Giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương Thanh Hoá

LỜI NÓI ĐẦU Thị trường tài chính tín dụng Việt Nam hiện nay đang chứng kiến cuộc đua tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại (NHTM) quốc doanh, NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Mức độ cạnh tranh này sẽ ngày càng khốc liệt hơn trong thời gian tới khi nhà nước thực hiện mở rộng hội nhập hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Với những khó khăn thách thức và bài học kinh nghiệm đúc rút từ 17 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, ngân hàng

doc61 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công thương Việt Nam (NHCT) đã xây dựng định hướng đến năm 2010 là “xây dựng NHCT là một NHTM chủ lực và hiện đại của nhà nước, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tài chính lành mạnh, có kỹ thuật cao, chiếm thị phần lớn ở Việt Nam”. Trong hàng loạt biện pháp chỉ đạo thực hiện định hướng chiến lược trên việc tập trung nâng cao chất lượng tín dụng, mở rộng quy mô tín dụng là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu. Trên thực tế hoạt động kinh doanh tín dụng hiện nay đang có nhiều vấn đề bức xúc, nổi cộm cần được xem xét đánh giá đúng mức như : cho vay không thu hồi đựơc nợ, nợ khó đòi, nợ quá hạn… vẫn đang tiếp tục xảy ra. Đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại, làm cho chất lượng tín dụng giảm, gây ảnh hưởng xấu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, người ta chẳng có cách gì để loại trừ hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ sử dụng những phương pháp nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng xuống mức có thể chấp nhận được. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, việc giảm thiểu rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết, nó giúp cho hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung đạt hiệu quả cao hơn. Điều này góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chính vì vậy em chọn đề tài: “Giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tính dụng tại ngân hàng công thương Thanh Hoá” làm chuyên đề tốt nghiệp. Đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng công thương Thanh Hoá. Chương 3: Các giải pháp nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng công thương Thanh Hoá. Tuy nhiên với thời gian và trình độ có hạn kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều nên bản chuyên đề tốt nghiệp này không tránh khỏi thiếu sót. Mong có đựơc sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn đọc. Hoàn thành chuyên đề này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các cán bộ ngân hàng công thương Thanh Hóa đặc biệt là các cán bộ trong phòng kinh doanh. Em xin được bày tỏ sự biết ơn với thầy giáo PGS.TS Lê Đức Lữ là người trực tiếp hướng dẫn em trong việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1. Các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại. 1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại. NHTM xuất hiện trước khi có chủ nghĩa tư bản, nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu, trước đó có thể đã làm nghề cho vay nặng lãi. Họ thường có két tốt để cất giữ để đảm bảo an toàn. Do yêu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, các nhà buôn… nhiều người làm nghề đổi tiền thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại (bạc hoặc vàng) các chủ cửa hàng vàng, bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền và cho vay nặng lãi. Họ là những người làm nghề kinh doanh tiền tệ hay còn gọi là nhà buôn tiền. Do tính chất vô danh của tiền nhà buôn tiền có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách hàng để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền – kẻ cho vay nặng lãi – thành nhà buôn tiền – ngân hàng. Hoạt động cho vay dựa trên tiền gửi của khách, tạo nên lợi nhuận lớn nên các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Bằng cách cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng nhiều tiền gửi là điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi xuất cho vay. Vậy ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ, thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Qua khái niện trên về ngân hàng ta thấy ngân hàng có ba chức năng chính: Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm của các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu thành đầu tư của các cá nhân và tổ chức tạm thời thậm hụt chi tiêu. Ngân hàng tạo ra phương tiện thanh toán: Khi ngân hàng cho vay số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hoá, dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay, các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Ngân hàng là trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các Quốc gia. Thay mặt khách hàng ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. 1.1.2. Các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại. Một là: Huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế và cá nhân. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng dã tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. NHTM hoạt động bằng cách ”đi vay để cho vay” khoản chênh lệch lãi xuất, sau khi đã trừ đi những chi phí khác là lợi nhuận của ngân hàng. NHTM có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân với các lãi xuất khác nhau như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm. Ngoài ra, khi cần thêm vốn ngân hàng có thể huy động bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi hay vay vốn của ngân hàng trung ương hoặc các tổ chức tín dụng khác. Hai là: Nghiệp vụ đầu tư tín dụng. Nghiệp vụ đầu tư tín dụng cho khách hàng là nghiệp vụ kinh doanh mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Vốn mà NHTM sử dụng để cho vay xuất phát từ nguồn vốn mà ngân hàng huy động được từ các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế. Trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các NHTM đã và đang thực hiện các chức năng xã hội của mình làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó dẫn đến lợi nhuận nhiều hơn, đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao. Rõ ràng tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Nó tạo ra khả năng tài trợ cho hoạt động công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp của đất nước. Ba là: Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điều này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như: séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ. Bốn là: Mua, bán ngoại tệ. Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua, bán) ngoại tệ: Tức là mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Năm là: Bảo quản tài sản hộ và bảo lãnh. Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két. Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố hoặc ngững giấy tờ quan trọng khác của khách với nguyên tắc an toàn, bí mật thuận tiện. Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng nên ngân hàng có uy tín trong bão lãnh cho khách hàng. Sáu là: Quản lý ngân quỹ. Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với các khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lýviệc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Bảy là: Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn. Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư… Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp. Tám là: Cung cấp các dịch vụ đại lý. Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ. Ngoài các nghiệp vụ chủ yếu ở trên các ngân hàng thương mại còn thực hiện các nghiệp vụ: Tài trợ các hoạt động của chính phủ, cho thuê thiết bị chung và dài hạn, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm và môi giới đầu tư chứng khoán. 1.2. Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. 1.2.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng. Theo Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Theo quan niệm này phạm trù tín dụng có ba nội dung chủ yếu đó là: tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả. Như vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá. Qúa trình đó được thể hiện qua ba giai đoạn sau: - Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay ở giai đoạn này, giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, ở đây chỉ có một bên nhận được giá trị và cũng chỉ một bên nhượng đi giá trị. - Sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất. Người đi vay sau khi nhận được giá trị vốn tín dụng họ được quyền sử dụng giá trị đó để thoả mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của mình. Tuy nhiên, người đi vay chỉ được quyền sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định mà không được quyền sở hữu về giá trị đó. Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn lại cho người cho vay. Những hành vi tín dụng có thể được diễn ra trực tiếp giữa người thừa vốn cần đầu tư và người cần vốn để sử dụng. Nhưng thực tế hai người này khó có thể phù hợp được với nhau về quy mô, về thời gian hoặc cũng có thể phù hợp được thì phải tốn kém chi phí tìm kiếm, nên để thoả mãn được nhu cầu của cả hai người thì cần thiết phải có người thứ ba đứng ra tập trung được tất cả số vốn của những người tạm thời thừa, cần đầu tư kiếm lãi. Trên cơ sở số vốn tập trung được phân phối cho những người cần vốn để sử dụng dưới hình thức cho vay. Người đó không ai khác chính là các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các NHTM – người môi giới tài chính trên thị trường tài chính. Việc các NHTM tập trung vốn dưới hình thức huy động và phân phối vốn dưới hình thức cho vay dược gọi là tín dụng ngân hàng. Qua khái niệm về tín dụng ngân hàng trên ta thấy vai trò quan trọng của tín dụng ngân hàng: Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của NHTM. Tín dụng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế quốc dân. Hoạt động tín dụng ngân hàng làm nhiệm vụ thông dòng để vốn chảy từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Tín dụng đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong tổ chức, điều hoà lưu thông tiền tệ, thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển kinh tế ngoại thương. 1.2.2. Các hình thức tín dụng của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả thì phải tiến hành phân loại tín dụng. Mặt khác để đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh thì việc cấp tín dụng phải gắn liền với đối tượng vay, để tạo điều kiện cho sự vận động của vốn phù hợp với sự vận động của vật tư hàng hoá thì phải tiến hành phân loại tín dụng. Căn cứ vào thời hạn tín dụng. Theo tiêu thức này, người ta chia tín dụng thành ba loại: Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm. Tín dụng ngắn hạn được dùng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến năm năm. Loại tín dụng này được cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ. Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn. Căn cứ vào đối tượng tín dụng. Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Tín dụng vốn lưu động bao gồm: cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ phiếu. Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản cố định, có nghĩa là đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn. Tín dụng sản xuất lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các nhà doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như: Mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá bền chắc như tủ lạnh điều hoà. d. Căn cứ vào mức độ đảm bảo Tín dụng có đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay. Tín dụng không có đảm bảo: là hình thức tín dụng không có tài sản hoặc người bảo lãnh đảm bảo cho khoản nợ vay. e. Xuất xứ của tín dụng. Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua một trung gian tài chính như NHTM hoặc tổ chức tín dụng khác. Tín dụng trực tiếp: là hình thức cấp tín dụng giữa người có tiền (hoặc hàng hoá) với người sử dụng tiền (hoặc hàng hoá) đó, không cần phải thông qua một trung gian tài chính nào cả. 1.2.3. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng. Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của ngân hàng nó mang những đặc trưng sau đây: Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin. ở đây người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ. Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn người cho vay thường xác định rõ thời hạn cho vay. Việc xác định thời hạn đó dựa vào: Qúa trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. Có nghĩa là thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì lúc đó người vay mới có điều kiện để trả nợ. Ngoài ra thời hạn cho vay còn phụ thuộc vào tính chất vốn của người cho vay (nếu vốn của người cho vay ổn định thì thời hạn cho vay có thể dài hơn và ngược lại thì thời hạn cho vay phải ngắn hơn) để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là thuộc tính riêng có của tín dụng. Vì vốn cho vay của ngân hàng là vốn huy động của những người tạm thời thừa nên sau một thời gian nhất định ngân hàng phải trả lại cho người ký thác. Mặt khác, ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí hoạt động như: Khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ công nhân viên, chi phí văn phòng phẩm… nên người vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả cho ngân hàng một khoản lãi. 2. Rủi do tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. 2.1. Khái quát về rủi ro trong các hoạt động ngân hàng. 2.1.1. Khái niệm về rủi ro. Trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất kinh doanh có những sự cố, những tai hoạ, tai nạn bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra gây thiệt hại về người và tài sản không thể dự báo trước, những tình huống bất ngờ như vậy gọi là rủi ro. Khi nói đến rủi ro người ta thường nghĩ đến điều không tốt lành, hoặc một thiệt hại, tổn thất nào đó về vật chất hữu hình hoặc vô hình bất ngờ mang đến do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan gây ra. Trong kinh tế, rủi ro được coi là những tổn thất mà các doanh nghiệp phải chấp nhận khi kinh doanh. Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ của các ngân hàng cũng phải chấp nhận điều đó. Nhưng thực tế đã chứng minh không một ngành kinh doanh nào mà khả năng dẫn đến rủi ro nhiều như kinh doanh tiền tệ. 2.1.2. Phân loại rủi ro trong các hoạt động ngân hàng. Chúng ta đều biết rằng hoạt động của ngân hàng là một loại hình hoạt động rất cần sự thận trọng song vẫn thường gặp phải những rủi ro. Một ngân hàng thành công trong hoạt động của nó không chỉ cần những cán bộ chuyên môn giỏi mà còn phải am hiểu nhiều lĩnh vực và đặc biệt phải có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm với công việc. Tuy nhiên vẫn phải khẳng định rằng kinh doanh ngân hàng là lĩmh vực gặp nhiều rủi ro nhất. Những rủi ro mà một ngân hàng hiện đại phải đối mặt bao gồm: Rủi ro lãi xuất. Qúa trình chuyển hoá tài sản bao gồm việc mua các chứng từ sơ cấp, tức là sử dụng vốn, và phát hành các chứng khoán sơ cấp, tức là huy động vốn. Kỳ hạn và độ thanh khoản của các chứng khoán sơ cấp trong danh mục đầu tư thuộc tài sản có thường không cân xứng với các chứng khoán thứ cấp thuộc tài sản nợ. Sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ làm cho ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi xuất. Ngoài ra, khi lãi xuất thị trường thay đổi ngân hàng còn có thể gặp phải rủi ro giảm giá trị tài sản. Như chúng ta đã biết, giá trị thị trường của tài sản có hay tài sản nợ là dựa trên giá trị hiện tại của tiền tệ. Do đó, nếu lãi xuất thị trường thay đổi thì mức chiết khấu giá trị tài sản cũng thay đổi và do đó giá trị hiện tại của tài sản có và tài sản nợ cũng thay đổi, vì thế ngân hàng phải đối mặt với rủi ro giảm giá trị tài sản do lãi xuất thay đổi. Rủi ro ngoại hối. Hiện nay các NHTM có xu hướng hoạt động đa năng, thực hiện cả nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ do đó khi có sự biến động về tỷ giá hối đoái hoặc sự thay đổi lãi xuất ngoại tệ thì thường phải chịu ảnh hưởng ở mức độ nào đó (nếu sự biến động đó nằm ngoài dự kiến của ngân hàng) nhất là với các NHTM Việt Nam, hiện nay mới đang trong thời kỳ sơ khai, còn nhiều bỡ ngỡ, kinh nghiệm còn hạn chế do đó vấn đề rủi ro hối đoái đang được các NHTM quan tâm một cách thích đáng. Rủi ro tín dụng. Là tình trạng người đi vay không hoàn trả lãi hoặc gốc hoặc cả lãi và gốc một cách đầy đủ, đúng hạn. Đây là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra. Bởi vậy việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm của chính các ngân hàng, hơn 2/3 số tài sản có của ngân hàng là các món nợ cho vay và đầu tư chứng khoán, đem lại thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng. Thêm vào đó các hoạt động ngoại bảng tổng kết tài sản như: các giao dịch trên thị trường hối đoái, các hợp đồng trao đổi, bảo lãnh tín dụng, tín dụng tài trợ đều rất dễ bị rủi ro. Tuy mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng nhưng hoạt động tín dụng cũng chứa đầy rủi ro. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phức tạp nhất, nó đem đến cho ngân hàng những thiệt hại nặng nề, có khi dẫn đến phá sản. Rủi ro tín dụng có thể xảy ra với bất kỳ món cho vay nào, bất kỳ khách hàng nào và bất kỳ lúc nào. Nó nằm ngoài dự đoán của cán bộ tín dụng. Chính vì vậy, nó đòi hỏi bất kỳ ngân hàng nào cũng phải có những giải pháp hữu hiệu, đồng bộ cả về môi trường kinh tế, cơ chế nghiệp vụ, công tác tổ chức cán bộ… mới có thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro tín dụng có thể xảy ra và giảm thiệt hại tới mức thấp nhất. Rủi ro thanh khoản . Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong cơ cấu tài sản có thì tiền mặt có độ thanh khoản cao nhất, do đó trước hết ngân hàng sử dụng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng. Bởi vì tiền mặt tại quỹ không mang lại thu nhập lãi xuất, cho nên trong những trường hợp bình thường, ngân hàng chỉ duy trì một lượng tiền mặt ở mức tối ưu đủ để đáp ứng các nhu cầu rút tiền thường xuyên của người gửi tiền mà không gây ảnh hưởng đến độ thanh khoản của ngân hàng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, ngân hàng có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản, ví dụ như trong tình huống dân chúng mất lòng tin vào ngân hàng hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính trước được đòi hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn bình thường. Trong bối cảnh đó, hầu hết các ngân hàng đều đang phải đối phó với tình huống tương tự, thì chi phí để huy động vốn bổ xung tăng lên một cách đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thị trường giảm. Hậu quả là, ngân hàng phải bán bớt một số tài sản có độ thanh khoản thấp để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi. Điều này làm ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng. Rủi ro hoạt động ngoại bảng. Một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của các ngân hàng hiện đại là việc mở rộng các hoạt động ngoại bảng. Theo định nghĩa, hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bản cân đối tài sản, bởi vì các hoạt động này không liên quan đến việc nắm giữ các chứng khoán hay giấy nhận nợ thứ cấp. Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoại bảng là ngân hàng thu được phí trong khi không phải sử dụng đến vốn kinh doanh cho nên đã khuyến khích phát triển các hoạt động ngoại bảng ngày càng phát triển. Tuy nhiên các hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chẳng hạn, trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty phát hành. Rủi ro công nghệ. Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng quy mô hoạt động. Tính không hiệu quả khi đầu tư công nghệ cuả ngân hàng phát sinh trong trường hợp: Ví dụ: dung lượng đầu tư quá lớn dẫn đến công nghệ không sử dụng đến và hậu quả là tổ chức bộ máy trở nên quan liêu kém hiệu quả; hoặc là quy mô hoạt động không được mở rộng mặc dù đã đầu tư công nghệ mới. Rủi ro về công nghệ có thể gây nên hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân hàng giảm xuống đáng kể và nguyên nhân tiềm ẩn của sự phá sản ngân hàng trong tương lai. Rủi ro Quốc Gia và rủi ro khác. Ngoài sáu rủi ro cơ bản nêu trên, ngân hàng hiện đại còn phải đối mặt với một số rủi ro khác như: Rủi ro Quốc Gia: Ngân hàng đầu tư cho các công ty nước ngoài có trụ sở ở nước ngoài cũng có thể chịu rủi ro đầu tư nước ngoài, đó là rủi ro Quốc Gia. Trong trường hợp ngân hàng đầu tư cho các công ty nước ngoài, thì ngay cả trong trường hợp công ty có khả năng và sẵn sàng hoàn trả vốn vay nhưng cũng có thể không thực hiện được, bởi vì chính phủ nước này cấm hoặc hạn chế việc thanh toán cho nước ngoài do dự trữ ngoại hối hạn hẹp hoặc vì lý do chính trị. Ngoài ra ngân hàng còn phải đối mặt với các rủi ro như: thay đổi thuế đột ngột, sự sụp đổ đột ngột của thị trường chứng khoán, rủi ro trộm cắp lừa đảo, rủi ro bắt nguồn từ các yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát gia tăng, thất nghiệp. 2.2. Rủi ro tín dụng. 2.2.1. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng. Khái niệm và bản chất của rủi ro tín dụng. Trong cơ chế thị trường, sự ra đời và phát triển các loại hình ngân hàng, các tổ chức tín dụng cùng với tính đa dạng của các hoạt động và hình thức tín dụng đã tạo nên một thị trường tín dụng sôi động. Nhưng điều này cũng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro có thể xảy ra với các ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng mà khả năng ngăn ngừa và chống đỡ rủi ro kém. Rủi ro tín dụng là đặc trưng tiêu biểu nhất, dễ xảy ra nhất trong mọi hoạt động ngân hàng. Rủi ro trong hoạt động tín dụng là tình trạng người đi vay không có khả năng hoàn trả được, không trả đúng hạn hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của NHTM - hoạt động tín dụng. Chúng ta biết rằng, tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi giữa người có vốn và người thiếu vốn. Tín dụng hoàn toàn khác các hoạt động tài trợ, dạng cấp vốn của nhà nước cho doanh nghiệp. Hoạt động tín dụng là hoạt động đa dạng, là một loại kinh doanh tiền tệ phức tạp. Tính phức tạp của nó chính là đối tượng kinh doanh, tức là tiền tệ, và ở đây tiền tệ cũng bị tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng khi cho vay. Quan hệ tín dụng là quan hệ kinh tế bình đẳng giữa người cho vay và người đi vay, là sự cam kết thoả thuận bằng các điều khoản thi hành, được thể hiện trong các hợp đồng tín dụng. Thế nhưng, trên thực tế mặc dù các khoản tín dụng giữa ngân hàng và người vay đều được xác lập theo các điều khoản của hợp đồng tín dụng nhưng tình trạng vi phạm cam kết đó xảy ra khá phổ biến kể cả trong trường hợp người vay có năng lực tài chính để thực hiện các điều khoản cam kết đó. Điều đó có nghĩa là một khi còn có hoạt động ngân hàng thì còn có rủi ro trong hoạt động tín dụng. Rủi ro tín dụng Người vay không trả lãi đúng hạn. Người vay không trả gốc đúng hạn. Người vay không trả được lãi. Người vay không trả được gốc. Người vay không trả được cả lãi và gốc. b. Nợ có vấn đề. Nợ có vấn đề là các khoản tín dụng cấp cho khách hàng không thu hồi được hoặc có dấu hiệu không thu hồi được theo đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng. Nợ có vấn đề bao gồm những khoản vay trong hạn, nợ gia hạn nhưng có dấu hiệu không an toàn có thể dẫn tới rủi ro, nợ thanh toán không đúng kỳ hạn, đã quá hạn thanh toán (nợ quá hạn thông thường, nợ khó đòi, nợ chờ xử lý, nợ khoanh, nợ tồn đọng) Việc phân loại khoản vay là một phương pháp quan trọng phải thực hiện để quản lý nợ có vấn đề. NHCT VN duy trì hệ thống xếp hạng các khoản vay như sau: Hạng I (nợ bình thường): Là toàn bộ nợ của những khách hàng có nợ tại tất cả các tổ chức tín dụng (TCTD) còn trong hạn và không có nợ quá hạn, khó đòi, tồn đọng, chờ xử lý, nợ khoanh, và tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng tốt. Hạng II (nợ cần chú ý): Nếu khách hàng tại tất cả các tổ chức tín dụng có những tiêu thức sau thì toàn bộ nợ của khách hàng phân vào loại nợ cần chú ý: Tình hình hoạt động kinh doanh: Hoà vốn; hệ số nợ vay trung, dài hạn / vốn chủ sở hữu lớn hơn 3. Tình hình công nợ taị tất cả các TCTD: Có bất kỳ khoản nợ nào được gia hạn nợ theo đúng qui định tại quyết định 1627 của thống đốc NHNN VN. Hạng III (nợ dưới tiêu chuẩn): Nếu khách hàng tại tất cả các TCTD có một trong những tiêu thức sau đây thì toàn bộ nợ của khách hàng được phân loại vào nhóm nợ dưới tiêu chuẩn. Tình hình hoạt động kinh doanh: bị lỗ. Tình hình công nợ tại tất cả các TCTD: có bất kỳ khoản nợ nào quá hạn đến 6 tháng; hoặc có lãi cho vay chưa thu; hoặc có bất kỳ khoản nợ nào được gia hạn không đúng qui định tại quyết định số 1627 của thống đốc NHNN VN. Hạng IV (nợ khó đòi): Khách hàng tại tất cả các tổ chức tín dụng có một trong những tiêu thức sau đây thì toàn bộ nợ của khách hàng được phân vào nhóm nợ khó đòi. Tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng xấu đi nghiêm trọng: vốn chủ sở hữu bị âm hoặc bị khởi tố, khởi kiện… Tình hình công nợ tại tất cả các tổ chức tín dụng: có bất kỳ khoản nợ nào đã quá hạn trên 6 tháng hoặc nợ khoanh, nợ chờ xử ký, nợ tồn đọng, nợ khó đòi, nợ cho vay thanh toán công nợ. Hạng V(nợ mất vốn): Có đầy đủ thông tin của hạng IV và có thêm các thông tin khác như: Không được chính phủ bảo lãnh; Không có tài sản bảo đảm (TSBĐ) hoặc có TSBĐ nhưng TSBĐ không đúng qui định tại các văn bản qui phạm pháp luật về bảo đảm tiền vay Nợ được phân vào các hạng III, IV, V là nợ xấu c. Các dấu hiệu nhận biết nợ có vấn đề. Các dấu hiệu từ phía khách hàng. Dấu hiệu từ báo cáo tài chính. + Ngân hàng không nhận được các báo cáo tài chính từ khách hàng kịp thời. + Giá trị tuyệt đối và tương đối của các khoản phải thu tăng đột biến. + Hệ số tài sản ngắn hạn tính trên tổng tài sản giảm sút. + Gia tăng sự mất cân đối của các khoản nợ ngắn hạn, các khoản nợ trung, dài hạn tăng đáng kể. + Hàng tồn kho tăng lên đột biến, doanh số bán hàng giảm. + Xuất hiện lỗ từ hoạt động kinh doanh. + Lưu chuyển tiền ròng từ hoạt động kinh doanh âm… Dấu hiệu từ giao dịch ngân hàng. + Số dư tài khoản tiền gửi tại ngân hàng giảm. + Thời hạn của đơn vị vay vốn theo mùa vụ thay đổi đáng kể. + Đề nghị vay vốn của khách hàng thể hiện nhiều nguồn trả nợ khác nhau nhưng trên thực tế khó có thể nhận thấy được. + Xuất hiện những chủ nợ khác, đặc biệt những chủ nợ nhận tài sản bảo đảm. + Thanh toán không kịp thời các khoản nợ đến hạn. Các dấu hiệu liên quan đến công tác quản lý tín dụng. Quy trình cho vay không tuân thủ đúng quy định của ngân hàng. Cán bộ tín dụng có quan hệ đặc biệt với khách hàng. Các cấp quản lý trong ngân hàng thiếu sát sao trong giám sát k._.hoản vay. Không thể kiểm tra tài khoản kinh doanh của người vay. Cho vay dựa trên giá trị sổ sách của doanh nghiệp không kiểm toán và xác minh báo cáo tài chính của người vay. Giải ngân trước khi hoàn thiện hồ sơ. Cho vay thêm nhưng không có thêm TSBĐ thích đáng. Vốn vay không được sử dụng đúng mục đích. Không phân tích chính xác khả năng trả nợ của người vay… Dấu hiệu từ khoản vay. Hồ sơ cho vay thiếu sự chặt chẽ. Gía trị thực tế của tài sản bảo đảm thấp. Kế hoạch trả nợ và nguồn hoàn trả không hợp lý. Nguồn trả nợ không đúng với kế hoạch vay vốn. Các dấu hiệu khác. Cơ chế chính sách thay đổi làm ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh. Gía cả thị trường thay đổi làm ảnh hưởng trực tiếp tới đầu ra của sản phẩm. Tỷ giá ngoại hối tăng ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay ngoại tệ của khách hàng. 2.2.2. Đo lường rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là những biến cố xảy ra ngoài mong đợi của các nhà kinh doanh ngân hàng. Chúng ta không thể loại bỏ rủi ro ra khỏi hoạt động kinh doanh nhưng chúng ta có thể nghiên cứu nó để có những giải pháp quản lý và ngăn ngừa được rủi ro, chấp nhận nó ở một mức độ hợp lý. Bởi vì vốn chủ sở hữu của ngân hàng so với tổng giá trị của tài sản là rất nhỏ nên chỉ cần một tỷ lệ nhỏ danh mục cho vay có vấn đề sẽ có thể đẩy một ngân hàng tới nguy cơ phá sản. Đo lường rủi ro là một trong những biện pháp để nghiên cứu rủi ro mà NHTM nào cũng áp dụng. Việc đo lường rủi ro, đặc biệt là đo lường rủi ro tín dụng có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý kinh doanh của ngân hàng. Có 4 chỉ số sau được sử dụng rộng rãi nhất trong việc đo lường rủi ro tín dụng của ngân hàng. Tỷ số giữa giá trị các khoản nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay và cho thuê. Tỷ số giữa các khoản xoá nợ ròng so với tổng cho vay và cho thuê. Tỷ số giữa phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm so với tổng cho vay và cho thuê hay với tổng vốn chủ sở hữu. Tỷ số giữa dự phòng tổn thất tín dụng so với tổng cho vay và cho thuê hay với tổng