Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công ty chè Việt Nam đến năm 2015

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Tổng công ty : TCT Xuất khẩu : XK Trách nhiệm hữu hạn : TNHH Hội đồng quản trị : HĐQT Tổng giám đốc : TGĐ Thương mại : TM Bình quân đầu người : BQĐN Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn: BNN&PTNT DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU Biểu đồ 2.1 : Giá trị Kim ngạch xuất khẩu qua các năm. 42 Biểu đồ 2.2 : Sản lượng chè xuất khẩu qua các năm. 43 Biểu đồ 3.1 : Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chè năm 2009 so 2008 62 Sơ đồ 1.1:Các bước thực hiện hợp đồ

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công ty chè Việt Nam đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng, giao hàng và thanh toán 14 Sơ đồ 2.1 : Các công ty con 32 Sơ đồ 2.2 : Các công ty liên kết 33 Bảng 2.1: Các chỉ tiêu dự kiến ( cuối 2008) 36 Bảng 2.2 : Sản lượng xuất khẩu chè giai đoạn 2002-2006 . 44 Bảng 2.3 : Các loại chè xuất khẩu chủ yếu năm 2008 44 Bảng 2.4 : Giá trị và sản lượng chè xuất khẩu ở một số thị trường 10 tháng đầu năm 2008 47 LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết, hiện nay xu hướng quốc tế hóa càng ngày càng có vai trò quan trọng đối với các quốc gia trên thế giới. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi quốc gia dù lớn hay nhỏ đều phải tham gia lao động quốc tế, không một đất nước nào có thể phát triển bằng cách tự lực cánh sinh mà không có mối quan hệ với các quốc gia khác trên thế giới. Đặc biệt là đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì việc nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của thương mại quốc tế là vô cùng quan trọng. Dưới sự chỉ đạo của Đàng và Nhà nước, Việt Nam càng ngày càng thể hiện được vị trí của mình trên trường thế giới. Trong số 10 mặt hàng nông sản, sản xuất chè trong nhiều năm qua không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà ngày càng có giá trị xuất khẩu cao, hàng năm thu về hàng chục, hàng trăm triệu đô la cho nước nhà. Tuy có những thời điểm giá chè sụt giảm làm cho đời sống người dân trồng chè gặp không ít khó khăn nhưng nhìn tổng thể thì cây chè vẫn giữ vị trí và vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể nhân dân vùng trung du, miền núi, vùng cao, vùng xa và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Vì vậy việc sản xuất và chế biến chè xuất khẩu là một hướng quan trọng nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta. Việt Nam là một quốc gia có nhiều lợi thế để phát triển cây chè hơn nhiều nước khác trên thế giới, chúng ta có điều kiện về khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp cho cây chè phát triển, có nguồn lao động dồi dào trong nông nghiệp và thị trường tiêu thụ tiềm tàng trong và ngoài nước. Tuy nhiên, so với tiềm năng thì lượng chè xuất khẩu còn hạn chế. Vì vậy để ngành chè nói chung và Tổng công ty chè Việt Nam nói riêng có được những bước phát triển mới trong việc xuất khẩu chè ra thị trường Thế giới đó là một vấn để hết sức cấp thiết. Thực tế trong những năm vừa qua mặc dù cũng đã cố gắng nỗ lực trong việc giải quyết vấn đề xuất khẩu chè, nhưng Tổng công ty vẫn đang gặp không ít khó khăn, vướng mắc cần giải quyết. Chính vì vậy, qua thời gian thực tập và nghiên cứu tại Tổng công ty chè Việt Nam em mạnh dạn chọn đề tài : “ Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng công ty chè Việt Nam đến năm 2015” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Nội dung của chuyên đề thực tập được trình bày với ba phần cơ bản sau : Chương 1 : Sự cần thiết tăng cường hoạt động xuất khẩu chè đối với các công ty chè ở Việt Nam. Chương 2 : Thực trạng hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng công ty chè Việt Nam. Chương 3 : Phương hướng và giải pháp chủ yếu thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty chè Việt Nam trong thời gian tới. Trong thời gian thực tập và hoàn thành đề tài em đã nhận được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Kế hoạch và Phát triển, các cô chú và anh chị trong Tổng công ty chè nói chung, phòng Tổ chức – Pháp chế nói riêng. Đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Ngọc Sơn đã chỉ bảo và giúp đỡ tận tình cho em về mặt nội dung, phương pháp luận và cách thức tiếp cận vấn đề một cách khoa học nhất để em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề, em cũng không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót, em mong nhận được nhiều ý kiến nhận xét để chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1 Sự cần thiết tăng cường hoạt động xuất khẩu chè đối với các công ty chè ở Việt Nam 1.1. Một số khái niệm về xuất khẩu: 1.1.1.Khái niệm. Thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu nói riêng là quá trình trao đổi hàng hóa giữa các nước thông qua mua bán nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Trao đổi hàng hóa là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hóa riêng biệt của các quốc gia. Theo điều 28, mục 1, chương 2 luật thương mại Việt Nam năm 2005 thì Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo qui định của pháp luật. Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Hiện nay, chúng ta hiểu rằng xuất khẩu không chỉ mang ý nghĩa là buôn bán đơn thuần mà nó là sự liên kết, trao đổi giữa các quốc gia trên thế giới, nó là sự phụ thuộc tất yếu giữa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế. Chính vì vậy mà xuất khẩu hay thương mại quốc tế như là một tiền đề, một nhân tố để phát triển nền kinh tế nước nhà, trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu sự phân công lao động và chuyên môn hóa quốc tế Xuất khẩu là một bộ phận, một hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương trong đó hàng hóa và dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Đây là hoạt động xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, tuy ban đầu chỉ là hoạt động trao đổi hàng hóa nhưng cho đến nay nó đã phát triển rất mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nó không chỉ là một hành vi buôn bán đơn lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức bên trong và bên ngoài nhằm mục đích lợi nhuận, thúc đẩy hàng hóa sản xuất phát triển, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định và nâng cao mức sống của nhân dân. Đây là hoạt động kinh doanh trên phạm vi thế giới, nó dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng nó cũng có thể gây ra những thiệt hại lớn vì nó đã phải đối đầu với hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng kiểm soát được. Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trong phạm vi rộng cả về không gian lẫn thời gian, mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng đến tất cả các loại tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị, công nghệ kĩ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích cho quốc gia tham gia. Xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài. Do vậy mà xuất khẩu được xem như chiến lược kinh doanh quan trọng của các công ty. 1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chè. 1.1.2.1. Xuất khẩu trực tiếp Khái niệm : Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các loại chè do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước sau đó xuất khẩu những mặt hàng này ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của doanh nghiệp mình. Đây là hình thức thường được áp dụng nhiều nhất khi các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu. Các bước tiến hành : - Ký hợp đồng với các Doanh nghiệp trong nước, mua hàng và trả tiền. - Ký hợp đồng xuất khẩu chè với các Doanh nghiệp nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền. Với hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp xuất khẩu chè trực tiếp quan hệ với các nước khách hàng, bạn hàng thực hiện việc bán hàng không qua một tổ chức trung gian nào nên nó có ưu điểm là lợi nhuận thu được cao hơn các hình thức khác. Nếu mặt hàng chè có qui cách, chất lượng, mẫu mã tốt sẽ được nâng cao uy tín cho chính doanh nghiệp của mình nhất là trong điều kiện bối cảnh hội nhập với nền kinh tế thế giới. Ngoài ra doanh nghiệp còn chủ động trong việc lựa chọn bạn hàng, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa của mình. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu phải có vốn khá lớn để tự sản xuất, thu mua, chế biến các mặt hàng chè xuất khẩu. Không những vậy, hình thức này còn có thể gặp nhiều rủi ro như : chè có chất lượng kém, sai qui cách, mẫu mã không đạt yêu cầu... dẫn tới không xuất khẩu được, nhất là lượng chè do doanh nghiệp thu mua trong nước thì tỷ lệ rủi ro rất cao vì khó có thể kiểm tra hết chất lượng chè khi mua. Ngoài ra, hình thức này còn đòi hỏi doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cần có nhiều kinh nghiệm, am hiểu thị trường thế giới. 1.1.2.2. Xuất khẩu ủy thác Khái niệm : Xuất khẩu ủy thác là hình thức mà doanh nghiệp ngoại thương đóng vai trò là trung gian xuất khẩu làm thay cho các doanh nghiệp sản xuất chè những thủ tục xuất khẩu cẩn thiết để xuất khẩu chè được hưởng % theo giá trị lô hàng xuất khẩu. Tỷ lệ % này do hai bên tự thỏa thuận và ký kết hợp đồng. Hình thức này chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp xuất khẩu một lượng hàng nhỏ hoặc trước kia doanh nghiệp không có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp. Các bước tiến hành - Ký hợp đồng nhận ủy thác xuất khẩu chè cho các doanh nghiệp sản xuất chè trong nước. - Thay mặt ký kết hợp đồng với phía nước ngoài làm thủ tục giao hàng và thanh toán tiền. - Về phần tìm kiếm doanh nghiệp nhập khẩu chè ở nước ngoài là do sự thỏa thuận giữa doanh nghiệp chế biến chè và doanh nghiệp ngoại thương. - Nhận phí ủy thác xuất khẩu chè từ doanh nghiệp chế biến trong nước. Ưu điểm của phương thức này là mức độ rủi ro thấp do không phải trực tiếp tham gia hoạt động xuất khẩu. Các hoạt động như nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng, giao dịch, đàm phán, ký kết...thì doanh nghiệp sản xuất chè không phải làm nên chi phí giảm. Đặc biệt với tình hình kinh tế đang gặp khó khăn như hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương thường áp dụng hình thức này do không cần huy động vốn để mua chè. Tuy số tiền thu được không nhiều nhưng gặp ít rủi ro hơn, nhận tiền nhanh hơn, cần ít thủ tục hơn. Tuy nhiên hình thức này cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế như công ty kinh doanh XNK mất đi sự liên kết trực tiếp với thị trường, lợi nhuận bị chia sẻ, khách hàng bị thu hẹp do công ty không trực tiếp tìm kiếm khách hàng và nghiên cứu thị trường. 