Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Bảo Việt nhân thọ Hà Nội

Lời mở đầu Nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ đó, nền kinh tế Việt Nam cũng đang hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới. Mở cửa hội nhập, một mặt tạo ra cho các doanh nghiệp trong nước rất nhiều cơ hội, nhưng mặt khác cũng đặt ra cho các đơn vị này rất nhiều thách thức. Một trong những thách thức đó là sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài. BVNTHN cũng như các doanh nghiệp khác trong nền

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Bảo Việt nhân thọ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế, đang phải chịu sức ép rất gay gắt từ sự cạnh tranh này. Cạnh tranh không chỉ từ các doanh nghiệp trong nước mà còn các từ các doanh nghiệp nước ngoài. Sự chia sẻ thị phần này đã làm suy giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của đơn vị. Trong môi trường cạnh tranh đó, BVNTHN không thể không đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của đơn vị. Nâng cao năng lực cạnh tranh quyết định không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của BVNTHN. Trong thời gian thực tập tại BVNTHN, nhận thấy sự cấp bách của nâng cao năng lực cạnh tranh. Dưới sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị phòng Marketing và PGS.TS Nguyễn Văn Định em đã chọn đề tài “ Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Chuyên đề thực tập ngòai phần mở đầu và phần kết luận được kết cấu thành 3 chương : Chương 1 : Bảo hiểm nhân thọ và cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Chương 2 : Thực trạng hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội. Chương 3 : Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội. CHƯƠNG I BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ 1.1. Khái Niệm Và Đặc Điểm Của Bảo Hiểm Nhân Thọ Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm trên thế giới. Năm 1583 hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thế giới đã được bán cho một công dân Luân đôn. Năm 1759, công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Philadelphia (Mỹ). Công ty này đến nay vẫn còn hoạt động trên thị trường, tuy nhiên khi mới thành lập nó chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên trong nhà thờ của mình Tại Châu Âu năm 1762 một công ty bảo hiểm ở Anh ra đời và bán bảo hiểm cho mọi người dân trong xã hội. Bắt đầu từ năm này trở đi hầu như người dân nào ở châu âu và bắc mỹ đều biết đến bảo hiểm nhân thọ. Ở Châu Á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản. Tại Việt Nam, năm 1975 công ty bảo hiểm hưng việt ra đời dưới chế độ ngụy quyền cũ, thực chất đây là công ty kinh doanh bảo hiểm nhân thọ nhưng ra đời chưa được hơn một năm thì miền nam Việt Nam hòan tòan giải phóng và công ty này bị xóa sổ. Đến tháng 8-1996, chính phủ cho phép chính thức triển khai loại hình bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam. Trải qua một quá trình phát triển lâu dài cho đến này tại tất cả các châu lục đều có các công ty kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Mọi người đều coi BHNT là giải pháp thực tiễn để có thể đáp ứng những nhu cầu tài chính cho họ: chuẩn bị một tài sản hay một nguồn vốn để bảo vệ sự an tòan tài chính cho gia đình cũng như trang bị cho con em sẽ có một trình độ học vấn cao trong tương lai. BHNT thực chất là bảo hiểm cho tính mạng, tình trạng sức khỏe và những sự kiện có liên quan đến tuổi thọ của con người. “Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết của bên tham gia với bên bảo hiểm mà trong đó bên bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm cho bên tham gia khi người được bảo hiểm gặp phải những rủi ro và những sự kiện bảo hiểm, đổi lại họ sẽ nhận được phí bảo hiểm theo sự cam kết trong hợp đồng”. So với bảo hiểm phi nhân thọ, BHNT có những đặc điểm chủ yếu sau đây : Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. Đây là một trong những đặc điểm đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ khác hẳn với bảo hiểm phi nhân thọ. Khi tham gia BHNT khi người bảo hiểm xảy ra sự kiện bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ có trách nhiệm trả một số tiền ( gọi là số tiền bảo hiểm) cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thỏa thuận từ trước. Ngòai ra BHNT thể hiện tính chất tiết kiệm ở chỗ STBH còn được chi trả như một khoản tiền tiết kiệm trong trường hợp khi đáo hạn người được bảo hiểm không xảy ra rủi ro nào trong thời gian được bảo hiểm. Nội dung tiết kiệm khi mua BHNT khác với các hình thức tiết kiệm khác ở chỗ, người đảm bảo trả cho người tham gia bảo hiểm hay người thân của họ một số tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ. Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm. Nếu như các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng nhằm hạn chế rủi ro thuần túy thì bảo hiểm nhân thọ đã đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau. Mỗi mục đích được thể hiện rõ trong từng loại hợp đồng, trong từng gói sản phẩm, phù hợp với mọi mong muốn và nhu cầu của khách hàng. Ví dụ như sản phẩm an sinh giáo dục không những giúp người tham gia hạn chế tổn thất khi xảy ra sự kiện bảo hiểm từ đó góp phần nhanh chóng ổn định cuộc sống mà còn mang một mục đích vô cùng cao đẹp đó là tiết kiệm để lập quỹ giáo dục cho con cái mang lại cho con cái một tương lai tốt đẹp hơn. Bên cạnh đó còn rất nhiều sản phẩm bảo hiểm nhân thọ khác đáp ứng nhu cầu như khởi nghiệp kinh doanh, mua sắm tài sản, giữ gìn tài sản cho thế hệ sau...Chính vì mục đích đa dạng của bảo hiểm nhân thọ nên loại hình bảo hiểm này có thị trường ngày càng rộng và được rất nhiều người quan tâm. Các loại hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng và phức tạp. Thế nên việc quản lý hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hết sức khó khăn. Tính đa mỗi sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng có nhiều loại hợp đồng khác nhau, chẳng hạn trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có các hợp đồng 10,15. Mỗi hợp đồng với mỗi thời hạn khác nhau, lại có sự khác nhau về số tiền bảo hiểm, phương thức đóng phí, độ tuổi của người tham gia… Về thành phần các bên tham gia trong bảo hiểm nhân thọ cũng phức tạp hơn so với bảo hiểm nhân thọ. Trong mỗi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể có 4 bên tham gia: người bảo hiểm, người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Chính vì tính đa dạng và phong phú này mà khi quản lý hợp đồng bảo hiểm các công ty bảo hiểm cần hết sức chú trọng. Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì vậy quá trình định phí khá phức tạp. Do đặc thù của bảo hiểm nhân thọ là liên quan đến tuổi thọ của con người cho nên thông thường thời hạn của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường là rất dài. Để có thể đưa ra mức phí đối với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ không giống quy trình định giá của các sản phẩm tiêu dùng thông thường khác là dựa vào chi phí thực tế phát sinh mà lại dựa vào các cơ sở khoa học như tuổi thọ bình quân, độ tuổi của người được bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, tỷ lệ lạm phát và thiểu phát của đồng tiền…Chính vì sự chi phối của nhiều yếu tố đến quá trình định giá sản phẩm bảo hiểm nên việc định phí bảo hiểm là phức tạp. Muốn có thể định giá đúng đòi hỏi chuyên gia tính phí bảo hiểm phải nắm vững đặc trưng của mỗi loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích được chiều hướng phát triển của mỗi sản phẩm trên thị trường nói chung. Phí bảo hiểm chính là một trong những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm so với các sản phẩm bảo hiểm tương tự của doanh nghiệp bảo hiểm khác. Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định. Bảo hiểm nhân thọ ra đời từ khá lâu nhưng đến nay không phải hầu hết các quốc gia trên thế giới đều triển khai bảo hiểm nhân thọ, mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. Để lý giải cho điều này, hầu hết các chuyên gia kinh tế trên thế giới đều cho rằng : cơ sở chủ yếu để Bảo Hiểm Nhân Thọ ra đời và phát triển là điều kiện kinh tế - xã hội phải phát triển. Điều kiện kinh tế xã hội như sau : _Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) _Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân 1 đầu người dân _Mức thu nhập của dân cư _Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền _Tỷ giá hối đoái Những điều kiện xã hội bao gồm : _Điều kiện về dân số _Tuổi thọ bình quân của người dân _Trình độ học vấn _Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. Ngòai điều kiện kinh tế - xã hội thì môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của BHNT. 1.2 Đặc Điểm Hoạt Động Kinh Doanh Bảo Hiểm Nhân Thọ Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập cơ bản của nền kinh tế, có tư cách pháp nhân, hoạt động sản xuất và kinh doanh trên thị trường vì mục đích tối đa hóa lợi nhuận và phát triển của xã hội. Theo đó “ DNBH là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của luật KDBH và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến kinh doanh bảo hiểm”. DNBH là một loại doanh nghiệp dịch vụ; hoạt động của nó cũng nhằm mục đích sinh lời. Điểm khác nhau cơ bản giữa DNBH với các doanh nghiệp khác là ở chỗ : DNBH là doanh nghiệp chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm; nó có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm nếu người mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm cho doanh nghiệp. Như vậy ta có thể phân biệt dựa trên đặc điểm họat động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm. Thực tế hiện nay trên thị trường có DBNH phi nhân thọ và DNBH nhân thọ. DNBHNT cũng mang đầy đủ đặc điểm của một doanh nghiệp bảo hiểm và kịnh doanh bảo hiểm có những đặc điểm chủ yếu sau: Hoạt động kinh doanh BHNT có vốn pháp định lớn. Nguồn vốn của DNBHNT bao gồm vốn điều lệ, phí bảo hiểm, lãi đầu tư… Trong đó, vốn điều lệ phải đảm bảo như mức vốn pháp định do luật quy định. Tại Việt Nam hiện nay, theo Nghị định số 46/2007/NĐ-CP quy định mức vốn pháp định của Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tối thiểu là 600 tỷ. Vốn pháp định cao hơn so với các ngành khác là do đặc thù kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh rủi ro. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn phải có dự phòng nghiệp vụ. Bởi lẽ kinh doanh bảo hiểm có sự tích lũy rủi ro, phí bảo hiểm thu được các DNBH phải trích dự phòng bồi thường, dự phòng dao động lớn và dự phòng toán học. Đối với doanh nghiệp BHNT dự phòng nghiệp vụ bao gồm : Dự phòng toán học, đây là quỹ dự phòng lớn nhất và quan trọng nhất. Bởi vì, HĐBH nhân thọ dài hạn sau khi thu phí, DNBH không được sử dụng hết mà phải trích lập dự phòng để trả cho khách hàng khi đáo hạn hợp đồng hoặc người được bảo hiểm bị tử vong. Dự phòng phí chưa được hưởng áp dụng đối với các hợp đồng BHNT ngắn hạn để trả tiền bảo hiểm sẽ phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp đồng ở năm tiếp theo; Dự phòng bồi thường, được sự dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm nhưng chưa được giải quyết cho đến cuối năm tài chính; Dự phòng chia lãi, được sử dụng để chia lãi theo thỏa thuận với bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm; Dự phòng đảm bảo cân đối được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm do có biến động lớn về tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật. Họat động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn gắn kết với hoạt động đầu tư Hoạt động đầu tư là một bộ phận trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động đầu tư vừa góp phần phát triển quỹ tài chính, tạo điều kiện mở rộng quy mô của doanh nghiệp; tăng quỹ phúc lợi, vừa tăng thu nhập cho người lao động; vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn đầu tư phát triển gồm có vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện, các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng, vốn nhàn rỗi từ DPNV bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh phải tuân thủ quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm, các quy định khác của pháp luật có liên quan và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam phải tuân theo các văn bản pháp luật hiện hành như luật doanh nghiệp, luật kinh doanh bảo hiểm, nghị định 45, nghị định 46 và các văn bản luật khác có liên quan. Ngòai ra còn chịu sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Bộ Tài Chính. Tuân thủ pháp luật cũng như các điều ước quốc tế nhằm đảm bảo kinh doanh đúng hướng, đạt hiệu quả cao; đảm bảo lợi ích của người tham gia, lợi ích của DNBH và Nhà nước. 1.3 Các Loại Hình Bảo Hiểm Nhân Thọ Cơ Bản Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau. Đối với những người tham gia mục đích chính của họ hoặc để bảo vệ con cái và những người thân trong gia đình tránh khỏi những nỗi bất hạnh về cái chết bất ngờ của họ hoặc tiết kiệm để đáp ứng các nhu cầu về tài chính trong tương lai…Do vậy, người bảo hiểm đã thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm BHNT, thực chất là đa dạng hóa các loại hình HĐBH nhằm đáp ứng và thỏa mãn mọi nhu cầu của NTGBH. Trong thực tế có 3 loại BHNT cơ bản: _Bảo hiểm trong trường hợp tử vong _Bảo hiểm trong trường hợp sống _Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp Ngòai ra, người bảo hiểm còn áp dụng các điều khoản bổ sung cho các loại hình BHNT. Thực chất, các điều khỏan bổ sung không phải là BHNT vì không phụ thuộc vào sinh mạng, cuộc sống tuổi thọ của con người, mà là bảo hiểm các rủi ro khác có liên quan đến con người. Tuy nhiên, khi tham gia bảo hiểm vẫn thấy rất cần thiết phải tham gia để bổ sung cho hợp đồng cơ bản. Bảo hiểm trong trường hợp sống Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời NTGBH. Nếu người được bảo hiểm (NĐBH) chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào. Bảo hiểm sống có những đặc điểm sau : Là loại hình bảo hiểm hưu trí mang tính tiết kiệm cao và đều được các doanh nghiệp BHNT triển khai loại hình sản phẩm này . Bảo hiểm trong trường hợp sống chỉ chi trả STBH khi NĐBH còn sống. Việc chi trả chi chấm dứt khi NĐBH chết trong thời hạn HĐ hoặc khi hết thời hạn HĐ. STBH được chi trả định kỳ theo tháng, theo quý hoặc theo năm tùy theo thỏa thuận giữa hai bên. HĐBH có thời hạn xác định hoặc không xác định. Phí bảo hiểm có thể đóng một lần khi bắt đầu tham gia BH hoặc đóng định kì nhiều lần trong khoảng thời gian trước khi HĐBH có hiệu lực chi trả. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong Đặc điểm cơ bản của loại hình bảo hiểm này là STBH được chi trả khi NĐBH bị tử vong trong thời hạn hợp đồng, phí bảo hiểm có thể đóng 1 lần khi tham gia ký kết HĐBH hoặc đóng định kì trong suốt thời gian có hiệu lực của HĐBH. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong được chia làm 2 loại : Bảo hiểm tử kỳ Đặc điểm riêng của bảo hiểm tử kỳ là thời hạn bảo hiểm được xác định. Trong bảo hiểm tử kỳ được chia thành nhiều loại : Bảo hiểm tử kỳ cố định là loại hình bảo hiểm tử kỳ có nội dung cố định không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng. Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục là HĐBH tử kỳ mà khi hết thời hạn có thể tái tục mà không cần bất kỳ kiểm tra nào về tình trạng sức khỏe của NĐBH. Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi: là HĐBH tử kỳ trong đó có điều kiện cho phép NTGBH có thể chuyển đổi từ HĐBH tử kỳ sang bất cứ hợp đồng BHNT hỗn hợp, bất cứ thời điểm nào trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nếu như NTGBH có đủ tài chính. Bảo hiểm từ kỳ có STBH giảm dần : đây là loại hình bảo hiểm tử kỳ trong đó cho phép NTGBH có thể tham gia với STBH giảm dần phù hợp với nhu cầu tài chính nếu có rủi ro xảy ra tính vào thời điểm nào đối với NTGBH, từ đó có thể giảm được phí bảo hiểm phải đóng Bảo hiểm tử kỳ có STBH tăng dần : Đây là loại hình bảo hiểm nhằm giúp cho NTGBH có thể ngăn chặn được yếu tố lạm phát của đồng tiền. Có nghĩa là STBH thực trong hợp đồng bị giảm do đồng tiền sụt giá trong 1 khoảng thời gian. Như vậy, loại hình hợp đồng này có đặc điểm là phí bảo hiểm sẽ tăng dần theo STBH và phải dựa vào tuổi tác của NGTBH khi tái tục hợp đồng. Bảo hiểm thu nhập gia đình : loại hình bảo hiểm này nhằm đảm bảo thu nhập cho gia đình khi không may người trụ cột trong gia đình bị chết. Nếu NĐBH còn sống đến hết hạn hợp đồng, gia đình sẽ không được nhận bất kỳ một khoản thanh toán nào từ công ty bảo hiểm. Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên: Loại hình bảo hiểm này cũng nhằm tránh yếu tố lạm phát của đồng tiền. Đảm bảo các khoản thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) cho gia đình không may có NĐBH bị chết, tướng ứng với STBH khi mới ký hợp đồng. Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện : Điều kiện ở đây là : Việc thanh toán trợ cấp chỉ được thực hiện khi người được bảo hiểm bị chết, đồng thời người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định trong hợp đồng phải còn sống. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời ( bảo hiểm trường sinh) Đây là loại hình bảo hiểm trong trường hợp chết nhưng thời hạn bảo hiểm không xác định, STBH được chi trả vào bất cứ thời điểm nào NĐBH bị chết. phí bảo hiểm nhân thọ trọn đời thông thường đóng một lần khi tham gia bảo hiểm hoặc đóng định kỳ một lần trong thời hạn bảo hiểm và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm,do đó đã tạo nên một khoản tiết kiệm cho người thụ hưởng bảo hiểm vì chắc chắn người bảo hiểm chi trả STBH. Hiện nay, vì loại hình này gần giống gửi tiền tiết kiệm nên hầu hết các doanh nghiệp đều không kinh doanh. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là loại hình bảo hiểm kết hợp giữa bảo hiểm tử kỳ và bảo hiểm sinh kỳ. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen nhau. Quyền lợi bảo hiểm của loại hình này là nhà bảo hiểm chi trả số tiền bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm còn sống đến khi hết hạn hợp đồng hoặc chết trong thời hạn hiệu lực hợp đồng. Loại hình bảo hiểm này vừa có yếu tố bảo vệ vừa có yếu tố tiết kiệm. khi người được bảo hiểm sống đến hết hạn hợp đồng, những khỏan tiền phí nộp đều đặn trong thời gian dài cộng với lãi thành một khỏan tiền lớn. khoản tiền này được dùng cho những kế hoạch và dự định lớn trong cuộc đời họ. Còn khi người được bảo hiểm không may bị chết trong thời hạn bảo hiểm thì người được bảo hiểm sẽ thanh toán số tiền bảo hiểm cho người thừa hưởng mặc dù phí bảo hiểm mới đóng được rất ít. Sản phẩm này có một số đặc điểm đặc trưng sau: STBH được chi trả khi NĐBH chết trong thời hạn hợp đồng hoặc khi người được bảo hiểm sống hết hạn hợp đồng. Ngòai ra, các sản phẩm BHNT hỗn hợp cụ thể còn có những điều khoản khác nhau về hoàn phí trong trường hợp NTGBH hoặc NĐBH bị chết trong thời hạn hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn bảo hiểm xác định. Phí bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thể đóng 1 lần khi hợp đồng bắt đầu có hiệu lực hoặc đóng định kỳ hàng tháng, quý, năm với số phí như nhau. Có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được hòan phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Hợp đồng BHNT chính là dự cam kết giữa hai bên, theo đó bên nhận bảo hiểm ( công ty BHNT) có trách nhiệm và nghĩa vụ chi trả cho bên được bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, còn bên được bảo hiểm có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm như đã thỏa thuận theo quy định của pháp luật. bên nhận bảo hiểm chính là các công ty BHNT.Sau khi đã cam kết nhận bảo hiểm, trách nhiệm và nghĩa vụ chủ yếu của công ty chi trả STBH khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm trong BHNT thường bao gồm : _tử vong _ hết hạn hợp đồng _sống đến độ tuổi nhất định Bên nhận bảo hiểm không được phép hủy hay thay đổi các điều khoản trong hợp đồng và cũng không được khiếu nại đòi phí bảo hiểm. Bên được bảo hiểm trong hợp đồng BHNT có thể có 3 người sau đây : Người được bảo hiểm là người mà sinh mạng tình trạng và cuộc sống của họ được bảo hiểm theo các điều kiện của hợp đồng. Người được bảo hiểm có thể là những người đã trưởng thành, có đủ năng lực pháp lý để tự ký hợp đồng chính cho mình và cũng có thể là người chưa đủ tuổi thành niên phải giao tên của mình cho người đứng ra ký HĐBH. Người tham gia bảo hiểm là người đứng ra yêu cầu bảo hiểm, thỏa thuận và ký kết hợp đồng. Người được bảo hiểm phải đảm bảo quy định của pháp luật về năng lực pháp lý. Trong các hợp đồng bảo hiểm cá nhân người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm là 2 người khác nhau chỉ khi người được bảo hiểm chưa đến tuổi vị thành niên. Bố mẹ, ông bà hay người đỡ đầu đứng ra viết giấy yêu cầu bảo hiểm, ký kết hợp đồng và nộp phí bảo h iểm. Hoặc trong trường các HĐBH theo nhóm người được bảo hiểm và người tham gia cũng là hai người khác nhau. Người tham gia bảo hiểm có quyền yêu cầu hủy bỏ HĐBH. Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là người được nhận STBH hoặc các khoản trợ cấp do công ty bảo hiểm thanh toán như đã nêu rõ trong hợp đồng. người được hưởng quyền lợi bảo hiểm do người tham gia bảo hiểm chỉ định. Nếu việc chỉ định không rõ ràng, STBH được giải quyết theo luật thừa kế. Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm thường là người được bảo hiểm, chỉ là người khác khi người được bảo hiểm bị chết. Xác định rõ người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là vấn đề hết sức quan trọng tranh được những tranh chấp khiếu nại… Trong nhiều trường hợp cần chỉ định người được hưởng quyền lợi bảo hiểm thứ nhất và người tiếp theo sau để đề phòng trường hợp khi người được hưởng quyền lợi đầu tiên bị chết trước người được bảo hiểm. Hợp đồng BHNT rất đa dạng đo các công ty bảo hiểm thực hiện đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng các nhu cầu phong phú của người tham gia. Các quy định trong hợp đồng có nhiều điểm khác nhau ở mỗi nước. Tuy vậy, nó đều có những điểm chung phải tuân thủ như các loại hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự khác nhau : Trách nhiệm, quyền lợi… Đồng thời về nguyên tắc và cơ sở kỹ thuật của bảo hiểm là giống như : sự tự nguyện, tính chất tin tưởng tuyệt đối, tính thương mại… Hợp đồng BHNT có thể được thay đổi tùy theo yêu cầu của người tham gia bảo hiểm. Chẳng hạn : bảo hiểm tử kỳ cố định có chuyển thành một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trường sinh; bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục vào ngày kết thúc mà không cần có thêm bằng chứng nào về sức khỏe …. Tuy nhiên sự chuyển đổi này không nhằm mục đích trục lợi bảo hiểm. Hợp đồng BHNT có thể dùng làm vật thế chấp để vay vốn hoặc người tham gia BHNT vì những lý do nào đó không có khả năng đóng phí tiếp tục và hủy bỏ hợp đồng thì có được hưởng quyền lợi gì không ? có thể trả lời rằng, họ sẽ nhận được một số tiền đó gọi là giá trị hoàn lại ( hay là giá trị giải ước) nhưng với điều kiện : Trong hợp đồng hoặc đơn bảo hiểm đã có sự chỉ rõ về giá trị giải ước từng năm một cách đầy đủ; Trong hợp đồng đã có một phần dự phòng phí đủ lớn do công ty bảo hiểm tính toán. Tuy nhiên,trong một số loại hợp đồng BHNT như : hợp đồng tử vong có kỳ hạn xác định, hợp đồng có số tiền bảo hiểm trả sau… việc hoàn phí không được thực hiện. Hợp đồng BHNT là hợp đồng dài hạn vì vậy chủ yếu được ký kết với từng cá nhân. Việc ký kết theo nhóm rất ít và nếu có chủ yếu là loại bảo hiểm tử vong có kỳ hạn xác định. II. CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ 2.1. Khái Niệm Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh và năng lực cạnh tranh là hai vấn đề được đề cập nghiên cứu rất nhiều. Cạnh tranh phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi một mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Đó là sự ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn nhằm chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như đạt được các điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa, để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Với một nền kinh tế thị trường luôn mở rộng cửa chào đón các doanh nghiệp như nước ta hiện nay thì vấn đề cạnh tranh càng trở nên phức tạp và khốc liệt. Đặc biệt khi một doanh nghiệp mới thành lập và chính thức đi vào hoạt động thì vấn đề làm thế nào để cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng ngành nhưng ra đời sớm hơn và đã có chỗ đứng trên thị trường đang là mối quan tâm chung. Như nhiều ngành kinh tế khác, ngành Bảo hiểm cũng không nằm ngòai quy luật cạnh tranh này. Ở Việt Nam hiện này, sự lớn mạnh của các công ty Bảo hiểm trong nước và có sự có mặt của ngày càng nhiều các công ty Bảo hiểm nước ngoài đã làm cho vấn đề cạnh tranh trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam ngày càng sôi động hơn. Do đó để khai thác thị trường Bảo hiểm đạt hiệu quả cao nhất, mỗi doanh nghiệp Bảo hiểm đều phải có biện pháp cạnh tranh riêng, tùy thuộc vào năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh là một khái niệm xuất hiện khi tính chất cạnh tranh trên thị trường trở nên phức tạp và quyết liệt hơn. “ Năng lực cạnh tranh được định nghĩa là năng lực tồn tại, duy trì, gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường cạnh tranh của một sản phẩm, dịch vụ hay các sản phẩm, dịch vụ của một doanh nghiệp”. Qua đó ta thấy việc nâng cao năng lực cạnh tranh có ý nghĩa sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Để có thể tồn tại trên thị trường không còn cách nào khác là doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Bởi cạnh tranh luôn là xu hướng tất yếu nó thúc đẩy mọi thành phần kinh tế tốt lên và hoàn thiện hơn. 2.2 Tính Tất Yếu Khách Quan Phải Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Kinh tế thị trường là nền kinh tế được điều tiết bởi thị trường. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản đó là sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Trong nền kinh tế thị trường các chủ thể đều tuân theo các quy luật của thị trường. Mà quy luật quan trọng và khốc liệt nhất của thị trường là quy luật cạnh tranh, cạnh tranh là quy luật tất yếu khách quan của xã hội. Nó luôn đặt các doanh nghiệp trong áp lực rất lớn, nếu không thích nghi cao sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Chính cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải tìm tòi, cải tiến phương pháp sản xuất, phải thay đổi không ngừng để đáp ứng tốt hơn nữa các nhu cầu của khách hàng. Làm sao để ngày càng năng cao năng lực cạnh tranh của mình? Là câu hỏi mà hàng ngày bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải đi tìm cho mình một câu trả lời phù hợp. Bảo hiểm là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt. Nó có vai trò như một trung gian tài chính và nó không tạo ra sản phẩm vật chất thông thường. Sản phẩm của nó là các hợp đồng bảo hiểm. Doanh thu của một doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu là từ thu phí bảo hiểm. Nhưng không như các trung gian tài chính khác doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo an toàn về vốn để có thể chi trả lãi và quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng. Đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, liên quan trực tiếp tới tính mạng và sức khoẻ của con người thì nó lại càng trở nên nhạy cảm. Trước hết các doanh nghiệp bảo hiểm dù có cạnh tranh nhau bằng các biện pháp gì đi chăng nữa cũng phải đứng trên góc độ đảm bảo tối đa lợi ích khách hàng. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ luôn luôn chịu sự giám rất chặt chẽ của Bộ Tài chính nói riêng và các cơ quan quản lý Nhà nước nói chung. Các doanh nghiệp bảo hiểm luôn luôn phải minh bạch hoá trong cạnh tranh, cạnh tranh để cùng tồn tại chứ không phải cạnh tranh để tiêu diệt lẫn nhau. Các sản phẩm của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tương đối giống nhau và có chu kỳ sống không dài. Điều này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn thường xuyên nghiên cứu đổi mới và phát triển sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Và doanh nghiệp nào đi trước là doanh nghiệp đó đã thắng lợi bước đầu. Bên cạnh đó, chất lượng phục vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu hút khách hàng của mình. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời gian tương đối dài và giá trị tương đối lớn. Đứng trên giác độ một người tiêu dùng thì ai cũng muốn trong thời gian hiệu lực của hợp đồng càng được hưởng nhiều chính sách hậu mãi càng tốt. Hơn nữa phong cách phục vụ cũng là yếu tố quan trọng quyết định đến việc khách hàng tham gia mua sản phẩm bảo hiểm. Về giá cả của sản phẩm bảo hiểm, việc quyết định giá sản phẩm bảo hiểm là do doanh nghiệp bảo hiểm xác định. Còn khách hàng chỉ là người chấp nhận giá. Tương ứng với một mức giá sẽ có một chế độ chi trả thích hợp. Vì vậy mặc dù có tính chất tương đồng về sản phẩm nhưng các sản phẩm bảo hiểm lại cũng rất đa dạng. 2.3 Các Đối Thủ Cạnh Tranh Của BVNTHN Cùng với xu hướng hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới, cũng như các lĩnh vực khác của nền kinh tế, lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ cũng đang phải chịu một sức ép cạnh tranh rất lớn từ các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam có 9 doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực nhân thọ, đó là: BVNT – trước kia là doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước và có thâm niên hoạt động khá lâu năm ở thị trường Việt Nam, Prudential – doanh nghiệp bảo hiểm khá nổi tiếng của Anh, AIA - một doanh nghiệp bảo hiểm có công ty mẹ ở Mỹ, Dai-ichi trước kia là bảo Minh CMG nhưng mới được Dai-ichi một công ty bảo hiểm của Nhật mua lại, Manulife công ty bảo hiểm nhân thọ của Canada, ngoài ra còn có hai công ty bảo hiểm mới nữa là Previor của Pháp và ACE life của Mỹ. Trong tháng 1/2008 Bộ Tài chính vừa cấp phép cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Great Easter, quốc tịch Singapore được phép hoạt động dưới hình thức 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới. Như vậy hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ hoạt động tại Việt Nam đều có công ty mẹ ở nước ngoài, các nước có hoạt động bảo hiểm rất phát triển. Đây là những công ty bảo hiểm có kinh nghiệm và hoạt động rất chuyên nghiệp. Do vậy, tuy số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường không nhiều nhưng có thể nói với các tên tuổi lớn của thị trường bảo hiểm như hiện tại thì áp lực cạnh tranh đối với BVNTHN là không nhỏ. 2.4 Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Năng lực Cạnh Tranh Của BVNTHN 2.4.1 Các nhân tố bên trong Các nhân tố nội tại ảnh hưởng rất lớn và có vai trò quyết định đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh của BVNTHN. Khả năng tài chính của đơn vị Năng lực tài chính là yếu tố quyết định sống còn tới mọi yếu tố của doanh nghiệp bảo hiểm. Bởi chỉ có năng lực tài chính đủ mạnh thì doanh nghiệp mới đảm bảo khả năng thanh toán, chất lượng của sản phẩm bảo hiểm… Như vậy năng lực tài chính của đơn vị chính là một nhân tố nội tại quyết định tới hoạt động đầu tư của nó. Năng lực về thiết bị làm việc Trang thiết bị ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng làm việc của người lao động, chất lượng phục vụ khách hàng, khả năng quản lý của đơn vị...Tất cả những điều này cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của BVNTHN. Thiết bị càng phù hợp với nhu cầu bao nhiêu càng làm nâng cao năng lực cạnh tranh của đơn vị bấy nhiêu. Với đặc thù là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính bảo hiểm, các trang thiết bị quan trọng nhất của BVNTHN đó là các loại máy tính phục vụ các hoạt động văn phòng. Với mộ._.t số lượng thông tin lưu trữ lớn đòi hỏi BVNTHN phải trang bị cho mình một loạt các máy tính có dung lượng nhớ lớn, tốc độ nhanh... Trên cơ sở đó có thể tạo ra năng lực cao