vốn chủ sở hữu. Trong đó các khoản nợ quá hạn là những khoản cho vay quá hạn thanh toán từ 90 ngày trở lên. Các khoản cho vay được xoá nợ: Là những khoản cho vay được ngân hàng tuyên bố là khồng còn giá trị và được xoá khỏi sổ sách. Nếu một trong số những khoản cho vay này cuối cùng cũng tạo ra thu nhập cho ngân hàng thì tổng số thu sẽ được khấu trừ khỏi tổng số các khoản xoá nợ tạo thành các khoản xoá nợ ròng. Khi hai chỉ tiêu đầu tăng, rủi ro tín dụng của ngân hàng cũng sẽ tăng, ngân hàng có thể đứng bên bờ vực phá sản. Hai chỉ tiêu rủi ro tín dụng cuối nói lên sự chuẩn bị của một ngân hàng cho các khoản tổn thất tín dụng thông qua việc trích lập quỹ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm từ thu nhập hiện tại. 2.2.3.Các nguyên nhân chủ yếu gây ra rủi ro tín dụng. Trong công tác của các cán bộ tín dụng và các ngân hàng, tìm hiểu nguyên nhân của rủi ro được coi là bước đầu tiên trong quá trình tìm cách phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng bởi vì chúng ta không thể đưa ra các giải pháp hữu hiệu nếu như chúng ta không biết rủi ro đó từ đâu mà có. Thông thường, để thuận tiện cho việc làm cơ sở đưa ra các giải pháp và kiến nghị sau này những người làm nghiên cứu thường phân các nguyên nhân rủi ro tín dụng thành ba nhóm: nhóm các nguyên nhân từ bản thân ngân hàng, nhóm các nguyên nhân từ phía khách hàng và nhóm các nguyên nhân khác. 2.2.3.1. Nguyên nhân từ bản thân ngân hàng. Những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong trường hợp này có thể do: Trình độ cán bộ xét duyệt cho vay yếu kém, thiếu các thông tin cần thiết để thẩm định cho vay, không phát hiện được gian lận, lừa đảo hoặc vô tình làm không đúng quy trình, quy định xử lý nghiệp vụ, dẫn đến tổn thất. Do cán bộ ngân hàng thiếu trách nhiệm và vi phạm đạo đức nghề nghiệp, cố tình làm không đúng, làm sai qui định để trục lợi cá nhân hoặc vì một lợi ích nào đó, và có trường hợp cán bộ ngân hàng tiếp tay tham gia cùng khách hàng lừa đảo lấy tiền ngân hàng. Do mạo hiểm trong kinh doanh, biết được rủi ro nhưng coi thường hậu quả có thể xảy ra, vẫn cho vay khi thu được lãi xuất tương đối hấp dẫn. Ngân hàng buông lỏng việc đôn đốc, kiểm tra, kiểm soát. Trong quá trình sử dụng vốn vay và thu hồi vốn nên dẫn đến có nhiều khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích, dây dưa không chịu trả nợ. Quá tin tưởng vào vật thế chấp. Bất kỳ đối tượng nào khi đi vay vốn mà chưa có độ tin cậy cao bao giờ cũng phải có tài sản thế chấp và ngân hàng chỉ cho vay theo tỷ lệ nào đó trên giá trị tài sản thế chấp. Tuy nhiên, có những khách hàng tạo được uy tín nhất định cho những món vay trước nên ngân hàng có thể tin cậy họ và cho họ vay không cần tài sản thế chấp hoặc giá trị tài sản thế chấp thấp hơn giá trị món vay. Trong khi đó, vật thế chấp được coi là vật bảo đảm an toàn khi xét duyệt cho vay và là sự rằng buộc giữa khách hàng với ngân hàng. Ngân hàng đã có vật thế chấp thì rất yên tâm và thiếu sự giám sát chặt chẽ các khoản vay nên dễ xảy ra rủi ro tín dụng. Do chính sách, thể lệ tín dụng của ngân hàng thương mại còn chưa đầy đủ, đồng bộ, luôn có sự biến đổi. Thông tin không cân xứng: Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng mặc dù đã đi vào hoạt động được vài năm trở lại đây nhưng nó chưa đem lại hiệu quả cao thể hiện qua con số nợ quá hạn giảm không đáng kể. Các ngân hàng còn thiếu những thông tin chính xác về hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính của khách hàng. 2.2.3.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng. Người vay sử dụng tiền vay sai mục đích, không sinh lời hoặc ứ đọng vào tài sản nên không có người trả nợ. Người vay cố tình gian lận số liệu trong hồ sơ vay như báo cáo tài chính, hợp đồng kinh tế, phương án sử dụng tiền vay, giấy tờ pháp lý về tài sản bảo đảm. Người vay cố tình chây lỳ, chậm trả để chiếm dụng quay vòng vốn. Người vay cố tình lừa đảo, chiếm đoạt vốn, bỏ trốn hy vọng sẽ quỵt được nợ. Khách hàng bị bạn hàng lừa đảo thông qua hoạt động kinh tế hay bạn hàng khó khăn tạo nên phản ứng dây chuyền. Do các chính sách của nhà nước thay đổi như tăng thuế ở một số mặt hàng, sử dụng công cụ chính sách kinh tế vĩ mô trong khi các doanh nghiệp đang trong thời kỳ sản xuất, buộc các doanh nghiệp phải tính toán lại giá cả, chi phí đầu vào… gây thiệt hại cho doanh nghiệp và gián tiếp ảnh hưởng đến ngân hàng vì doanh nghiệp chậm trả vốn cho ngân hàng. Khách hàng thích ứng chậm với thị trường, điều hành sản xuất kinh doanh còn thiếu linh hoạt nên doanh nghiệp bị tụt hậu trong cạnh tranh, sản phẩm sản xuất ra không bán được hoặc bán với giá thấp, do đó doanh nghiệp không thu hồi được vốn dẫn đến tình trạng không có khả năng trả nợ đúng và đủ cho ngân hàng. 2.2.3.3. Nguyên nhân khác. Ngoài các nguyên nhân từ bản thân của ngân hàng, các nguyên nhân từ phía khách hàng thì rủi ro tín dụng cũng có thể xảy ra do các nguyên nhân: Thiên tai, bệnh dịch, chiến tranh sự suy thoái kinh tế của từng ngành hoặc cả nước, sự thay đổi chính sách cuả nhà nước với ngân hàng và với người vay, sự thay đổi của các văn bản pháp luật, sự mất ổn định về chính trị xã hội… vượt quá sự kiểm soát của cả ngân hàng lẫn khách hàng. Những thay đổi này thường xuyên xảy ra tác động liên tục tới ngân hàng và khách hàng tạo ra những thuận lợi và khó khăn. Nhiều người vay có thể dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những khó khăn. Tuy nhiên khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề thì khả năng trả nợ của họ sẽ trở nên khó khăn 2.2.4. Tác hại của rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại tuỳ theo mức độ có thể ảnh hưởng ít hay nhiều tới bản thân ngân hàng và khách hàng, thậm chí tới toàn bộ nền kinh tế. Đối với bản thân ngân hàng. Tác hại của rủi ro tín dụng là rất rõ, nó ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của ngân hàng. Khi rủi ro xảy ra ở mức độ nhỏ, ngân hàng có thể sử dụng quỹ dự phòng, vốn tự có để bù đắp, ở mức độ này ngân hàng đã bị giảm lợi nhuận kinh doanh. Nhưng nếu rủi ro xảy ra ở mức độ cao hơn, vốn tự có cũng không đủ bù đắp thì ngân hàng có nguy cơ bị phá sản. Rủi ro tín dụng gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thanh toán tiền gửi cho khách hàng. Trong trường hợp đến hạn trả tiền mà ngân hàng chưa có đủ tiền để trả cho người gửi thì ngân hàng có thể mất các chi phí cho các NHTM hay tổ chức tín dụng khác… Ngoài ra rủi ro còn làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường, ảnh hưởng tới việc huy động vốn cũng như tác động xấu đến quan hệ với các ngân hàng khác. Đối với nền kinh tế. Khi rủi ro tín dụng xảy ra thì nó không chỉ dừng lại ở việc ảnh hưởng tới ngân hàng mà nó còn ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Ngân hàng được coi là trung tâm thần kinh của toàn bộ nền kinh tế trên địa bàn nơi ngân hàng đặt trụ sở.Qua đánh giá hoạt động ngân hàng người ta có thể biết được tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tình hình thu nhập của dân cư… Khi ngân hàng gặp rủi ro tín dụng đến một mức độ nào đó sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội. Rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu hồi được vốn cho vay đúng hạn sẽ ảnh hưởng đến khả năng chi trả làm người gửi tiền mất lòng tin và ồ ạt kéo đến ngân hàng đòi rút tiền. Nếu ngân hàng không kịp thời chuẩn bị cho các tình huống này hoặc không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu rút tiền lớn như vậy thì ngân hàng có thể bị phá sản. Điều này sẽ làm cho người gửi tiền ồ ạt kéo đến rút tiền ở các ngân hàng khác gây mất ổn định trên thị trường, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. 