũng như định hướng đầu tư FDI vào ngành, để cho nhà đầu tư xác định được phương hướng phát triển của ngành trong thời gian tới và có những quyết định đầu tư hợp lý. Có những chính sách miễn giảm thuế phù hợp để tăng thêm tính hấp dẫn về lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư,tuy nhiên những chính sách này vẫn phải thỏa mãn đáp ứng nguồn thu cho ngân sách, lại vừa khuyến khích được việc phát triển ở những lĩnh vực, những tỉnh, những khu vực mà điều kiện phát triển nông nghiệp còn hạn chế.  Có chính sách thuế nhập khẩu hợp lý đối với hàng hóa là công nghệ, để khuyến khích nhập khẩu những công nghệ hiện đại, phù hợp với điều kiện sản xuất trong nước và góp phần cải thiện công nghệ của nước nhà.   Có chính sách ưu đãi đặc biệt với các dự án xuất khẩu nông sản phẩm như các ưu đãi về thuế thu nhập, thuế nhập khẩu, thuế sử dụng đất…   Mở cửa mở rộng đầu tư, đa dạng hóa các hình thức đầu tư, các  chủ đầu tư để tận dụng thế mạnh của từng loại hình, từng chủ đầu tư.   Tuy vậy, cũng cần có những hạn chế nhất định đối với các dự án đầu tư nước ngoài. Đặc biệt không chấp nhận đầu tư đối với các dự án liên quan đến chính trị - an ninh quốc gia, dự án gây những ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích cộng đồng; môi trường sinh thái; đến lối sống, văn hóa truyền thống của dân tộc, thuần phong mỹ tục. Hạn chế đối với các dự án vào các lĩnh vực có tính nhạy cảm. Đối với những ngành mà sản phẩm có tính chiến lược chiếm vị trí quan trọng, cần có những cân nhắc khi ra quyết định đầu tư, trong trường hợp cần thiết có thể đóng cửa đầu tư để đảm bảo lợi ích quốc gia. Chương 2 HIỆU QUẢ CỦA FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN 2.1. CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN GIAI ĐOẠN QUA 2.1.1. Mục tiêu tổng quát của các chính sách thu hút FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 – 2010 đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là “duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng phát triển, thu nhập thấp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH; nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, khai thác có hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại”. Để cụ thể hóa chiến lược nói trên đối với lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp và phát triển nông thôn, Quyết định số 150/2005/QĐ-TTG ngày 20/06/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm, thủy sản của cả nước đến năm 2000 đã xác định mục tiêu cụ thể là “ xây dựng một nền nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản) hàng hóa mạnh, đa dạng và bền vững dựa trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh; áp dụng khoa học, công nghệ, làm ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường quốc tế; nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, lao động và nguồn vốn; tăng nhanh thu nhập và đời sống của nông dân, ngư dân, diêm dân và người làm nghề rừng. Để thực hiện mục tiêu nói trên đồi hỏi phải huy động tối đa mọi nguồn lực, trong đó có nguồn vốn FDI để góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa nông sản có chất lượng và hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường trong nước và thị trường quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên (đất đai, lao động và nguồn vốn), nâng cao thu nhập trên một đơn vị ha đất canh tác, cải thiện đời sống của nông dân. Nhu cầu đó ngày càng trở nên bức xúc trong bối cảnh việc huy động nguồn vốn ngân sách Nhà nước còn hạn chế, nguồn vốn ODA có xu hướng giảm sút trong những năm gần đây; việc huy động nguồn vốn từ các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình gặp nhiều khó khăn…. Trên tinh thần đó, Kế hoạch nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 -2010 đã xác định kế hoạch huy động vốn đầu tư phát triển của toàn ngành là 144790 tỷ đồng; trong đó: Bảng 3: Kế hoạch huy động vốn đầu tư phát triển cho nông lâm ngư nghiệp thời kỳ 2006 - 2010 TT Hình thức vốn Cơ cấu (%) TT Vốn ngân sách Nhà nước 26,0 1 Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước 2,0 2 Vốn ODA 9,0 3 Vốn của các doanh nghiệp và KTTT 34,0 4 Vốn của hộ gia đình 18,0 5 Vốn ĐTNN 11,0 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2006 Nguồn vốn dự kiến huy động chiếm 7% tổng giá trị vốn thực hiện. Như vậy, so với kế hoạch huy động vốn ĐTNN vào tất cả các lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp thời kỳ 2006 – 2010 (vốn thực hiện đạt 19 -20 tỷ USD, vốn đăng ký mới đạt khoảng 22 tỷ USD), nguồn vốn dự kiến huy động cho lĩnh vực này chiếm 7% tổng giá trị vốn thực hiện. Việc xác định chủ trương thu hút ĐTNN trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn dựa trên những quan điểm và tiêu chí sau: Phù hợp với quy hoạch và cơ cấu kinh tế ngành, vùng, lãnh thổ, quy hoạch vùng nguyên liệu, bảo vệ môi trường. Tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng đất theo hướng: tạo ra nhiều giá trị kinh tế cho xã hội nói chung; đáp ứng cao nhất lợi ích riêng cho người sử dụng; không làm suy thoái, cạn kiệt các chất dinh dưỡng cần thiết đã có trong đất. Sử dụng nguyên vật liệu địa phương và tạo thêm công ăn việc làm cho nông dân, ngư dân. Có tính khả thi cao về địa điểm, thị trường tiêu thụ sản phẩm,nguồn nguyên liệu…; theo đó, việc quy hoạch và phát