1.1.2.3. Xuất khẩu hàng đổi hàng Khái niệm : Đây là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hóa trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Yêu cầu : Các bên tham gia buôn bán đối lưu luôn luôn phải quan tâm đến sự cân bằng trong trao đổi hàng hóa. Sự cân bằng này được thể hiện ở những khía cạnh như cân bằng về mặt hàng hóa, cân bằng về mặt giá cả so với giá thực tế, cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau, cân bằng về điều kiện giao hàng... 1.1.2.4. Xuất khẩu theo nghị định thư giữa hai chính phủ Khái niệm : Đây là hình thức xuất khẩu ( thường là để trả nợ ) được ký theo nghị định thư giữa hai chính phủ. Nội dung : Đây là một trong những hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng, khả năng thanh toán chắc chắn, giá chè nhìn chung có thể chấp nhận được, doanh nghiệp chế biến không phải lo nghĩ về đầu ra cho chè mà mình sản xuất. Trên thực tế hình thức này ít được áp dụng. Nhà nước chỉ giao cho doanh nghiệp nào có khả năng về tài chính, năng lực sản xuất...Thường thì Tổng công ty chè Việt Nam được thực hiện hình thức này để trả nợ cho một số nước như Nga, Đông Âu, Iraq... 1.1.3. Nội dung 1.1.3.1.Lựa chọn thị trường Đây là quá trình hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Để lựa chọn được thị trường mà chúng ta khai thác và đầu tư vào đó thì nghiên cứu thị trường là khâu đầu tiên cần thiết đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường thế giới có ý nghĩa quan trọng sống còn trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế, đặc biệt là công tác xuất, nhập khẩu của mỗi quốc gia nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp không thể hoạt động trên toàn bộ thị trường của quốc gia đó mà chỉ có thể hoạt động trên một đoạn hoặc một số đoạn thị trường nào đó. Việc lựa chọn thị trường xuất khẩu chè đòi hỏi các doanh nghiệp phải phân tích tổng hợp nhiều yếu tố bao gồm yếu tố vĩ mô, vi mô, văn hóa xã hội, chính trị...và khả năng của doanh nghiệp để lựa chọn thị trường một cách chính xác, hợp lý. Bởi vì nếu lựa chọn sai thị trường để đầu tư, buôn bán thì sẽ gây ảnh hưởng lớn đến chi phí. Các doanh nghiệp khi nghiên cứu để lựa chọn thị trường cần phải nắm vững đoạn thị trường và khách hàng để có thể thực hiện tốt các nội dung tiếp theo như thị trường đang cần mặt hàng gì? Khách hàng như thế nào? Chọn phương thức giao dịch nào... 1.1.3.2.Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu Sau khi đã lựa chọn được thị trường phù hợp với doanh nghiệp mình thì doanh nghiệp cần phải xác định những sản phẩm nào trên thị trường đó mà ta có thể xuất khẩu. Theo quan điểm của Marketing đương thời thì các nhà kinh doanh phải bán cái mà thị trường cần chứ không phải bán cái mình có. Trên thực tế doanh nghiệp có sự lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chè như sau : Doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng mà mình sản xuất ra. Có nghĩa là doanh nghiệp sẽ xuất khẩu các loại chè mà doanh nghiệp tự sản xuất ra. Doanh nghiệp xuất khẩu những loại chè mà thị trường cần. Doanh nghiệp sản xuất những loại chè giống như trên thế giới không phân biệt sự khác nhau về văn hóa, xã hội, ngôn ngữ, phong tục tập quán... và biên giới quốc gia. Trong xu thế hiện nay, đòi hỏi việc nghiên cứu để nắm bắt rõ mặt hàng mình lựa chọn là rất quan trọng. Việc kinh doanh đang ở thời kỳ nào của chu kỳ sống của sản phẩm. Chè cũng như các loại hàng hóa khác cũng tồn tại một chu kỳ sống, chu kỳ này bao gồm 4 giai đoạn là: thâm nhập, phát triển, bão hòa và thoái trào. Thông thường những sản phẩm gắn liền với giai đoạn thâm nhập và phát triển là có nhiều thuận lợi nhất. Tuy nhiên đối với những sản phẩm đang ở giai đoạn bão hòa và suy thoái mà công ty có những biện pháp xúc tiến có hiệu quả thì vẫn có thể tiến hành kinh doanh xuất khẩu và thu được lợi nhuận. Việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu không những chỉ dựa vào tính toán hay ước tính mà còn phải dựa vào kinh nghiệm của những người nghiên cứu thị trường để dự đoán xu hướng biến động của giá cả thị trường trong nước cũng như ngoài nước, dự đoán được các khả năng có thể xảy ra. Ngày nay xu hướng xuất khẩu những loại chè mà thị trường cần và xuất khẩu những loại chè giống nhau ra các thị trường là phổ biến. Còn xuất khẩu những loại chè mà doanh nghiệp sản xuất ra chỉ bó hẹp trong một lĩnh vực... Như vậy, việc lựa chọn loại chè xuất khẩu ngoài yêu cầu phải đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, đáp ứng nhu cầu thị trường thì còn phải phù hợp với khả năng cũng như kinh nghiệm của từng doanh nghiệp chế biến chè xuất khẩu. Điều này đòi hỏi phải có sự phân tích đánh giá về cơ hội, thách thức của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè cũng như dự đoán được những bất lợi hay có lợi khi đưa sản phẩm của mình ra thị trường quốc tế. 1.1.3.3.Lựa chọn khách hàng Sau khi đã lựa chọn được sản phẩm của mình phù hợp với thị trường đã chọn để xuất khẩu, thì doanh nghiệp cần phải lựa chọn các đối tác kinh doanh, các khách hàng đang hoạt động trên thị trường đó để thực hiện các kế hoạch kinh doanh của mình. Việc lựa chọn đúng đối tác giao dịch sẽ tránh cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè gặp những phiền toái không đáng có, những mất mát, những rủi ro dễ gặp phải trong quá trình kinh doanh chè xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Là những người làm ăn trực tiếp với bạn hàng kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ không phải chia sẻ lợi nhuận kinh doanh, tuy nhiên trong trường hợp thị trường hoàn toàn mới thì cách tốt nhất là phải thông qua các đại lý hoặc các công ty ủy thác xuất khẩu, trung tâm giao dịch chè để giảm bớt chi phí cho việc thâm nhập thị trường. Do vậy, để phân tích lựa chọn các đối tác kinh doanh cần dựa trên các cơ sở sau : - Một là tình hình sản xuất kinh doanh của đối tác. - Hai là khả năng về vốn cơ sở vật chất kỹ thuật của bên đối tác. - Ba là thái độ và quan điểm kinh doanh của đối tác. Doanh nghiệp tìm kiếm và lựa chọn những khách hàng phù hợp để làm ăn, hợp tác để hai bên cùng có lợi và có được lợi nhuận cao nhất. Tuy nhiên, để có thể tìm hiểu chính xác được bạn hàng làm đối tác, ngoài việc dựa trên mối quan hệ bạn hàng có sẵn, đã hiểu biết và có uy tín kinh doanh với nhau thì cần phải thông qua các công ty tư vấn, các sở giao dịch, phòng Thương mại và Công nghiệp các nước có quan hệ mua bán. Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi của công ty nói chung và của xuất khẩu nói riêng. 1.1.3.4.Lựa chọn phương thức giao dịch. Sau khi đã lựa chọn được đối tác kinh doanh phù hợp, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè cần phải lựa chọn phương thức giao dịch, làm ăn với các đối tác. Phương thức giao dịch là những cách thức mà doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè sử dụng để thực hiện các mục tiêu và kế hoạch kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Những cách thức này quy định thủ tục cần thiết, các điều kiện giao dịch, các thao tác của quan hệ giao dịch trong kinh doanh. Có nhiều các phương thức giao dịch khác nhau, tuy nhiên trong đó giao dịch phổ biến và thường được sử dụng nhiều nhất vẫn là phương thức giao dịch trực tiếp không thông qua các cơ sở, đơn vị, tổ chức trung gian. Đây là phương thức giao dịch mà cho phép hai bên bàn bạc, trao đổi trực tiếp với nhau, không phải qua khâu trung gian nên dễ dàng đi đến thống nhất, không mất thời gian nhiều trong thỏa thuận làm ăn, không làm mất đi cơ hội kinh doanh của cả hai bên. Ngoài ra nó giảm được chi phí trung gian nên sẽ làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp xuất khẩu chè, kinh doanh có hiệu quả hơn, đồng thời cũng tạo điều kiện cho cả người mua và người bán chủ động hơn trong việc sản xuất và kinh doanh chè. Tóm lại với những khách hàng khác nhau thì có nhiều các phương thức giao dịch khác nhau như phương thức giao dịch trực tiếp, ủy thác, hàng đổi hàng...Doanh nghiệp cần tùy điều kiện hoàn cảnh của từng bạn hàng, từng môi trường mà lựa chọn phương thức giao dịch sao cho phù hợp nhất, đơn giản nhất, nhanh chóng nhất và tiết kiệm chi phí nhất. 1.1.3.5.Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu. Sau khi doanh nghiệp đã tìm chọn được phương thức giao dịch phù hợp thì hai bên sẽ đi đến đàm phán, thỏa thuận và ký kết hợp đồng. Đây là một trong những khâu quan trọng trong hoạt động xuất khẩu chè của doanh nghiệp. Việc đàm phán phải căn cứ vào nhu cầu về sản phẩm chè trên thị trường, đối thủ cạnh tranh, khả năng điều kiện và mục tiêu của doanh nghiệp cũng như mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đối tác. Có nhiều hình thức đàm phán mà các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất chè thường áp dụng : - Đàm phán qua thư tín. - Đàm phán qua điện thoại. - Đàm phán bằng cách gặp gỡ, trao đổi trực tiếp. Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng xuất khẩu. Hợp đồng xuất khẩu thường được thành lập dưới hình thức văn bản. Ở nước ta, hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất khẩu. Đây là hình thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên. Ngoài ra nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho thống kê, theo dõi, kiểm tra ký kết và thực hiện hợp đồng. Khi ký kết hợp đồng, các bên cần chú ý một số quan điểm sau : - Cần có sự thỏa thuận thống nhất với nhau tất cả mọi điều khoản cần thiết trước khi ký kết. - Mọi điều kiện cần rõ ràng tránh tình trạng mập mờ, có thể suy luận ra nhiều cách khác nhau. -Mọi điều khoản của hợp đồng phải đúng với pháp luật của hai quốc gia và phù hợp thông lệ quốc tế. - Ngôn ngữ của hợp đồng là ngôn ngữ do hai bên cùng chọn và thông qua. Một hợp đồng xuất khẩu thường bao gồm những phần sau : - Số hợp đồng. - Ngày và nơi ký hợp đồng. - Tên và địa chỉ của các bên ký kết. - Các điều khoản của hợp đồng như : giá cả, đơn giá, tổng giá, thời hạn và địa điểm giao hàng, điều kiện giao nhận, điều kiện thanh toán, điều kiện khiếu nại, điều kiện bất khả kháng, chữ ký của hai bên. Với những hợp đồng phức tạp nhiều mặt hàng thì có thêm các phụ lục là những bộ phận không thể tách rời của hợp đồng. 1.1.3.6.Thực hiện hợp đồng, giao hàng và thanh toán. Sau khi đã đàm phán và đi đến ký kết hợp đồng kinh doanh, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu chè phải thực hiện hợp đồng mà mình đã ký kết, tiến hành sắp xếp việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng...Thường thường đây là công việc phức tạp, nó đòi hỏi phải tuân thủ theo các luật lệ của từng quốc gia, tuân thủ theo các qui định, văn bản của quốc tế, đồng thời nó phải đảm bảo được quyền lợi của các quốc gia nói chung và uy tín của các doanh nghiệp nói riêng. Để đảm bảo yêu cầu trên thì doanh nghiệp thường phải tiến hành các bước chủ yếu như sơ đồ sau : Xin giấy phép Kiểm tra chất lượng Thuê tàu Chuẩn bị hàng Thủ tục thanh toán Kiểm tra hàng hóa Giải quyết tranh chấp Mua bảo hiểm Làm thủ tục hải quan Giao hàng Sơ đồ 1.1:Các bước thực hiện hợp đồng, giao hàng và thanh toán Nguồn: Tổng Công ty Chè Việt Nam 1.2. Sự cần thiết tăng cường xuất khẩu chè. 1.2.1.