trong phục vụ khách hàng. Ngoài ra BVNTHN cũng rất quan tâm đến đầu tư cho một hệ thống các thiết bị khác phục vụ hoạt động của mình. Việc đầu tư vào trang thiết bị cũng chính là đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của BVNTHN. Năng lực về nhân sự của BVNTHN Nguồn nhân lực là một yếu tố của lực lượng sản xuất. Con người, với khả năng sáng tạo vô tận là nguồn lực duy nhất có thể suy nghĩ, tham gia vào mọi quá trình của hoạt động sản xuất kinh doanh, mọi giai đoạn của quá trình đầu tư, từ khâu lập dự án, thực hiện dự án đến khâu vận hành và khai thác dự án đầu tư. Con người luôn được xác định là vị trí trung tâm trong mọi hoạt động. Với BVNTHN mặc dù mọi việc đã được tin học hoá rất cao nhưng không thể thiếu được vai trò quan trọng của nguồn nhân lực trong việc vận hành, phát triển sản phẩm, khai thác thị trường, phục vụ khách hàng... Tất cả những điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín và năng lực cạnh tranh của BVNTHN. Nhân sự là nhân tố không thể thiếu được trong mọi hoạt động điều hành, nghiên cứu, kinh doanh nói chung cũng như hoạt động đầu tư nói riêng. Cơ cấu tổ chức của BVNTHN Cơ cấu tổ chức của BVNTHN được hiểu là việc sắp xếp, tổ chức và phối hợp hoạt động giữa các phòng ban để tiến hành các hoạt động của BVNTHN nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Một cơ cấu tổ chức hợp lý vừa gọn nhẹ, vừa tối ưu, vừa đảm bảo sự liên hệ giữa các phòng ban sẽ làm cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn và giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí. Hiệu quả trong hoạt động sẽ là nhân tố quan trọng làm nâng cao năng lực cạnh tranh của đơn vị và việc tiết kiệm chi phí sẽ làm cho BVNTHN giảm phí bảo hiểm, tăng lãi trả cho khách hàng. Điều này làm cho doanh nghiệp thu hút thêm được khách hàng tiềm năng. Do đó có thể thấy việc sắp xếp, đổi mới cơ cấu tổ chức có ảnh hưởng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của BVNTHN. Giá thành và chất lượng sản phẩm Đối với bất kì một doanh nghiệp nào thì sản phẩm luôn luôn là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng thu hút khách hàng của mình. Trong cơ chế thị trường thì doanh nghiệp nào có mức giá sản phẩm càng rẻ, chất lượng càng cao thì càng có khả năng thu hút khách hàng và mở rộng thị trường. Chính vì vậy BVNTHN xác định đây là một trong những yếu tố cần quan tâm khi tiến hành đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của đơn vị. 2.4.2. Các nhân tố bên ngoài Bên cạnh các nhân tố bên trong đóng vai trò quyết định tới việc đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của BVNT thì các nhân tố bên ngoài cũng đóng một vai trò quan trọng tới hoạt động đầu tư của đơn vị. Các chính sách kinh tế của Nhà nước Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nước là người hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp. Trên cơ sở luật pháp về kinh tế, các chính sách và các biện pháp kinh tế, Nhà nước tạo ra một hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động và hướng các hoạt động của các doanh nghiệp đi theo quỹ đạo và theo kế hoạch vĩ mô. Đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, một lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến tính mạng và sức khoẻ của con người, Nhà nước lại càng quan tâm chú trọng và tăng cường việc quản lý đối với các doanh nghiệp nhằm đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng. Các chính sách kinh tế của Nhà nước nói chung và chính sách về đầu tư nói riêng trong mỗi thời kì nó thể hiện định hướng của Nhà nước đối với các doanh nghiệp. Nhà nước luôn luôn khuyến khích đầu tư vào những nghành nghề có lợi cho nền kinh tế thông qua các chính sách đòn bẩy kinh tế. Bất cứ một hoạt động nào của BVNTHN cũng cần phải đặt trong cơ sở chính sách, kế hoạch, quy hoạch của Nhà nước để đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả nhất. Khách hàng của BVNTHN (Thị trường của BVNTHN) Đối với bất kì một doanh nghiệp nào thì khách hàng cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của đơn vị. Với BVNTHN cũng vậy, đơn vị luôn luôn xác định khách hàng là yếu tố sống còn. Chính vì vậy BVNTHN không ngừng tìm kiếm và mở rộng thị trường hoạt động của mình. Doanh nghiệp càng có khả năng cạnh tranh là doanh nghiệp càng chiếm được nhiều thị phần trên thị trường, tức là sản phẩm của doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu của số đông khách hàng. Do đó vấn đề đặt ra cho BVNTHN là phải làm sao nghiên cứu đưa ra các sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, hơn nữa phải có các chính sách chăm sóc khách hàng để giữ được các hợp đồng đã có. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng phải có hệ thống đại lý để đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng. BVNTHN phải thường xuyên đánh giá nhu cầu thị trường để nghiên cứu, cải tiến và phát triển các sản phẩm mới. Việc nghiên cứu thị trường quyết định đến khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và nó cũng quyết định đến hiệu quả đầu tư của chính đơn vị. Các đối thủ cạnh tranh của BVNTHN Thị trường có càng nhiều các công ty tham gia thì mức độ cạnh tranh càng lớn, điều đó cũng có nghĩa các doanh nghiệp phải chấp nhận việc chia sẻ thị trường. Đặc biệt trong điều kiện mở cửa nền kinh tế như hiện nay thì các công ty bảo hiểm nói chung và BVNTHN nói riêng đang đứng trước áp lực cạnh tranh rất lớn từ các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoải trường vốn và có kinh nghiệm lâu năm. Chính vì vậy BVNTHN trước khi quyết định bất kì một vấn đề gì đều phải quan tâm đến các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tương lai. Điều này đòi hỏi BVNTHN phải quan tâm đến tình hình thực tế và năng lực cạnh tranh của đơn vị cũng như của các đối thủ, dự đoán tình hình tương lai để ra quyết định đầu tư phù hợp, tạo ra ưu thế và đặc điểm riêng của mình, tạo ra một thương hiệu BVNT khác biệt so với các thương hiệu khác. Có như vậy BVNTHN mới tạo ra được chỗ đứng riêng cho mình trên thị trường. Các sản phẩm thay thế. Bảo hiểm trên thực tế có rất ít các sản phẩm thay thế. Tuy nhiên bên cạnh việc quan tâm đến sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhân thọ thì BVNTHN cũng cần phải lưu tâm đến các định chế tài chính khác như ngân hàng, quỹ tín dụng… Các trung gian tài chính này cũng chính là các đối thủ cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút vốn với đơn vị. 2.5 Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Một Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Kinh doanh bảo hiểm là ngành có sự khác biệt với các ngành kinh tế khác bởi bảo hiểm là một ngành dịch vụ, sản phẩm vô hình, do vậy chỉ tiêu về năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp tập trung vào uy tín, tính nhiệm của khách hàng đối với công ty. Và để có được sự tín nhiệm này của khách hàng, doanh nghiệp BH phải tập trung hơn vào các nội dung về hiệu quả kinh doanh, năng lực tài chính và chất lượng dịch vụ. 2.5.1 Nhóm chỉ tiêu phản ánh năng lực tài chính của công ty Đối với một công ty BH thì năng lực tài chính là tiền đề vô cùng quan trọng, cho phép các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm BH của mình. Năng lực tài chính là chỉ tiêu hàng đầu trong hệ thống các chỉ tiếu dùng để đánh giá xếp hạng các công ty BH. Năng lực tài chính thường được thể hiện qua các chỉ tiêu như NVCSH, nguồn vốn vay, tài sản cố định, tài sản lưu động và các quỹ DPNV… Nguồn vốn chủ sở hữu: NVCSH gồm vốn điều lệ được góp khi thành lập doanh nghiệp, các quỹ và các khoản tích lũy. Nguồn vốn vay: gồm các khỏan vay ngắn hạn và dài hạn,các khoản phải trả về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp BH như chi bồi thường, chi hoa hồng, chi giám định, đặc biệt doanh nghiệp BH có vốn vay là các quỹ DPNV. Quỹ DPNV của doanh nghiệp BH nhân thọ chủ yếu gồm: Dự phòng phí, dự phòng bồi thường, dự phòng bồi thường, dự phòng chia lãi, dự phòng đảm bảo cân đối. _ Dự phòng phí : Dự phòng phí của doanh