triển các vùng nguyên liệu phải gắn liền với việc xây dựng các cơ sở sản xuất chế biến và tiêu thụ có quy mô lớn và công nghệ cao, đảm bảo khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Kết hợp các dự án quy mô lớn , có tác động quan trọng đến nền kinh tế nói chung và với ngành nông nghiệp nói riêng với các dự án có quy mô vừa ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để đảm bảo cơ cấu kinh tế vùng, ngành. Mặt khác, cần xác định rõ vai trò và vị trí của nguồn vốn ĐTNN trong tổng thể chính sách huy động các nguồn lực cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, trong đó, Nhà nước cần giữ vai trò chủ lực trong đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn và hướng dẫn các nguồn vốn của khu vực tư nhân, kể cả tư nhân nước ngoài đầu tư về nông thôn. Theo nguyên tắc đó, cùng với tăng nguồn vốn ngân sách trong nước vào mục tiêu đầu tư cho nông thôn, Nhà nước cần điều chỉnh tăng thêm vốn vay ODA vào nông thôn, trước hết là các vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp tập trung, các làng nghề truyền thống và các làng nghề mới đã và đang hình thành, phát triển trong những năm vừa qua. Nhà nước cần chủ động tính toán nâng tỷ trọng đầu tư ngân sách vào nông thôn, ít nhất là hình thành cho được hệ thống kết cấu hạ tầng cơ bản như đường giao thông, hệ thống thông tin, cung cấp cho đủ điện và nước cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp và các hoạt động dịch vụ kinh tế khác ở nông thôn. Cụ thể, Nhà nước tập trung đầu tư chủ yếu vào các lĩnh vực công cộng, làm những việc mà khu vực tư nhân không thể làm như: + Xây dựng và thực thi các chính sách khuyến khích nông dân, ngư dân và các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh nông, lâm ngư nghiệp đạt hiệu quả, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh. + Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, gồm công trình thủy lợi đầu mối phục vụ phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, kênh trục chính, đường giao thông đến xã, đường dây điện đến trạm hạ thế xã, công trình cung cấp nước sinh hoạt đâu mối, hỗ trợ dân xây dựng kênh mương nội đồng, trường học, bệnh xá, tùy theo điều kiện từng vùng. + Bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng ngập mặn, các công trình phòng chống thiên tai bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai. + Phát triển y tế, giáo dục, văn hóa, tổ chức các dịch vụ công cộng như khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, bảo vệ thực vật, thú y, thủy nông với sự tham gia của nhân dân. + Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, quản lý chất lượng hàng hóa, bảo trợ xã hội, xóa đói giảm nghèo. Đồng thời, Nhà nước cần hỗ trợ các địa phương có cơ sở hạ tầng thấp kém bằng các nguồn vốn ngân sách hoặc vay ưu đãi đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng; cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn, trong đó ưu tiên các vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn; tập trung đầu tư dứt điểm một số công trình trọng điểm để tăng khả năng thu hút vốn ĐTNN. 2.1.2. Nội dung cụ thể của các chính sách thu hút FDI trong nông nghiệp và phát triển nông thôn 2.1.2.1. Ngành nghề khuyến khích đầu tư Theo quy định tại Nghị định 108/2006/NĐ - CP ngày 22/06/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, các dự án thuộc diện đặc biệt ưu đãi đầu tư gồm: trồng, chăm sóc rừng; nuôi trồng nông, lâm, thủy sản trên đất hoang hóa, vùng nước chưa được khai thác; đánh bắt hái sản ở vùng biển xa bờ; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng, vật nuôi mới và có hiệu quả kinh tế cao; sản xuất, khai thác và tinh chế muối. Nghị định này cũng quy định các dự án thuộc diện ưu đãi đầu tư gồm: trồng cây dược liệu; bảo quản nông sản sau thu hoạch, bảo quản nông, thủy sản và thực phẩm; sản xuất nước hoa quả đóng chai, đóng hộp; sản xuất, tinh chế thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản; dịch vụ kỹ thuật trồng cây công nghiệp và cây lâm nghiệp, chăn nuôi, thủy sản, bảo vệ cây trồng, vật nuôi; sản xuất, nhân và lai tạo giống cây trồng và vật nuôi. 2.1.2.2. Chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư a. Thuế thu nhập doanh nghiệp Theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành, các dự án thuộc ngành nghề ưu đãi đầu tư nêu trên được áp dụng thuế suất thuế ưu đãi 20% trong 10 năm, được miễn thuế trong 2 năm và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo. Ngoài ra, mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi hơn (15% trong 12 năm, miễn 2 năm và giảm 50% trong 7 năm tiếp theo) được áp dụng đối với dự án nói trên nếu thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn; dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng ưu đãi cao nhất (10% trong 15 năm, miễn 4 năm và giảm 50% trong 8 năm tiếp theo) Tuy nhiên, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua (và có hiệu lực thi hành từ 1/1/2009) đã thu hẹp đáng kể diện các dự án được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong lĩnh vực nuôi, trồng, chế biến các sản phẩm nông, lâm, thủy sản. Theo đó ưu đãi về thuế thu nhâp doanh nghiệp chỉ áp dụng đối với: + Các dự án trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản của tổ chức được thành lập theo Luật Hợp tác xã + Các dự án cung cấp dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ nông nghiệp + Các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và quỹ tín dụng nhân dân. b. Thuế nhập khẩu Miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để thực hiện dự án sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, nông dược đặc chủng được phép nhập khẩu để thực hiện dự án nông, lâm, ngư nghiệp. Miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản xuất trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất đối với một số dự án nông, lâm, ngư nghiệp thuộc Danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu, bộ phận rời, phụ tùng và vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. c. Thuế giá trị gia tăng Theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng, một số sản phẩm nông, lâm, thủy sản và dịch vụ phục vụ nông nghiệp được miễn thuế giá trị gia tăng gồm: + Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường c._.ng suất, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế. FDI đã góp phần hình thành các khu công nghiệp mới trong nông thôn. FDI góp phần tạo việc làm, nâng cao mức sống dân cư nông thôn; đến nay các dự án ĐTNN vào lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp đã thu hút khoảng 140000 lao động trực tiếp, chưa kể số lượng lớn các lao động thời vụ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực tế thu hút và sử dụng FDI còn có nhiều mặt hạn chế. Tỷ trọng ĐTNN còn thấp và thiếu ổn định; chưa phát huy huy đầy đủ tiềm năng, thế mạnh trong ngành trồng trọt và chế biến nông sản, ĐTNN có xu hướng tập trung vào việc khai thac tiềm năng, nguồn lực sẵn có về đất đai, lao động. Phân bổ nguồn vốn ĐTNN không đồng đều giữa các địa phương, chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi như miền Đông Nam Bộ (54%), trong khi có tác động rất hạn chế đến khu vực miền núi phía Bắc (4%), đồng bằng sông Hồng (5%). Đối tác nước ngoài tham gia đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn thiếu tính đa dạng; cho đến nay, đã có các nhà đầu tư từ trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam nhưng đối tác nước ngoài trong lĩnh vực này vẫn chủ yếu là các nhà đầu tư từ châu Á. Như vậy có thể thấy, việc thu hút, quản lý và sử dụng FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp nhưng chưa thực sự hiệu quả và tương xứng với vai trò của nền nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này thì nhiều, tuy nhiên có thể thấy một số nguyên nhân chính như sau: - Thủ tục hành chính, hành lang pháp lý trong việc thu hút và quản lý FDI còn quá phức tạp, rườm rà nhiều khi gây khó hiểu thậm chí gây hiểu nhầm cho các nhà đầu tư; một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật chung và luật chuyên ngành; thu tục cấp phép chưa nhanh chóng, còn nhiều phức tạp. - Cơ sở hạ tầng sản xuất yếu kém, đặc biệt là hạ tầng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn như đường giao thông, điện, cấp thoát nước, cơ sở hạ tầng cảng biển. - Nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư còn nặng về hình thức và tính thời điểm, chưa chú trọng đến chiến lược vận động dài hạn và tới nhiều đối tượng đầu tư khác nhau. - Chưa có chiến lược, quy hoạch ngành rõ ràng cả về quy hoạch vùng sản xuất và quy hoạch nguồn lực. Điều này dẫn đến có những lĩnh vực có quá nhiều nhà đầu tư, nhưng có những lĩnh vực lại quá ít nhà đầu tư; nơi hấp thụ không hết vốn, nơi thì thiếu vốn. - Công tác thẩm định, xét duyệt thầu còn lõng lẻo; giám sát thực hiện các dự án đầu tư còn xem nhẹ và không cương quyết xử lý khi có sai phạm trong quá trình thực hiện. - Năng lực của cán bộ công chức có liên quan đến quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng (không đủ năng lực), thậm chí còn gây nhũng nhiễu cho các nhà đầu tư. Lượng lượng lao động trong nông thôn tuy nhiều nhưng chất lượng còn thấp (hiện nay có tới 77% số người trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo). - Chính sách đất đai, giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập; do quy định của Luật Đất đai nên việc sử dụng đất, thuê đất, giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư đang khó khăn, chậm chạp, nhiều tranh chấp; đất đai manh muốn khó cho các dự án khi sử dụng đất phát triển vùng nguyên liệu... - Các chính sách tín dụng, chính sách đầu tư còn mang nặng tính phân biệt giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước; việc áp dụng một số ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, đặc biệt là các ưu đãi nhằm khuyến khích sản xuất hàng nông sản xuất khẩu và sử dụng nguyên liệu trong nước không còn phù hợp. Những khó khăn vừa nêu sẽ là một thách thức rất lớn đối với việc thu hút và sử dụng hiệu quả FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trong khi, vai trò của các dự án ĐTNN trong lĩnh vực này đếu có tác động quan trọng đối với việc thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm góp phần thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn mà Đảng và Chính phủ đã đề ra. Do đó, các giải pháp để tháo gỡ vấn đề này, đón đầu được dòng di chuyển đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới luôn được các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách quan tâm. 3.2. NỘNG DUNG CỦA CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ FDI TRONG LĨNH VỰC NN VÀ PTNT ĐẾN NĂM 2015 Từ các căn cứ khoa học, pháp lý và thực tiễn cho thấy, để nâng cao hiệu quả vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2015, Việt Nam cần tập trung vào 2 nhóm giải pháp cơ bản đó là nhóm giải pháp thu hút hiệu quả FDI và nhóm giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả FDI. Nội dung cụ thể của hai nhóm giải pháp này như sau: 3.2.1. Các giải pháp thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn Để thu hút một cách có hiệu quả các nhà đầu tư quốc tế (các dòng vốn FDI) đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, cần phải thực hiện một cách đồng bộ và triệt để các giải pháp sau đây: 3.2.1.1. Tiếp tục đổi mới chính sách cải thiện môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh Thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với việc thu hút đầu tư. Thủ tục quá phức tạp, rườm rà nhiều khi gây khó hiểu thậm chí hiểu nhầm dẫn đến không thu hút được các nhà đầu tư và khó thực hiện khi đã quyết định dự án đầu tư. Ngoài ra, thủ tục đầu tư rườm rà, phức tạp tạo ra những khe hở để quan chức địa phương sách nhiễu gây phiền hà hoặc đòi ăn hối lộ, gây thiệt hại đến lợi ích và làm nản lòng các nhà đầu tư. Hiện nay, hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư và kinh doanh vẫn còn một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật chung và luật chuyên ngành; thu tục cấp phép chưa nhanh chóng, còn nhiều phức tạp. Điều này đã tạo ra sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế trong nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; tạo ra cách hiểu khác nhau với cùng một vấn đề nên gây khó khăn cho việc xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án. Do đó, Chính phủ nên giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các bộ chuyên nghành, các địa phương tiếp tục rà roát, điều chỉnh lại những điểm đang còn bất cập trong các văn bản pháp luật, chính sách hiện hành nhằm tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch và thu tục nhanh gọn tạo ấn tượng để các nhà đầu tư ra quyết định đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thay vì đầu từ vào lĩnh vực khác hoặc cùng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nhưng lại ở nước khác. Kinh nghiệm quốc tế những năm qua cũng cho thấy, mức độ thông thoáng như nhau, tính hấp dẫn do luật đầu tư mang lại cao như nhau, nhưng ở nước nào có thủ tục đơn giản, gọn nhẹ thì ở đó thu hút vốn đầu tư mạnh hơn. Chẳng hạn trong một số nước ở khu vực, Thái Lan là nước thực hiện đơn giản hóa thủ tục đầu tư khá mạnh. Cơ quan hợp tác đầu tư là cửa duy nhất tiếp nhận hồ sơ và giải quyết công việc tiếp theo, đồng thời thay mặt các nhà đầu tư đi liên hệ với các cơ quan hữu quan, rồi trả lời các nhà đầu tư, tạo điều kiện rất thuận lợi cho họ. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho Thái Lan trở thành một nước thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất trong khu vực. 3.2.1.2. Nâng cấp cơ sở hạ tầng sản xuất Hiện nay, sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng sản xuất như đường giao thông, hệ thống cảng biển, nguồn điện, nguồn nước, thông tin... đang là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư. Thông thường các nhà đầu tư sẽ tính toán từ việc thực hiện tiến độ xây dựng công trình dự án đến việc vận chuyển nguyên liệu đầu vào cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nếu hệ thống cơ sở hạ tầng không đảm bảo, các nhà đầu tư sẽ lo ngại, thậm chí có muốn cũng không thể đầu tư được. Để thu hút mạnh hơn nữa đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nhà nước cần đầu tư toàn bộ, hay có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp để xây dựng mới hoặc nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Trong các hạng mục của hạ tầng sản xuất, đặc biệt cần coi trọng đến các tuyến đường giao thông giữ vai trò kết nối liên thông giữa các vùng có lượng hàng hoá lớn đến các đường các bến cảng bốc xếp tiêu thụ. Trong những năm qua, chúng ta chưa chú trọng thu hút các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp có vốn ĐTNN đang hoạt động ở nông thôn bỏ một phần lợi nhuận để đầu tư vào các công trình hạ tầng. Do vậy ở nhiều vùng sản xuất hàng hóa, đường giao thông và các kết cấu hạ tầng khác đang quá tải xuống cấp nhưng không được tu bổ và nâng cấp. Để khắc phục tình trạng này phải có cơ chế, chính sách thu hút vốn của doanh nghiệp và các chủ thể khác đang tham gia kinh doanh tại chỗ cùng bỏ vốn cải tạo, nâng cấp các công trình kết cấu hạ tầng nông thôn. Bên cạnh việc huy động nguồn vốn Nhà nước là chủ yếu để phát triển hạ tầng nông nghiệp và nông thôn, cần khuyến khích doanh nghiệp có vốn ĐTNN tham gia mở rộng hạ tầng nông thôn theo hướng nâng cấp, tu bổ hệ thống tưới, tiêu, đê điều; xây dựng mới công trình thủy lợi cấp nước sản xuất và sinh hoạt ở các vùng trọng điểm thường bị hạn, lũ lụt đe dọa; áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm phù hợp với từng vùng sinh thái; xây dựng cơ chế quản lý hệ thống hạ tầng để tăng hiệu quả khai thác. 3.2.1.3. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư Đổi mới về cơ bản nội dung cũng như phương thức vận động, xúc tiến đầu tư; coi việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai dự án là biện pháp tốt nhất để xây dựng hình ảnh, nâng cao sự hiểu biết của nhà đầu tư nước ngoài về sức hấp dẫn và cạnh tranh của Việt Nam. Việc tạo điều kiện thuận lợi để triển khai có hiệu quả các dự án FDI đã được cấp phép đầu tư sẽ là biện pháp tốt nhất để xây dựng hình ảnh, nâng cao sự hiểu biết của nhà ĐTNN trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở Việt Nam, cùng với đó là gián tiếp thúc đẩy nền nông nghiệp và nông thôn phát triển. Cụ thể giải pháp để thực hiện vấn đề này là: Cần nhanh chóng xây dựng kế hoạch và chương trình vân động đầu tư cụ thể ở trong nước và ngoài nước, tập trung vào các ngành, dự án và đối tác đầu tư trọng điểm cần thu hút FDI. Phải bố trí đủ ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực này thành một khoản chi riêng nằm trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Cần xem xét xây dựng Quỹ xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp trên cơ sở ngân sách Nhà nước cấp (trích từ nguồn thu của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN) kết hợp với huy động đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp. Cần triển khai nghiên cứu tiềm năng, thế mạnh của các nước, vùng lãnh thổ cũng như của nhà ĐTNN trong việc đầu tư vào lĩnh vực này để có chính sách, cơ chế vận động thích hợp. Kết hợp hoạt động xúc tiến đầu tư với hoạt động xúc tiến thương mại tổ chức tại các thị trường trọng điểm qua các hội trợ, triển lãm, hội thảo chuyên ngành… Cần đổi mới và nâng cao chất lượng các ấn phẩm tuyên truyền ĐTNN nói chung và đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp nói riêng (bao gồm Sách hướng dẫn đầu tư, Danh mục dự án gọi vốn ĐTNN....) nhằm tạo sức hấp dẫn ban đầu của nhà đầu tư nước ngoài. 3.2.2. Nhóm giải pháp quản lý và sử dụng vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn Để quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, cần phải thực hiện một cách đồng bộ và triệt để các giải pháp sau đây: 3.2.2.1. Cải cách hành chính trong quản lý vốn đầu tư nước ngoài Thực hiện sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước tạo ra sự đột phá về tổ chức để khắc phục sự chồng chéo trong quản lý vốn đầu tư nước ngoài như hiện nay. Chủ trương phân cấp là đúng nhưng trong điều kiện hệ thống quy hoạch chưa đồng bộ, năng lực quản lý ở một số địa phương còn yếu, việc phân cấp phải gắn với nâng cao năng lực. Không thể phân cấp đồng bộ như nhau mà phải tuỳ theo năng lực của chính quyền địa phương để đảm bảo hiệu quả kinh tế cho các dự án. Trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng như hiện nay, việc thu hút vốn FDI nói chung và thu hút FDI vào nông nghiệp nói riêng càng trở nên khó khăn hơn. Song không nên vì sức ép đạt mục tiêu vốn đăng ký mà cấp phép tràn lan, không quan tâm tới chất lượng dự án. Trước tiên, hãy tạo thuận lợi cho những nhà đầu tư đã được cấp giấy phép giải ngân nhanh chóng. Để đảm bảo khả năng giải ngân tốt, trong điều kiện hiện nay, các bộ ngành cần ra soát phân các dự án đầu tư ra làm ba loại: một là các dự án có triển vọng thực hiện, những dự án này nếu gặp khó khăn thì các bộ, ngành nên giúp đỡ. Với những dự án thu hẹp phạm vi, dãn tiến độ, các bộ ngành cần xem họ bao giờ làm, thu hẹp như thế nào, cùng với họ có kế hoạch cụ thể,  không nên để DN muốn làm lúc nào cũng được. Với những dự án không có khả năng thực hiện, cần kiên quyết rút giấy phép, không nên chờ đợi như cách chúng ta đã chờ đợi việc thực hiện của rất nhiều dự án kéo dài từ 2001 đến nay mà không có động tĩnh gì. Từ khi Chính phủ phân cấp trong việc cấp phép và quản lý lĩnh vực FDI cho chính quyền địa phương, nhiều chính quyền địa phương đã đặt lợi ích địa phương lớn hơn lợi ích quốc gia, chạy theo thành tích  dẫn đến tình trạng cấp phép tràn lan làm mất cân đối chung, gây thiệt hại cả về kinh tế và tài nguyên thiên nhiên, gây xáo trộn và ảnh hưởng môi trường. 3.2.2.2. Xây dựng chiến lược và quy hoạch dài hạn Trong lĩnh vực nông lâm, ngư nghiệp và phát triển nông thôn, hạn chế lớn nhất là chưa có quy hoạch rõ ràng cả về quy hoạch vùng sản xuất và quy hoạch nguồn lực. Điều này dẫn đến có những lĩnh vực có quá nhiều nhà đầu tư, nhưng có những lĩnh vực lại quá ít nhà đầu tư; nơi hấp thụ không hết vốn, nơi thì thiếu vốn. Điều này đã gây ra sự phát triển thiên lệch, thiếu đồng bộ giữa các ngành và các địa phương trong cả nước, giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó, Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và PNTN phối hợp với các bộ ngành và địa phương xây dựng chiến lược phát triển nền nông nghiệp trong toàn quốc; rà soát, lập quy hoạch từng ngành, sản phẩm, trong đó xác định rõ ràng mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển, đặc biệt là phương án huy động vốn đầu tư của từng thành phần kinh tế khác nhau trong đó có vốn đầu tư nước ngoài một cách dài hạn. Căn cứ vào quy hoạch nói trên, các bộ, ngành và các địa phương cần xây dựng các danh mục dự án ưu tiên kêu gọi vốn ĐTNN với các thông tin cụ thể về mục tiêu, địa điểm, công suất và đối tác Việt Nam để làm cơ sở cho các nhà đầu tư lựa chọn, cũng như làm cơ sở cho chính quyền địa phương quản lý và bố trí lồng ghép các chương trình phát triển khác với FDI có hiệu quả. 3.2.2.3. Thắt chặt công tác thẩm định, quản lý dự án Một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc quản lý đầu tư và xây dựng là quản lý tốt công