Đối với nền kinh tế quốc dân. Như chúng ta đã biết, trong xu thế hiện nay, ngoại thương và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đảng và nhà nước ta đã khẳng định chỉ có mở rộng ngoại thương, mở rộng quan hệ thương mại quốc tế mới cho phép chúng ta đánh giá đúng khả năng, trình độ và sự phát triển của Việt Nam. Một đất nước dù có mạnh đến đâu đi chăng nữa, có nhiều tài nguyên thiên nhiên ưu đãi đến đâu đi chăng nữa...nhưng nếu không hội nhập vào thương mại quốc tế, không tham gia các hoạt động kinh tế, giao lưu học hỏi các quốc gia trên thế giới thì sẽ không bao giờ phát triển được, nền kinh tế sẽ kiệt quệ, yếu kém, đi tụt lùi so với nền kinh tế thế giới. Vì vậy mà xuất khẩu đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và hoạt động xuất khẩu chè cũng góp phần không nhỏ vào hoạt động xuất khẩu chung của Việt Nam. Xuất khẩu chè tạo nguồn vốn không nhỏ cho nhập khẩu thiết bị, công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục nghèo nàn, lạc hậu và nền kinh tế chậm phát triển ở nước ta. Tuy nhiên để thực hiện quá trinh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần phải có nhiều yếu tố như nguồn vốn, nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học kĩ thuật...Trong đó, nguồn vốn là yếu tố vô cùng cần thiết đối với Việt Nam. Tầm quan trọng của vốn đầu tư thì không ai có thể phủ nhận được, song việc huy động chúng không phải dễ dàng. Thực tế cho thấy, để có nguồn vốn để nhập khẩu các máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến... thì có thể huy động qua các cách sau : - Đầu tư nước ngoài, các nguồn viện trợ từ các tổ chức kinh tế thế giới. - Thu từ các hoạt động dịch vụ, du lịch thu ngoại tệ trong nước. - Thu từ xuất khẩu. Thực tế trong những năm vừa qua xuất khẩu chè đã đem lại hàng chục triệu USD cho Việt Nam, một phần lượng tiền này được đầu tư vào quá trình CNH – HĐH đất nước, phần còn lại nhằm tái sản xuất chè. Bởi vậy xuất khẩu là nguồn vốn quan trọng nhất, nó tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Ở một số nước, một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển là do thiếu nguồn vốn, do đó nguồn vốn từ bên ngoài được coi là chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư, vay nợ và viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu – nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành hiện thực. Xuất khẩu chè thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Hoạt động xuất khẩu sẽ giúp các nước kém phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới. Chúng ta có thể nhìn nhận về tác động của xuất khẩu với chuyển dịch cơ cấu và sản xuất như sau : Thứ nhất, xuất khẩu chỉ tiêu thụ những sản phẩm thừa so nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản còn chưa phục vụ và đáp ứng đấy đủ tiêu dùng của người dân, nếu chỉ thụ động chờ ở sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm chạp, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển. Thứ hai, coi thị trường thế giới là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy sản xuất, điều này được thể hiện cụ thể như sau: - Xuất khẩu tạo điều kiện cho nhiều ngành cùng có cơ hội phát triển. Ví dụ như khi ta phát triển và xuất khẩu mặt hàng may mặc sẽ tạo điều kiện, cơ hội cho các ngành bông, sợi, vải phát triển mạnh mẽ... hay như khi xuất khẩu chè phát triển mạnh mẽ thì nó đòi hỏi, thúc đẩy các ngành có liên quan phát triển mạnh như ngành công nghiệp chế tạo máy móc, ngành giao thông vận tải... - Xuất khẩu chè tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường sản phẩm chè, góp phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Không những vậy, xuất khẩu chè còn tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh chè, tăng cơ hội tiếp cận với khoa học công nghệ tiên tiến, máy móc thiết bị hiện đại. - Xuất khẩu chè còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hóa, tăng cường hiệu quả sản xuất chè của Việt Nam trên thị trường thế giới. Nó cho phép chuyên môn hóa sản xuất chè phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. - Hoạt động xuất khẩu chè đóng vai trò quan trọng vì nó tạo điều kiện mở rộng khả năng tiều dùng của một quốc gia, nó cho phép một nước có tể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn giới hạn khả năng sản xuất. Đối với một đất nước không nhất thiết phải sản xuất đủ tất cả các loại hàng hóa mà mình cần, thông qua xuất khẩu, họ có thể tập trung vào sản xuất những mặt hàng có lợi thế của quốc gia mình sau đó trao đổi những thứ mà mình cần. Với đặc điểm quan trọng là tiền tệ được sử dụng làm phương tiện thanh toán, xuất khẩu chè cũng góp một phần làm tăng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam. Đặc biệt là đối với Việt Nam, một đất nước đang phát triển, đồng tiền không có khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa về cung cầu ngoại tệ, ổn định sản xuất, qua đó góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xuất khẩu chè có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là đời sống của nông dân tại các vùng trung du và miền núi. Như chúng ta đã biết, nước ta là một đất nước có nguồn nhân lực dồi dào, tuy nhiên số lao động không có việc làm vẫn còn nhiều, chính vì vậy mà nhiệm vụ giải quyết công ăn việc làm cho người lao động là rất cần thiết. Những năm gần đây với việc triển khai giao khoán đất đai và vườn chè cho người lao động theo nghị định 01 – CP của chính phủ cùng với