2.3. Quản lý rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của NHTM – hoạt động tín dụng. Chúng ta không có cách gì để loại trừ hoàn toàn rủi ro tín dụng mà phải quản lý để hạn chế những rủi ro đó. Do đó, quản lý rủi ro tín dụng được coi là một nội dung quản lý quan trọng của NHTM. Các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng: -Quyết định cho vay trên cơ sở phải xác định và hiểu rõ khách hàng. Hiệu quả và chất lượng tín dụng trên cơ sở hiệu quả của sản xuất kinh doanh của người vay vốn. Mở rộng khối lượng tín dụng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng. Chủ động phân tán rủi ro để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro. Cho vay phải có đảm bảo tiền vay với tính khả thi cao. Cho vay phải do chính ngân hàng quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Phải quản lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, các khoản nợ có vấn đề. Từ các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng ở trên các NHTM đã đưa nội dung quản lý rủi ro tín dụng: + Thực hiện đúng các nguyên tắc tín dụng: Đây là yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất của mỗi cán bộ tín dụng. Để thực hiện được giải pháp này thì nhiệm vụ đầu tiên đặt ra cho các ngân hàng là phải xây dựng được một quy trình tín dụng hợp lý đảm bảo độ an toàn cao và phải thực thi được tại ngân hàng đó. + Đa dạng hoá các danh mục cho vay: Với mỗi khoản vay, việc cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với các doanh nghiệp lớn song việc tập trung cho vay một khách hàng lại dễ gây tổn thất nghiêm trọng khi có các yếu tố bất thường xảy ra. + Nâng cao trình độ quản lý và chuyên môn của cán bộ ngân hàng: Đây là một giải pháp quan trọng bởi nó có thể giải quyết tận gốc nhiều vấn đề. Khả năng nắm vững công việc cũng như khả năng quản lý nhân viên của người lãnh đạo sẽ hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra. + Tạo lập mối quan hệ tốt với khách hàng và tăng cường hệ thống thông tin về khách hàng: Đây là nhân tố quan trọng giúp ngân hàng nhận biết được các rủi ro có thể xảy ra từ phía họ. Đồng thời nhờ đó mà ngân hàng có được sự tin cậy và yêu mến của khách hàng, từ đó nâng cao uy tín của ngân hàng. Ngân hàng cũng nên mở rộng các kênh thông tin khác để hiểu rõ hơn về khách hàng. + Lập quỹ dự phòng rủi ro: Nó là nguồn để bù đắp thiệt hại quan trọng trong trường hợp rủi ro xảy ra với ngân hàng. Nó có thể làm cho ngân hàng tránh được nguy cơ mất khả năng thanh toán. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH HOÁ 1.TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG THANH HOÁ. 1.1. Tình hình kinh tế xã hội của tỉnh. Thanh hoá là tỉnh cửa ngõ phía bắc của các tỉnh miền trung, có vị trí chiến lược quan trọng. Thanh hoá cũng là tỉnh đất rộng, người đông, nổi tiếng là ”địa linh , nhân kiệt”, có đủ ba vùng kinh tế: miền núi, trung du, đồng bằng và ven biển có chiều dài bờ biển 102 km có đường sắt Bắc Nam và Quốc lộ 1A chạy qua, rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế với các tỉnh trong cả nước. Thanh hoá có nhiều vùng đất rộng rất thận tiện cho việc phát triển các khu công nghiệp. Tài nguyên rừng và biển phong phú: có dầu khí trữ lượng khoảng 100 – 120 nghìn tấn, có nhiều loại thuỷ hải sản quý hiếm với nhiều vùng mặn có thể nuôi trồng hải sản, có Sầm Sơn là khu du lịch nghỉ mát của cả nước. Tài nguyên khoáng sản giàu nguyên vật liệu xây dựng, phân bón như: Đá vôi, sét, phụ gia xi măng, crôm, đôlômít. Tuy nhiên, Thanh Hoá là một tỉnh trong những năm qua nhịp độ tăng trưởng GDP thấp hơn mức trung bình cả nước. Tốc độ tăng bình quân về công nghiệp và nông nghiệp thấp đã hạn chế sự phát triển của ngành dịch vụ. Lao động nông nghiệp chiếm 80%, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhỏ bé lạc hậu nó là nhân tố kìm hãm sự phát triển của tỉnh nhà. Hơn nữa, Thanh Hoá cũng là tỉnh nằm trong khu vực của trung tâm các cơn bão, ảnh hưởng rất lớn của thiên tai, lũ lụt đã đe doạ đến đời sống sản xuất của nhân dân trong tỉnh. 1.2. Sự thành lập và cơ cấu tổ chức của ngân hàng công thương Thanh Hoá. Hoàn cảnh ra đời. Thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ 3 của BCHTW Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá VI và nghị định số 53 HĐBT ngày 26/3/1988 của hội đồng Bộ trưởng về việc chuyển hoạt động ngân hàng sang hoạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN. Trong xu thế thời đại đó ngày 1/7/1988 NHCT VN ra đời và đi vào hoạt động. Hai tháng sau, ngày 1/9/1988 chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Thanh Hoá cũng được thành lập trên cơ sở ngân hàng nhà nước thị xã Thanh Hoá cùng các phòng tín dụng công nghiệp, tín dụng thương nghiệp của ngân hàng nhà nước tỉnh để hợp thành chi nhánh NHCT tỉnh Thanh Hoá, đơn vị thành viên của NHCT Việt Nam Cùng thời gian đó các chi nhánh ngân hàng nhà nước thị xã Bỉm Sơn, thị xã Sầm Sơn chuyển thành chi nhánh NHCT cấp II thuộc chi nhánh NHCT tỉnh Thanh Hoá. Cơ cấu tổ chức. Chi nhánh NHCT Thanh Hoá gồm một giám đốc, 3 phó giám đốc và các phòng sau: Phòng kế toán. Phòng kinh doanh. Phòng kinh doanh ngoại hối. Phòng nguồn vốn. Phòng tổ chức hành chính. Phòng ngân quỹ. Phòng kiểm tra. 4 phòng giao dịch số 01, 02, 03 và 06. Khách sạn Ngân Hoa. Ngân hàng công thương Sầm Sơn là chi nhánh cấp 2 trực thuộc NHCT Thanh Hoá. Nội dung hoạt động. Huy động vốn: + Mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ với mọi thành phần kinh tế. + Nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ. + Phát hành kỳ phiếu có mục đích. + Dịch vụ tiết kiệm điện tử. - Tín dụng: + Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để các doanh nghiệp, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống. + Đồng tài trợ, cho vay hợp vốn đối với những dự án có quy mô lớn. + Bảo lãnh trong và ngoài nước. + Thực hiện các chương trình cho vay vốn ưu đãi theo chỉ định của chính phủ và NHCT VN. - Dịch vụ ngân hàng quốc tế: + Thanh toán quốc tế: Thư tín dụng, nhờ thu, chuyển tiền bằng điện. + Dịch vụ kiều hối. + Thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, séc du lịch. + Dịch vụ ngoại hối: Dịch vụ mua bán ngoại hối giao ngay, kỳ hạn, dịch vụ bán đổi. -Dịch vụ thanh toán điện tử. -Dịch vụ tư vấn. 1.3. Tổng quan về hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHCT Thanh Hoá. Hoạt động của chi nhánh NHCT tỉnh Thanh Hoá trong năm 2005 cũng gặp nhiều khó khăn và thách thức, đó là việc thay đổi mô hình tổ chức, tách, nâng cấp chi nhánh cấp II NHCT Bỉm Sơn thành chi nhánh cấp I phụ thuộc NHCT VN đã ảnh hưởng lớn đến quy mô hoạt động của NHCT tỉnh, như dư nợ giảm 1/3, nguồn vốn giảm 1/4 trong khi lao động chỉ giảm 1/6. Ngoài ra hầu hết các chỉ tiêu khác giảm mạnh ở 9 