Giải pháp phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng các công cụ phái sinh tại Ngân hàng ngoại thương - Chi nhánh TP.HCM

CHƯƠNG 1: CÔNG CỤ PHÁI SINH VÀ NGHIỆP VỤ KINH DOANH NGOẠI TỆ BẰNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1 Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, ngoài ra ngân hàng thương mại còn cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng dịch

doc59 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng các công cụ phái sinh tại Ngân hàng ngoại thương - Chi nhánh TP.HCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên. Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến trong nền kinh tế. Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) chỉ rõ: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”. 1.1.2 Các nghiệp vụ hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM. 1.1.2.1 Nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn (Nghiệp vụ nợ). Là nghiệp vụ hình thành trên các nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Các nguồn vốn của NHTM bao gồm: a. Vốn điều lệ và các quỹ: - Vốn điều lệ: là nguồn vốn ban đầu khi ngân hàng mới bắt đầu đi vào hoạt động và được ghi vào bản điều lệ của ngân hàng. Vốn điều lệ phải đạt mức tối thiểu theo quy định của pháp luật (ở các nước và ở Việt Nam đều có quy định mức vốn pháp định cho mỗi loại hình ngân hàng). Vốn điều lệ được Ngân sách nhà nước cấp phát nếu là ngân hàng công, do các cổ đông đóng góp theo cổ phần nếu là ngân hàng cổ phần. Vốn điều lệ có thể được thay đổi theo xu hướng tăng lên nhờ được cấp bổ sung vốn điều lệ theo quy định của luật pháp mỗi nước. Vốn điều lệ được sử dụng trước hết để xây dựng, mua sắm tài sản cố định, các phương tiện làm việc và quản lý, tức là tạo cơ sở vật chất ban đầu cho hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra các ngân hàng thương mại còn được phép sử dụng vốn điều lệ để hùn vốn, liên doanh, cấp vốn cho các công ty trực thuộc và thực hiện các hoạt động kinh doanh khác. - Các quỹ của ngân hàng: được hình thành khi ngân hàng đã đi vào hoạt động, bao gồm các quỹ trích từ lãi ròng hàng năm của ngân hàng như: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, các quỹ dự phòng (tài chính, trợ cấp mất việc làm), quỹ đầu tư phát triển, quỹ khác (khen thưởng, phúc lợi)... Ngoài ra, còn có các quỹ được hình thành bằng cách trích và tính vào chi phí hoạt động của ngân hàng như: quỹ khấu hao cơ bản, sửa chữa tài sản, dự phòng để xử lý rủi ro... b. Vốn huy động: Đây là nguồn vốn chủ yếu sử dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn huy động gồm có: tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng; tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức; tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn của dân cư; nguồn vốn huy động qua phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi... c. Nguồn vốn đi vay: Trong trường hợp vốn tự có và vốn huy động không đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh, ngân hàng thương mại có thể vay vốn của các chủ thể sau: - Vay của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức được tái cấp vốn như chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá; cầm cố, tái cầm cố các thương phiếu; vay lại theo hợp đồng tín dụng... - Vay của các ngân hàng thương mại khác qua thị trường liên ngân hàng, hợp đồng mua lại... - Vay của các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế... d. Nguồn vốn khác: Vốn tiếp nhận từ ngân sách Nhà nước để thực hiện các chương trình, dự án theo kế hoạch tập trung của Nhà nước; vốn tiếp nhận để cho vay ủy thác, vốn chiếm dụng của khách hàng trong quá trình thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt... 1.1.2.2 Nghiệp vụ sử dụng vốn (Nghiệp vụ có). Với nguồn vốn có được, ngân hàng sử dụng cho các hoạt động sau: a. Thiết lập dự trữ: Các ngân hàng thương mại không sử dụng toàn bộ nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, mà phải dành một phần dự trữ thích hợp nhằm đáp ứng những yêu cầu sau: duy trì dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; thực hiện lệnh rút tiền thanh toán chuyển khoản của khách hàng; chi trả các khoản tiền gửi đến hạn, chi trả lãi; đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý trong ngày của khách hàng; thực hiện các khoản chi tiêu hàng ngày tại ngân hàng... Dự trữ của ngân hàng có thể tồn tại dưới hình thức tiền mặt, tiền gửi tại ngân hàng khác và các chứng khoán có tính thanh khoản cao. b. Cấp tín dụng: Bao gồm các nghiệp vụ cho vay (ngắn, trung và dài hạn); chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá; cho thuê tài chính; bảo lãnh, bao thanh toán... c. Đầu tư tài chính: Ngân hàng thương mại sử dụng các nguồn vốn ổn định để thực hiện các hình thức đầu tư nhằm kiếm lời và chia sẻ rủi ro với nghiệp vụ tín dụng. Các hình thức đầu tư tài chính bao gồm: góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của các công ty, xí nghiệp, các tổ chức tín dụng khác và mua chứng khoán, các giấy tờ có giá trị để hưởng lợi tức, chênh lệch giá. d. Sử dụng vốn cho các mục đích khác: Mua sắm thiết bị, dụng cụ phục vụ cho hoạt động kinh doanh, xây dựng trụ sở ngân hàng, hệ thống kho bãi và các chi phí khác. 1.1.2.3 Nghiệp vụ trung gian (Dịch vụ ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác). Đây là các dịch vụ mà khi ngân hàng cung cấp cho khách hàng sẽ nhận được các khoản hoa hồng và lệ phí như: dịch vụ ngân quỹ; dịch vụ ủy thác; tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng; nhận quản lý tài sản quý giá theo yêu cầu khách hàng; kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ; mua bán hộ chứng khoán, phát hành hộ cổ phiếu, trái phiếu cho các công ty, xí nghiệp; tư vấn về tài chính, đầu tư... Các nghiệp vụ trên của ngân hàng thương mại không thể tách rời, độc lập nhau mà chúng có mối quan hệ hỗ tương với nhau trong quá trình kinh doanh của ngân hàng. 1.2 Công cụ phái sinh. 1.2.1 Khái niệm. Công cụ phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất... Trên thị trường ngoại hối có 5 nghiệp vụ cơ bản được giao dịch đó là: giao ngay (spot), kỳ hạn (forward), hoán đổi (swap), giao sau (future) và quyền chọn (option). Trong đó giao ngay được xem là nghiệp vụ cơ bản, các nghiệp vụ còn lại được xem là phái sinh. 1.2.2 Lịch sử hình thành thị trường công cụ phái sinh. Từ sự khởi đầu đơn giản với future và forward... Thị trường future có thể được xem như đã xuất hiện từ thời trung cổ. Lúc đầu đối tượng của các future trên thị trường là các mặt hàng đơn giản như lúa mì hay cà phê. Các nhà đầu tư mua và bán các hợp đồng future với mục đích nhằm giảm bớt sự lo ngại xảy ra những biến cố khiến giá bị đẩy lên cao hay xuống thấp trong những tháng sau đó. Đến những năm thập niên 80 của thế kỷ 20, các hợp đồng future bắt đầu nở rộ và phổ biến trong các giao dịch thương mại. Hầu hết các thị trường forward phát triển sớm là các thị trường ngoại hối, còn được gọi là thị trường liên ngân hàng (interbank market). Thị trường này phát triển nhanh chóng nhờ vào sự thả nổi của các đồng tiền mạnh vào đầu thập niên 1970. Thị trường liên ngân hàng bao gồm hàng trăm ngân hàng khắp thế giới, họ là những người thay mặt cho chính họ hoặc cho khách hàng thực hiện các cam kết giao sau và kỳ hạn với nhau. ... đến những công cụ hiệu quả như swap và option. Swap cũng là một công cụ phái sinh dựa trên sự trao đổi và thực hiện hợp đồng. Các giao dịch hoán đổi là động lực chính của những tăng trưởng trên hợp đồng kỳ hạn. Giao dịch đầu tiên của thị trường option bắt đầu ở châu Âu và Mỹ từ đầu thế kỷ 18. Những năm đầu thị trường hoạt động thất bại vì nạn tham nhũng. Một trong những người liên quan là nhà môi giới có quyền chọn về một loại cổ phiếu nhất định đã ăn hối lộ để giới thiệu cổ phiếu cho khách hàng của họ. Vào đầu những năm 1900, một nhóm công ty đã thành lập hiệp hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn. Mục đích của hiệp hội này là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và những người bán lại với nhau. Tháng 4 năm 1973 Chicago Board of Trade lập thị trường mới, Chicago Board Options Exchange, đặc biệt dành cho trao đổi option về cổ phiếu. Từ đó thị trường option trở nên phổ biến với nhà đầu tư. Đến thập niên 80 của thế kỷ 20, thị trường option đối với ngoại tệ, chỉ số chứng khoán và hợp đồng future đã phát triển ở Mỹ. Thị trường chứng khoán Philadelphia là nơi giao dịch option ngoại tệ đầu tiên. 1.2.3 Các chủ thể tham gia trên thị trường. 