Giải pháp phát triển hoạt động môi giới tại Công ty chứng khoán Biển Việt

Tài liệu Giải pháp phát triển hoạt động môi giới tại Công ty chứng khoán Biển Việt: ... Ebook Giải pháp phát triển hoạt động môi giới tại Công ty chứng khoán Biển Việt

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển hoạt động môi giới tại Công ty chứng khoán Biển Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Nền kinh tế thế giới đã có sự liên kết rất chặt chẽ bởi các chủ thể. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài trong sự liên kết đó Trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa, Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Có rất nhiều ngành nghề quan trọng có xu hướng phát triển hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Trong đó, không thể không kể đến lĩnh vực thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán (TTCK) được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế Quốc tế, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình TTCK trên thế giới, Việt Nam đã quyết định thành lập TTCK với những đặc thù riêng biệt: Thành lập 2 trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) ở Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 27/07/2000 và Hà Nội vào tháng 03/2005 TTCK Việt Nam từ khi đi vào hoạt động đến nay đã trải qua những bước thăng trầm khác nhau, sự vận hành của TTCK Việt Nam phụ thuộc vào các chủ thể tham gia trên TTCK nhưng TTCK Việt Nam chỉ có thể vận hành và hoạt động một cách có hiệu quả khi có sự tham gia của các công ty chứng khoán (CTCK). Nhận thấy vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán (TTCK) là một kênh huy động vốn cho nền kinh tế. Kênh huy động vốn này sẽ cung cấp vốn trung và dài hạn cho những tổ chức muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán. Như vậy TTCK ra đời và phát triển sẽ là một động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước ta. Hoạt động Môi Giới Chứng Khoán là một hình thức rất mới của thị trường tài chính. Trong thị trường chứng khoán nó đóng một vai trò rất quan trọng. Nghiệp vụ Môi Giới giúp kết nối giữa Nhà đầu tư và công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán muốn thu hút được nhiều Nhà đầu tư tham gia thì điều tất yếu là phải ngày càng nâng cao và phát triển nghiệp vụ Môi Giới của Công Ty mình. Với một giai đoạn gần 6 năm hình thành và phát triển, Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam đã từng bước cho thấy được sự quan trọng của mình; một kênh huy động vốn cho Nhà Nước và Doanh nghiệp, một sân chơi cho các Nhà đầu tư trong và ngoài nước.Thực trạng Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam, với một khoảng thời gian phát triển còn ngắn, khung pháp lý còn chưa đầy đủ và sự quan tâm cũng như hiểu biết của Doanh nghiệp của Nhà đầu tư còn hạn chế. Để có thể giúp giải quyết vấn đề thì việc phát triển nghiệp vụ Môi Giới Chứng Khoán là một điều rất quan trọng và tất yếu. Một cầu nối giữa Công Ty Chứng Khoán với Khách hàng cần phải được thiết lập để nhờ đó có thể một mặt giúp cho Thị Trường ngày càng phát triển, mặtxd x khác giúp tư vấn cho khách hang để tham gia và đầu tư trên thị trường. Bên cạnh những vấn đề đạt được thì còn tồn tại rất nhiều hạn chế mà trong đó lợi nhuận của các công ty chứng khoán thu được từ nghiệp vụ môi giới còn rất thấp, chưa xứng đáng là nghiệp vụ cơ bản hàng đầu của các công ty chứng khoán. Có rất nhiều nguyên nhân để giải thích cho vấn đề này, đó là do: Việc các công ty cha có một đội ngũ nhân viên môi giới chuyên nghiệp nên chưa thu hút được khách hàng; hay việc các công ty chứng khoán rơi vào cuộc chiến giảm mức phí môi giới để tạo sự cạnh tranh và một nguyên nhân khác là thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển, hệ thống văn bản pháp quy thiếu đồng bộ…. Những vấn đề này làm cho nghiệp vụ môi giới của các công ty chứng khoán nói chung và của công ty chứng khoán Biển Việt nói riêng chưa thực sự phát triển. Đây chính là lý do em chọn đề tài: “Giải pháp phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Biển Việt” để làm báo cáo Sau một thời gian học tập, nghiên cứu tại trường, cùng với quá trình thực tập tại phòng môi giới Công ty Cổ phần Chứng khoán Biển Việt., em đã tiếp thu được nhiều kiến thức cũng như có cơ hội được cọ xát với thực tế công việc. Trên cơ sở đó nội dung chính của chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 chương: Chương 1: Hoạt động môi giới của Công ty chứng khoán Chương 2: Thực trạng hoạt động môi giới của Công ty chứng khoán Biển Việt. Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động môi giới của Công ty chứng khoán Biển Việt Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo TS.Trần Đăng Khâm, Ban lãnh đạo và các anh chị, đặc biệt là nhân viên phòng môi giới Công ty chứng khoán Biển Việt đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.!. CHƯƠNG 1 HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Các vấn đề cơ bản về Công ty chứng khoán Khái niệm, đặc điểm công ty chứng khoán. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, quá trình trao đổi hàng hóa diễn ra với quy mô ngày càng lớn, với chủng loại hàng hóa ngày càng phong phú, phương thức trao đổi hàng hóa cũng ngày càng đa dạng. TTCK được xem là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế hiện đại. Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán được hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hóa và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi này được thực hiện theo những nguyên tắc ấn định trước. TTCK có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động vốn và sử dụng vốn trong nền kinh tế. Để hình thành và phát triển TTCK hiệu quả, một yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trường. Một trong những chủ thể tham gia trên thị trường là các CTCK. Sự ra đời của các công ty chứng khoán và những nhà môi giới chuyên nghiệp là kết quả tất yếu của sự phát triển TTCK. “Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian, thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán ”. Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động cho CTCK hoạt động trên lĩnh vực chứng khoán có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và thực hiện chế độ hạch toán độc lập. Hoạt động trong một lĩnh vực đặc biệt, bởi vậy bên cạnh những đặc điểm của một tổ chức tài chính trung gian, CTCK còn có những nét đặc thù của thị trường chứng khoán. Vai trò trung gian là một trong những đặc điểm nổi bật của CTCK: trung gian về thông tin, trung gian về vốn, trung gian về rủi ro và trung gian về thanh toán. Công ty chứng khoán là tổ chức trung gian về thông tin Công ty chứng khoán là nơi tích tụ, xử lý các thông tin liên quan đến chứng khoán và TTCK, sau đó cung cấp đến các nhà đầu tư. Với điều kiện cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật hiện đại, cùng đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn trong việc thu thập và xử lý thông tin, CTCK thực hiện tìm kiếm, thu thập các thông tin cập nhật nhất, thực hiện phân tích và xử lý những nguồn tin thu thập được thành những thông tin có ích, thực hiện cung cấp cho các nhà đầu tư. CTCK cung cấp các sản phẩm thông tin cho các khách hàng của mình thông qua hoạt động môi giới, tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư…Yếu tố trung gian về thông tin hiện nay được thể hiện rất rõ qua việc hầu hết các CTCK đều thực hiện cung cấp các bản tin thị trường, bản tin nội bộ cho nhà đầu tư, và xây dựng các trang Web riêng… Công ty chứng khoán là tổ chức trung gian về vốn Đặc điểm này được thể hiện rõ nhất thông qua nghiệp vụ cho vay cầm cố chứng khoán của các CTCK. CTCK đứng giữa ngân hàng