tháng đầu năm, nợ quá hạn có thời điểm lên đến 40 tỷ đồng do tác động khách quan tác động tới tốc độ phát triển của nền kinh tế. Trước những khó khăn thách thức đó ban giám đốc đã đưa ra biện pháp mạnh thực hiện cho 4 tháng hoạt động kinh doanh còn lại trong năm, đó là thành lập các ban, chỉ đạo từng mảng nghiệp vụ: Nghiệp vụ tăng trưởng nguồn vốn, mảng nghiệp vụ tăng trưởng tín dụng đi đôi với nâng cao hiệu quả kinh doanh, mảng nghiệp vụ phát triển các sản phẩm dịch vụ, có thể nói được kết quả vào thời điểm cuối năm là cả một sự phấn đấu bền bỉ của cả tập thể chi nhánh NHCT tỉnh Thanh Hoá và sự chỉ đạo sát sao của ban giám đốc. Kết quả thật đáng ghi nhận thể hiện trên các chỉ tiêu sau. Hoạt động huy động vốn. Chi nhánh NHCT TH luôn quan tâm đến công tác huy động nguồn vốn coi đây là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt năm kế hoạch. Chi nhánh đã linh hoạt trong việc áp dụng lãi xuất huy động phù hợp với chính sách nhà nước, giữ được khách hàng và không ảnh hưởng nhiều đến kết quả kinh doanh. Hình thức gửi tiền luôn được đổi mới và phong phú. Trong năm thực hiện huy động hai đợt tiết kiệm dự thưởng, phát hành kỳ phiếu 7 tháng đối với loại huy động VNĐ và 11 tháng đối với loại huy động USD. Trong năm 2005 công tác chăm sóc và tiếp thị, tiếp cận khách hàng được quan tâm chỉ đạo sát sao hơn, hình thức phong phú từ tặng quà bằng hiện vật sang bằng tiền và tặng bằng thẻ mua hàng ở các trung tâm thương mại của thành phố. Trong năm 2005 chi nhánh nâng cấp 1 quỹ tiết kiệm thành điểm giao dịch phù hợp với địa bàn hoạt động. Từ sự chỉ đạo điều hành đúng hướng, đổi mới của ban giám đốc cho đến thời điểm 31/12/2005 tổng nguồn vốn huy động của chi nhánh đạt 957.686 triệu đồng tăng130.346 triệu đồng so với đầu năm, tốc độ tăng trưởng 16% và đạt 111,4% kế hoạch giao. Bình quân nguồn vốn huy động năm 2005 đạt 835.675 triệu đồng tăng 110.700 triệu đồng so với bình quân năm 2004, tốc độ tăng 15%. Cơ cấu nguồn vốn. Phân theo loại tiền gửi: + Tiền gửi VNĐ đạt 646.873 chiếm 67.5% trong tổng nguồn vốn huy động. + Tiền gửi ngoại tệ quy VNĐ đạt 310. 814 triệu đồng, chiếm 32.5%. Phân theo loại hình huy động: + Tiền gửi tiết kiệm: 615.336 trđ, chiếm 64,4% tổng nguồn vốn huy động. + Tiền gửi doanh nghiệp 244.795 trđ, chiếm 25.6% tổng nguồn vốn huy động. + Phát hành các công cụ nợ (kỳ phiếu và chứng chỉ tiền gửi) đạt 97.554 trđ, chiếm 10% tổng nguồn vốn huy động. Phân theo thời hạn tiền gửi: + Tiền gửi không kỳ hạn: 174.088 trđ, chiếm 18% tổng nguồn vốn. + Tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng: 298.259 trđ, chiếm 31% tổng nguồn vốn. + Tiền gửi trên 12 tháng đến dưới 24 tháng: 327.834 trđ, chiếm 34% trong tổng nguồn vốn. + Tiền gửi trên 24 tháng: 157.506 trđ, chiếm 17% tổng nguồn vốn. Tình hình huy động vốn của các đơn vị năm 2005 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Đơn vị Kế hoạch giao Thực hiện đến thời điểm +,- so với ĐN % so với ĐN % so kế hoạch C.Kỳ BQ 31/12/04 31/12/05 QĐ12T C.kỳ BQ I Toàn CN 1.Sầm Sơn 2.Hội sở II.Các phòng PGD1 PGD2 PGD3 PGD6 P.N.vốn P.K.toán P.N.tệ 994.000 102.000 892.000 29.000 26.000 29.000 23.000 620.000 155.000 10.000 845.000 75.000 770.000 25.500 21.000 24.500 13.500 579.000 100.000 6.500 826.284 86.255 740.029 24.353 20.949 24.075 13.149 516.428 133.022 8.053 957.686 49.216 908.470 26.157 26.648 29.594 13.857 586.727 219.689 5.798 814.830 48.311 766.519 23.945 23.345 25.241 12.077 559.318 117.013 5.580 131.402 -37.039 168.441 1.804 5.699 5.519 708 70.299 86.667 -2.255 116 57 123 107 127 123 105 114 165 72 96 48 102 90 102 102 60 95 142 58 96 64 100 94 111 103 89 97 117 86 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2005 – Ngân hàng Công thương Thanh Hoá * Hoạt động cho vay nền kinh tế và đầu tư khác Chi nhánh đã tiếp cận và tìm hiểu thị trường, phân tích khách hàng để chuyển hướng đầu tư vào doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ tư nhân cá thể, kinh tế gia đình. Trong năm đã tiếp cận được 112 khách hàng là DN. Chỉ đạo phòng chuyên đề trong việc mở rộng cho vay và khách hàng truyền thống đã ký hạn mức tín dụng, việc mở rộng dư nợ phải đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng. Sàng lọc, lựa chọn, rút dần dư nợ đối với khách hàng có tài chính không lành mạnh, sản xuất kinh doanh không ổn định vay tiền Ngân hàng. Cương quyết không cho vay đối với khách hàng thiếu điều kiện tín dụng, không đủ tài sản đảm bảo. Giảm dần tỉ lệ cho vay doanh nghiệp nhà nước, nâng tỷ trong cho vay có tài sản bảo đảm ......Do áp dụng đồng bộ các giải pháp nên tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của chi nhánh đến thời điểm 31/12/2005 đạt 748.018 triệu đồng đạt 101% kế hoạch NHCTVN giao. So với đầu năm cho vay nền kinh tế tăng 123.863 triệu đồng đạt tốc độ tăng trưởng 19.8%. Bình quân cả năm 2005 chỉ tiêu cho vay nền kinh tế đạt 636.741 triệu đồng, tăng 22.510 triệu đồng so với bình quân năm 2004. Đầu tư khác là 12.788 triệu đồng, tăng 1.686 triệu đồng so với năm 2004. Cơ cấu cho vay dư nợ nền kinh tế. - Phân theo loại tiền vay: + Cho vay bằng VNĐ đạt 695.006 triệu đồng chiếm 93% trong tổng dư nợ. + Cho vay ngoại tệ quy VNĐ đạt 53.011 triệu đồng chiếm 7% trong tổng dư nợ. - Phân theo thời hạn cho vay: + Cho vay ngắn hạn đạt 561.506 triệu đồng chiếm 75% trên tổng dư nợ. + Cho vay trung dài hạn đạt 186.521 triệu đồng chiếm 25% trên tổng dư nợ. Tình hình cho vay nền kinh tế năm 2005 của các đơn vị như sau: Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu Đơn vị Kế hoạch giao Thực hiện đến thời điểm +,- so với ĐN % so với ĐN % so kế hoạch C.Kỳ BQ 31/12/04 31/12/05 BQ12T C.kỳ BQ I Toàn CN 1.Sầm Sơn 2.Hội sở II.Các phòng Phòng KD PGD1 PGD2 PGD3 PGD6 770.000 110.000 660.000 470.000 45.000 47.000 48.000 50.000 742.000 97.000 645.000 470.000 40.000 45.000 45.000 45.000 642.155 92.747 549.408 397.800 33.783 37.663 37.420 42.742 748.018 87.432 660.586 423.444 49.556 58.394 66.921 62.271 624.688 80.300 544.388 357.729 42.445 44.527 48.396 51.291 105.863 -5.315 111.178 43.644 15.773 20.731 29.501 19.529 116 94 120 111 147 155 179 146 97 79 100 90 110 124 139 125 84 83 84 76 106 99 108 114 Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động ngân hàng năm 2005 * Hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hoạt động mua bán ngoại tệ đạt doanh số mua 16.065 ngàn USD và doanh số bán đạt 16.088 ngàn USD. So với năm 2004 giảm cả doanh số bán, mua là 3.500 ngàn USD. Lãi kinh doanh ngoại tệ đạt 403 triệu đồng bằng 94% kế hoạch giao và tăng 129 triệu đồng so với năm 2004. Hoạt động thanh toán xuất khẩu : số món L/C nhập là 207 món, tăng 29 món so với năm 2004. Số lượng L/C xuất 234 món, tăng 15 món so với năm 2004. Số nhờ thu đi 21 món, nhờ thu đến 33 món, tăng 17 món so với năm 2000. Chuyển tiền đến 183 món giảm 31 món so với năm 2004, chuyển tiền đi 99 món tăng 21 món so với năm 2004. Hoạt động thanh toán khác: Nhờ thu séc được 140 món giảm 55 món so với năm 2004, thanh toán séc được 17 món. Chi trả kiều hồi 5.100 món đạt 85% kế hoạch giao tăng 100 món so với năm trước. * Thu dịch vụ. Kết quả thu phí các sản phẩm dịch vụ NH năm 2005 chi nhánh thu 3.464 triệu đồng, so với năm 2004 tăng 