1.2.3.1 Nhà bảo hộ giá (Hedger). Chúng ta xem xét tình huống sau: Công ty Import Co.Ltd có một hợp đồng trị giá 1 triệu USD, thời hạn thanh toán là 6 tháng, tỷ giá giao ngay (USD/VND) ở thời điểm hiện tại: 15.990, tỷ giá giao ngay (USD/VND) khi hợp đồng đến hạn: chưa biết. Công ty Import Co.Ltd đứng trước rủi ro nếu USD lên giá so với VND ở thời điểm thanh toán. Sự lên giá này của USD có thể gây ra cho Import Co.Ltd tổn thất giao dịch bằng trị giá hợp đồng nhân cho chênh lệch tỷ giá giữa hai thời điểm thanh toán và ký kết. Để tránh rủi ro ngoại hối, công ty liên hệ với ngân hàng mua quyền chọn mua có những nội dung sau: - Trị giá quyền chọn (K): 1 triệu USD. - Tỷ giá thực hiện (E): 16.010. - Phí mua quyền chọn (P) tính trên mỗi đồng ngoại tệ: 20 đồng. Tổng chi phí mua quyền chọn bằng 1 triệu x 20 đồng = 20 triệu đồng. - Kiểu quyền chọn: kiểu Mỹ. - Thời hạn hiệu lực của quyền chọn (T): 6 tháng. Ở thời điểm này, Import Co.Ltd đã bỏ ra tổng chi phí 20 triệu đồng để mua công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Mặc dù, lúc này thời điểm đáo hạn chưa xảy ra nhưng công ty biết trước được khi đáo hạn có hai khả năng xảy ra và các giao dịch khi quyền chọn đáo hạn như sau: - Nếu tỷ giá mua giao ngay Sb > E = 16.010 thì doanh nghiệp sẽ thực hiện quyền chọn mua. Khi ấy giá trị của khoản phải trả quy ra nội tệ là V = 1 triệu USD x 16.010 = 16.010 triệu VND, bất chấp tỷ giá giao ngay trên thị trường là bao nhiêu. Cần lưu ý rằng doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 20 triệu VND để mua quyền chọn nên giá trị quy ra nội tệ của khoản phải trả tăng thêm nhưng vẫn được cố định ở mức 16.010 + 20 = 16.030 triệu VND. Nhờ vậy, rủi ro ngoại hối được kiểm soát. - Nếu tỷ giá giao ngay Sb < E = 16.010 thì doanh nghiệp không thực hiện quyền chọn mua, mà mua ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Khi ấy giá trị khoản phải trả là V(Sb) = 1 triệu USD x Sb = Sb triệu VND. Cần lưu ý rằng doanh nghiệp trước đó đã bỏ ra một khoản chi phí bằng 20 triệu VND để mua quyền chọn nên giá trị quy ra nội tệ của khoản phải trả tăng thêm lên đến (Sb + 20) triệu VND. Giá trị này chưa được cố định nhưng bị chặn trên tối đa ở mức 16.030 triệu VND, vì Sb < 16.010. Do đó, rủi ro ngoại hối cũng được kiểm soát. Kết quả là dù tỷ giá giao ngay khi hợp đồng nhập khẩu đến hạn là bao nhiêu đi nữa thì giá trị phải thanh toán của hợp đồng nhập khẩu quy ra VND vẫn nằm ở mức tối đa là 16.030 triệu VND. 1.2.3.2 Nhà đầu cơ (Speculator). Chúng ta có thể sử dụng các công cụ phái sinh cho mục đích đầu cơ. Để làm rõ việc sử dụng công cụ phái sinh vào mục đích đầu cơ như thế nào chúng ta xem xét tình huống sau: Đang ở thời điểm hiện tại tỷ giá EUR/USD = 1,2028, ông A dự báo rằng trong tương lai EUR sẽ lên giá so với USD và tỷ giá có thể lên đến EUR/USD = 1,2928. Ông A mua EUR và chờ giá lên sẽ bán ra lấy lời trong tương lai. Dĩ nhiên là việc mua EUR để đầu cơ này là một việc làm rủi ro vì nếu EUR không lên giá đúng như dự đoán của mình thì ông A sẽ lỗ. Nhưng là người có kinh nghiệm và bản lĩnh ông A tin chắc vào sự dự đoán của mình và kỳ vọng kiếm lời mỗi EUR được (1,2928 – 1,2028) = 0,09 USD. Chẳng hạn để kiếm được 11.250 USD ông A phải mua 125.000 EUR. Để mua được 125.000 EUR ngay thời điểm hiện tại ông A phải bỏ ra 125.000 x 1,2028 = 150.350 USD. Với số tiền USD phải bỏ ra khá lớn khiến ông A có thể ngậm ngùi nhìn cơ hội kiếm 11.250 USD trôi qua trong tiếc nuối vì không có tiền mua 125.000 EUR. Nhưng ông A có thể nắm bắt cơ hội đầu cơ bằng cách mua hợp đồng giao sau trị giá 125.000 EUR thay vì mua giao ngay 125.000 EUR. Vì mua hợp đồng giao sau trị giá 125.000 EUR chứ không phải mua 125.000 EUR nên ông A không cần bỏ ra ngay 150.350 USD mà chỉ cần bỏ ra 1.755 USD ký quỹ theo yêu cầu của Sở giao dịch. Như vậy, với số tiền bỏ ra ít hơn: 1.755 USD so với 150.350 USD ông A vẫn mua được cơ hội kiếm lời nếu như tỷ giá biến động đúng như dự đoán của ông ta. Với hợp đồng giao sau này, hàng ngày nếu tỷ giá EUR/USD lên đúng như dự đoán của ông A thì tài khoản của ông A sẽ được ghi có một số tiền bằng chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay ngày hôm nay so với ngày hôm trước nhân với trị giá hợp đồng. Ngược lại, nếu tỷ giá xuống, tức là ngược với dự báo của ông A, thì tài khoản của ông ta sẽ bị ghi nợ một số tiền bằng chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay ngày hôm trước so với ngày hôm nay nhân với trị giá hợp đồng. Ngoài ra, nếu việc ghi nợ nhiều khiến cho số dư tài khoản ký quỹ của ông A giảm xuống đến mức tối thiểu do Sở giao dịch quy định, ông A phải bỏ thêm tiền vào cho đủ mức quy định mới được tiếp tục giao dịch. 1.2.3.3 Nhà kinh doanh chênh lệch tỷ giá (Arbitrage). Kinh doanh chênh lệch tỷ giá liên quan đến việc mua ngoại tệ ở một thị trường và bán lại ở một thị trường khác. Việc mua bán như vậy có khuynh hướng làm quân bình tỷ giá giữa các thị trường khác nhau. Giả sử có các tỷ giá sau đây trên thị trường quốc tế: GBP/USD = 1,5809 – 1,5839 ở New York USD/EUR = 0,9419 – 0,9487 ở Frankfurt GBP/EUR = 1,4621 – 1,4671 ở London Để khai thác cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá, nhà kinh doanh sẽ thực hiện các giao dịch sau đây: Từ New York nhà kinh doanh bán ra 1 triệu USD ở Frankfurt được: 1.000.000 x 0,9419 = 941.900 EUR. Dùng số EUR này để mua GBP ở London được: 941.900 / 1,4671 = 642.014,86 GBP. Bán số GBP vừa mua được ở New York được: 642.014,86 x 1,5809 = 1.014.961,29 USD. Lợi nhuận do kinh doanh chênh lệch tỷ giá: 1.014.961,29 – 1.000.000 = 14.961,29 USD. Tuy lợi nhuận không lớn nhưng kiếm được trong thời gian rất ngắn và hầu như không có rủi ro nên rất hấp dẫn. Lợi nhuận hấp dẫn này thu hút nhiều người vào cuộc. Khi có nhiều người nhảy vào cuộc, do có nhiều người dùng USD để mua EUR ở Frankfurt nên EUR sẽ lên giá so với USD ở Frankfurt và do có nhiều người bán EUR lấy GBP ở London nên EUR giảm giá so với GBP ở London, cuối cùng ở New York do có nhiều người bán GBP để lấy USD nên GBP sẽ giảm giá so với USD ở New York. Cơ hội kinh doanh chênh lệch giá cũng chấm dứt nhường chỗ cho sự quân bình tỷ giá giữa ba khu vực thị trường. Trên thực tế còn có chi phí giao dịch và rào cản giao dịch giữa các thị trường. Chính điều này khiến cho giao dịch kinh doanh chênh lệch tỷ giá không phải dễ dàng thực hiện. Kết quả, cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá ít khi xuất hiện và nếu có cũng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. 