và nhà đầu tư. Nhà đầu tư dùng các chứng khoán có trong tài khoản chứng khoán của mình làm vật đảm bảo cho khoản vay. Ngân hàng thông qua các CTCK thực hiện nghiệp vụ cho vay của mình. Điều này vừa cung cấp thêm cơ hội cho các nhà đầu tư, đồng thời góp phần đẩy mạnh hoạt động tín dụng của ngân hàng, làm phong phú thêm các dịch vụ cung cấp của các CTCK, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng… Công ty chứng khoán là tổ chức trung gian về rủi ro Với những ưu thế thông tin, nguồn vốn, CTCK có thể giảm thiểu rủi ro cho khách hàng thông qua hoạt động ủy thác đầu tư, bảo lãnh phát hành. CTCK có thể đứng giữa tập hợp nguồn vốn của các khách hàng có nhu cầu, thực hiện giảm thiểu rủi ro cho khách hàng thông qua các danh mục đầu tư hiệu quả hơn, chia sẻ rủi ro với các tổ chức phát hành thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành. Công ty chứng khoán là tổ chức trung gian về thanh toán CTCK là một trung gian lưu ký chứng khoán, thanh toán bù trừ giữa nhà đầu tư và tổ chức phát hành, giữa các nhà đầu tư với nhau…Công ty thực hiện bù đắp kết quả thanh toán cho các nhà đầu tư sau khi có kết quả thanh toán bù trừ từ Trung tâm lưu ký chứng khoán và Ngân hàng chỉ định thanh toán. Hiện nay, theo Nghị định 14/2007/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán, công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Theo đó, ở Việt Nam hiện nay đã có 45 công ty hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, 10 công ty hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn. Để được cấp phép thành lập và đi vào hoạt động, các CTCK phải đảm bảo các điều kiện về vốn, về nhân sự và cơ sở vật chất. Điều kiện về vốn: CTCK phải có mức vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn pháp định thường được quy định cụ thể cho từng loại hình nghiệp vụ. Theo nghị định 14/2007/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán thì số vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán, công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam là: -Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng Việt Nam; -Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng Việt Nam; -Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ đồng Việt Nam; -Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Việt Nam. Điều kiện về nhân sự: Những người quản lý hay nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của công ty phải đáp ứng các yêu cầu về kiến thức, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm cũng như mức độ tín nhiệm, tính trung thực. Hầu hết các nước đều yêu cầu nhân viên của CTCK phải có giấy phép hành nghề. Ở Việt Nam, theo điều 79 Luật chứng khoán, tiêu chuẩn để có giấy phép hành nghề là phải có trình độ đại học; có trình độ chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng khoán; có đủ ba chứng chỉ chứng khoán do UBCKNN cấp ( chứng chỉ cơ bản, chứng chỉ luật và chứng chỉ phân tích và đầu tư chứng khoán) và phải làm việc tại một CTCK. Điều kiện về cơ sở vật chất: Các tổ chức và cá nhân sáng lập CTCK phải đảm bảo yêu cầu cơ sở vật chất tối thiểu cho CTCK. Theo điều 62 Luật chứng khoán quy định, bên cạnh yêu cầu về vốn pháp định theo quy định của Chính phủ, CTCK còn phải có trụ sở, trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán… CTCK hoạt động theo 2 nhóm nguyên tắc cơ bản, đó là nhóm nguyên tắc mang tính đạo đức và nhóm nguyên tắc mang tính tài chính. Nhóm nguyên tắc đạo đức - CTCK phải đảm bảo giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng. - Kinh doanh có kỹ năng, tận tụy và có tinh thần trách nhiệm - Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty - Có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, không được tiết lộ các thông tin về tài khoản của khách hàng khi chưa được khách hàng đổng ý bằng văn bản trừ khi có yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước. - CTCK khi thực hiện nghiệp tư vấn phải cung cấp thông tin đầy đủ cho khách hàng, giải thích rõ rủi ro, đồng thời không được khẳng định về lợi nhuận những khoản đầu tư mà họ tư vấn. - Nghiêm cấm thực hiện các giao dịch nội gián, sử dụng các thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán cho chính mình, gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng. - Các CTCK không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hàng. Nhóm nguyên tắc tài chính - Đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo theo quy định của UBCKNN. Đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh với khách hàng. - CTCK không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh, ngoại trừ trường hợp số tiền đó dùng để phục vụ cho giao dịch của khách hàng. - CTCK phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của mình. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán Cơ cấu tổ chức của CTCK phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ mà công ty thực hiện, quy mô hoạt động kinh doanh chứng khoán…Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức của các CTCK đều có đặc điểm chung là hệ thống các phòng ban chức năng được chia thành hai khối khác nhau, là : khối nghiệp vụ và khối phụ trợ. - Khối nghiệp vụ: là khối thực hiện các giao dịch kinh doanh và dịch vụ chứng khoán. Tương ứng với mỗi dịch vụ, CTCK có thể thực hiện tổ chức các bộ phận, phòng ban hoạt động cụ thể: phòng môi giới, phòng tự doanh, phòng bảo lãnh phát hành, phòng tư vấn, phòng ký quỹ… Tuy nhiên, căn cứ vào quy mô thị trường, mức độ phát triển và chiến lược hoạt động của công ty mà CTCK có thể chuyên sâu từng bộ phận, từng mảng hoạt động (như tách bạch các phòng môi giới OTC, phòng cho vay cầm cố chứng khoán, phòng phân tích đầu tư, tư vấn đầu tư…) hoặc tổng hợp các nghiệp vụ trong một bộ phận ( như phòng kinh doanh có thể bao gồm cả: môi giới OTC, cho vay cầm cố chứng khoán,..hay phòng phân tích và tư vấn đầu tư, bảo lãnh phát hành vào một bộ phận..) - Khối phụ trợ: đây là khối không trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh, nhưng nó không thể thiếu được trong quá trình hoạt động của các CTCK. Khối này bao gồm các bộ phận như: phòng phân tích và thông tin thị trường, phòng kế hoạch công ty, phòng công nghệ thông tin, phòng hành chính- nhân sự, phòng kiểm soát nội bộ… Ngoài sự phân biệt rõ hai khối như vậy, hiện nay các CTCK còn có thêm các chi nhánh tại các địa phương, đại lý nhận lệnh tại các địa điểm khác nhau…Cũng để phục vụ cho mục đích mở rộng mạng lưới khách hàng và quy mô kinh doanh, CTCK còn có thể có thêm các phòng ban quản lý vốn kinh doanh, tín dụng chứng khoán… 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán. a) Các hoạt động chính Hoạt động tự doanh Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán các chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của các CTCK có thể được thực hiện trên thị trường OTC, và trên thị trường giao dịch tập trung…Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi cho chính công ty. Để đảm bảo tính minh bạch, sự ổn định của thị trường, các nước đều yêu cầu CTCK phải đáp ứng một số yêu cầu sau: Do hoạt động tự doanh là công ty mua bán chứng khoán cho chính mình nên ngoài nguồn vốn pháp định tối thiểu, CTCK đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn. Ở Việt Nam, theo Nghị định 14/2007/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán, vốn pháp định với hoạt động này là 100 tỷ đồng. Tự doanh họat động song hành cùng môi giới, vừa phục vụ lệnh cho khách hàng đồng thời phục vụ lệnh cho chính mình nên rất có thể dẫn đến xung đột về lợi ích. Do đó, cần tách biệt rõ ràng hai hoạt động này, cần ưu tiên thực hiện lệnh cho khách hàng trước. Nhân viên tự doanh cần có trình độ chuyên môn