52.3%, tốc độ tăng cao nhất từ trước đến nay. Chiếm tỷ trọng 4% trong tổng doanh thu và đạt 106% kế hoạch NHCTVN giao. Năm 2005 với phương châm đa dạng các loại sản phẩm dịch vụ chi nhánh đã tiếp cận, tiếp thị được 2.156 khách hàng đến mở và sử dụng tài khoản ATM nâng tổng số thẻ sau gần 2 năm là 3.187 thẻ. Tình hình thực hiện thu lãi, thu dịch vụ các đơn vị năm 2005 Đơn vị: triệu đồng Đơn vị Kế hoạch giao Thực hiện năm 2005 % So với kế hoạch Thu lãi Thu dịch vụ Thu lãi Dịnh vụ Thu lãi Dịch vụ I. Toàn CN 1. Sầm sơn 2. Hội sở II. Các phòng PGD1 PGD2 PGD3 PGD6 Phòng KT Phòng NT 4.300 4.900 4.900 4.900 42.600 430 2.985 105 2.880 100 170 135 155 1.440 880 4.903 4.904 5.696 5.741 38.580 3.410 208 3.202 130 234 179 200 1.732 727 114 100 116 117 91 931 198 733 130 138 133 129 120 83 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2005 NHCT TH * Hoạt động của khách sạn Ngân Hoa. Trong năm hoạt động của khách sạn Ngân Hoa chủ yếu là phục vụ nội bộ. Ban giám đốc chi nhánh đã chuyển hướng cải tạo cơ bản và mua sắm mới cơ sở vật chất nhằm nâng cấp và đưa hoạt động khách sạn Ngân Hoa trở lại kinh doanh bình thường. Do vậy trong quý IV hoạt động của khách sạn ngân hoa đã khởi sắc lãi 10 triệu đồng. Tổng doanh thu trong năm đạt 558 triệu đạt 81% kế hoạch. * Công tác kế toán tài chính và kết quả kinh doanh. Công tác kế toán ngoài việc thực hiện hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh một cách nhanh chóng, đầy đủ, chính xác, kịp thời, an toàn tài sản theo nguyên tắc chế độ còn quan tâm đến tổ chức giao dịch phục vụ khách hàng một cách khoa học tăng thời gian giao dịch với khách hàng, cung cấp các sản phẩm dịch vụ tiện ích, bổ xung thêm các phương tiện làm việc, máy móc, thiết bị hiện đại, nhằm mục tiêu phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Công tác quản lý tài chính, quản lý tài sản, bảo đảm chế độ và tiết kiệm phục vụ kinh doanh có hiệu quả. Làm tốt công tác tham mưu cho Ban giám đốc trong chỉ đạo điều hành kinh doanh, thay đổi, bổ sung một số nội dung trong quy chế tài chính cho phù hợp với mục tiêu kinh doanh năm 2005. Phối tốt với các phòng nghiệp vụ trong giải quyết công việc. Công tác thông tin điện toán ngày càng được nâng cấp đáp ứng yêu cầu quản lý và hiện đại hoá. Xây dựng các phần mềm tiện ích phục vụ công việc cho các phòng chức năng, quản lý chặt chẽ và đảm bảo an toàn các thiết bị cung cấp. Kết quả hoạt động tài chính trong năm đạt. Tổng doanh thu : 825.821 triệu đồng. Tổng chi phí: 69.736 triệu đồng. Lợi nhuận hạch toán chi nhánh năm 2005 là: 16.084 triệu đồng, trích lập quỹ dự phòng 1.313 triệu đồng. 2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công Thương Thanh Hoá. 2.1. Tình hình cho vay của chi nhánh trong thời gian qua. Các NHTM nói chung và NHCT TH nói riêng gặp những khó khăn về khai thác nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu cho vay nền kinh tế. Lãi suất huy động tiết kiệm liên tục, điều chỉnh tăng, trong khi đó lãi suất cho vay điều chỉnh tăng không kịp ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của chi nhánh. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh tín dụng của chi nhánh NHCT TH trong năm 2005 đã đạt được một số kết quả khả quan như: tăng trưởng dư nợ, cho vay đúng kế hoạch và nằm trong khả năng quản lý giám sát của chi nhánh. Cơ cấu tín dụng đã chuyển biến theo hướng tích cực an toàn và hiệu quả, thể hiện qua một số chỉ tiêu sau. * Cho vay nền kinh tế. - Tổng dư nợ cho vay và đầu tư đến 21/12/2005 đạt 748.018 triệu đồng tăng so với đầu năm 123.750 triệu đồng, dư nợ tăng chủ yếu là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp đã chuyển đổi thành công ty cổ phần tăng 159.540 triệu đồng so với đầu năm, chiếm tỷ trọng là 92.7% tổng dư nợ cho vay, cho vay bằng VNĐ đạt 695.007 triệu đồng tăng 112.035 triệu đồng so với đầu năm, tốc độ tăng trưởng 19%, cho vay bằng ngoại tệ đạt 53.011 triệu đồng tăng 11.715 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng 28% so với đầu năm. Một số chỉ tiêu về hoạt động tín dụng, cơ cấu đầu tư trong năm 2005 như sau: CHỈ TIÊU 31/12/2004 31/12/2005 +,- năm2005 so với năm 2004 Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ lệ % Tổng DN cho vay và đầu tư 624.268 100 748.018 100 123.750 120 1. Phân loại TD theo thời hạn CV 624.268 100 748.018 100 - Dư nợ ngắn hạn 472.196 76 560.892 75 88.696 119 - Dư nợ trung và dài hạn 152.072 24 187.126 25 35.054 123 2. Phân loại theo hình thức đảm bảo 624.268 100 748.018 100 - Cho vay có tài sản đảm bảo 498.456 79,85 661.784 88.5 163.328 132 - Cho vay không có tài sản đảm bảo 125.812 20.15 86.234 11.5 -39.578 68 3. Phân loại TD theo thành phần KINH Tế 624.268 100 748.018 100 - DN nhà nước 90.623 14.5 54.833 7.3 -35.790 60 - DN ngoài quốc doanh 533.645 85.5 693.185 92.7 159.540 130 4. Phân loại TD theo chất lượng TD 624.268 100 748.018 100 - Dư nợ thông thường 619.045 99.18 745.574 99.67 126.679 120 - Dư nợ quá hạn 5.050 0.8 2.294 0.31 -2.756 45 - Nợ tồn đọng 173 0.02 150 0.02 -23 86 5. Phân loại TD theo NV cho vay 624.268 100 748.018 100 - Nguồn vốn thương mại NHCT 597.860 95.76 716.559 95.8 118.699 120 - Cho vay tạo việc làm 1.665 0.27 1.338 0.2 -327 80 - Cho vay tài trợ uỷ thác 24.734 3.97 30.121 4.0 5.387 121 6. Phân theo loại tiền tệ 624.268 100 748.018 100 - Cho vay VNĐ 582.972 93.4 695.007 93 112.035 119 - Cho vay ngoại tệ 41.296 6.6 53.011 7 11.715 128 Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng năm 2004,2005 NHCT TH * Cho vay các trương trình dự án . - Chương cho vay tài trợ uỷ thác Việt- Đức: Cho vay vốn với lãi suất ưu đãi tạo việc làm, cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được duy trì, ổn định nên có tác dụng hỗ trợ các doanh nghiệp mua sắm máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đã tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động trên thị trường. Trong năm 2005 dư nợ cho vay 3 chương trình : 31.459 triệu đồng với 204 dự án tăng với đầu năm là 5051 triệu đồng tăng chủ yếu là cho vay theo trương trình JBIC. - Cho vay không có BĐTS đối với công nhân viên chức. Tính đến nay ngày 31/12/05 chi nhánh đã cho vay : 1603 khách hàng với dư nợ cho vay là: 15.249 triệu đồng, chiếm tỷ trọng: 2.04%/ tổng dư nợ cho vay. Việc cho vay của chi nhánh đối với các cán bộ công nhân viên chức chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm phương tiện đi lại phụ vụ cho công tác, đồ dùng gia đinh, sửa chữa nhà ở phụ vụ cho sinh hoạt và phát triển kinh tế phụ gia đình, mua cổ phần trong doanh nghiệp ... đã cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên chức. - Cho vay xuất nhập khẩu: Năm 2005 cho vay phục vụ thu mua hàng xuất khẩu với doanh số cho vay: 23818 triệu đồng, doanh số thu nợ:25.008 triệu đồng cho vay xuất khẩu, chủ yếu là cho vay xuất khẩu nông sản, thực phẩm và gia công hàng may mặc. Về cho vay nhập khẩu với doanh số cho vay là 61.709 triệu đồng, doanh số thu nợ là 45.065 triệu đồng, cho vay nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu dùng cho sản xuất thuốc chữa bệnh. Dư nợ cho vay ngoại tệ đến ngày 31/12/2005 là 53.011 triệu đồng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5576.doc
Tài liệu liên quan