1.2.4 Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của NHTM. 1.2.4.1 Nghiệp vụ hối đoái giao ngay (spot). Giao dịch hối đoái giao ngay là giao dịch mua, bán một số lượng ngoại tệ giữa hai bên theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày cam kết mua bán. Tùy theo tập quán kinh doanh và điều kiện thị trường từng nước, có thể niêm yết tỷ giá theo nhiều cách khác nhau. Nhưng nhìn chung có hai cách niêm yết giá trên thị trường giao ngay dành cho hai đối tượng khách hàng khác nhau. Cách yết giá theo kiểu Mỹ và kiểu Âu dành cho khách hàng là ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng. Cách yết giá trực tiếp và gián tiếp dành cho khách hàng thông thường, tức khách hàng không phải là ngân hàng. Yết giá theo kiểu Mỹ (American term) là cách niêm yết tỷ giá bằng số USD trên đơn vị ngoại tệ. Yết giá theo kiểu châu Âu (European term) là cách niêm yết tỷ giá bằng số ngoại tệ trên 1 đơn vị USD. Yết giá trực tiếp (direct quotation) là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn vị ngoại tệ thông qua một số lượng nội tệ nhất định. Yết giá gián tiếp (indirect quotation) là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn vị nội tệ thông qua một số lượng ngoại tệ nhất định. Theo thông lệ các đồng tiền thường được yết giá gián tiếp gồm có bảng Anh, dollar Úc và dollar New Zealand, các đồng tiền thường được yết giá trực tiếp gồm có yên Nhật, france Thụy Sĩ, dollar Singapore, và nhiều đồng tiền khác trong đó có đồng Việt Nam. Riêng dollar Mỹ và Euro vừa yết giá gián tiếp vừa yết giá trực tiếp. Khi nói đến tỷ giá bao giờ cũng liên quan đến một cặp đồng tiền: đồng tiền yết giá và đồng tiền định giá. Đồng tiền yết giá là đồng tiền biểu thị giá trị của nó qua đồng tiền khác. Đồng tiền định giá là đồng tiền dùng để xác định giá trị đồng tiền khác. Trên thị trường hối đoái giao ngay thường diễn ra quan hệ mua bán ngoại tệ giữa ngân hàng và khách hàng. Các ngân hàng thường không thu phí giao dịch hay hoa hồng mà sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua để trang trải chi phí giao dịch và thu lợi nhuận thỏa đáng. Chênh lệch giá mua và giá bán của một ngoại tệ cao hay thấp tùy thuộc vào phạm vi giao dịch hẹp hay rộng và mức độ biến động giá trị của ngoại tệ đó trên thị trường. Để có thể so sánh với các loại chi phí giao dịch khác, chênh lệch tỷ giá bán và tỷ giá mua thường được xác định theo tỷ lệ phần trăm qua công thức sau: Tỷ giá bán - Tỷ giá mua Chênh lệch (%) = __________________________________ x 100 Tỷ giá bán Ví dụ chúng ta có tỷ giá GBP/USD = 1,4229 – 1,4246. Chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán mà khách hàng phải chịu khi mua bán ngoại tệ với ngân hàng: 1,4246 - 1,4229 Chênh lệch (%) = ______________________ x 100 = 0,12% 1,4246 Các ngoại tệ có thị trường giao dịch tương đối rộng như USD, GBP, EUR, JPY thường có chênh lệch giá mua bán ở mức 0,1% đến 0,5% trong khi các ngoại tệ mà thị trường giao dịch hẹp hơn có mức chênh lệch giá cao hơn nhiều. Lý do là ngân hàng sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua vào các mục đích như phòng ngừa rủi ro biến động tỷ giá ngoại tệ mua vào hoặc bán ra, bù đắp chi phí giao dịch và cuối cùng là kiếm lợi nhuận thỏa đáng. Do vậy với các ngoại tệ có phạm vi giao dịch hẹp, hoặc vào những thời kỳ tỷ giá của ngoại tệ nào đó biến động mạnh thì ngân hàng duy trì chênh lệch giữa giá bán và giá mua lớn hơn so với các ngoại tệ khác hoặc so với thời kỳ tỷ giá ổn định. Giao dịch hối đoái giao ngay được ngân hàng sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ giao ngay cho khách hàng. Tuy nhiên, nhược điểm của giao dịch hối đoái giao ngay là không đáp ứng được nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ của những khách hàng nào cần mua hoặc cần bán ngoại tệ nhưng việc chuyển giao ngoại tệ chưa thực hiện ngay ở hiện tại mà sẽ được thực hiện trong tương lai. Để đáp ứng nhu cầu này của khách hàng ngân hàng phải phát triển thêm một loại giao dịch khác, đó là giao dịch hối đoái có kỳ hạn. 1.2.4.2 Nghiệp vụ hối đoái có kỳ hạn (forward). Giao dịch hối đoái có kỳ hạn là giao dịch trong đó hai bên cam kết sẽ mua, bán với nhau một số lượng ngoại tệ theo một mức giá xác định và việc thanh toán sẽ được thực hiện trong tương lai. Tỷ giá có kỳ hạn thường được yết theo hai cách: yết giá theo kiểu outright và yết giá theo kiểu swap. Tỷ giá có kỳ hạn theo kiểu outright đơn giản là giá cả của một đồng tiền này tính bằng một số đơn vị đồng tiền kia. Nó cũng được niêm yết tương tự như tỷ giá giao ngay chỉ khác một điều là tỷ giá được hai bên xác định và thỏa thuận ở hiện tại nhưng sẽ được áp dụng trong tương lai. Tỷ giá theo kiểu swap chỉ yết phần chênh lệch theo số điểm căn bản (basic points) giữa tỷ giá có kỳ hạn và tỷ giá giao ngay tương ứng. Yết giá theo kiểu swap thường được sử dụng trên thị trường liên ngân hàng, tức là trong giao dịch giữa một ngân hàng này với một ngân hàng khác. Tỷ giá có kỳ hạn (forward rate) là tỷ giá áp dụng trong tương lai nhưng được xác định ở hiện tại. Tỷ giá này áp dụng cho các giao dịch mua bán ngoại tệ có kỳ hạn và được xác định dựa trên cơ sở tỷ giá giao ngay và lãi suất trên thị trường tiền tệ. Gọi: - F: là tỷ giá có kỳ hạn. - S: là tỷ giá giao ngay. - rd: là lãi suất của đồng tiền định giá. - ry: là lãi suất của đồng tiền yết giá. Ta có tỷ giá có kỳ hạn được xác định bởi công thức sau: 1 + rd F = S ___________ (1) 1 + ry Công thức (1) trên đây dựa trên cở sở lý thuyết cân bằng lãi suất (interest rate parity) – IRP. Lý thuyết này nói rằng chênh lệch lãi giữa hai quốc gia phải được bù đắp bởi chênh lệch tỷ giá giữa hai đồng tiền để những người kinh doanh chênh lệch giá không thể sử dụng hợp đồng có kỳ hạn kiếm lợi nhuận trên cơ sở chênh lệch lãi suất. Ở Việt Nam các ngân hàng thương mại thường áp dụng phổ biến công thức gần đúng của công thức (1) hơn. Ta có thể viết lại công thức (1) như sau: 1 + rd 1 + rd + ry - ry rd - ry F = S __________ = S ______________________ = S + S ___________ 1 + ry 1 + ry 1 + ry Vì lãi suất ry thường nhỏ nên ta có thể xấp xỉ 1 + ry ≈ 1. Khi ấy, công thức này có thể viết lại thành F = S + S(rd - ry). Ở đây lãi suất tính theo đơn vị phần trăm một năm. Nếu chuyển đổi lãi suất thành đơn vị phần trăm cho kỳ hạn n ngày và năm có 360 ngày thì ta sẽ có công thức: S(rd - ry)n F = S + _____________ 100 x 360 Giao dịch ngoại tệ có kỳ hạn thỏa mãn được nhu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng mà việc chuyển giao được thực hiện trong tương lai. Tuy nhiên, do giao dịch kỳ hạn là giao dịch bắt buộc nên khi đến ngày đáo hạn dù bất lợi hai bên vẫn phải thực hiện hợp đồng. Một điểm hạn chế nữa là hợp đồng kỳ hạn chỉ đáp ứng được nhu cầu khi nào khách hàng chỉ cần mua hoặc bán ngoại tệ trong tương lai còn hiện tại không có nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ. Đôi khi trên thực tế khách hàng vừa có nhu cầu mua bán ngoại tệ ở hiện tại đồng thời vừa có nhu cầu mua bán ngoại tệ ở trong tương lai. Rõ ràng trong tình huống này chỉ với giao dịch hối đoái giao ngay hay chỉ với giao dịch hối đoái kỳ hạn chưa thể đáp ứng được nhu cầu giao dịch của khách hàng, mà phải kết hợp cả hai loại giao dịch này lại với nhau mới đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Sự kết hợp này hình thành nên một loại giao dịch mới đó là giao dịch hoán đổi. 1.2.4.3 Nghiệp vụ hối đoái hoán đổi (swap). Giao dịch hoán đổi là giao dịch hối đoái bao gồm đồng thời cả hai giao dịch: giao dịch mua và giao dịch bán cùng một số lượng đồng tiền này với đồng tiền khác, trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký hợp đồng. Về cơ bản giao dịch swap gồm: 1 giao dịch spot và 1 giao dịch forward trái chiều với giao dịch spot. Thời hạn giao dịch hoán đổi có thể từ 3 ngày đến 6 tháng. Nếu ngày đáo hạn rơi vào ngày Chủ nhật hoặc ngày lễ thì hai bên sẽ thỏa thuận chọn một ngày đáo hạn thích hợp và thời hạn hợp đồng sẽ tính trên số ngày thực tế. Trong giao dịch hoán đổi, ngày