nghiệp BH được tính theo công thức: Dự phòng phí = tỷ lệ phí chưa x phí BH được hưởng Dự phòng bồi thường, được sự dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm nhưng chưa được giải quyết cho đến cuối năm tài chính; Dự phòng chia lãi, được sử dụng để chia lãi theo thỏa thuận với bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm; Dự phòng đảm bảo cân đối được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm do có biến động lớn về tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật. Năng lực tài chính đảm bảo cho doanh nghiệp khả năng thanh toán, tạo uy tín của doanh nghiệp với khách hàng. Bởi vì khác với các doanh nghiệp khác, vấn đề tài chính của doanh nghiệpBH là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm BH do chu trình kinh doanh ngược làm cho chi phí phát sinh trong nhiều trường hợp là không thể dự đoán được. Khách hàng sẽ yên tâm hơn khi tham gia BH vào những công ty này và đây là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp BH giữ vững và phát triển thị phần, đảm bảo sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp. 2.5.2 Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ Hiệu qủa kinh doanh là chỉ tiêu quan trọng, là thước đo sự phát triển của bản thân doanh nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những hiệu quả kinh doanh nhất định, nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Những chỉ tiêu như : tốc độ tăng trưởng doanh thu, tốc độ tăng lợi nhuận chỉ nói lên động thái của kết quả kinh doanh, chứ chưa đề cập đến chi phí trong kinh doanh. Nếu chi phí tăng nhanh và sử dụng lãng phí thì về lâu dài, tốc độ tăng đó sẽ không có ý nghĩa và hòan tòan không có hiệu quả. Các chỉ tiêu là: Hiệu quả theo doanh thu = doanh thu nghiệp vụ/ chi phí nghiệp vụ Hiệu quả theo lợi nhuận = lợi nhuận trước thuế / chi phí của nghiệp vụ Hiệu quả sử dụng tài sản = lợi nhuận trước thuế / tổng giá trị tài sản Hiệu quả sử dụng vốn cố định = lợi nhuận sau thuế / NVCSH Đối với doanh nghiệp BH thì nghiệp vụ nào có hiệu quả kinh doanh cao sẽ là cơ sở để nâng cao năng lực cạnh tranh của nghiệp vụ đó trên thị trường. khi đã có hiệu quả kinh doanh vào thì doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận cao, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ tốt hơn cho khách hàng. 2.5.3 Nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động nghiệp vụ. Mục tiêu của một doanh nghiệp BH là tối đa hóa giá trị cung cấp cho khách hàng bởi khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm nào đem lại giá trị tối đa cho họ. Đồng thời khách hàng cũng sẽ là người đánh giá chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào được nhiều khách hàng lựa chọn sẽ là doanh nghiệp có vị thế thị trường trong nghiệp vụ đó. Trong lĩnh vực BH, chất lượng hoạt động khai thác, chất lượng hoạt động chăm sóc khách hàng, giám định, bồi thường… Ví dụ khi đánh giá tình hình giám định, bồi thường có thể sử dụng các tiêu chí như: Số vụ khiếu nại đòi bồi thường giải quyết trong kỳ Số vụ khiếu nại đã được giải quyết bồi thường trong kỳ Số vụ khiếu nại còn tồn đọng chưa giải quyết bồi thường trong kỳ Số vụ bồi thường sai sót trong kỳ Tỷ lệ giải quyết bồi thường Tỷ lệ tồn đọng Tỷ lệ bồi thường sai sót trong kỳ 2.5.4 Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự thỏa mãn của khách hàng Có thể nói đây là nhóm chỉ tiêu mang tính tổng hợp nhất vì các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để thu hút được nhiều khách hàng thông qua việc thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu của họ. Sự hài lòng của khách hàng mang tính chủ quan của chính khách hàng vì vậy việc hình thành một nhóm chỉ tiêu để đánh giá gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, khách hàng sẽ cảm thấy hài lòng khi họ nhận được một dịch vụ đáp ứng đúng nhu cầu, với chất lượng đúng như khách hàng mong đợi, và với giá cả hợp lý. Chỉ tiêu này có thể đánh giá qua sơ kết, tổng kết tập hợp nhận định của nội bộ, qua kiểm soát tổn thất, qua giải quyết bồi thường, qua xử lý khiếu nại của khách hàng, đánh giá sự nhìn nhận của khách hàng về hình ảnh, uy tín của công ty, về sản phẩm mà khách hàng đã hoặc đang sử dụng, qua việc tiến hành các công cụ nghiên cứu thị trường độc lập, phỏng vấn khách hàng và chuyên gia trong ngành, hoặc thuê công ty nghiên cứu thị trường… Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể căn cứ vào thị phần hiện có của công ty để định lượng được sự hài lòng của khách hàng. Sở dĩ như vậy vì khách hàng sẽ chỉ chọn lựa tham gia BH tại công ty nào có những sản phẩm có thể đem lại lợi ích lớn nhất cho họ. Doanh nghiệp có thị phần càng cao chứng tỏ sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ của công ty càng cao. 2.5.5 Nhóm chỉ tiêu phản ánh tính đổi mới trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Quá trình cạnh tranh thực chất là quá trình đổi mới hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm sao cho phù hợp nhất với thị trường. Do thị trường luôn luôn thay đổi vì vậy khả năng đổi mới linh hoạt trở thành một chỉ tiêu phán ánh năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp BH. Thực tế cho thấy các đổi mới tuy không phải lúc nào cũng gặt hái được thành công song một doanh nghiệp bảo hiểm không thể coi là có sức cạnh tranh nếu luôn giữ nguyên tình trạng kinh doanh của mình trong khi các đối thủ cạnh tranh luôn luôn vận động và phát triển. Phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp BH là rất quan trọng, đặc biệt trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên năng lực cạnh tranh của bất cứ một doanh nghiệp nào cũng là tổng hợp của rất nhiều yếu tố khác nhau, nó vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan, vừa định lượng mà cũng rất định tính. Do đó các chỉ tiêu dùng để đánh giá và phân tích đề cập ở trên cũng không thể phán ánh hết được. Nó chỉ phản ánh lên những nét khái quát nhất, tổng quan nhất về năng lực cạnh tranh vủa một doanh nghiệp BH. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HỌAT ĐỘNG KINH DOANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA BẢO VIỆT NHÂN THỌ HÀ NỘI I. MỘT VÀI NÉT VỀ BẢO VIỆT NHÂN THỌ HÀ NỘI Công ty Bảo Việt Nhân Thọ ( BVNT) trực thuộc Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam- Bảo Việt, ra đời theo Quyết định số 568/TC/QĐ/TCCB ngày 22/06/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính. Cùng năm này Bảo Việt được Nhà nước xếp loại “Doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt”, trở thành một trong 25 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, đánh dấu một mốc phát triển quan trọng của Bảo Việt. Cũng ngày 22/06/1996 đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam. Lần đầu tiên người dân được biết đến một loại hình bảo hiểm mới - Bảo Hiểm Nhân Thọ. Ngày 01 tháng 8 năm 1996, Bảo Việt triển khai hai sản phẩm đầu tiên trên thị trường là An Sinh Giáo Dục và Hợp Đồng Nhân Thọ Hỗn Hợp với thời hạn 5 và 10 năm. Đây là khoảng thời gian vô cùng khó khăn và vất vả của công ty bảo hiểm nhân thọ, vì khái niệm bảo hiểm nhân thọ lúc này còn quá mới mẻ đối với người dân Việt Nam. Tuy khó khăn nhưng các cán bộ công nhân viên của Bảo Việt không ngừng cố gắng để tiếp thị sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đến khách hàng và mang lại những kết quả ban đầu. Đến cuối năm 1996 số hợp đồng có hiệu lực là 1.200 hợp đồng, doanh thu đạt 997 triệu đồng. Năm 1997, sự lạ lẫm rụt rè của năm 1996 rồi cũng qua đi, nhường chỗ cho những bước đi ngày một tự tin vững chắc của đội quân “ nhân thọ”. Phong trào khai thác tập thể bắt đầu diễn ra mạnh mẽ bằng việc tổ chức các buổi giới thiệu BHNT tại các hội nghị lớn ở các trường đại học, bệnh viện,…trong thành phố. Đồng thời người dân Hà Nội cũng được phổ biến kiến thức về BHNT qua hệ thống loa phóng thanh tại 36 phường nội thành. Kết quả năm 1997, BVNT hoàn thành 270,8% kế hoạch năm, số lượng hợp đồng khai thác mới gấp 12 lần so với năm 1996. Ngày 19/2/1997, theo Quy