nhất định, có khả năng tự quyết cao và đặc biệt có tính nhạy cảm trong công việc. Bởi con người cũng là yếu tố quyết định đến sự thành công của hoạt động tự doanh. Bên cạnh đó, các CTCK còn phải tuân thủ một số quy định khác như các giới hạn về đầu tư, lĩnh vực đầu tư,.. nhằm đảm bảo độ an toàn nhất định cho các công ty trong quá trình hoạt động. Hoạt động môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hay thị trường OTC mà chính khách hàng là người chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới, CTCK cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư với nhau. Do đó môi giới chứng khoán cần có nhiều phẩm chất đạo đức, kỹ năng nghề nghiệp trong công việc; thái độ quan tâm tới khách hàng. Theo Nghị định 14/2007/NĐ-CP vốn pháp định đối với hoạt động này là 25 tỷ đồng. Hoạt động bảo lãnh phát hành Tổ chức phát hành (doanh nghiệp, Chính phủ, chính quyền địa phương,…) muốn huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán không thể thực hiện thành công nếu không có các CTCK. CTCK thường nhận làm đầy đủ mọi công việc; thực hiện tư vấn cho đợt phát hành, thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Chính họ là những người bằng các nghiệp vụ của mình giúp thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng. Như vậy, hoạt động bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Bảo lãnh phát hành bao gồm cả việc tư vấn đầu tư tài chính và phân phối chứng khoán. Tổ chức bảo lãnh được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được. Nên hoạt động này chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của các CTCK. Việc bảo lãnh phát hành thường thực hiện theo một trong các phương thức sau: bảo lãnh với cam kết chắc chắn, bảo lãnh với cố gắng cao nhất, bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không, bảo lãnh theo phương thức tối thiểu hoặc tối đa, bảo lãnh theo phương thức dự phòng. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán Tư vấn đầu tư chứng khoán là đưa ra những lời khuyên, phân tích các tình huống hay thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ cho khách hàng. Do đặc điểm riêng có của TTCK là giá cả thường xuyên biến động nên việc tư vấn về giá trị chứng khoán là rất khó khăn, đồng thời có thể xảy ra nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Vì vậy, hoạt động này cần được quản lý chặt chẽ và đòi hỏi phải có những giới hạn nhất định trong khi thực hiện công việc. Hoạt động tự vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, chất xám của mình để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận cho khách hàng. So với các nghiệp vụ khác, tư vấn không đòi hỏi số vốn pháp định lớn. Đối với Việt Nam, vốn pháp định với loại hình này của CTCK là 10 tỷ đồng. Tuy nhiên, yêu cầu về nhân sự thì lại rất chặt chẽ. Đối với ngành chứng khoán, người làm tư vấn phải có kiến thức chuyên môn sâu trong lĩnh vực của mình, phải có giấy phép hành nghề tư vấn chứng khoán. b) Các hoạt động phụ trợ khác Hoạt động lưu ký chứng khoán Đây là hoạt động lưu giữ và bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các CTCK hoặc ký gửi các chứng khoán. CTCK khi cung cấp dịch vụ này thì sẽ thu được một khoản phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán. Hoạt động tín dụng Đây là hoạt động thông dụng trên TTCK phát triển. Đối với thị trường mới nổi hoạt động này bị hạn chế khá nhiều. CTCK bên cạnh hoạt động môi giới chứng khoán để hưởng hoa hồng còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống, cho cầm cố chứng khoán, cho vay tiền để thực hiện mua ký quỹ, ứng trước tiền bán chứng khoán cho khách hàng; giúp khách hàng có được tiền để kinh doanh chứng khoán. Hoạt động này cũng mang lại một nguồn thu nhập cho CTCK; làm đa dạng hơn về các sản phẩm dịch vụ cung ứng giúp TTCK phát triển. Quản lý thu nhập của khách hàng Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK thực hiện theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và phân bổ cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng tại công ty. Theo điều 60 Luật chứng khoán 2006, CTCK được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán. CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán. 1.1.3.Vai trò hoạt động môi giới của công ty chứng khoán. Hoạt động môi giới chứng khoán không chỉ là kết quả của quá trình phát triển của TTCK mà nó còn có vai trò thúc đẩy ngược lại sự phát triển của thị trường. Cùng với sự phát triển của thị trường, hoạt động môi giới ngày càng khẳng định vai trò không thể thiều của nó. Vai trò quan trọng của của hoạt động môi giới được thể hiện chủ yếu trên các khía cạnh sau: Góp phần làm giảm chi phí giao dịch. Trên các thị trường hàng hoá thông thường người mua, người bán phải trực tiếp gặp nhau để thẩm định chất lượng hàng hoá và thỏa thuận giá cả, điều này đòi hỏi phải mất rất nhiều thời gian, tiền bạc và công sức để có thể tìm được các đối tác và loại hàng hoá phù hợp với mục đích của mình. Tuy nhiên trên TTCK, với tư cách là một thị trường của những sản phẩm và dịch vụ bậc cao. Loại hàng hoá đặc biệt này chỉ có giá trị chứ không có giá trị sử dụng như các loại hàng hoá thông thường khác nên các nhà đầu tư không thể thẩm định được loại hàng hoá này thông qua việc quan sát hay cầm nắm mà họ phải bỏ ra một khoản chi phí khổng lồ để thu thập xử lý các thông tin…Những chi phí đó chỉ có các CTCK hoạt động chuyên nghiệp trên quy mô lớn mới có khả năng trang trải do được hưởng lợi ích kinh tế nhờ quy mô. Thông qua hoạt động môi giới của các CTCK mà các nhà đầu tư có thể tiết kiệm được một lượng không nhỏ chi phí giao dịch. Đặc trưng của TTCK là lợi nhuận cao luôn đi kèm với rủi ro cao, điều này đỏi các nhà đầu tư phải thận trọng khi tham gia thị trường. Sự hiện diện của các nhà môi giới - các trung gian tài chính trên thị trường là cầu nối giữa người mua và người bán giúp họ giảm thiểu chi phí giao dịch. Như vậy vai trò của nhà môi giới chứng khoán là tiết kiệm chi phí giao dịch xét theo từng khâu và trên tổng thể thị trường, giúp nâng cao tính thanh khoản cho thị trường. Cung cấp các thông tin và tư vấn cho khách hàng. Trên TTCK thông tin đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nó góp phần không nhỏ, ảnh hưởng tới giá cả của chứng khoán. Các nhân viên môi giới thay mặt CTCK cung cấp cho khách hàng các thông tin liên quan đến tình hình thị trường, các thông tin liên quan đến chứng khoán niêm yết và các thông tin liên quan khác có liên quan đến chứng khoán. Dựa trên các thông tin này, các nhà đầu tư tiến hành phân tích và đưa ra các quyết đinh về việc mua bán chứng khoán cũng như giá cả sao cho hợp lý. Người môi giới luôn là người nắm bắt được các thông tin cập nhật về chứng khoán bởi vì nhà môi giới có các mối quan hệ rộng rãi, hơn nữa họ lại là người biết cách tiếp cận các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và tiến hành sàng lọc trước khi cung cấp cho khách hàng. Do vậy thông tin mà nhà đầu tư có được do nhà môi giới cung cấp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bên cạnh việc cung cấp thông tin, nhà môi giới còn có thể là những nhà tư vấn chuyên nghiệp cho các khách hàng của mình. Các nhà môi giới có thể thực hiện tư vấn theo từng mức độ khác nhau, tùy theo nhu cầu của khách hàng. Ngoài việc tư vấn cho khách hàng từng loại chứng khoán đơn thuần, họ còn có thể đưa ra các danh mục đầu tư tối ưu phụ thuộc vàc nhu cầu và khả năng của mối khách hàng với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro cho khách hàng của mình. Như vậy, với các nhà môi giới, nhà đầu tư không chỉ được cung cấp các thông tin có giá trị mà các nhà đầu tư còn được nghe những lời tư vấn để từ đó có thể đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn. Cung cấp cho khách hàng các dich vụ tài chính giúp khách hàng thực hiện các giao dịch theo yêu cầu vì mục đích của họ. Nhà môi giới nhận lệnh của khách hàng và thực hiện giao dịch cho họ. Quy trình đó bao gồm các công việc: nhận lệnh của khách hàng, thực hiện giao dịch, xác định kết quả giao dịch và chuyển kết qủa giao dịch đó tới khách hàng cũng như các thông báo về số dư tài khoản tiền mặt, số dư chứng khoán được phép giao dịch và thông báo thường xuyên tới khách hàng để từ đó đưa ra các khuyến cáo và cung cấp thông tin. Hơn thế, nhà môi giới cần nắm bắt được sự thay đổi trong nhu cầu tài chính của khách hàng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro để từ đó đưa ra các khuyến nghị và các chiến lược phù hợp. Hoạt động môi giới đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho các công ty chứng khoán. Khi thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ được thu được phí. Hoạt động của nhân viên môi giới đưa lại nguồn thu nhập lớn cho các CTCK. Ở hầu hết các CTCK hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt là các công ty mới đi vào hoạt động, thì môi giới là hoạt động mang lại doanh thu chủ yếu cho công ty. Chính đội ngũ nhân viên này góp phần tăng tính cạnh tranh cho công ty, thu hút khách hàng và đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ của công ty. Góp phần phát triển các dịch vụ và hàng hoá trên thị trường Khi thực hiện vai trò trung gian giữa người mua và người bán, những nhà môi giới có thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng. Hoạt động môi giới có thể được coi như là một khâu thăm dò nhu cầu của thị trường về loại hàng hoá đang có mặt trên thị trường, và nhu cầu vốn hay các dịch vụ đi kèm của nhà đầu tư, để từ đó tổng hợp, đúc kết ra các nhu cầu khác nhau của thị trường. Từ đó cung cấp các ý tưởng về các sản phẩm, dịch vụ mới theo thị yếu của khách hàng và nhờ đó đa dạng hoá sản phẩm trên thị trường. Góp phần hình thành nền văn hoá đầu tư. Trong những nền kinh tế mà môi trường đầu tư còn thô sơ, người dân chưa có thói quen sử dụng đồng tiền nhàn rỗi của minh để đầu tư vào các tài sản tài chính để kiếm lời mà chỉ biết đến gửi gửi tiền tại các quỹ tiết kiệm của các ngân hàng, hay chỉ biết cất trữ trong các két an toàn trong khi nhu cầu vốn trong nền kinh tế là rất lớn. Để thu hút công chúng đầu tư, nhà môi giới tiếp cận với những khách hàng tiềm năng và đáp ứng các nhu cầu của họ. Nhà môi giới mang theo các sản phẩm tài chính phù hợp với nhu cầu của khách hàng, giải thích về những lợi ích mà sản phẩm đem lại,quan tâm chăm sóc tài khoản của khách hàng theo hướng có lợi cho họ, từ đó thu hút họ đến với TTCK nói chung, các CTCK nói riêng. Để làm được điều này, nhà môi giới cung cấp cho họ các kiến thức cơ bản về thị trường cũng như các thông tin cập nhật chứng khoán giúp các nhà đầu tư tiềm năng có được cái nhìn tổng quát về thị trường trước khi họ ra một quyết định đầu tư. Hoạt động của môi giới chứng khoán sẽ thâm nhập sâu rộng vào cộng đồng các doanh nghiệp và góp phần hình thành nên “nền văn hoá đầu tư.” Hoàn thiện môi trường pháp lý cho kinh doanh chứng khoán Chính hoạt động của các CTCK và các nhân viên môi giới chứng khoán là một yếu tố góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý cho kinh doanh chứng khoán bởi lĩnh vực này là nơi phát sinh và bộc lộ rõ những xung đột lợi ích giữa những đối tượng tham gia thị trường. Hoạt động môi giới sẽ đưa pháp luật đến với người đầu tư, đồng thời cũng phản ánh những bất cập trong điều chỉnh của khuôn khổ pháp lý tới các nhà làm luật để kịp thời chỉnh sửa cho phù hợp. Tăng chất lượng và hiệu quả của dịch vụ nhờ cạnh tranh. Không chỉ góp phần hình thành nên nền văn hoá đầu tư, hoạt động của các nhà môi giới chứng khoán còn góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các các CTCK, hình thành nên các dịch vụ mới, làm phong phú thêm cho môi trường đầu tư nhờ sự cạnh tranh. Để thành công trong nghề môi giới chứng khoán, nhà môi giới cầm thu hút được nhiều khách hàng mới, giữ chân được khách hàng cũ và không ngừng gia tăng được số tài sản mà các nhà đầu tư uỷ thác cho mình. Để làm được điều đó, các nhà môi giới phải không ngừng trau dồi kiến thức nghiệp vụ, nâng cao đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng hành nghề, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháo luật và của công ty. Chính điều này đã không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các CTCK bởi vì theo quy luật của thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại được thì doanh nghiệp phải cạnh tranh được với các đối thủ trên thị trường. 1.2. Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán. 1.2.1. Khái niệm môi giới chứng khoán Sự ra đời của TTCK là sự phát triển bậc cao của nền kinh tế thị trường. Trên TTCK người ta mua bán, trao đổi với nhau một loại hàng hoá đặc biệt, đó là chứng khoán - các tài sản tài chính. Hàng hóa trên TTCK hết sức phong phú, đa dạng. Do đó việc lựa chọn từng loại chứng khoán, thời điểm mua bán, cách thức mua bán,…là một vấn đề không đơn giản. Nó đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức, tiền của cũng như kinh nghiệm của các nhà đầu tư. Đó là điều mà không phải nhà đầu tư nào cũng có khả năng thực hiện được. Điều đó đòi hỏi phải có hoạt động môi giới chứng khoán phát triển cao. Một trong những đặc trưng cơ bản của TTCK là hoạt động theo nguyên tắc trung gian. Theo nguyên tắc này, các giao dịch trên TTCK bắt buộc phải được tiến hành thông qua các công ty môi giới và các nhân viên môi giới chứng khoán. Theo Luật chứng khoán “Môi giới chứng khoán là việc CTCK làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng”. Môi giới chứng khoán được hiểu là hoạt động của CTCK và của nhân viên môi giới trong sự tương quan chặt chẽ với nhau và với một đối tác chung là khách hàng – nhà đầu tư, để tác động vào sự vận hành và phát triển của TTCK. Ở đây, chúng ta sẽ xem xét hoạt động môi giới là một giao dịch kinh doanh của một CTCK, trong đó CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay trên thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm về kết quả khi đưa ra quyết định giao dịch đó. Thành công của người môi giới, cũng chính là thành công của CTCK được khẳng định ở khả năng thu hút khách hàng, giành được sự tin tưởng của khách hàng, được khách hàng gửi gắm ngày càng nhiều tài sản để quản lý…Người môi giới đòi hỏi phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức, thành thạo các kỹ năng cơ bản để có thể cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Những kỹ năng cơ bản của một nhà môi giới chứng khoán không tách rời nhau mà luôn gắn bó, hỗ trợ nhau, luôn đi cùng với nhà môi giới trong toàn bộ quá trình hành nghề của mỗi người môi giới chứng khoán. Đó là các kỹ năng truyền đạt thông tin, kỹ năng tìm kiếm khách hàng, kỹ năng khai thác thông tin và kỹ năng bán hàng. Kỹ năng truyền đạt thông tin Kỹ năng này được thể hiện ở thái độ quan tâm tới khách hàng, kỹ năng truyền đạt qua điện thoại, tạo lập sự tín nhiệm và lòng tin…Kỹ năng này thể hiện khả năng truyền đạt của mỗi nhà môi giới tới từng đối tượng khách hàng…Người môi giới cần phải nắm được những kỹ thuật giao tiếp khiến cho khách hàng cảm nhận được ở anh ta một sự hòa hợp, đồng cảm, điều đó sẽ đem đến sự tin cậy từ phía khách hàng. Phẩm chất hay thái độ của người môi giới đối với công việc, với bản thân và với khách hàng được truyền đạt rõ ràng tới hầu như tất cả mọi người mà người môi giới giao dịch. Do đó để thành công trong công việc, đòi hỏi người môi giới p._.hải làm việc vì lợi ích của khách hàng, đặt sự thành đạt của khách hàng lên trên hết. Kỹ năng tìm kiếm khách hàng Tìm kiếm khách hàng là một nghệ thuật. Có rất nhiều phương pháp để tìm kiếm khách hàng như: dựa vào những nguồn khách hàng từ phía công ty đã có, những khách hàng được giới thiệu qua những người quen biết, có thể thực hiện thông qua các chiến dịch viết thư, gọi điện làm quen, tổ chức hội thảo, quảng cáo…Mỗi phương pháp đều có những lợi thế và bất lợi riêng, do đó những cách tiếp cận đó có thể được sử dụng kết hợp với nhau, hoặc sử dụng từng cách một. Tuy nhiên, thông thường mỗi phương pháp chỉ có hiệu lực trong một khoảng thời gian nào đó. Vì vậy tìm kiếm khách hàng là một kỹ năng không đơn giản, nó liên quan đến nỗ lực và ý thức không ngừng tìm kiếm khách hàng của mỗi người môi giới. Kỹ năng khai thác thông tin Hiều được khách hàng, nắm được các nhu cầu tài chính, các nguồn lực, các mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng…là một trong những nguyên tắc trong hành nghề môi giới. Hiểu được cách nghĩ và ra quyết định đầu tư của khách hàng, cũng như những tình cảm bên trong có thể ảnh hưởng tới những quyết định của khách hàng sẽ giúp người môi giới có thể đáp ứng được những nhu cầu của họ. Do đó người môi giới cần phải khai thác được các mục tiêu tài chính của khách hàng tiềm năng, thiết lập sự hòa hợp giữa người môi giới và khách hàng…Những thông tin có khai thác được có vai trò hết sức to lớn trong quá trình tiếp xúc, xây dựng các chiến lược riêng cho từng khách hàng và thu hút khách hàng của mỗi người môi giới. Kỹ năng bán hàng Lý do tồn tại của người môi giới là giúp khách hàng đáp ứng được những nhu cầu của mình. Người môi giới chỉ thực hiện được mục đích của mình khi họ hoàn tất quá trình bằng việc đưa khách hàng đến đúng nhu cầu của họ, hướng khách hàng đến những quyết định thích hợp. Những công việc mà nhà môi giới làm sau khi kết thúc quá trình “ bán hàng” cũng quan trọng như chính quá trình “bán hàng”, qua đó người môi giới sẽ củng cố đựợc mối quan hệ lâu dài với khách hàng, và sẽ có nhiều khách hàng hơn đến với họ thông qua sự giới thiệu của chính những khách hàng trước đó. Với các đặc điểm nghề nghiệp làm việc ở một môi trường bậc cao đòi hỏi những nhân viên môi giới phải trang bị cho mình những kỹ năng tay nghề vững vàng bên cạnh đó cần phải hình thành một đạo đức nghề nghiệp. Bởi người môi giới là những người thường xuyên làm việc trong một môi trường với áp lực công việc lớn, luôn tiềm ẩn những xung đột lợi ích…Vì vậy một nhân viên môi giới hoàn hảo là người phải tạo lên được sự tin tưởng ở phía khách hàng, hành động vì sự thịnh vượng của khách hàng. 1.2.2. Hoạt động môi giới chứng khoán 1.2.2.1.Môi giới trên sàn giao dịch chứng khoán Môi giới trên sàn giao dịch chứng khoán bao gồm: môi giới lập giá, môi giới thông thường và môi giới hai đôla. Môi giới lập giá Môi giới lập giá hay còn gọi là các chuyên gia thị trường tham gia vào hệ thống đầu lệnh góp phần định giá chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán, nhằm tạo ra tính liên tục, nâng cao tính thanh khoản của thị trường và giảm thiểu các tác động tạm thời đến cung- cầu chứng khoán. Chức năng đầu tiên của chuyên gia là duy trì một thị trường liên tục, công bằng và trật tự cho loại cổ phiếu mà mình chịu trách nhiệm. Muốn làm được điều này họ phải có đủ số vốn để duy trì vị trí vững chắc trên thị trường. Họ thực hiện mua bán chứng khoán cho chính tài khoản của họ để tạo thị trường cho loại chứng khoán mà họ chịu trách nhiệm. Họ có trách nhiệm duy trì một thị trường công bằng, trật tự và liên tục với các giá hợp lý hiện hữu. Các chuyên gia không được mua bán chứng khoán cho chính tài khoản của họ với giá cạnh tranh với giá thị trường hiện hành. Chức năng thứ hai là tối thiểu hóa sự chênh lệch có thể xảy ra tại thời điểm mở cửa giao dịch. Để thực hiện được chức năng này, nhà môi giới lập giá phải thực hiện mua bán chứng khoán từ tài khoản của chính mình. Nhà môi giới thực hiện điều này một cách thận trọng, chỉ tham gia khi có các biểu hiện cần thiết phải can thiệp. Những nhà môi giới lập giá có quyền ngưng giao dịch giữa chừng nếu thấy thị trường “quá nóng” để tránh tổn thất cho thị trường. Họ cũng có quyền đóng cửa thị trường đối với loại chứng khoán mà họ chịu trách nhiệm bình ổn mà không thực hiện bình ổn được. Môi giới thông thường Môi giới thông thường là các nhà môi giới của các công ty thành viên. Họ thực hiện các giao dịch mua bán cho khách hàng và hưởng các khoản hoa hồng mà khách hàng trả cho họ. Nhân viên môi giới của các công ty thành viên nhận lệnh của khách hàng, thực hiện nhập vào hệ thống. Thông qua hệ thống máy móc khớp lệnh, sẽ làm cho các lệnh mua và bán của khách hàng được gặp nhau. Các nhà môi giới thông thường này thường làm việc cho một CTCK nhất định. Họ thực hiện giao dịch cho khách hàng và được hưởng hoa hồng thông qua các khoản thù lao mà các CTCK trả cho họ. Môi giới hai đôla Môi giới hai đôla hay còn gọi là những nhà môi giới độc lập. Họ làm việc cho chính mình và hưởng hoa hồng hay thù lao dịch vụ. Họ là một thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại Sở giao dịch giống như các CTCK thành viên. Họ chuyên thực thi các lệnh cho các công ty thành viên khác của Sở giao dịch. Sở dĩ có điều này là do tại các Sở giao dịch nhộn nhịp, lượng lệnh phải giải quyết cho khách hàng của các CTCK đôi khi rất nhiều, các nhân viên môi giới của các công ty này không đảm đương hết hoặc vì một lý do nào đó vắng mặt, lúc đó các CTCK sẽ hợp đồng với các nhà môi giới độc lập để thực hiện lệnh cho khách hàng của mình và trả cho người môi giới này một khoản tiền nhất định. Ban đầu các nhà môi giới độc lập này được trả 2 đôla cho một lô tròn chứng khoán (100 cổ phiếu) nên người ta quen gọi là môi giới 2 đôla. Họ có tư cách độc lập, tức là không đại diện cho bất kỳ một CTCK nào cả. Đây là nguồn bổ sung nhân lực cho các CTCK, là lực lượng dự bị tạo ra độ co giãn để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhà đầu tư, là môi trường tốt để đào tạo nguồn nhân lực cho nghề môi giới. Đây cũng là một nhân tố góp phần tạo ra sức cạnh tranh lớn hơn cho chính các nhà môi giới trên sàn vì họ luôn có áp lực bị thay thế. Cạnh tranh sẽ tạo ra động lực phát triển, như vậy sẽ không những có lợi cho các CTCK, mà còn có lợi cho các nhà đầu tư. 1.2.2.2.Môi giới trên thị trường OTC Một trong những đặc điểm đặc trưng của thị trường OTC là có sự xuất hiện của các nhà tạo lập thị trường. Các nhà tạo lập thị trường có vai trò tạo tính thanh khoản cho thị trường, duy trì giao dịch liên tục cho các chứng khoán thông qua việc thường xuyên nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định mà họ làm tạo lập thị trường để sẵn sàng mua bán với khách hàng và hưởng chênh lệch giá mua bán. Các nhà tạo lập thị trường được coi là động lực của thị trường này, họ mua bán chứng khoán kiếm lời và tự chịu rủi ro. Họ phải đăng ký hoạt động với các cơ quan quản lý chứng khoán, có nghĩa vụ tuân thủ các chuẩn mực về kỹ thuật nghiệp vụ, tài chính cũng như đạo đức hành nghề. Khác với SGDCK, chỉ có một nhà tạo lập thị trường cho một loại chứng khoán, thì trên thị trường OTC tồn tại nhiều nhà tạo lập thị trường cho cùng một loại chứng khoán. Vì vậy tăng tính linh hoạt của thị trường đối với một loại chứng khoán. Thị trường OTC được đánh giá là có khả năng tự điều chỉnh tốt hơn thị trường giao dịch chứng khoán tập trung. Thường các nhà môi giới trên thị trường OTC là các công ty môi giới – giao dịch. Thứ nhất, nhà tạo lập thị trường có thể đóng vai trò là một đối tác trong giao dịch trong trường hợp trên thị trường chỉ có người mua hoặc người bán chứng khoán. Việc mua bán chứng khoán trên sẽ bằng chính tài khoản của mình. Khi bán chứng khoán của