tác chuẩn bị đầu tư, trong đó có việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư. Thẩm định dự án được xem như một nhu cầu không thể thiếu và là cơ sở để ra quyết định hoặc cấp giấy phép đầu tư. Thực hiện tốt công tác này sẽ định hướng sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả cao và phù hợp với quy hoạch phát triển chung của đất nước. Ngoài ra, cần bổ sung các quy định cải tiến thủ tục đầu tư, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với ĐTNN theo hướng áp dụng từng bước chế độ đăng ký cấp giấp phép đầu tư và giảm thời gian xét duyệt dự án; quy định rõ chế độ thanh tra, kiểm tra, và quyền khiếu nại của doanh nghiệp; áp dụng chế độ khen thưởng và xử lý vi phạm đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Chính phủ chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ chuyên ngành và các địa phương rà soát lại các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang thực hiện để một phần giúp đỡ các nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn, mặt khác thúc giục các nhà đầu tư thực hiện đúng tiến độ cam kết, thậm chí thu hồi quyết định đầu tư khi dự án đầu tư không hiệu quả và trái mục tiêu. 3.2.2.4. Đào tạo nguồn nhân lực Để khắc phục những yếu kém hiện nay của nguồn nhân lực phục vụ các dự án ĐTNN trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, cần phải có chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhiều mặt cho lực lượng lao động hiện tại, cũng như đối với lực lượng lao động tương lai, kể cả cán bộ quản lý Nhà nước về ĐTNN và cán bộ tham gia quản lý doanh nghiệp ĐTNN và người lao động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong lĩnh vực này. Cần triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể sau: + Khẩn trương xây dựng một đội ngũ công chức chuyên nghiệp và hiện đại, cương quyết loại bỏ những cán bộ công chức gây phiền hà, nhũng nhiễu, những người không đủ năng lực thiếu trách nhiệm khi thực thi công vụ liên quan đến đầu tư và đầu tư nước ngoài. + Tăng chất lượng nguồn nhân lực và sử dụng nguồn lực thông qua phát triển hệ thống đào tạo nghề ở nông thôn, hệ thống khuyến nông, khuyến ngư, đào tạo chuyên giao kỹ thuật, kiến thức kinh tế và quản lý sản xuất, kiến thức về thị trường và thông tin. + Tập trung đầu tư đào tạo nghề nông thôn phi nông nghiệp, đặc biệt các nghề chế biến nông lâm thủy sản, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp. + Hỗ trợ việc làm cho nông nghiệp và phi nông nghiệp để đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, coi đây là hướng chuyển dịch quan trọng để tăng thu nhập dân cư nông thôn. + Cải thiện nhanh hệ thống hạ tầng phúc lợi xã hội nông thôn, nâng cao tỷ lệ dân nông thôn tiếp cận với các dịch vụ phúc lợi. 3.2.2.5. Chính sách hỗ trợ, ưu đãi Tiếp tục duy trì và mở rộng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư hiện hành đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp, nhưng cần loại bỏ các tiêu chí áp dụng ưu đãi liên quan đến việc khuyến khích xuất khẩu và ưu tiên sử dụng nguyên liệu trong nước thay thế hàng nhập khẩu. Áp dụng tối đa các hình thức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư được WTO cho phép (bao gồm các biện pháp được áp dụng trong khuôn khổ “ Hộp xanh” và “ Chương trình phát triển”) để khuyến khích các dự án ĐTNN trong lĩnh vực này. Xem xét áp dụng các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư khác cho dự án nuôi, trồng, chế biến các sản phẩm nông, lâm, thủy sản để thay thế ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án này đã bị loại bỏ theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp mới được thông qua gần đây. Tiếp tục áp dụng thuế thu nhập ưu đãi cho các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ sinh học để sản xuất các loại giống mới, dự án phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp, dịch vụ nông thôn. 3.2.2.6. Chính sách tín dụng đầu tư Xem xét lại các điều kiện và thủ tục vay vốn tín dụng đầu tư phát triển (dưới 3 hình thức: cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng) nhằm tạo thuận lợi hơn nữa để các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, không phân biệt doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, tiếp cận một cách thuận lợi với nguồn tín dụng ưu đãi này (hiện có đến 70% dự án và 80% giá trị tín dụng ưu đãi được cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước). Tạo kênh hỗ trợ vốn cho các dự án liên doanh với nước ngoài để đáp ứng nguồn vốn bổ sung cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia góp vốn liên doanh thực hiện một số dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư như giống, sản xuất sản phẩm xuất khẩu…. Áp dụng chính sách hỗ trợ ngân sách hoặc các nguồn vay ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong thực hiện công tác giải tỏa, đền bù đất thỏa đáng; khuyến khích người dân để đưa đất vào góp vốn. 3.2.2.7. Chính sách thương mại và thị trường Để khai thác có hiệu quả những tiềm năng, lợi thế của Việt Nam về nông nghiệp, cần phát triển thị trường nông, lâm, thủy sản đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện mục tiêu đó là đẩy mạnh thực hiện chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 80/2002/QĐ – TTG ngày 24/6/2002. Theo đó, những giải pháp cấp bách cần thực hiện gồm: + Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoặc xây dựng mới quy hoạch sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, nghề muối; hình thành vùng sản xuất nông sản hàng hóa lớn, gắn sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến và thị trường. + Thực hiện tốt chính sách về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đất đai, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, thông tin thị trường; phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác thu mua, tiêu thụ nông sản qua hợp đồng. + Kịp thời xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng tiêu thụ nông sản theo quy định của pháp luật; tiếp tục phổ biến, tuyên truyền pháp luật và các chính sách liên quan đến sản xuất, tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. + Xây dựng chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các mô hình hợp tác giữa hộ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản với các cơ sở chế biến, tiêu thụ, phát triển các tổ chức liên kết cộng đồng những người sản xuất trong ngành hàng. + Hỗ trợ doanh nghiệp, hộ sản xuất có hợp đồng tiêu thụ nông sản thực hiện đề án ứng dụng, đổi mới nâng cao trình độ khoa học công nghệ vay vốn trung và dài hạn từ Quỹ phát triển khoa học công nghệ quốc gia của Bộ và địa phương. Ngoài ra, cần mở rộng hệ thống hoạt động xúc tiêns thương mại; xây dựng sàn giao dịch nông sản; thiết lập hệ thống kinh doanh trên mạng và tăng cường hệ thống thông tin thị trường nông sản. 3.2.2.8. Chính sách đất đai, mặt nước trong nông nghiệp Để thực hiện những khó khăn trong việc sử dụng đất đai của các dự án ĐTNN vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, cần thực hiện các biện pháp sau: + Thức đẩy thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa để tránh tình trạng đất đai bị manh mún như hiện nay. Sớm sửa lại Luật Đất đai để tạo điều kiện trong việc tích tụ đất đai và sử dụng hiệu quả 7 quyền đối với người sử dụng đất. + Thực hiện nhất quán chính sách giao đất, sử dụng sản phẩm rừng trồng cho nhà đầu tư theo hướng vừa quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên rừng, vừa khuyến khích đầu tư, đảm bảo thực hiện cam kết trong việc giao đất thực hiện các dự án trồng rừng, trồng chè; xây dựng quy trình về giao đất, giao rừng để hướng dẫn các địa phương thống nhất thực hiện. Việc giao đất, mặt nước để nuôi trồng thủy sản phải theo quy hoạch đã được phê duyệt và gắn liền với việc bảo vệ môi trường sinh thái. + Hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước hoặc các nguồn vay ưu đãi để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, đặc biệt là đền bù đất cho nông dân để đưa đất vào góp vốn. + Đơn giản hóa thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu rừng để đảm bảo cho rừng và đất rừng có chủ sở hữu cụ thể, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư có tài sản thế chấp khi vay vốn tại các tổ chức cho vay để đầu tư phát triển rừng. + Cho phép nông dân được chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông lâm ngư nghiệp nếu không trái với các yêu cầu bảo vệ vì lợi ích chung của xã hội. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa, đất có rừng tự nhiên, ruộng muối kém hiệu quả sang phát triển nuôi trồng thủy sản phai tuân thủ quy hoạch đã được phê duyệt. Ngoài ra cần tiến hành quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất ở từng địa phương theo yêu cầu mới để khai thác tốt nhất quỹ đất chưa sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng tổng quỹ đất nông nghiệp hiện tại. Theo đó, từng địa phương phải tiến hành quy hoạch lại các mục đích sử dụng đất và xác định kế hoạch sử dụng đất để trên cơ sở đó xem xét cụ thể thực trạng sử dụng đất của từng tổ chức, doanh nghiệp và hộ gia đình ở nông thôn so với các mục đích sử dụng đất được xác định trong quy hoạch, kế hoạch. 3.2.2.9. Giảm thiểu chi phí kinh doanh Việc cải cách quy trình cấp giấy phép kinh doanh sẽ giúp các doanh nghiệp FDI giảm thiểu được chi phí kinh doanh cả trực tiếp và gián tiếp, làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp từ đó sẽ làm tăng hiệu quả thu hút và sử dụng vốn. Việc các doanh nghiệp phải nộp quá nhiều loại phí và lệ phí đã làm cho giá thành sản phẩm bị đội lên đáng kể, dẫn tới sản phẩm không có tính cạnh tranh không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay cả thị trường nội địa. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp, làm giảm nhu cầu đầu tư để sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế các loại phí, lệ phí bất hợp lý cần được loại bỏ hoặc giảm thiểu.Ví dụ bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, bỏ thuế thu nhập do tái đầu tư, các loại cước phí đối với hàng xuất nhập khẩu như phí tắc nghẽn cảng, phí ưu tiên bố trí cầu bến cho tàu… KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Từ việc phân tích thực trạng hiệu quả thu hút và sử dụng vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, tổng hợp kinh nghiệp một số nước liên quan, có thể rút ra một số kết luận như sau: 1) Vai trò của vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn Việt Nam giai đoạn qua đã thực sự là một tác nhân góp phần tạo ra những đột phá trong tăng trưởng nông nghiệp nói riêng, và phát triển nông thôn nói chung. Cụ thể, nó đã góp phần làm tăng GDP nông nghiệp, tạo