định số 137-TC/QĐ/TCCB của Bộ Tài Chính, Trung tâm đào tạo Bảo Việt được thành lập với chức năng đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại viên chức và đại lý bảo hiểm của Bảo Việt nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn về bảo hiểm và các kiến thức khác theo chương trình do Bảo Việt quy định. Năm 1997- 1998, đánh dấu một bước trưởng thành và phát triển mới :Bảo Việt chính thức mở rộng phạm vi của mình. Ngày 01/01/1998, Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam thành lập một phòng quản lý về bảo hiểm nhân thọ riêng nhằm quản lý tình tình hoạt động của các công ty đóng tại địa phương. Do vậy, công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ được đổi thành Bảo Hiểm Nhân Thọ Hà Nội và chỉ thực hiện chức năng quản lý tình hình kinh doanh trên địa bàn thủ đô. Trong năm công ty đã thành lập thêm 7 phòng khai thác khu vực nâng tổng số phòng khai thác lên 9 phòng phủ kín địa bàn thành phố. Năm 1999, sự gia nhập thị trường của 3 công ty BHNT nước ngoài báo hiệu sẽ có một cuộc cạnh tranh khốc liệt nhưng sôi động. Điều đó cũng cho thấy thị trường BHNT Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng rất lớn song cũng đặt ra không ít khó khăn cho hoạt động kinh doanh của công ty. Trước tình hình đó, công ty hướng trọng tâm vào “ chất lượng dịch vụ” đáp ứng được nhu cầu của thị trường, chuẩn bị cho cạnh tranh. Trước hàng loạt sự thay đổi của thị trường cũng như bản thân công ty năm 1999, doanh thu phí bảo hiểm bằng 183% so với doanh thu năm 1998. Năm 2000, BVNT đã rời “nơi ở trọ” về trụ sở 94 Bà Triệu. Đồng thời đây cũng là năm bản lề đánh dấu hàng loạt sự thay đổi của công ty. Ngày 20/04/2000, Bộ trưởng BTC ký quyết định đổi tên công ty BHNT thành công ty BHNTHN như hiện nay. Bên cạnh đó cạnh tranh trên thị trường lúc này đặc biệt sôi động với sự góp mặt của 4 công ty BHNT nước ngoài( Prudential, AIA, Bảo Minh-CMG, Chinfon Manulife). Trong bối cảnh đó trước sự bùng nổ của số lượng hợp đồng khai thác mới, lần đầu tiên trong hệ thống BHNT, BHNTHN đã áp dụng thành công mô hình cán bộ chuyên thu phí, vừa nâng cao chất lượng của công tác quản lý tài chính, tăng tỷ lệ thu phí định kỳ cũng như tạo điều kiện để các cán bộ chuyên khai thác đạt kết quả khai thác tốt hơn. Phương châm” phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển” được khẳng định bằng việc thành lập bộ phận chăm sóc khách hàng thuộc phòng Phát Hành Hợp Đồng. Bên cạnh đó, với chức năng thực hiện công tác dịch vụ khách hàng, giải đáp thắc mắc khiếu nại của khách hàng thông qua việc thiết lập đường dây nóng và hỗ trợ khai thác. Phòng dịch vụ khách hàng( tiền thân của phòng Marketing ngày nay) được thành lập đã góp phần tăng sức mạnh của những” cú huých” vào việc nâng cao chất lượng phục vụ cả nước và sau bán hàng của công ty. Với những chuyển biến tích cực trên, năm 2000 đi qua với con số kỷ lục về số hợp đồng khai thác mới- 20.659 hợp đồng. Năm 2001, năm đầu tiên bước sang thiên niên kỷ mới, BVNTHN đánh dấu sự kiện này bằng việc chi trả cho khách hàng đầu tiên ở Việt Nam đáo hạn hợp đồng BHNT. 151 khách hàng đầu tiên đã chứng kiến cho lời hứa của Bảo Việt trong 5 năm đầu hoạt động. Năm 2002, câu lạc bộ Ngôi sao khai thác được thành lập đã tạo ra một sân chơi lành mạnh và bổ ích cho các tư vấn viên xuất sắc. Chỉ qua thời gian ngắn hoạt động, CLB đã chứng tỏ sức mạnh của mình với quân số 1/20 quân số của toàn công ty mà doanh thu chiếm tới 1/4- 1/3 doanh thu toàn công ty. Bên cạnh đó việc tham gia CLB sẽ giúp cho các thành viên CLB duy trì và nâng cao kết quả khai thác, thúc đẩy các tư vấn viên phấn đấu từ những” ánh sao” có thể trở thành những “ ngôi sao” để được thử sức trên sân chơi của những VIP. CLB ngôi sao khai thác còn thể hiện tính chuyên nghiệp trong tư vấn BHNT tại Bảo Việt. Năm 2003, tiếp tục chặng đua đầy can go thử thách, cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài nặng ký. Công ty đã đặt ra mục tiêu đến hết năm 2003, bên cạnh việc triển khai sâu rộng trong nội thành thị trường BHNT ngoại thành sẽ trở thành thị trường gần như độc quyền của Bảo Việt. Với mục tiêu đó 20 chương trình thi đua hấp dẫn và sôi động đã ra đời với ngững cái tên mà không thể quên “ Chợ tết no đủ”, “ Hương sắc tháng 3”,” Bước chân thần tốc”,” Sao tháng 8”…đã được phát động, đánh dấu một năm thi đua sôi động nhất trong 7 năm hoạt động. Cũng trong năm cơ chế khoán dành cho nhóm kinh doanh thế hệ mới ra đời- Cơ hội thử sức trong quản lý với những cá nhân xuất sắc. Mô hình nhóm kinh doanh thế hệ mới tạo ra cơ hội cho tư vấn viên có tham vọng trở thành nhà quản lý. Đây là hướng phát triển sáng tạo, thúc đẩy sự nỗ lực của hầu hết các tư vấn viên xuất sắc, tạo ra sự cạnh tranh tích cực để nâng cao hiệu suất làm việc. Năm 2004, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam tách thành Bảo Việt Nhân Thọ và Bảo Việt Việt Nam. Do vậy Bảo Việt Nhân Thọ từ chỗ trực thuộc Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam chuyển sang trực thuộc Bảo Hiểm Nhân Thọ Việt Nam Thuộc Tổng công ty Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam. BVNTVN tách ra hạch toán độc lập tăng thêm cơ hội nhưng cũng không ít thách thức đặt ra trước công ty Năm 2005, quy chế thăng tiến mới ra đời tạo ra cho các tư vấn viên có cơ hội tự khẳng định mình. Với mô hình này các tư vấn viên có năng lực phát triển, quản lý ban, nhóm đã có một hệ thống các chỉ tiêu phải thực hiện cho các chức danh quản lý đại lý. Và điểm nổi bật của quy chế mới này là các trưởng ban, trưởng nhóm để giữ được chức vụ đòi hỏi phải luôn luôn nỗ lực để đảm bảo chi tiêu duy trì ban, nhóm của mình. Chứng chỉ “ Giải thưởng chất lượng quốc tế”-IQA của LIMRA là chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá tính chuyên nghiệp của các tư vấn viên. Năm 2005 là năm đầu tiên các tư vấn viên được cấp chứng chỉ này và BVNT cũng là doanh nghiệp BHNT đầu tiên tại Việt Nam được cấp chứng chỉ. BVNTHN vinh dự có 12 trong số 103 tư vấn viên, thu ngân viên được cấp chứng chỉ đợt này. Năm 2006, năm thứ 10 công ty hoạt động.. Lần kỷ niệm năm hoạt động thứ 10 này, BVNTHN càng tự hào hơn khi là thành viên của tập đoàn tài chính bảo hiểm Bảo Việt- Tập đoàn Tài chính, Bảo hiểm đầu tiên và vững mạnh bậc nhất ở Việt Nam Năm 2007, một năm với nhiều thành công của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội khẳng định qua doanh thu phí 220 tỉ và sự ra đời của nhiều sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mới đặc biệt là sản phẩm có lãi chia đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường. 12 năm quả là một chặng đường không hẳn là dài nhưng thành quả mà Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội đạt được thật đáng ghi nhận từ chỗ người dân hoàn tòan xa lạ với khái niệm bảo hiểm đến nay mỗi năm có hàng triệu hợp đồng khai thác mới. Sau một thời gian thực hiện thí điểm, đầu năm 2008, Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt chính thức ra đời, đánh dấu bước phát triển quan trọng của Tổng công ty Bảo hiểm Nhân Thọ Việt Nam nói chung và Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội nói riêng. Theo đó, tên giao dịch chính thức của Bảo Việt Nhân Thọ sẽ là Bảo hiểm Nhân Thọ Bảo Việt. Trên địa bàn Hà Nội, công ty Bảo hiểm nhân thọ Hà Nội sẽ có tên giao dịch chính thức là Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội. II. BỘ MÁY TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA BẢO VIỆT NHÂN THỌ HÀ NỘI Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội là công ty thành viên của Tổng Nhân Thọ Bảo Việt. Trải qua hơn 12 năm hoạt động bộ máy của Bảo Việt Nhân Thọ ngày càng lớn mạnh và hoàn thiện hơn. Hiện nay tại trụ sở 94 – Bà triệu : có 75 cán bộ. Sô lượng tư vấn viên tại các ban kinh doanh: 880 đại lý. Chức năng của các phòng ban được quy định như sau: Giám Đốc: 1 Giám đốc công ty do Hội đồng quản trị Tổng Công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật, khen thưởng theo đề nghị của Tổng Giám