thanh toán bao gồm hai loại ngày khác nhau: ngày hiệu lực và ngày đáo hạn. Ngày hiệu lực là ngày thực hiện thanh toán giao dịch giao ngay trong khi ngày đáo hạn là ngày thực hiện thanh toán giao dịch có kỳ hạn. Một hợp đồng hoán đổi liên quan đến hai loại tỷ giá: tỷ giá giao ngay và tỷ giá có kỳ hạn. Tỷ giá giao ngay là tỷ giá do ngân hàng niêm yết tại thời điểm giao dịch do hai bên thỏa thuận. Tỷ giá có kỳ hạn được tính trên cơ sở tỷ giá giao ngay, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ, và số ngày thực tế của hợp đồng. Giao dịch hoán đổi chỉ giải quyết được nhược điểm của hợp đồng giao ngay là có thể thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm tương lai, đồng thời khắc phục được nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn ở chỗ có thể thỏa mãn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, cũng như giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi vẫn còn hạn chế ở hai điểm: - Nó là hợp đồng bắt buộc yêu cầu các bên phải thực hiện khi đáo hạn bất chấp tỷ giá trên thị trường giao ngay lúc đó như thế nào. Điều này có lợi là tránh được rủi ro tỷ giá cho khách hàng, nhưng đồng thời đánh mất đi cơ hội kinh doanh nếu như tỷ giá biến động trái với dự đoán của khách hàng. - Nó chỉ quan tâm đến tỷ giá ở hai thời điểm: thời điểm hiệu lực và thời điểm đáo hạn, mà không quan tâm đến sự biến động tỷ giá trong suốt quãng thời gian giữa hai thời điểm đó. Chính những hạn chế này khiến cho hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng hoán đổi chỉ có thể là công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá và thích hợp với nhu cầu phòng ngừa rủi ro tỷ giá của khách hàng hơn là nhu cầu kinh doanh hay đầu cơ kiếm lời từ sự biến động tỷ giá. Để bổ sung cho hạn chế này của giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi, ngân hàng phát triển thêm một loại công cụ khác, đó là hợp đồng giao sau. 1.2.4.4 Nghiệp vụ hối đoái giao sau (future). Hợp đồng giao sau là một thỏa thuận mua bán một số lượng ngoại tệ đã biết theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực và việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một ngày trong tương lai được xác định bởi Sở giao dịch. Tuy nhiên, khác với hợp đồng có kỳ hạn, hợp đồng giao sau chỉ sẵn sàng cung cấp đối với một vài loại ngoại tệ mà thôi. Chẳng hạn, thị trường Chicago chỉ cung cấp hợp đồng với sáu loại ngoại tệ mạnh đó là GBP, CAD, EUR, JPY, CHF và AUD. Thị trường giao sau thực chất chính là thị trường có kỳ hạn được tiêu chuẩn hóa về loại ngoại tệ giao dịch, số lượng ngoại tệ giao dịch và ngày chuyển giao ngoại tệ. Tất cả các hợp đồng giao sau đều thực hiện giao dịch ở Sở giao dịch có tổ chức. Sở giao dịch là người đề ra quy chế và kiểm soát hoạt động của các hội viên. Hội viên của Sở giao dịch là các cá nhân, có thể là đại diện của các công ty, ngân hàng thương mại hay cá nhân có tài khoản riêng. Để dễ hiểu hơn về cách thức thực hiện một hợp đồng giao sau, ta sẽ xem xét ví dụ: Nhà đầu cơ thị trường giao sau dự báo vài ngày tới CHF sẽ lên giá so với USD. Nhằm kiếm tiền từ cơ hội này, một nhà đầu tư trên thị trường giao sau Chicago mua một hợp đồng giao sau trị giá 125.000 CHF với tỷ giá 0,75 USD cho 1 CHF. Hợp đồng này sẽ đến hạn vào 3 ngày sau. Để bắt đầu, trước tiên nhà đầu tư phải bỏ 2.565$ vào tài khoản ký quỹ ban đầu. Biết rằng mức ký quỹ tối thiểu nhà đầu cơ phải duy trì đối với hợp đồng giao sau CHF là 1.900 USD, nhà đầu cơ phải sẵn sàng thêm tiền vào nếu mức ký quỹ của mình xuống đến dưới mức 1.900 USD. Sau khi mua hợp đồng giao sau, nhà đầu cơ sốt ruột theo dõi diễn biến tình hình thị trường. Bởi vì việc thanh toán diễn ra hằng ngày, có ba điều sẽ xảy ra: - Thứ nhất: hàng ngày nhà đầu cơ sẽ nhận được tiền hoặc sẽ chi tiền ra tùy theo hợp đồng lời hay lỗ. - Thứ hai: hợp đồng giao sau với giá 0,75 USD/CHF sẽ bị hủy bỏ vào cuối ngày giao dịch. - Thứ ba: nhà đầu cơ sẽ nhận được hợp đồng giao sau theo giá mới được thiết lập vào cuối ngày giao dịch. Hợp đồng giao sau có cả ưu lẫn nhược điểm khi sử dụng. Ưu điểm của nó trước tiên là sẵn sàng cung cấp những hợp đồng có giá trị nhỏ. Kế đến nó cho phép các bên tham gia có thể sang nhượng lại hợp đồng ở bất kỳ thời điểm nào trước khi hợp đồng hết hạn. Với hai ưu điểm này hợp đồng giao sau dễ dàng thu hút nhiều người tham gia. Ngược lại, hợp đồng giao sau có nhược điểm là chỉ cung cấp giới hạn cho một vài ngoại tệ mạnh và một vài ngày chuyển giao ngoại tệ trong năm mà thôi. Kế đến, hợp đồng giao sau là hợp đồng bắt buộc phải thực hiện khi đến hạn chứ không cho người ta quyền được chọn như trong hợp đồng quyền chọn. Nói chung giao dịch giao sau có thể bổ sung cho giao dịch kỳ hạn và hoán đổi ở tính chất thực hiện thanh toán hằng ngày nhằm bảo đảm cho nhà đầu cơ có thể tận dụng cơ hội nếu thị trường biến động có lợi cho họ. Tuy nhiên, nếu thị trường biến động bất lợi nhà đầu cơ không có quyền tự ý rút khỏi thị trường. Tính chất “có quyền” này chỉ có thể có được trong giao dịch quyền chọn. 1.2.4.5 Nghiệp vụ hối đoái quyền chọn (option). Quyền chọn là một hợp đồng giữa hai bên, theo đó người mua option có quyền, chứ không phải nghĩa vụ, mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ cụ thể với một mức giá thực hiện đã được ấn định trước cho một thời hạn cụ thể trong tương lai, sau khi đã trả phí (premium) cho người bán option ngay từ lúc ký hợp đồng. Trong khi đó, người bán option có nghĩa vụ phải thực hiện hợp đồng theo các điều khoản đã thỏa thuận trước đó bất luận giá cả thị trường biễn biến như thế nào, nếu như người mua option muốn thực hiện quyền của mình. Quyền chọn mua (call): là quyền cho phép người mua option tự quyết định thực hiện mua ngoại tệ hay không mua ngoại tệ. Quyền chọn bán (put): là quyền cho phép người mua option tự quyết định thực hiện bán ngoại tệ hay không bán ngoại tệ. Giá giao ngay (spot): giá mua bán ngoại tệ giao ngay hiện hành tại thời điểm. Giá thực hiện (strike): mức giá mà người mua option được quyền ấn định trước với người bán option và được chốt (fixed) trong suốt thời hạn hiệu lực của hợp đồng. Premium: là khoản phí mà người mua option phải trả cho người bán option ngay từ lúc ký hợp đồng. Option kiểu Âu (European style): option chỉ được thực hiện vào ngày đáo hạn hợp đồng. Option kiểu Mỹ (American style): option có thể được thực hiện vào bất cứ lúc nào trong suốt thời hiệu hợp đồng. Option buyer, option holder: người mua option. Option seller, option writer: người bán option. Độ biến động (volatility): độ biến động là mức độ mà theo đó giá ngoại tệ có thể có khuynh hướng dao động lên xuống trong một khoảng thời gian. Độ biến động được diễn tả bằng tỷ lệ phần trăm (%). Ngày ký kết hợp đồng (contract date): là ngày ngân hàng ký kết hợp đồng option với khách hàng hoặc đối tác. Ngày đáo hạn (expiry date): ngày hiệu lực cuối cùng của hợp đồng option. Giờ hạn chót (cut – off time): giờ hiệu lực cuối cùng của ngày đáo hạn hợp đồng option kiểu Âu hoặc kiểu Mỹ. Thời hiệu hợp đồng (tenor): khoảng thời gian có hiệu lực của hợp đồng tính từ ngày ký kết hợp đồng cho đến giờ hạn chót của ngày đáo hạn hợp đồng. Việc định giá option (tính phí premium) phụ thuộc vào 6 biến số sau: - Giá giao ngay hiện hành (spot). - Giá thực hiện option (strike). - Thời hạn (tenor). - Chênh lệch lãi suất (interest rate). - Kiểu Âu hay kiểu Mỹ (style). - Độ biến động (volatility). Trong 6 biến số nói trên, độ biến động là quan trọng và phức tạp nhất, vì đó là biến số định giá duy nhất không biết trước một cách chắc chắn. Nếu một option có giá strike ITM hoặc “deep ITM”, premium của option đó đắt nhất, vì giá strike có lợi hơn