thêm cơ hội cải tiến trang thiết bị nông nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm; bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, các nhà máy các khu công nghiệp ngày càng nhiều, các dự án lớn trong nông nghiệp ngày càng tăng góp phần chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và nông thôn. 2) Vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn không nhiều so với các lĩnh vực khác, chỉ chiếm khoảng từ 3,3% đến 3,9% trong tổng vốn FDI hàng năm đầu tư vào Việt Nam. Lượng vốn đầu tư hàng năm không có sự biến động nhiều, tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn lại có xu hướng giảm thể hiện qua chỉ số ICOR có xu hướng tăng dần. Điều đó cho thấy, khả năng hấp thụ vốn FDI trong nông nghiệp, nông thôn đã hạn chế. Một số nguyên cơ bản làm cho hiệu quả FDI giảm đó là chưa có quy hoạch và kế hoạch đồng bộ trong thu hút vốn, năng lực quản lý của cán bộ, tay nghề công nhân, cũng như cơ sở hạ tầng kỹ thuật không đáp ứng được so với nhu cầu đầu tư... 3) Khối lượng vốn FDI đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn có sự khác biệt lớn giữa các vùng miền trong nước, cũng như sự khác biệt giữa các lĩnh vực trong nội bộ ngành nông nghiệp, nông thôn. 4) Các đối tác, nhà đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn vẫn chưa đa dạng, chủ yếu là các nước châu Á; chúng ta chưa đủ khả năng thu hút các nhà đầu tư lớn đến từ các nước có tiềm năng và thế mạnh về nông nghiệp như Hoa Kỳ, Canada, Úc... Điều này cho thấy cơ chế chính sách, cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn cũng như khả năng vận động, xúc tiến đầu tư của Việt Nam trong lĩnh vực này vẫn còn rất hạn chế. 5) Để nâng cao hiệu quả thu hút, cũng như sử dụng tốt vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2015, chuyên đề đã đưa ra được 2 nhóm giải pháp đó là nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút FDI (có 3 giải pháp cụ thể) và nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng FDI (có 9 giải pháp cụ thể). 2. Kiến nghị Những giải pháp này cần được thực hiện thường xuyên, liên tục và cần đặt trong tổng thể chính sách phát triển NLN&NT nói chung. Tuy nhiên, trong thời gian trước mắt, cần thực hiện ngay các bước tiếp theo dưới đây: - Rà soát và hoàn thiện quy hoạch từng ngành/sản phẩm - Hoàn thiện Danh mục và Tóm tắt dự án gọi vốn ĐTNN - Bố trí ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư - Nghiên cứu tiềm năng đầu tư của các nước /vùng lãnh thổ - Tổ chức các chương trình vận động đầu tư ở nước ngoài - Soạn thảo các tài liệu, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2002). Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010, Báo Nhân dân, (số 17054, ra ngày 30/3/2002). Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2008). Nghị quyết Số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007). Kỷ yếu Hội nghị tổng kết 20 năm đầu tư nước ngoài tại việt nam, Hà Nội. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2009). Chương trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn". Hồ Sỹ Chi, 1991. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ở tầm vĩ mô. Nhà xuất bản Thống kê. Hà Nội. Chính phủ (2002). Quyết định Số 80/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 24 tháng 6 năm 2002 về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. Chính phủ (2005). Quyết định số 150/2005/QĐ-TTG ngày 20/06/2005 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Chính phủ (2006). Nghị định Số 151/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất của Nhà nước. Chính phủ (2008a). Nghị định số 124/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11 tháng 12 năm 2008 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính phủ (2008b). Nghị quuyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008 về Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính phủ (2009). Nghị quyết Số 13/2009/NQ-CP ngày 7 tháng 4 năm 2009 về định hướng, giải pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới. Nguyễn Quang Huy (2009). Đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 3 năm 2006 - 2008. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 1 - 2009: trang 25 - 29. Phạm Huyền (2009) Thu hút FDI 5 tháng đầu năm giảm 76,3%. Tại website: www.vietnamnet.vn/kinhte/2009/05/849530/. Quốc hội (2006). Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010. Đặng Kim Sơn, 2009. Kinh tế Nông thôn và sứ mệnh giải cứu. tại website: www.kinhtenongthon.com.vn Tổng cục Thống kê (2008). Niên giám thống kê năm 2007. Nhà xuất bản Thống kê. Hà Nội. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2000). Giáo trình kinh tế đầu tư. Nhà xuất bản Thống kê. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2004). Giáo trình Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2006). Giáo trình Kinh tế phát triển. Nhà xuất bản Lao động – xã hội. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2006). Chính sách phát triển kinh tế: Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc Các website: - www.agroviet.gov.vn (Bộ NN & PTNT) - vukehoach.mard.gov.vn (Vụ Kế hoạch – Bộ NN & PTNN) -www.mpi.gov.vn (Bộ Kế hoạch và đầu tư) -www.ipsard.gov.vn (Viện CS và chiến lược PT NNNT) PHỤ LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21279.doc
Tài liệu liên quan