đốc. Giám đốc là người đại diện pháp nhân của Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc Tổng Công ty và trước pháp luật về điều hành và hoạt động của công ty. Giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong công ty. Phó Giám Đốc: 2 Phó giám đốc là người giúp Giám đốc điều hành một số lĩnh vực hoạt động của công ty theo phân công của Giám đốc và chịu trách nhiệm trước Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được Giám đốc phân công thực hiện. Các Phòng Ban: Phòng Tổng Hợp: Phòng tổng hợp có chức năng tham mưu cho Lãnh đạo Công ty và tổ chức thực hiện các mặt công tác sau: - Công tác tổ chức cán bộ, Lao động tiền lương; - Đảm nhiệm công tác hành chính, văn thư; - Đảm nhận vấn đề pháp chế của doanh nghiệp; - Thực hiện việc thi đua khen thưởng; - Thực hiện các nhiệm vụ tổng hợp; Phòng Phát triển và Quản lý đại lý: Phòng Phát triển và Quản lý đại lý có chức năng tham mưu cho lãnh đạo công ty và tổ chức thực hiện các mặt công tác sau: - Tuyển dụng, đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đại lý BHNT; - Đề xuất và làm đầu mối thực hiện mở rộng các kênh phân phối sản phẩm BHNT; - Tổ chức, quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của lực lượng bán sản phẩm BHNT và thực hiện các chế độ chính sách đối với đại lý BHNT; - Xây dựng và tổ chức các phong trào thi đua trong đại lý BHNT; Phòng Marketing: Phòng Marketing có chức năng tham mưu cho lãnh đạo công ty và tổ chức thực hiện các mặt công tác sau: - Nghiên cứu thị trường; - Khai thác bảo hiểm; - Hỗ trợ đại lý; - Công tác tuyên truyền quảng cáo, vật phẩm hỗ trợ; Phòng Phát Hành Hợp Đồng: Phòng phát hành hợp đồng có chức năng tham mưu cho lãnh đạo công ty và tổ chức thực hiện các mặt công tác sau: - Tổ chức công tác thẩm định hồ sơ yêu cầu bảo hiểm; - Tổ chức kiểm tra sức khỏe khách hàng; - Chấp nhận bảo hiểm và phát hành hợp đồng; Phòng Dịch Vụ Khách Hàng: Phòng Dịch vụ khách hàng có chức năng tham mưu cho Lãnh đạo công ty và tổ chức thực hiện các mặt công tác sau: - Quản lý tình trạng hợp đồng; - Giải quyết quyền lợi bảo hiểm; - Cung cấp thông tin và giải đáp cho khách hàng; - Chăm sóc khách hàng; Phòng Tài Chính - Kế Toán: Phòng tài chính kế toán có chức năng tham mưu cho Lãnh đạo Công ty và tổ chức thực hiện các mặt công tác sau: - Hạch toán kế toán kịp thời đầy đủ toàn bộ tài sản, tiền vốn, các hoạt động thu, chi tài chính và kết quả kinh doanh theo quy định nội bộ của Bảo Việt, đảm bảo phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh; - Lập kế hoạch kinh doanh và kế hoạch tài chính của công ty; - Tư vấn, tham mưu cho Lãnh đạo Công ty chỉ đạo và thực hiện kiểm tra, giám sát và quản lý việc chấp hành các chế độ tài chính kế toán chung của Nhà nước và của Bảo Việt tại công ty; Phòng Tin Học: Phòng tin học có chức năng tham mưu cho Lãnh đạo Công ty và tổ chức thực hiện các mặt công tác sau: - Quản trị dữ liệu của công ty; - Đảm bảo hoạt động của hệ thống thông tin trong công ty; - Phát triển hệ thống thông tin của công ty theo định hướng của Tổng công ty; Phòng Mar- keting GIÁM ĐỐC Phó Giám đốc Phó Giám đốc Phòng tài chính kế toán Phòng dịch vụ khách hàng Phòng tổng hợp Phòng phát hành hợp đồng Phòng phát triển và QL - ĐL Phòng tin học Ban kinh doanh số 2 Phòng khai thác BHNT số 22 Ban kinh doanh số 1 …. III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA BẢO VIỆT NHÂN THỌ HÀ NỘI 3.1.Tình Hình Hoạt Động Kinh Doanh Của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội Là công ty BHNT đầu tiên thực hiện kinh doanh dịch vụ BHNT trên thị trường Việt Nam, BVNTHN nói riêng cũng như BVNT nói chung có được lợi thế là người đi trước. Được “ độc quyền” kinh doanh trong thời gian đầu mà không phải chịu bất cứ sự cạnh tranh nào từ phía các doanh nghiệp BHNT khác. BVNTHN còn có thương hiệu Bảo Việt có tiếng từ hơn 40 năm qua. Và điều này cũng đã ít nhiều giúp công ty có được uy tín, danh tiếng ban đầu và được mọi người biết đến nhiều hơn. Thuận lợi hơn trong công tác tuyên truyền quảng cáo. Bên cạnh đó, BVNTHN trực thuộc Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam doanh nghiệp được xếp hạng đặc biệt, được đầu tư cơ sở vật chất, có mạng lưới đại lý rộng khắp, hoạt động trên địa bàn dân cư có trình độ dân trí cao, có thu nhập cao và ổn định. Hơn 12 năm hoạt động, Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội đã nhanh chóng phát huy thuận lợi và không ngừng đổi mới để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Trước áp lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm nhân thọ có vốn đầu tư nước ngoài, nhiều kinh nghiệm, đã hoạt động lâu năm trên thế giới như Prudential, Manulife, AIA…với công nghệ kỹ thuật hiện đại, phương pháp quản lý tiến đã giúp cho BVNT tự nhìn nhận đánh giá lại mình, có cơ hội học hỏi để khắc phục những nhược điểm chủ quan, áp dụng các phương pháp quản lý điều hành tiến bộ. Cùng với đó là sự cố gắng không ngừng của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong những năm qua Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội đã bước đầu gặt hái được thành công thể hiện qua doanh thu và hợp đồng khai thác mới không ngừng tăng qua các năm Bảng 1: Doanh thu và hợp đồng khai thác mới giai đoạn 2003 – 2007 Năm 2003 2004 2005 2006 2007 Hợp đồng khai thác mới (hợp đồng) 18519 13132 10901 9741 10196 Phí đầu tiên khai thác mới (tỉ đồng) 28,067 20,846 17,018 18,613 23,695 Tổng doanh thu (tỉ đồng) 204 215 212 212 220 ( Nguồn Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội) Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt khi có sự góp mặt của nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài, tuy nhiên kết quả đạt được năm 2007 của BVNTHN đều hoàn thành và vượt mức kế hoạch đăng ký với Tổng Bảo Việt Nhân Thọ. So với năm 2006, tổng doanh thu tăng nhẹ, kết quả khai thác mới mà công ty đạt dược vẫn giữ ở mức ổn định và tăng trưởng ở một số chỉ tiêu chất lượng khai thác: Số tiền bảo hiểm bình quân trên một hợp đồng bảo hiểm tăng và phí năm thứ nhất trên một hợp đồng tăng. Tuy mới chỉ họat động trên thị trường bảo hiểm nhân thọ hơn mười năm nhưng bảo hiểm nhân thọ hà nội không ngừng hoàn thiện khả năng phục vụ và cung cấp dịch vụ làm hài lòng ngay cả khách hàng khó tính nhất. Chất lượng hợp đồng ký kết được trong các năm gần đây rất cao cụ thể giá trị bảo hiểm cao hơn và thời gian tham gia dài hơn thường là 9 – 21 năm. Số hợp đồng đáo hạn năm 2006 là 8300 hợp đồng tuy nhiên số hợp đồng tái tục ngay sau đó đạt gần 40 %. Đi đôi với chất lượng dịch vụ là sự phong phú của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ với điều kiện tham gia vô cùng linh hoạt cho khách hàng lựa chọn. Từ chỗ ban đầu chỉ mới cung cấp được hai sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đến nay Bảo Hiểm Nhân Thọ Hà Nội đã cung cấp hơn 16 sản phẩm bảo hiểm chính và 5 sản phẩm bảo hiểm bổ sung. Năm 2007 Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội đã cho ra đời 5 sản phẩm bảo hiểm mới. Đặc biệt các sản phẩm có chia lãi nhằm gia tăng quyền lợi cho khách hàng và tính hấp dẫn của sản phẩm bảo hiểm trước. Các sản phẩm chính bao gồm : Bảo hiểm An Sinh Giáo Dục Bảo hiểm An Sinh Thành Đạt Bảo hiểm An Khang Thịnh Vượng Bảo hiểm An Gia Phát Lộc Bảo hiểm An Khang Trường Thọ Bảo hiểm An Hưởng Hưu Trí Bảo hiểm An Bình Hưu Trí Bảo hiểm An Gia Thịnh Vượng thời hạn 10,15,20 năm Bảo hiểm An Gia Tài Lộc Bảo hiểm An Sinh Lập Nghiệp Bảo hiểm An Sinh Thành Tài Bảo hiểm Nhóm An Nghiệp Thành Công Bảo hiểm liên kết ngân hàng: Techcombank hai sản phẩm, Habubank một sản phẩm Các sản phẩm bổ sung gồm có Quyền lợi miễn nộp phí đặc biệt BV –NR 9/2004 Quyền lợi miễn nộp phí bảo hiểm BV – NR 8/2004 Bảo hiểm chết và thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn BV – NR7/1998 Bảo hiểm chi phí phẫu thuật BV – NR 6/2001 Bảo hiểm thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn BV -5/2001 Bảo h._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33116.doc
Tài liệu liên quan