hoặc rất có lợi hơn giá spot thời điểm hiện hành. Nếu một option có giá strike ATM, thì premi._.um của option đó ít đắt hơn so với option ITM, vì giá strike xấp xỉ giá spot thời điểm hiện hành. Nếu một option có giá strike OTM, thì premium của option đó rẻ nhất, vì giá strike bất lợi hơn giá spot thời điểm hiện hành. Premium của option kiểu Mỹ đắt hơn option kiểu Âu, vì kiểu Mỹ có thể thực hiện vào bất cứ lúc nào trong suốt thời hiệu hợp đồng còn kiểu Âu chỉ được thực hiện vào ngày đáo hạn hợp đồng. Cách xác định giá quyền chọn phổ biến và đơn giản nhất là bằng mô hình Black-Scholes: đối với quyền chọn mua theo kiểu châu Âu, mô hình Black-Scholes có thể diễn tả bởi công thức sau: Ce = Se-bTN(d1) – Ee-aTN(d2) Trong đó: Ce là giá cả của quyền chọn mua theo giá châu Âu. S là tỷ giá giao ngay giữa đồng tiền A và đồng tiền B. E là tỷ giá thực hiện. T là thời hạn hợp đồng, tính bằng năm. a là lãi kép liên tục không có rủi ro của đồng tiền A. b là lãi kép liên tục không có rủi ro của đồng tiền B. e = 2,71828 là hằng số Nê-pe. σ là độ lệch chuẩn hàng năm của phần trăm thay đổi tỷ giá giao ngay. N(d1) và N(d2) là giá trị của hàm phân phối xác suất chuẩn và d1, d2 được xác định như sau: ln(S/E) + [a – b + (σ2/2)] d1 = ____________________________________ σ d2 = d1 – σ Mô hình Black-Scholes cho thấy giá cả của quyền chọn mua theo kiểu châu Âu phụ thuộc vào tỷ giá thực hiện so với tỷ giá giao ngay, lãi suất phi rủi ro giữa hai quốc gia, thời hạn của hợp đồng và độ lệch chuẩn của sự thay đổi tỷ giá hai đồng tiền. Mô hình này được thực hiện dựa trên một số giả định như sau: - Lãi suất vẫn không thay đổi, lãi suất cho vay và đi vay như nhau. - Không có thuế hay chi phí giao dịch. - Sự sai biệt tỷ giá tuân theo quy luật phân phối chuẩn. - Độ lệch chuẩn vẫn không đổi trong suốt thời hạn hợp đồng. Bởi vì những giả định này không đúng trên thực tế, lãi suất và tỷ giá luôn thay đổi bất ngờ, lãi suất cho vay và lãi suất đi vay không giống nhau, có chi phí giao dịch và thuế, độ lệch tỷ giá chưa chắc có phân phối chuẩn, nên mô hình Black-Scholes chưa hẳn chính xác và nó cần phải được hoàn thiện thêm. Tuy vậy, mô hình Black-Scholes vẫn áp dụng rộng rãi trong việc định giá quyền chọn, một mặt bởi vì theo thói quen, một mặt bởi vì nó đơn giản dễ áp dụng. Hơn nữa, mô hình này có thể dẫn đến việc định giá sai nhưng mức độ sai lệch không nghiêm trọng đến nỗi tạo ra cơ hội thu lợi cho những người kinh doanh chênh lệch giá. Khi sử dụng mô hình Black-Scholes để định giá quyền chọn chúng ta chỉ định giá đối với quyền chọn mua. Để định giá quyền chọn bán chúng ta sử dụng đẳng thức cân bằng giữa giá trị quyền chọn mua và quyền chọn bán. Mối quan hệ giữa quyền chọn mua và quyền chọn bán được diễn tả qua sự cân bằng chọn mua – chọn bán (put – call parity). Trong trường hợp quyền chọn theo kiểu châu Âu mối quan hệ này thể hiện qua công thức sau: Ce (S, T, E) = Pe (S, T, E) + S(1 + b)-T – E(1 + a)-T Trong đó Ce và Pe lần lượt là giá cả của quyền chọn mua và quyền chọn bán theo kiểu châu Âu. Trong trường hợp quyền chọn theo kiểu Mỹ, mối quan hệ giữa quyền chọn bán và quyền chọn mua phức tạp hơn bởi khả năng cho phép thực hiện hợp đồng ở bất kỳ thời điểm nào trước khi hợp đồng đến hạn. 1.3 Ý nghĩa của việc phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng công cụ phái sinh. 1.3.1 Đối với khách hàng. - Phòng ngừa rủi ro tỷ giá: Trong thương mại và đầu tư quốc tế, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với rủi ro tỷ giá. Tỷ giá biến động có thể làm cho một khoản lỗ thương mại trở thành một khoản lợi nhuận, và một khoản lợi nhuận có thể trở thành một khoản lỗ lớn. Trong 2 nguy cơ trên thì nguy cơ thứ hai có khả năng xảy ra nhiều hơn. Do vậy, phòng ngừa rủi ro tỷ giá là biện pháp tốt nhất để bảo toàn thu nhập và chi phí. Với một chi phí chấp nhận được, các giao dịch ngoại hối phái sinh (forward, swap, future, option) giúp các doanh nghiệp có hoạt động liên quan đến ngoại tệ cố định chi phí và bảo toàn lợi nhuận, tránh ảnh hưởng bởi sự biến động của tỷ giá. - Chủ động nguồn ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu: Đối với hoạt động nhập khẩu, các doanh nghiệp cần ngoại tệ để thanh toán tiền hàng. Nếu không chuẩn bị trước nguồn ngoại tệ thì doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng thiếu hụt ngoại tệ hoặc không có ngoại tệ để thanh toán, kết quả là không nhận được hàng nhập khẩu hoặc phải chịu một khoản chi phí tăng thêm do chậm thanh toán, hoặc phải mua ngoại tệ với tỷ giá cao hơn nhiều. Những nguy cơ đó doanh nghiệp đều có thể tránh được bằng cách sử dụng các giao dịch ngoại hối phái sinh để chủ động nguồn ngoại tệ, đảm bảo có ngoại tệ để thanh toán tiền hàng nhập khẩu. - Kinh doanh trên cơ sở chênh lệch tỷ giá: Doanh nghiệp có thể khai thác chiều hướng biến động có lợi của tỷ giá để thu lợi nhuận. Một quyền chọn mua hay bán (kiểu Mỹ) có thể được thực hiện trước ngày đáo hạn nếu tỷ giá giao ngay trên thị trường cao hơn hay thấp hơn tỷ giá quyền chọn với dự báo rằng tỷ giá có xu hướng biến động ngược chiều trong tương lai. - Tạo công cụ bảo hiểm rủi ro ngoại hối cho các hoạt động kinh doanh đặc thù: Các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm cho thị trường thế giới thông qua hoạt động đấu thầu sẽ có nguồn thu ngoại tệ nhưng không chắc chắn vì còn phụ thuộc vào kết quả đấu thầu. Trong trường hợp này, một giao dịch quyền chọn bán ngoại tệ sẽ rất thích hợp để bảo toàn khoản lợi nhuận nếu doanh nghiệp trúng thầu cung cấp sản phẩm. 1.3.2 Đối với ngân hàng - Kiểm soát nguồn vốn khả dụng: Các ngân hàng thương mại có thể thực hiện các giao dịch hoán đổi ngoại tệ với Ngân hàng Nhà nước để điều tiết lượng ngoại tệ khả dụng tại ngân hàng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại còn có thể ký kết các hợp đồng hoán đổi ngoại tệ với nhau nhằm sử dụng nguồn ngoại tệ hiện có một cách hiệu quả. - Tạo liên kết với khách hàng: Nhờ đáp ứng được những nhu cầu cần thiết của khách hàng nên các giao dịch hối đoái phái sinh trở thành một cầu nối quan trọng giữa ngân hàng và khách hàng. Cầu nối đó lại càng chắc chắn hơn khi thông qua các giao dịch này ngân hàng thực hiện việc bán chéo các sản phẩm, dịch vụ của mình cho khách hàng. Khách hàng sẽ rất hài lòng khi được phục vụ với một gói các sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao. - Tăng thu nhập cho ngân hàng: Các giao dịch ngoại hối phái sinh mang lại cho các ngân hàng thương mại nguồn thu thông qua phí và chênh lệch tỷ giá hoái đối. Ngoài ra, việc bán chéo sản phẩm cũng đem lại nguồn thu không nhỏ cho các ngân hàng nếu khai thác một cách triệt để. - Nâng cao năng lực kinh doanh: Sử dụng tốt các giao dịch hối đoái phái sinh giúp ngân hàng kiểm soát nguồn vốn khả dụng bằng ngoại tệ một cách hiệu quả, tạo liên kết tốt với khách hàng và tạo nhiều cơ hội bán chéo sản phẩm. Tất cả những yếu tố đó tạo thành một chuỗi liên kết nhân quả giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng. Kết luận chương 1 Chương 1 đã nêu khái quát những khái niệm cơ bản, đặc điểm và các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại đặc biệt là các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng các công cụ phái sinh cùng với việc giới thiệu về sự hình thành và phát triển của các thị trường phái sinh. Những điểm quan trọng của chương 1 là việc trình bày về các công cụ phái sinh tiền tệ và cách xác định giá của các sản phẩm đó cũng như ưu khuyết điểm của từng công cụ. Từ đó, chúng ta vận dụng chúng vào các mục đích phòng ngừa rủi ro tỷ giá, đầu cơ hay kinh doanh chênh lệch tỷ giá tùy thuộc vào nhu cầu của chúng ta. Các công cụ phái sinh có vai trò rất lớn trong hoạt động tìm kiếm lợi nhuận của ngân hàng cũng như của các doanh nghiệp. Phần tiếp theo sau của luận văn sẽ nghiên cứu hoạt động thực tiễn của nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh để có thể thấy được xu hướng phát triển của nghiệp vụ này trong thời gian qua. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ NGHIỆP VỤ KINH DOANH NGOẠI TỆ BẰNG CÔNG CỤ PHÁI SINH TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG – CHI NHÁNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. 2.1 Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh. 2.1.1 Vị trí của Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang tự khẳng định là một trung tâm nhiều chức năng: kinh tế, thương mại, tài chính, giao lưu quốc tế, khoa học, văn hóa... của khu vực Nam Bộ và cả nước. Theo hướng phát triển hiện nay, thì TP.HCM đang và sẽ là "hạt nhân" của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu) đồng thời vẫn là một đô thị lớn nhất trong "chùm đô thị" sẽ hình thành theo trục TP.HCM - Vũng Tàu trong 15 - 20 năm tới. Chùm đô thị này, không chỉ có vị trí đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của nước ta, mà còn có vị trí quan trọng trong mối quan hệ với các đô thị khác ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Cho đến năm 2010, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là một trung tâm công nghiệp hàng đầu của cả nước, xét về phương diện tỷ trọng, mặc dù trong thời kỳ này sẽ hình thành nhiều khu công nghiệp lớn khác trong cả nước. Các khu công nghiệp tập trung được hình thành trên địa bàn của 6 huyện ngoại thành hiện nay sẽ tiếp tục củng cố vai trò trung tâm công nghiệp của Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, vai trò này sẽ giảm dần ở thời kỳ sau năm 2010, khi các khu công nghiệp khác của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu) và quá trình công nghiệp hóa ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đạt bước phát triển đáng kể. Cho đến năm 2010, vai trò trung tâm thương mại - dịch vụ, đầu mối giao lưu quốc tế đối với khu vực và cả nước vẫn chưa có nơi nào vượt được vị thế của Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng khác với công nghiệp, ngành thương mại - dịch vụ của Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng có vị trí quan trọng hơn trong quá trình công nghiệp hóa toàn khu vực. Tốc độ công nghiệp hóa cả khu vực Nam bộ càng nhanh, thì vai trò trung tâm thương mại - dịch vụ của Thành phố Hồ Chí Minh càng quan trọng, chứ không bị chia sẻ bớt. Cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh sẽ là một bộ phận cấu thành chỉnh thể nền kinh tế cả nước nói chung và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng, mà ở đó các ngành công nghệ kỹ thuật cao, các sản phẩm có hàm lượng khoa học kỹ thuật chiếm tỷ trọng lớn; các loại dịch vụ phục vụ sản xuất và giao thông quốc tế sẽ có vị trí ưu thế trong cơ cấu kinh tế của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh sẽ trở thành một trung tâm tài chính và thương mại của các nước ASEAN sau năm 2010. 2.1.2 Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh. Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập ngày 01-11-1976, là chi nhánh lớn nhất trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh không ngừng lớn mạnh về quy mô hoạt động, luôn giữ vai trò là một trong những ngân hàng thương mại chủ lực, có bề dày thành tích trong hoạt động kinh doanh ngân hàng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Trước năm 1986, Việt Nam theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, mọi giao dịch tài chính (chính thức) đều do nhà nước thực hiện thông qua ngân hàng nhà nước. Hệ thống ngân hàng nhà nước là hệ thống một cấp (ngân hàng trung ương đảm nhiệm luôn chức năng của các ngân hàng thương mại), thuộc sở hữu nhà nước 100% và do nhà nước trực tiếp quản lý, kiểm soát. Đến năm 1988, chức năng kinh doanh ngân hàng được tách khỏi Ngân hàng nhà nước để giao cho các ngân hàng chuyên doanh. Hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, tạo nên các chuyển biến về tự do tài chính, là điều kiện cho các hình thức sở hữu khác trong hệ thống tài chính phát triển. Năm 1990, hai pháp lệnh về ngân hàng được đưa ra góp phần củng cố hệ thống ngân hàng hai cấp, bắt đầu hình thành các công cụ quản lý và điều hành tiền tệ. Hai pháp lệnh trên đã cho phép thành lập các ngân hàng cổ phần, ngân hàng nước ngoài được tham gia thành lập ngân hàng liên doanh. Tỉ trọng tài sản của các ngân hàng thương mại nhà nước trong tổng tài sản của hệ thống ngân hàng cũng giảm dần. Tỉ lệ này năm 1994 là 89%, đến năm 1998 giảm xuống còn 82%, còn 74,6% vào năm 2003, 71,5% năm 2005 và 62,5% vào năm 2006. Năm 2006, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã lựa chọn nhà tư vấn quốc tế cho việc cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Lộ trình cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương sẽ được tiến hành theo từng giai đoạn. Bước đầu, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ bán cổ phần theo nhiều đợt cho các đối tượng nhà đầu tư trong nước và đối tác chiến lược nước ngoài nhưng vẫn đảm bảo tỷ lệ Nhà nước sở hữu vốn điều lệ của Ngân hàng Ngoại thương không thấp hơn 70%. Trong giai đoạn tiếp theo, dự kiến đến năm 2010, Ngân hàng Ngoại thương tiếp tục bán cổ phần để tăng vốn điều lệ nhưng tỷ lệ Nhà nước sở hữu vốn điều lệ của Ngân hàng Ngoại thương sẽ được duy trì ở mức không thấp hơn 51%. Năm 2007 là mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với một loạt sự kiện như ký hợp đồng tư vấn quốc tế, xây dựng phương án cổ phần hóa trình Chính phủ phê duyệt, lựa chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng và niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng trên sàn giao dịch chứng khoán, đặc biệt Ngân hàng Ngoại thương được bầu chọn là “Ngân hàng cung cấp dịch vụ ngoại hối cho doanh nghiệp tốt nhất năm 2007” do tạp chí Asia Money bình chọn. Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh được xem là chi nhánh có tổng tích sản lớn nhất tại Thành phố và đạt mức tăng trưởng hàng năm trên 15%. Nguồn vốn huy động liên tục tăng và chiếm trên 1/5 tổng nguồn vốn của toàn bộ các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Là trung tâm về thanh toán quốc tế (chiếm 40% tổng kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu của Thành phố Hồ Chí Minh), là đầu mối về kinh doanh ngoại tệ và là một trong những ngân hàng hàng đầu trong các lĩnh vực đầu tư tín dụng, bảo lãnh, thanh toán hối đoái, nghiệp vụ ngân quỹ và dịch vụ thanh toán thẻ ... Với đội ngũ cán bộ được đào tạo lành nghề, nhiệt tình, năng động và dày dạn kinh nghiệm, cùng với hệ thống trang thiết bị tin học tiên tiến, Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh đang phấn đấu trở thành một ngân hàng hiện đại. 2.2 Thực trạng về nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ bằng công cụ phái sinh tại Ngân hàng Ngoại thương – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh. 2.2.1 Giao dịch ngoại tệ kỳ hạn. a. Thực trạng các giao dịch ngoại tệ kỳ hạn tại VCB-HCM. Từ khi ra đời năm 1998 đến nay, giao dịch ngoại tệ kỳ hạn đã được VCB-HCM sử dụng trong kinh doanh với doanh số giao dịch tăng dần qua các năm (tỷ lệ tăng hằng năm thấp nhất là 7,55%, cao nhất là 40,40%). Điều đó chứng tỏ giao dịch ngoại tệ kỳ hạn rất cần thiết đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và việc vận dụng giao dịch kỳ hạn của VCB-HCM cũng rất hiệu quả. Đặc biệt là sau khi Quyết định 648/2004/QĐ-NHNN ra đời quy định cách tính tỷ giá kỳ hạn thay cho việc công bố mức gia tăng tỷ giá giao dịch