mình, nhà tạo lập thị trường nhận từ khách hàng khoản chênh lệch giữa giá chào bán của nhà tạo lập thị trường và giá thực sự khách hàng phải trả. Thứ hai, nhà tạo lập thị trường có thể sắp xếp các giao dịch cho khách hàng và hưởng hoa hồng. Cơ chế này được thực hiện rất nhanh thông qua hệ thống công nghệ của toàn thị trường. Hoạt động môi giới của nhà tạo lập thị trường không phải là hoạt động mua bán chứng khoán, chỉ đơn giản là sắp xếp các giao dịch giữa người mua và người bán. Tuy nhiên hai hoạt động trên không được thực hiện trong cùng một giao dịch. 1.2.2.3.Quy trình nghiệp vụ môi giới chứng khoán Quy trình nghiệp vụ là các bước công việc mà bộ phận môi giới, các nhân viên môi giới phải làm để thực hiện hoạt động môi giới. Thông thường, mỗi CTCK có quy trình nghiệp vụ môi giới riêng phụ thuộc vào đặc điểm của từng công ty. Tuy nhiên về nội dung cơ bản quy trình môi giới của các CTCK có sự giống nhau nhất định. Quy trình môi giới chứng khoán của CTCK thường bao gồm các bước sau: Tìm kiếm khách hàng: Để thực hiện hoạt động môi giới hiệu quả, CTCK nói chung và các nhà môi giới nói riêng cần phải xác định các nhóm khách hàng mục tiêu của mình. Đưa ra các chiến lược tìm kiếm khách hàng, phân định rõ nhiệm vụ và hiệu quả cần đạt được của từng bộ phận hay của từng nhân viên môi giới. Trong giai đoạn này hoạt động marketing, quảng bá, tiếp thị đóng vai trò hết sức quan trọng. Những hoạt động này nhắm vào những nhóm khách hàng mà công ty đã xác định. Sàng lọc khách hàng, lựa chọn các nhóm khách hàng tiềm năng: Với danh sách khách hàng, những thông tin sơ bộ mà bộ phận môi giới đã thu hút được từ hoạt động tìm kiếm ở trên, tùy theo từng nhu cầu đầu tư, khả năng tài chính, khả năng chịu đựng rủi ro của từng đối tượng khách hàng mà môi giới tiến hành phân loại, lựa chọn các khách hàng mục tiêu. Từ đó tìm cách tiếp xúc trao đổi với họ. Công việc này đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức, nó đòi hỏi người môi giới tính kiên nhẫn rất cao. Tìm hiểu cụ thể nhu cầu, mục tiêu tài chính, khả năng chấp nhận rủi ro…của khách hàng: đây là giai đoạn đòi hỏi người môi giới cần có khả năng giao tiếp tốt, cần vận dụng linh hoạt các kỹ năng nghề nghiệp của mình đặc biệt là khả năng khai thác thông tin thì mới có thể thành công khi gặp gỡ khách hàng Thực hiện giới thiệu, khuyến nghị với các khách hàng về các sản phẩm dịch vụ phù hợp với mục tiêu và nhu cầu của từng khách hàng: từ những thông tin thu thập được, sử dụng kỹ năng truyền đạt thông tin, kỹ năng thuyết phục khách hàng nhân viên môi giới tiến hành nghiên cứu và giới thiệu tới khách hàng những dịch vụ cung cấp của công ty. Mỗi nhân viên môi giới cần phải để khách hàng giành được sự tin tưởng của khách hàng thông qua chính sự chân thành của mình. Cung cấp các dịch vụ cho khách hàng và đảm bảo các dịch vụ sau bán hàng cho các khách hàng: sau khi thu hút được khách hàng đến với mình, nhân viên môi giới tiền hành mở tài khoản giao dịch, tư vấn hay đưa ra các lời khuyến nghị khách mua bán chứng khoán, giới thiệu cho khách hàng các dịch vụ mà công ty cung cấp để đáp ứng các nhu cầu đầu tư của khách hàng. Tiếp theo, nhà môi giới tiến hành theo dõi sự biến động của tài khoản khách hàng để đưa ra các lời khuyến nghị kịp thời… Bên cạnh những công việc trên, các nhân viên môi giới còn thực hiện các công việc giao dịch, bao gồm: - Nhận lệnh giao dịch cho khách hàng - Nhận, giao chứng khoán và tiền cho khách kể cả cổ tức, tiền do mua bán chứng khoán, lưu ký chứng khoán… - Theo dõi hoạt động của tài khoản, xử lý kế toán cho tài khoản tiền mặt thường do kế toán giao dịch đảm nhiệm như gửi, rút tiền, chuyển khoản tiền… - Giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng, xử lý các khiếu nại. - Nghiên cứu thị trường, phân tích, đưa ra các báo cáo khuyến nghị mua, bán, cung cấp dịch vụ phù hợp. Các hoạt động phụ trợ này có thể do nhân viên môi giới đảm nhiệm hoặc được phân bổ cho một số bộ phận khác cùng đảm nhiệm tùy theo quy mô hoạt động của công ty. 1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển hoạt động môi giới của công ty chứng khoán. Để đánh giá hiệu quả, mức độ phát triển của hoạt động môi giới có rất nhiều chỉ tiêu khác nhau, tuy nhiên ta có thể chia ra thành 2 nhóm chỉ tiêu: 1.2.3.1. Các chỉ tiêu định lượng Doanh thu và lợi nhuận Bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào, người ta cũng quan tâm đến doanh số mà nó đem lại. Doanh thu và lợi nhuận là chỉ tiêu định lượng không thể vắng mặt khi xem xét mức độ phát triển của hoạt động môi giới. Hiện nay, môi giới đang là hoạt động đem lại doanh thu chủ yếu cho các CTCK, đặc biệt là các CTCK mới tham gia thị trường. Khi thực hiện nhận lệnh giao dịch chứng khoán cho khách hàng hay cung cấp một dịch vụ chứng khoán nào đó cho nhà đầu tư, CTCK thực hiện thu phí. Thông thường mức phí được tính trên giá trị giao dịch của nhà đầu tư theo hình thức lũy thoái. Đây là một khoản thu nhập khá lớn cho các CTCK. Thị phần hoạt động môi giới của các CTCK Một CTCK với chất lượng dịch vụ tốt sẽ thu hút được nhiều khách hàng. Môi giới chứng khoán là một dịch vụ. Trong môi trường cạnh tranh như hiện nay, số lượng khách hàng có giới hạn mà các CTCK mọc lên ngày càng nhiều, vì vậy nơi nào thu hút được nhiều khách hàng, chiếm thị phần lớn hơn trên thị trường thì nơi đó sẽ có ưu thế hơn trong cạnh tranh. Thị phần lớn đồng nghĩa với vị thế cũng sẽ cao hơn, doanh thu và lợi nhuận đem lại từ hoạt động môi giới cũng sẽ cao hơn. Thị phần lớn hơn thể hiện sự tin tưởng từ phía khách hàng đối với công ty. Giá trị giao dịch bình quân Khi nhiều nhà đầu tư đến giao dịch tại công ty, đặc biệt khi thực hiện các giao dịch lớn sẽ làm giá trị giao dịch tại công ty tăng lên. Giá trị khớp lệnh hay giá trị giao dịch tại công ty là yếu tố góp phần khẳng định quy mô, chỗ đứng của công ty. Phí giao dịch được tính dựa trên giá trị giao dịch của công ty, bởi vậy giá trị giao dịch lớn sẽ nâng tổng phí giao dịch, nâng doanh thu từ hoạt động môi giới lên cao hơn. Mạng lưới khách hàng, số tài khoản được mở, số lượng chứng khoán lưu ký. Mạng lưới khách hàng, số lượng tài khoản được mở, số lượng chứng khoán lưu ký cũng là chỉ tiêu quan trọng dể xác định hiệu quả của hoạt động môi giới của một CTCK. Nó thể hiện quy mô khách hàng, quy mô giao dịch tại công ty và uy tín của công ty trên thị trường. 1.2.3.2. Các chỉ tiêu định tính Đây là nhóm chỉ tiêu rất khó lượng hóa thành các con số cụ thể, thông thường người ta thường đánh giá nó gián tiếp thông qua các chỉ tiêu định lượng. Mức độ chuyên nghiệp của nhà môi giới Mức độ chuyên nghiệp của nhà môi giới được thể hiện ở rất nhiều khía cạnh. Một trong những khía cạnh để đánh giá mức độ chuyên nghiệp của nhà môi giới là thông qua cách tiếp cận tâm lý khách hàng, phong cách phục vụ, tác phong của họ… Một nhà môi giới chuyên nghiệp giàu kinh nghiệm sẽ tạo cho mình một tác phong làm việc năng động và khoa học. Xây dựng cho riêng mình một quy trình môi giới chuẩn cũng khẳng định mức độ chuyên nghiệp của một nhà môi giới chứng khoán. Mức độ thành công của CTCK phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ nhân viên môi giới, do đó xây dựng được một đội ngũ những nhà môi giới chứng khoán chuyên nghiệp là một yếu tố chiến lược trong quá trình hoạt động của các CTCK. Mức độ hài lòng của khách hàng. Mức độ hài lòng của khách hàng đối với các dịch vụ mà công ty cung cấp thể hiện ở thái độ, phản ứng của khách hàng đối với công ty. Sẽ là không tốt đối với công ty nếu liên tục có những xung đột, hiểu nhầm từ phía khách hàng của công ty. Nếu khách hàng thường xuyên phàn nàn về thái độ, tác phong phục vụ của nhân viên môi giới, thường xuyên xảy ra các xung đột lợi ích giữa môi giới với khách hàng, giữa công ty với nhà đầu tư, điều đó sẽ gây khó khăn rất lớn cho hoạt động của công ty, không chỉ đối với hoạt động môi giới. Sự tin tưởng và trung thành của khách hàng Khách hàng chính là một kênh marketing hữu hiệu nhất đối với công ty. Một khi đã giành được sự tin tưởng từ phía khách hàng, họ sẽ là một kênh thu hút khách hàng hiệu quả, hình thức marketing truyền miệng chính là một hình thức đắc lực và lâu dài. Sự giới thiệu, truyền bá từ những người thân quen, bạn bè là một nguồn thông tin khá tin cậy đối với tâm lý ngứời Việt Nam. Vì vậy, giành đựợc niềm tin từ phía khách hàng là một yếu tố sống còn đối với sự tồn tại của các CTCK. Những chỉ tiêu nêu trên chỉ là một số trong số rất nhiều chỉ tiêu dùng để đánh giá mức độ phát triển hoạt động môi giới. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển hoạt động môi giới của công ty chứng khoán 1.3.1. Các nhân tố chủ quan Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động môi giới của CTCK. Những nhân tố này xuất phát từ chính bản thân công ty, nó đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của mỗi CTCK. Đội ngũ nhân sự của công ty. Nhân sự là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng của các CTCK nói chung và nghiệp vụ môi giới chứng khoán nói riêng. Đặc biệt với hoạt động môi giới chứng khoán, đòi hỏi về yếu tố con người lại càng cao hơn. Người môi giới chứng khoán không chỉ nắm vững kiến thức chuyên môn, kiến thức xã hội mà cả những kỹ năng làm việc, phải chịu áp lực công việc rất lớn. Thái độ với công việc, với khách hàng, sự chân thành vì lợi ích của khách hàng, khả năng truyền đạt thông tin, khai thác thông tin từ phía khách hàng…đóng vai trò rất lớn trong thành công của người môi giới. CTCK có đội ngũ nhân lực mạnh tất yếu sẽ góp phần không nhỏ tạo nên thành công lớn của công ty. Vì vậy các CTCK muốn giành thắng lợi trong cạnh tranh thì họ phải không ngừng đào tạo đội ngũ nhân viên môi giới trở thành các nhà môi giới chưyên nghiệp, có kỹ năng, có đạo đức nghề nghiệp để chiếm được lòng tin từ phía khách hàng, góp phần làm tăng hiệu quả của hoạt động môi giới chứng khoán.Từ đó nâng cao uy tín, khẳng định vị trí của công ty trên thị trường. Chiến lược kinh doanh và định hướng phát triển của công ty. Mỗi chính sách, định hướng phát triển khác nhau sẽ ảnh hưởng tới hoạt động môi giới của CTCK là khác nhau. Nhận thức của lãnh đạo công ty về tầm quan trọng của hoạt động môi giới đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của một CTCK. Một CTCK mà hoạt động môi giới không mạnh thì công ty sẽ khó tạo được chỗ đứng, danh tiếng và uy tín trên thị trường cho dù công ty kinh doanh có lãi từ nhiều nguồn khác. Chính vì vậy, ban lãnh đạo công ty cần xác định rõ được vai trò đó của hoạt động môi giới. Từ đó, Ban lãnh đạo công ty xây dựng chiến lược phát triển, có được các chính sách phù hợp với yêu cầu của thị trường như cung cấp dịch vụ giá rẻ hay chất lượng cao; đào tạo, tuyển dụng, lương thưởng cho nhân viên, tăng cường hoạt động kiểm soát… Nguồn lực về vốn của công ty. Vốn là yếu tố không thể thiếu đối với bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Kinh doanh chứng khoán là ngành nghề kinh doanh đòi hỏi ngoài các điều kiện về chuyên môn, giấy phép hành nghề, còn đòi hỏi các yêu cầu về tài chính. Ở Việt Nam quy định phải có vốn tối thiểu bằng vốn pháp định. Đối với hoạt động môi giới, nghị định 14/2007/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán quy định mức vốn pháp định là 25 tỷ đồng. Tuy nhiên đây chỉ là mức vốn tối thiểu, hoạt động môi giới đòi hỏi phải có một lượng vốn không nhỏ để có thể phát triển tốt các dịch vụ thu hút và giữ chân các khách hàng. Nó bao gồm nhiều chi phí như: chi phí cho máy móc thiết bị để thực hiện giao dịch hay tìm kiếm, phân tích thông tin, chi phí để nghiên cứu thị trường, tìm hiểu khách hàng để xây dựng, cung cấp các dịch vụ phù hợp, có tính cạnh tranh cao, thu hút khách hàng, chi phí cho hoạt động marketing, quảng cáo, tìm kiếm mở rộng và giữ chân khách hàng…. Bên cạnh đó, qui mô vốn lớn cũng là một yếu tố làm tăng thêm niềm tin ở phía khách hàng đối với công ty. Một quy mô vốn dồi dào, mạng lưới rộng khắp với các dịch vụ tiện ích đa dạng luôn luôn là một trong những yếu tố cạnh tranh mạnh mẽ của các CTCK. Biểu phí và các dịch vụ cung cấp Một chính sách phí cạnh tranh với các dịch vụ cung cấp đa dạng là một trong những yếu tố tác động không nhỏ đến sự phát triển của hoạt động môi giới chứng khoán nói riêng và sự phát triển của CTCK nói chung. Một CTCK với một biểu phí ưu đãi, hợp lý, dịch vụ cung cấp nhanh gọn, đa dạng sẽ thu hút được khách hàng đến với họ. Từ đó mở rộng được mạng lưới khách hàng, nâng cao được doanh số, góp phần quan trọng vào sự phát triển hoạt động môi giới của công ty. Cơ sở vật chất và trình độ công nghệ Hoạt động môi giới chứng khoán đòi hỏi rất lớn về hệ thống cơ sở vật chất và công nghệ thông tin. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một CTCK bao gồm hệ thống các sàn giao dịch tập trung, hệ thống bảng điện tử, máy chiếu, hệ thống thông tin nội bộ, trang Web của công ty và hệ thống nhập lệnh của phòng môi giới...Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại giúp công ty có thể tiếp nhận và xử lý nhanh và chính xác các lệnh của khách hàng. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của một CTCK. Một cơ sở hạ tầng tốt, trụ sở đẹp, vị trí thuận lợi cũng là một yếu tố đóng vai trò to lớn trong việc thu hút khách hàng, tạo nên sự thành công của công ty. Mô hình tổ chức và hoạt động của CTCK Yếu tố này tác động quan trọng đến sự chuyên môn hóa hoạt động của một CTCK. Từ đó, nó tác động tới tính chuyên nghiệp của hoạt động môi giới. Hiện nay ở Việt Nam, CTCK tồn tại hai loại hình tổ chức là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Dù được tổ chức theo mô hình nào thì mỗi loại hình công ty cũng có thế mạnh và điểm yếu riêng. Nếu tính chuyên môn hoá trong công ty luôn được đảm bảo thực hiện, sẽ phát huy được tính tự chủ, tính chuyên môn hoá trong hoạt động môi giới. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động Nếu công tác kiểm tra giám sát được thực hiện tốt thì hệ thống bảo mật thông tin của khách hàng được nâng cao bởi vì tính bảo mật cao sẽ là một yếu tố quyết định tính cạnh tranh của công ty so với các đối thủ khác. Nó không chỉ đảm bảo lợi ích của khách hàng mà còn bảo đảm cho hoạt động của chính bản thân công ty. Công tác kiểm tra giám sát phải được kiểm tra chặt chẽ ở tất cả các khâu, từ khâu mở tài khoản, nộp rút tiền, thông báo kết quả giao dịch đối với khách hàng đến các khâu nhận lệnh, nhập lệnh của khách hàng, thu nợ của khách hàng…Ở từng khâu, công ty cần có các quy trình nghiệp vụ cụ thể mà các nhân viên của công ty đặc biệt là các nhà môi giới phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt để tránh xung đột giữa quyền lợi của công ty với quyền lợi của khách hàng, quyền lợi của các khách hàng khác nhau, tránh vi phạm đạo đức nghề nghiệp. 1.3.2. Các nhân tố khách quan Đây là những nhân tố ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động môi giới. Những nhân tố này CTCK rất khó có thể kiểm soát được. Hầu hết hoạt động môi giới của tất cả các CTCK đều phải chịu tác động của nó. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng lớn hay nhỏ tùy thuộc vào từng công ty. Sự phát triển và mức độ ổn định của nền kinh tế - chính trị. Khi nền kinh tế phát triển, đời sống của người dân được nâng cao. Nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cũng tăng lên đáng kể. Người ta bắt đầu quan tâm hơn đến các phương thức đầu tư bên cạnh gửi ngân hàng, dự trữ bằng vàng hay ngoại tệ. Đây là một nguồn vốn tiềm năng đáng kể cho thị trường chứng khoán. Thêm vào đó, một nền kinh tế tăng trưởng đều đặn cùng với một nền chính trị ổn định là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế nói chung và đối với TTCK nói riêng. Đó là một trong nhiều nhân tố góp phần thúc đẩy sự phát triển của các CTCK và hoạt động môi giới chứng khoán. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Sự phát triển của TTCK có tác động hết sức to lớn đến sự phát triển của các CTCK. Sự phát triển của thị trường và sự phát triển của các CTCK có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại nhau. TTCK phát triển thì các CTCK nói chung, hoạt động môi giới nói riêng mới phát triển theo được. Ngược lại, CTCK phát triển là cơ sở để đánh giá sự phát triển của thị trường. Bởi đây là những bộ phận con nằm trong tổng thể chung là TTCK. Thị trường phát triển thể hiện ở những mặt như: hàng hóa phong phú, đa dạng cả về mặt lượng lẫn chất; số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường đông đảo, quy mô đầu tư lớn; cơ cấu và tổ chức thị trường đã hoàn chỉnh…doanh thu, quy mô cũng như mạng lưới của các CTCK cũng được nâng lên. Hoạt động của các hiệp hội kinh doanh chứng khoán Hoạt động của các hiệp hội kinh doanh chứng khoán có tác động không nhỏ đến sự phát triển của các CTCK. Hiệp hội chứng khoán ra đời là cầu nối giữa nhà kinh doanh chứng khoán với các cơ quan quản lý nhà nước, là tiếng nói chung của các nhà kinh doanh chứng khoán với công chúng đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước. Một trong những mục đích của hiệp hội là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các thành viên. Những quy định, nguyên tắc hoạt động của hiệp hội có thể coi như một hành lang pháp lý thứ hai đối với các CTCK thành viên. Sự phát triển của hiệp hội sẽ tạo điều kiện cho các CTCK thành viên phát triển. Sự ra đời cuả Hiệp hội kinh doanh chứng khoán Việt Nam (5/2004) được đánh giá là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của TTCK Việt Nam, đã có những đóng góp không nhỏ đến sự phát triển của thị trường nói chung và đến sự phát triển của các CTCK thành viên nói riêng. Hệ thống chính sách, pháp luật về các hoạt động kinh tế nói chung và về TTCK nói riêng. Bất cứ một hoạt động nào cũng đều chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật. Đặc biệt, môi giới chứng khoán ngay từ bản chất của nó đã thể hiện là nghề với những tranh chấp lợi ích không thể tránh khỏi. Bởi hoạt động môi giới có ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều người, liên quan tới nhiều vấn đề khó có thể nhìn nhận bằng mắt thường. Do đó, hoạt động này cần có sự điều chỉnh lớn của hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, có sự nhất quán của các văn bản luật. Có như vậy thì hoạt động môi giới mới phát triển lành mạnh được. Trình độ, sự hiểu biết về chứng khoán của công chúng đầu tư và tập quán sinh hoạt, kinh doanh của công chúng. Khi mà sự hiểu biết của công chúng đầu tư về TTCK được nâng cao, sự tham gia của họ vào thị trường sẽ tích cực hơn, tạo điều kiện cho thị trường được phát triển một cách an toàn hơn, tạo điều kiện cho thị trường được phát triển theo đúng quy luật của nó. Hiểu biết được nâng cao, sẽ là yếu tố giúp giảm bớt những xung đột phát sinh từ những nguyên nhân kém hiểu biết của công chúng đầu tư, góp phần thay đổi nếp nghĩ của công chúng về TTCK, giúp hình thành nên thói quen “văn hóa đầu tư” của công chúng. Sự cạnh tranh của các công ty chứng khoán khác Trong vòng gần 7 năm vận hành thị trường, tính đến cuối năm 2005 VN mới có 14 CTCK. Nhưng chỉ 1 năm sau đó, tính đến ngày 29/12/2006 đã có tới 55 CTCK được cấp phép hoạt động. Con số ấn tượng này được hình thành chủ yếu chỉ vào 3 tháng cuối năm. Tất cả các CTCK đều có nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Đây là hoạt động được triển khai từ những ngày đầu của TTCK. Một CTCK không chỉ cung cấp những dịch vụ thông thường như nhận lệnh giao dịch của khách mà còn cung ứng rất nhiều dịch vụ tiện ích khác. Tất cả đều có sự cạnh tranh lẫn nhau: về mức độ tiện ích, về chi phí để hưởng dịch vụ, về sự đa dạng phong phú ở mỗi công ty… Khách hàng là một yếu tố có giới hạn về số lượng. Khách hàng đã tìm đến công ty này sẽ không thể tìm đến công ty khác nữa. Giành được niềm tin từ phía khách hàng là yếu tố sống còn đối với sự phát triển của một CTCK. Do đó, hoạt động môi giới của CTCK phải luôn không ngừng cải thiện, đa dạng hóa các dịch vụ khách hàng, nâng cao chất lượng để cạnh tranh với các công ty khác. Ngoài các nhân tố ảnh hưởng trên, hoạt động môi giới chứng khoán còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác, như sự quản lý, chỉ đạo của các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan quản lý thị trường, nhà đầu tư… CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN BIỂN VIỆT 2.1. Khái quát về công ty chứng khoán Biển Việt. 2.1.1. Sơ lược về quá trình phát triển Công ty chứng khoán NHTMCP nhà Hà nội được thành lập ngày 04 tháng 11 năm 2005 theo quyết định số 43/UBCK-GPHDKD của chủ tịch Ủy ban chứng khoán Nhà nước. Công ty Cổ phần Chứng khoán Biển Việt (CBV) là mắt xích kết nối các nhà đầu tư với hai thị trường chứng khoán lớn nhất Việt Nam (Hà Nội và TP Hồ Chí Minh). Được thành lập trong cơn sốt của thị trường chứng khoán Việt Nam,  CBV coi đó như một lợi thế ban đầu, tạo đà cho một sự phát triển bền vững trong tương lai.   Với khẩu hiệu «Thành công của bạn. Niềm đam mê của chúng tôi.», CBV luôn hướng tới khách hàng, gắn chặt sự thành công và lợi nhuận của khách hàng với sự phát triển của công ty. Trong một thị trường nóng bỏng với vô vàn cơ hội cũng như rủi ro đối vời khách hàng, chúng tôi xem đây là dịp để khẳng định khả năng cung cấp các dịch vụ có giá trị nhất cho khách hàng của mình. Khách hàng đến với CBV để nhận được sự phục vụ tận tâm, chính xác, được tư vấn để hạn chế rủi ro và gặt hái lợi nhuận tối đa.  Chúng tôi muốn trở thành người bạn đồng hành của mỗi khách hàng không phải chỉ trong những thời điểm thuận lợi mà trong cả những lúc khó khăn nhất của thị trường chứng khoán.  Tự hào là công ty đầu tiên trong ngành tài chính Việt Nam đưa ra chỉ số CBV-Index dành cho các nhà đầu tư.   Tự hào là công ty đầu tiên trong ngành tài chính Việt Nam giới thiệu, áp dụng rộng rãi phương pháp đầu tư chứng khoán theo chỉ số. Tự hào là thành viên Việt Nam đầu tiên của Hiệp Hội Kinh doanh Chứng khoán Quốc Tế ISITC-IOA. Tên đầy đủ:Công ty cổ phần chứng khoán Biển Việt Tên giao dịch quốc tế và viết tắt : CBV Trụ sở chính : 14 Trần Bình Trọng, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam Call-center: (+84 4) 930 6336 T:  (+84 4) 941 0246 F:  (+84 4) 941 0248                          W: www.cbv.vn Số nhân viên hiện tại:   80 Tổng Giám đốc: Tạ Thị Ngọc Mỹ Phó Tổng Giám đốc thường trực: Vũ Đức Nghĩa  2.1.2. Các dịch vụ cung cấp khoán Quốc Tế ISITC-IOA. CBV tập trung vào những dịch vụ sau: 1.      Môi giới chứng khoán. 2.      Tư vấn các thông tin phân tích. 3.      Lưu ký chứng khoán. 4.      Cầm cố chứng khoán. 5.      Repo chứng khoán. 6.      Ứng trước tiền bán. 7.      Uỷ thác đấu giá. 8.      Tư vấn đầu tư chứng khoán. 9.      Tư vấn cổ phần hoá, niêm yết và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp. 10.    Tư vấn tài chính doanh nghiệp 2.1.2.1. Về dịch vụ đầu tư Môi giới chứng khoán Công ty làm nhiệm vụ trung gian đứng giữa làm cầu nối giữa các nhà đầu tư chứng khoán. Hiện nay CTCK Biển Việt đang triển khai 2 hình thức môi giới chính : Môi giới giao dịch chứng khoán niêm yết Với hình thức ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33348.doc
Tài liệu liên quan