kỳ hạn của Ngân hàng Nhà nước. Mặc dù Quyết định số 648 của Ngân hàng Nhà nước hay chính xác hơn là cách xác định tỷ giá kỳ hạn mới tốt hơn việc công bố mức gia tăng tỷ giá giao dịch kỳ hạn trước đây, nhưng chúng ta thấy tỷ lệ doanh số giao dịch kỳ hạn trên doanh số giao ngay vẫn ở mức thấp, xấp xỉ 8 ~ 12%, cao nhất là năm 2005 cũng chỉ đạt 12,45%; tỷ lệ doanh số giao dịch kỳ hạn trên tổng doanh số giao dịch ngoại tệ của ngân hàng cũng còn ở mức thấp, xấp xỉ 6 ~ 9%. Bảng 2.1 – Doanh số giao dịch ngoại tệ tại VCB-HCM từ năm 1998 – 2007 Đơn vị tính: triệu USD Năm Doanh số kỳ hạn Tỷ lệ tăng (%) Doanh số giao ngay Tỷ lệ tăng (%) 1998 163,15 1.386,79 1999 176,90 8,43 1.724,68 24,36 2000 190,25 7,55 2.467,16 43,05 2001 211,69 11,27 2.479,39 0,50 2002 234,04 10,56 2.669,31 7,66 2003 280,21 19,73 2.976,79 11,52 2004 393,42 40,40 3.344,09 12,34 2005 550,53 39,93 4.420,47 32,19 2006 693,48 25,97 5.894,61 33,35 2007 841,26 21,31 7.886,09 33,78 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh) Bảng 2.2 – Tỷ lệ doanh số kỳ hạn so với doanh số giao ngay và tổng doanh số giao dịch tại VCB-HCM từ năm 1998 – 2007 Đơn vị tính: triệu USD Năm Doanh số kỳ hạn Doanh số giao ngay (%) kỳ hạn / giao ngay Tổng doanh số giao dịch (%) kỳ hạn / tổng doanh số 1998 163,15 1.386,79 11,76 1.702,49 9,58 1999 176,90 1.724,68 10,26 2.113,72 8,37 2000 190,25 2.467,16 7,71 2.951,01 6,45 2001 211,69 2.479,39 8,54 3.015,88 7,02 2002 234,04 2.669,31 8,77 3.277,05 7,14 2003 280,21 2.976,79 9,41 3.629,10 7,72 2004 393,42 3.344,09 11,76 4.074,62 9,66 2005 550,53 4.420,47 12,45 5.372,90 10,25 2006 693,48 5.894,61 11,76 7.058,65 9,82 2007 841,26 7.886,09 10,67 9.284,59 9,10 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh) Theo Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN thì các Ngân hàng thương mại được phép giao dịch kỳ hạn với các tổ chức kinh tế, các tổ chức khác và cá nhân, nhưng đối tượng khách hàng chủ yếu giao dịch kỳ hạn với VCB-HCM là các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu. Các kỳ hạn được sử dụng nhiều nhất là 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày, 30 ngày và 60 ngày tương ứng với kỳ hạn thanh toán xuất nhập khẩu. Ngoại tệ dùng trong thanh toán chủ yếu là USD. Điều đó cho thấy mục đích chính của các doanh nghiệp sử dụng giao dịch kỳ hạn là bảo hiểm rủi ro hối đoái cho khoản chi phí và lợi nhuận bằng ngoại tệ. Và thực sự thị trường kỳ hạn đã giúp ích cho các doanh nghiệp trong việc phòng ngừa rủi ro ngoại hối với những bước phát triển đáng ghi nhận, biểu hiện cho sự phát triển của thị trường này là doanh số năm sau luôn cao hơn năm trước (biểu đồ 2.1). Điều đó chứng tỏ nhu cầu giao dịch kỳ hạn của các doanh nghiệp là ngày càng tăng mặc dù nhu cầu mua bán ngoại tệ giao ngay của các doanh nghiệp cũng tăng không kém. Do đó, tuy giao dịch kỳ hạn chưa chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh số giao dịch ngoại tệ nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò và sự phát triển của thị trường này. Biểu đồ 2.1 – Doanh số giao dịch kỳ hạn tại VCB-HCM qua các năm (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh) b. Xác định những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình giao dịch ngoại tệ kỳ hạn của VCB-HCM. Bảng 2.3 cho thấy doanh số mua kỳ hạn của Ngân hàng rất lớn so với doanh số bán và chiếm khoảng 90% doanh số giao dịch kỳ hạn, chứng tỏ doanh nghiệp chủ yếu là bán kỳ hạn cho Ngân hàng khoản ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu. Tình trạng này diễn ra trong thời gian dài và có xu hướng tiếp tục duy trì, có phải các doanh nghiệp nhập khẩu không cần đến hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn để bảo hiểm rủi ro hối đoái, hay VCB-HCM không đủ khả năng cung cấp hợp đồng bán ngoại tệ kỳ hạn cho khách hàng, hay cơ chế bảo hiểm kiểm soát giá của Ngân hàng Nhà nước đã gián tiếp phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các nhà nhập khẩu. Thực tế cho thấy, khối lượng nhập khẩu của các doanh nghiệp ngày càng tăng và nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán là rất lớn, trong đó những hợp đồng trả chậm chắc chắn sẽ cần hợp đồng kỳ hạn để bảo hiểm rủi ro ngoại hối và nguồn lực ngoại tệ của VCB-HCM cũng rất lớn so với việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng, còn tỷ giá giao ngay do Ngân hàng Nhà nước công bố tại từng thời điểm là dựa trên cơ sở khách quan – cung cầu ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng và khi giao dịch các ngân hàng có thể sử dụng thêm biên độ dao động (biên độ này do Ngân hàng Nhà nước quy định tùy từng thời kỳ). Do đó, ba giả thiết trên đều bị bác bỏ. Như vậy, vấn đề còn lại là tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay tại thời điểm thực hiện hợp đồng kỳ hạn. Bảng 2.3 – Doanh số giao dịch kỳ hạn và các tỷ lệ tại VCB-HCM Đơn vị tính: triệu USD Năm Doanh số kỳ hạn Mua Bán (%) bán / mua (%) mua / doanh số kỳ hạn (%) bán / doanh số kỳ hạn 1998 163,15 137,05 26,10 19,04 84,00 16,00 1999 176,90 159,21 17,69 11,11 90,00 10,00 2000 190,25 169,33 20,92 12,35 89,00 11,00 2001 211,69 185,02 26,67 14,41 87,40 12,60 2002 234,04 216,02 18,02 8,34 92,30 7,70 2003 280,21 248,41 31,80 12,80 88,65 11,35 2004 393,42 341,09 52,33 15,34 86,70 13,30 2005 550,53 502,64 47,89 9,53 91,30 8,70 2006 693,48 620,30 73,18 11,80 89,45 10,55 2007 841,26 740,08 101,18 13,67 87,97 12,03 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh) c. Thực trạng cách tính tỷ giá. Trước đây, tỷ giá trong giao dịch kỳ hạn và hoán đổi được xác định trên cơ sở tỷ giá giao ngay cộng với mức gia tăng tỷ giá giao dịch có kỳ hạn. Trong đó tỷ giá giao ngay do Ngân hàng Nhà nước công bố (cộng với một biên độ dao động), mức gia tăng tỷ giá giao dịch có kỳ hạn cũng do Ngân hàng Nhà nước quy định bằng một tỷ lệ phần trăm trên tỷ giá giao ngay, cụ thể cho từng loại kỳ hạn và thay đổi theo từng thời kỳ, dựa trên lãi suất cho vay bình quân trên thị trường nội tệ liên ngân hàng và lãi suất SIBOR bình quân 1 tháng. Kết quả cho thấy, tỷ giá kỳ hạn tính theo cách tính trên luôn cao hơn tỷ giá giao ngay tại thời điểm thực hiện giao dịch kỳ hạn, do đó không khuyến khích được giao dịch kỳ hạn phát triển, nguyên nhân chính là do cách lựa chọn lãi suất không phù hợp. Khi quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN ra đời, cách tính toán tỷ giá kỳ hạn có nhiều nét tiến bộ. Cụ thể quy định như sau: “Tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ và khách hàng thỏa thuận mức tỷ giá kỳ hạn giữa đồng Việt Nam với đôla Mỹ. Tỷ giá kỳ hạn này không được vượt quá tỷ giá được xác định trên cơ sở: (i) tỷ giá giao ngay vào ngày ký kết hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi; (ii) chênh lệch giữa hai mức lãi suất hiện hành là lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam (tính theo năm) do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố và lãi suất mục tiêu đôla Mỹ do Cục dữ trữ liên bang Mỹ (Fed Funds Target Rate) công bố; (iii) và kỳ hạn của hợp đồng”. Cách tính toán này có phần chính xác hơn, đó là dựa vào hai mức lãi suất cơ bản của VND và USD, nhưng thực tế giao dịch kỳ hạn vẫn chưa được sử dụng nhiều mà chủ yếu vẫn là giao dịch giao ngay. Căn cứ vào Quyết định số 648, công thức tính tỷ giá kỳ hạn hình thành như sau: F = S + S.(RT – RC).t/(1+ RC.t) Công thức gần đúng: F = S + S.(RT – RC).t Công thức tính điểm kỳ hạn: f = S.(RT – RC).t Trong đó: - F: tỷ giá kỳ hạn. - S: tỷ giá giao ngay. - RT: lãi suất cơ bản VND (%/năm). - RC: lãi suất mục tiêu USD (%/năm). - t: kỳ hạn của giao dịch (năm). - f: điểm kỳ hạn. Theo công thức gần đúng ở trên, chúng ta tính được tỷ giá giao dịch kỳ hạn như trong bảng 2.4. Bảng 2.4 cho thấy tỷ giá kỳ hạn luôn cao hơn tỷ giá giao ngay tại thời điểm thực hiện giao dịch kỳ hạn. Đây là lý do giải thích tại sao doanh số mua kỳ hạn của Ngân hàng luôn cao hơn rất nhiều so với doanh số bán kỳ hạn và chiếm trên dưới 90% tổng doanh số giao dịch kỳ hạn. Chênh lệch lớn giữa hai mức tỷ giá này cũng cho thấy cách xác định tỷ giá kỳ hạn là chưa phù hợp và tỷ giá giao ngay cũng là vấn đề cần bàn luận. Tuy nhiên đây là xu hướng chung chỉ có thể thấy được khi phân tích số liệu thực tế, có nghĩa là trước khi ký kết hợp đồng kỳ hạn, doanh nghiệp không biết rằng điều này sẽ xảy ra, bởi vì nếu biết chắc chắn điều đó thì hiện tượng đầu cơ bằng giao dịch kỳ hạn sẽ rất lớn. Nếu doanh nghiệp biết rằng sẽ thu được lợi nhuận thông qua hợp đồng kỳ hạn thì doanh nghiệp cũng không thể lợi dụng giao dịch kỳ hạn để đầu cơ thu lợi nhuận vì theo Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN thì khi mua ngoại tệ kỳ hạn hoặc giao ngay bằng VND, doanh nghiệp phải xuất trình giấy tờ chứng minh mục đích sử dụng ngoại tệ, do đó doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng giao dịch kỳ hạn với mục đích phòng ngừa rủi ro ngoại hối. Như vậy, phải chăng Ngân hàng Nhà nước cũng biết rõ rằng cách xác định tỷ giá như vậy là chưa phù hợp nhưng do yêu cầu kiểm soát tỷ giá đành phải sử dụng các biện pháp hành chính để hỗ trợ. Bảng 2.4 - Tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay của VCB-HCM tại thời điểm thực hiện giao dịch kỳ hạn Tháng/Năm Tỷ giá giao ngay VCB-HCM Lãi suất VND Lãi suất USD Tỷ giá kỳ hạn 1 tháng Tỷ giá kỳ hạn 2 tháng Tỷ giá kỳ hạn 3 tháng 01/05 15.783 7,50% 2,25% 02/05 15.795 7,80% 2,50% 15.852 03/05 15.813 7,80% 2,50% 15.865 15.921 04/05 15.830 7,80% 2,75% 15.883 15.935 15.990 05/05 15.843 7,80% 3,00% 15.897 15.953 16.004 06/05 15.864 7,80% 3,00% 15.906 15.963 16.023 07/05 15.871 7,80% 3,25% 15.927 15.970 16.030 08/05 15.876 7,80% 3,50% 15.931 15.991 16.033 09/05 15.884 7,80% 3,50% 15.933 15.991 16.054 10/05 15.904 7,80% 3,75% 15.941 15.990 16.052 11/05 15.904 7,80% 4,00% 15.958 15.998 16.047 12/05 15.907 8,25% 4,00% 15.954 16.011 16.055 01/06 15.916 8,25% 4,25% 15.963 16.005 16.065 02/06 15.926 8,25% 4,50% 15.969 16.020 16.055 03/06 15.917 8,25% 4,75% 15.976 16.022 16.076 04/06 15.930 8,25% 4,75% 15.963 16.026 16.075 05/06 15.953 8,25% 4,75% 15.976 16.010 16.075 06/06 15.956 8,25% 5,25% 16.000 16.023 16.056 07/06 15.965 8,25% 5,25% 15.996 16.046 16.069 08/06 15.973 8,25% 5,25% 16.005 16.036 16.093 09/06 15.994 8,25% 5,25% 16.013 16.045 16.076 10/06 16.028 8,25% 5,25% 16.034 16.053 16.085 11/06 16.055 8,25% 5,25% 16.068 16.074 16.093 12/06 16.076 8,25% 5,25% 16.095 16.108 16.114 01/07 16.040 8,25% 5,25% 16.116 16.135 16.148 02/07 16.001 8,25% 5,25% 16.080 16.156 16.175 03/07 16.009 8,25% 5,25% 16.041 16.120 16.197 04/07 16.034 8,25% 5,25% 16.049 16.081 16.160 05/07 16.068 8,25% 5,25% 16.074 16.089 16.121 06/07 16.104 8,25% 5,25% 16.108 16.114 16.129 07/07 16.131 8,25% 5,25% 16.144 16.148 16.154 08/07 16.169 8,25% 5,25% 16.171 16.185 16.189 09/07 16.181 8,25% 4,75% 16.209 16.212 16.225 10/07 16.080 8,25% 4,75% 16.228 16.250 16.252 11/07 16.061 8,25% 4,75% 16.127 16.275 16.290 12/07 16.023 8,25% 4,75% 16.108 16.174 16.323 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh) Theo phân tích ở trên, việc tỷ giá giao dịch kỳ hạn chênh lệch lớn so với tỷ giá giao ngay tại thời điểm thực hiện giao dịch kỳ hạn là do hai nguyên nhân chính: Nguyên nhân thứ nhất là tỷ giao giao ngay chưa phản ánh đúng giá trị thực của đồng Việt Nam. Mặc dù tỷ giá giao ngay được dựa trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng nhưng tỷ giá này có sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước (tỷ giá giao dịch của Ngân hàng thương mại bằng tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước cộng với biên độ cho phép), hay nói cách khác tỷ giá này đã có một phần mang tính chủ quan. Có nhiều ý kiến cho rằng nếu tỷ giá VND/USD phản ánh đúng giá trị thực của VND thì tỷ giá này trong giai đoạn vừa qua sẽ còn tăng hơn nữa. Nguyên nhân thứ hai là cách xác định tỷ giá kỳ hạn chưa phù hợp, cụ thể hơn là cách chọn lãi suất chưa phù hợp. Lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước tham khảo lãi suất cho vay của một nhóm Ngân hàng thương mại, còn lãi suất mục tiêu USD do FED công bố, các mức lãi suất này ít nhiều đều có sự tác động chủ quan, không sát với lãi suất giao dịch của Ngân hàng; trong khi đó, khách hàng cân nhắc lợi ích và chi phí để quyết định có thực hiện giao dịch kỳ hạn hay không là dựa vào lãi suất giao dịch của Ngân hàng. Giao dịch kỳ hạn ra đời đúng vào thời điểm nhu cầu bảo hiểm rủi ro ngoại hối của các doanh nghiệp tăng cao nên sớm phát huy hiệu quả và được các doanh nghiệp chú trọng sử dụng. Nhưng thực tế cho thấy, các doanh nghiệp bán kỳ hạn thì nhiều mà mua kỳ hạn lại rất ít, giao dịch kỳ hạn cũng rất ít so với giao dịch giao ngay. Theo phân tích ở trên thì kết luận được rút ra cho tình trạng này là cách xác định tỷ giá kỳ hạn chưa phù hợp và tỷ giá giao ngay tại thời điểm thực hiện giao dịch kỳ hạn chưa phản ánh đúng giá trị thực tế của đồng Việt Nam. Khi hai vấn đề này được khắc phục thì tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay tại thời điểm thực hiện hợp đồng kỳ hạn sẽ tiến đến gần nhau và khi ấy, hợp đồng kỳ hạn sẽ thực sự được sử dụng như một công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối hiệu quả, nhất là trong trường hợp tỷ giá có sự biến động mạnh và bất thường. 2.2.2 Giao dịch hoán đổi ngoại tệ. a. Sơ lược tình hình vận dụng giao dịch hoán đổi tại VCB-HCM. Thị trường hoán đổi được hình thành vào năm 1998 cùng với sự ra đời của thị trường kỳ hạn, nhưng giao dịch hoán đổi chỉ được thực hiện giữa Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại hoặc trên thị trường liên ngân hàng nhằm bù đắp sự thiếu hụt vốn VND tạm thời của các Ngân hàng thương mại. Doanh số giao dịch hoán đổi tại VCB-HCM đã tăng lên đáng kể từ năm 1998, chứng tỏ loại giao dịch này cũng rất cần thiết đối với các ngân hàng. Đặc biệt trong năm 2001, tại VCB-HCM xảy ra tình trạng thiếu vốn VND trong khi đó lại dư thừa ngoại tệ, chính trong thời điểm đó, VCB-HCM đã thực hiện giao dịch hoán đổi với Ngân hàng Nhà nước và nhu cầu vốn VND được giải quyết một cách kịp thời. Doanh số giao dịch các năm qua tuy có tăng nhưng vẫn còn rất nhỏ so với doanh số giao ngay và tổng doang số giao dịch (bảng 2.5). Bảng 2.5 – Doanh số giao dịch hoán đổi ngoại tệ tại VCB-HCM Đơn vị tính: triệu USD Năm Doanh số swap Tỷ lệ tăng (%) (%) swap / giao ngay (%) swap / tổng doanh số 1998 152,55 11,00 8,96 1999 212,14 39,06 12,30 10,04 2000 293,59 38,39 11,90 9,95 2001 324,80 10,63 13,10 10,77 2002 373,70 15,06 14,00 11,40 2003 372,10 -0,43 12,50 10,25 2004 330,11 -11,29 9,87 8,10 2005 392,71 18,96 8,88 7,31 2006 459,25 16,94 7,79 6,51 2007 542,81 18,19 6,88 5,85 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh) Theo Quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì đối tượng khách hàng được phép giao dịch hoán đổi với các ngân hàng thương mại là các tổ chức kinh tế, các tổ chức khác và cá nhân không được sử dụng loại hình giao dịch này. Trong thực tế, VCB-HCM chỉ thực hiện giao dịch hoán đổi với Ngân hàng Nhà nước và một số ngân hàng nước ngoài, khách hàng là các tổ chức kinh tế hầu như không sử dụng giao dịch này. Đối với Ngân hàng Nhà nước, VCB-HCM chỉ thực hiện giao dịch hoán đổi khi thiếu vốn VND trong khi có thừa ngoại tệ. Tình trạng này xảy ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA0097.doc