những giải pháp của ngành chè Việt Nam đã giải quyết được phần lớn lực lượng lao động chưa có việc làm, cùng với cơ chế và phương thức mua chè thuận lợi cho người lao động đã tạo động lực khuyến khích và thúc đẩy người lao động phấn đấu chủ động đầu tư thâm canh vườn chè để đạt năng suất, chất lượng cao. Để tăng thu nhập và cải thiện đời sống của nông dân trồng chè, các hộ trồng chè đã kết hợp làm kinh tế gia đình theo mô hình VAC gắn liền kinh tế vườn nhà, vườn đồi, đem lại được nguồn thu nhập đáng kể góp phần quan trọng ổn định đời sống, xóa đói giảm nghèo cho bà con nông dân. Kinh nghiệm từ các thời kỳ trước đã chỉ ra rằng sự phát triển của nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong nước nếu không có ngoại thương hỗ trợ đắc lực thì không thu hút thêm nhiều lao động. Đưa lao động tham gia vào lao động quốc tế là lối thoát lớn nhất giải quyết nạn thất nghiệp của nước ta hiện nay, sản xuất hàng hóa xuất khẩu sẽ thu hút hàng triệu lao động và việc làm, tạo ra nguồn thu nhập ổn định, đồng thời tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của nhân dân. Xuất khẩu chè là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao có tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở tiền đề vững chắc, là hoạt động chủ yếu cơ bản và là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó nó thúc đẩy các mối quan hệ khác phát triển theo như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế...Ngược lại, sự phát triển của các ngành này lại là những điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Có thể nói rằng xuất khẩu nói riêng và hoạt động thương mại quốc tế nói chung sẽ dẫn tới sự thay đổi trong sinh hoạt tiêu dùng hàng hóa của nền kinh tế bằng hai cách : - Cho phép khối lượng hàng tiêu dùng khác với số hàng hóa được sản xuất ra. - Cho phép sự thay đổi có lợi phù hợp với các đặc điểm của sản xuất. Tuy nhiên tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác động của xuất khẩu đối với các quốc gia này không giống nhau. Đóng góp một phần làm tăng GDP, GNP. Những năm gần đây xuất khẩu chè đã đóng góp một phần làm tăng tổng thu nhập quốc dân. Năm 2007, sản lượng chè xuất khẩu đạt khoảng 106 nghìn tấn, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 115 nghìn USD, trong 9 tháng đầu năm 2008 kim ngạch xuất khẩu đạt 12,878 triệu USD, sản lượng chè xuất khẩu : 8.377 tấn. 1.2.2.Đối với các Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè. Ngày nay với sự hội nhập kinh tế thế giới ngày càng lớn mạnh, các quốc gia, các doanh nghiệp không ngừng vươn cao, vươn xa ra thị trường thế giới. Và chính sự phát triển không ngừng vuơn cao, vươn xa này mà các doanh nghiệp đã thu được nhiều lợi ích, không ngừng đổi mới và phát triển công ty mình. Qua đó chúng ta thấy được lợi ích, vai trò rất quan trọng của xuất khẩu chè không chỉ đối với từng quốc gia mà còn đối với các doanh nghiệp, các công ty trong nước. Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp sản xuất chè trong nước có cơ hội tham gia cáo cuộc cạnh tranh trên thị trường chè thế giới về giá cả và chất lượng. Chính điều đó sẽ giúp các doanh nghiệp cũng cố, hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp, không ngừng đổi mới chính mình, nâng cao năng lực và trình độ sản xuất của mình để tạo ra những sản phẩm chè có chất lượng cao, phù hợp yêu cầu thị trường thế giới. Các doanh ng._.hiệp sản xuất chè trong nước tham gia xuất khẩu sẽ có cơ hội mở rộng thị trường, mối quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong nước và nước ngoài trên cơ sở hai bên hợp tác làm ăn cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán độ rủi ro, mất mát trong kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp chè luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý, tìm hiểu, nghiên cứu đưa ra các chiến lược, các kế hoạch kinh doanh, tổ chức, mô hình sản xuất, chế biến, tiêu thụ hợp sản phẩm một cách phù hợp. Xuất khẩu sẽ đóng góp làm thúc đẩy hoạt động đầu tư nghiên cứu và phát triển, các hoạt động marketing... Xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, tạo ra thu nhập ổn định, tạo ra nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu các dây chuyền công nghệ, các máy móc thiết bị có liên quan đến việc kinh doanh, sản xuất và chế biến chè, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trong nước và trên thế giới, đồng thời tạo ra nguồn ngoại tệ để phục vụ cho tái đầu tư sản xuất. Xuất khẩu giúp doanh nghiệp có điều kiện để liên doanh, liên kết, hợp tác sản xuất tiêu thụ những sản phẩm mới ngay tại nước mình và nước bạn. Các doanh nghiệp xuất khẩu chè sẽ có cơ hội giao thương, trao đổi những thông tin, nguồn sản phẩm, công nghệ mới và những kinh nghiệm của nhau để góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế toàn cầu. Ngoài ra, xuất khẩu chè giúp ngành chè cũng như các doanh nghiệp hiểu được mình nên chú trọng vào loại chè nào, nâng cao chất lượng, đổi mới mẫu mã, bao bì, giá cả cho phù hợp với thị trường thế giới nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Chương 2 Thực trạng hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng công ty chè Việt Nam 2.1. Khái quát về Tổng công ty chè Việt Nam. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển. 2.1.1.1. Quá trình hình thành. Tên giao dịch đối ngoại : THE VIET NAM NATIONAL TEA CORPORATION Tên viết tắt : VINATEA Tên công ty : TỔNG CÔNG TY CHÈ VIỆT NAM Trụ sở chính : số 92 Võ Thị Sáu, Thanh Nhàn, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Tel: (04) 6226990 Fax: (04) 6226991 Quá trình thành lập: Tiền thân của Tổng công ty chè Việt Nam ( VINATEA ) hiện nay là Liên Hiệp Các Xí Nghiệp Công Nông Chè Việt Nam ( gọi tắt là Liên Hiệp). Trong quá trình hoạt động tổng công ty chè Việt Nam là doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh chè lớn nhất trong hơn 600 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chè tại Việt Nam. Tổng công ty được thành lập theo thông báo số 5820-CP/ĐMDN ngày 13/10/1995 của chính phủ và QĐ số 394 NN-TCCB/QĐ ngày 29/12/1995 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ( Bộ NN-PTNT ). Tuy mới được thành lập nhưng trên thực tế Tổng công ty đã trải qua quá trình phát triển lâu dài từ các nhà máy và LHCXNCNN chè Việt Nam. Năm 1974, LHCXNCNN chè Việt Nam được thành lập trên cơ sở sự hợp nhất của các nhà máy chế biến chè xuất khẩu của Trung Ương và một số xí nghiệp chế biến chè của địa phương ở Miền Bắc. Liên hiệp được hình thành trọng tâm nhiệm vụ là chế biến và xuất khẩu chè theo kế hoạch nhà nước giao cho. Đây chính là quá trình vận động liên kết trong ngành chè theo chiều ngang. Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất 30/4/1975, cả hai miền Nam, Bắc bắt đầu công cuộc tái thiết đất nước, tình hình sản xuất kinh doanh của cả nước nói chung và của ngành chè nói riêng hết sức gặp khó khăn. Những mâu thuẫn nảy sinh giữa Trung ương và địa phương, giữa các bộ của Trung ương với nhau trong vấn đề quản lý sản xuất và vùng nguyên liệu chè. Tình hình này đã làm cho sản lượng nguyên liệu đưa vào chế biến chỉ đạt không đến 50% công suất. Đứng trước tình hình đó, liên tục các Quyết định của chính phủ được đưa ra: Quyết định số 75( tháng 3/1979); Quyết định số 224(tháng 6/1979) về việc thống nhất tổ chức ngành chè, hợp nhất hai khâu trồng chế biến và giao cho các nông trường trồng chè của địa phương, đều chịu sự thống nhất quản lý của Trung ương. Trên cơ sở các quyết định này, vào năm 1980, LHCXNCNN chè Việt Nam được thành lập. Ban đầu, liên hiệp được tổ chức theo mô hình quản lý ngành dọc, được chia thành ba loại chủ yếu sau: Xí nghiệp liên hợp công nghiệp- nông nghiệp : đây là những xí nghiệp lớn, có quy mô vùng hoặc liên vùng, bao gồm các nông trường, các xí nghiệp chế biến chè; có 2 xí nghiệp: + Xí nghiệp liên hiệp chè Trần Phú ( huyện Văn Chấn – Yên bái): gồm 4 nông trường và 3 xí nghiệp, sản lượng 70 tấn búp tươi/ngày + Xí nghiệp chè sông Lô( Huyện Yên Sơn- Tuyên Quang) gồm 2 nông trường và 3 xí nghiệp , tổng công suất 73.5 tấn /ngày. Hai xí nghiệp này chiếm 1/3 tổng sản lượng chè của toàn Liên Hiệp, là đơn vị xuất khẩu chủ lực của ngành chè lúc đó. Các xí nghiệp công nông nghiệp : gồm 1 nông trường và xí nghiệp chế biến được hình thành ở một số vùng : Quân Chu( Bắc Thái); Tân Trào(Sơn Dương- Hà Tuyên); Biển Hồ( Gia lai) Các xí nghiệp trực thuộc : gồm các nông trường, các xí nghiệp chế biến chè hương và chè xuất khẩu. Bước sang năm 1989, Đảng và Nhà Nước thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, chuyển từ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Trong xu hướng ấy, ngành chè cũng có những đổi mới tích cực. Cuối năm 1988, Liên hiệp giải thể hai xí nghiệp liên hiệp công nông nghiệp, đồng thời tổ chức mô hình sản xuất thống nhất là xí nghiệp công nông nghiệp với quy mô 1 nông trường + 1 xí nghiệp chế biến và các đơn vị dịch vụ. Các xí nghiệp này thực hiện sản xuất và chế biến chè thành phẩm. Mặc dù thị trường truyền thống về chè của liên hiệp bị mất do những biến động về chính trị đầu thập niên 90, nhưng thay vào đó là những thị trường mới : Anh, Đài Loan, Irac, Singapo, Pháp…với giá XK từ 700-800USD/tấn. Tính đến năm 1994 kim ngạch XK chè đã đạt tới 18.295 USD. Toàn Liên Hiệp có 21 xí nghiệp công nông nghiệp và 15 đơn vị dịch vụ. Tháng 12/1995 theo QĐ số 394 NN- TCCB/QĐ của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT về việc sắp xếp lại Liên Hiệp các xí nghiệp công nông nghiệp chè Việt Nam và đổi tên thành Tổng công ty chè Việt Nam. Thực hiện chương trình đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp của chính phủ, ngày 13/9/2005, theo QĐ số 2374/QĐ- BNN/ĐMDN của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT về chuyển Tổng công ty chè Việt Nam sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Hiện nay trong điều lệ doanh nghệp của VINATEA, nhiệm vụ đầu tiên là trực tiếp sản xuất và kinh doanh, hình thức sở hữu của Tổng công ty hiện nay là đa sở hữu, cơ cấu của tổng công ty bao gồm: 25 nhà máy chế biến chè hiện đại gắn với vùng nguyên liệu tập trung ổn định. 2 trung tâm tinh chế và đóng gói chè. 2 nhà máy chế tạo thiết bị và phụ tùng cho các nhà máy chế biến chè. 1 trung tâm phục hồi chức năng và điều trị bệnh nghề nghiệp. 2 công ty xây dựng và lắp đặt thiết bị công trình công nghiệp và dân dụng, giao thông, thủy lợi. 3 công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. 1 công ty 100% vốn hoạt động tại Nga. 2 công ty liên doanh quy mô lớn với nước ngoài về trồng và chế biến và xuất khẩu chè. 2.1.1.2. Quá trình phát triển. Từ khi thành lập đến nay quá trình phát triển của công ty được chia thành các giai đoạn sau: Giai đoạn từ năm 1974 đến năm 1995 Đây là giai đoạn tiền thân của Tổng công ty bây giờ, trong giai đoạn này là giai đoạn hoạt động của Liên Hiệp Các Xí Nghiệp công nông chè Việt Nam, hoạt động với nhiệm vụ quản lý các xí nghiệp cấp dưới, không có nhiệm vụ kinh doanh, không xuất khẩu. Giai đoạn từ 1995 đến nay Giai đoạn này, chính thức ra đời Tổng công ty chè Việt Nam, công ty là đơn vị trực thuộc nhà nước do nhà nước quản lý, bắt đầu nhận nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh, xuất khẩu. Sản lượng xuất khẩu chè trong giai đoạn này liên tục tăng. Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Tổng công ty là Liên Xô, Đông Âu và Italia. Thực hiện chương trình đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp của chính Phủ, ngày 13/09/2005, căn cứ quyết định số 2374/QĐ- BNN/ĐMDN của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT về việc chuyển Tổng công ty Chè Việt Nam sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Ngành nghề kinh doanh chủ yếu của công ty mẹ là sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu các loại chè; kinh doanh vật tư nguyên liệu vật liệu, máy móc, phụ tùng, thiết bị chế biến chè…Trong giai đoạn này sản lượng xuất khẩu tăng vọt, diện tích trồng chè tăng mạnh. 2.1.2.Chức năng và nhiệm vụ. 2.1.2.1. Chức năng nhiệm vụ của tổng công ty. Tổng công ty chè Việt Nam vói chức năng tham gia xây dựng qui hoạch, kế hoạch và các dự án đầu tư phát triển vùng sản xuất chè chuyên canh và thâm canh có năng suất và chất lượng cao. Tổng công ty tham gia xây dựng các mối quan hệ và hợp tác đầu tư, khuyến nông, khuyến lâm với các thành phần kinh tế để phát triển trồng chè góp phần xóa đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, góp phần thực hiện cải tạo môi trường sinh thái. Tổng công ty là một Doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu máy móc, thiết bị vật tư chuyên dùng phục vụ công nghệ chế biến chè. Đồng thời tổ chức và ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất chè, để từng bước đưa công nghệ chế biến chè ở Việt Nam tiến kịp trình độ thế giới. Tổng công ty tham gia nghiên cứu giống chè mới, qui trình canh tác, thu hoạch chè và công nghệ chế biến, bảo quản sau thu hoạch nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm chè. Đồng thời đa dạng mẫu mã, bao bì sản phẩm đáp ứng thị hiếu tiêu dùng trong và ngoài nước. 2.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban. Phòng tài chính kế toán. Chức năng: Là tham mưu giúp việc cho Hội Đồng Quản Trị, Tổng giám đốc về lĩnh vực tài chính, đầu tư tài chính, hạch toán kế toán, phân tích hoạt động kinh tế đối với hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanhcủa tổng công ty và các đơn vị trực thuộc công ty mẹ. Nhiệm vụ chủ yếu: Quản lý và theo dõi hiệu quả sử dụng vốn của Tổng công ty đầu tư tại các công ty thành viên, công ty liên kết và trên thị trường chứng khoán. Thực hiện nhiệm vụ hạch toán kế toán toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty mẹ, tổng hợp theo dõi tình hình hoạt động tài chính của các công ty con và công ty liên doanh liên kết. Thẩm định về mặt tài chính và hiệu quả kinh tế đối với các dự án đầu tư, hợp đồng kinh tế, mua bán vay và cho vay theo sự phân cấp quản lý của Tổng công ty. Tổng hợp xử lý và lưu giữ các tài liệu, số liệu về tài chính, kế toán theo đúng các chuẩn mực kế toán, luật kế toán và các quy định quản lý tài chính hiện hành. Thực hiện tác nghiệp về nghiệp vụ kế toán văn phòng của công ty mẹ. Tư vấn, chỉ đạo về mặt nghiệp vụ kế toán - tài chính cho các đơn vị thành viên. Chủ trì kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch thu chi tài chính, thanh toán, giao nộp. Tình hình quản lý, sử dụng các loại tài sản vật tư, tiền vốn của tổng công ty kể cả vốn đưa vào liên doanh, liên kết, hợp tác. Lập báo cáo quyết toán hàng quý, hàng năm của công ty mẹ và tổng hợp toàn bộ hoạt động tài chính của tổng hợp công ty mẹ - công ty con. Phối hợp với các phòng ban và hội đồng giá của Tổng công ty xây dựng kế hoạch giá mua, giá bán, giá tồn kho các loại vật tư, hàng hóa và tài sản của Công ty mẹ. Thực hiện nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc giao. Phòng kế hoạch đầu tư. Chức năng: Là tham mưu, giúp việc cho HĐQT, TGĐ trong các lĩnh vực: Kế hoạch và các chiến lược trong sản xuất kinh doanh, đầu tư, hợp tác liên doanh, liên kết. Nhiệm vụ chủ yếu: Xây dựng chiến lược kinh doanh, lập kế hoạch kinh doanh dài hạn, trung hạn, và hàng năm của công ty mẹ, chủ trì lập các dự án liên doanh liên kết về sản xuất kinh doanh chè và các dịch vụ khác của TCT. Đánh giá phân tích kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm của các đơn vị thành viên, tổng hợp cân đối kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty mẹ và TCT. Kiểm tra, điều độ thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty mẹ và các đơn vị trực thuộc. Chủ trì cùng các phòng ban liên quan lập các dự án đầu tư, dự án hợp tác, liên doanh, liên kết với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Chủ trì, phối hợp với các phòng và các đơn vị của TCT xây dựng các định mức kinh phí kỹ thuật, theo dõi và giám sát thực hiện các định mức đó. Thống kê, tổng hợp các thông tin liên quan đến sản xuất kinh doanh của TCT. Lập các báo cáo tổng hợp và báo cáo thống kê theo định kỳ để báo cáo TGĐ và các cơ quan hữu quan. Lưu trữ và bảo quản các hồ sơ liên quan đến chương trình hợp tác Liên Xô – Ba Lan; phối hợp các phòng kế toán tài chính đối chiếu và thu hồi công nợ chương trình hợp tác Liên Xô _ Ba Lan, các chương trình vay nợ và đầu tư ODA. Phối hợp với các phòng và Hội đồng giá của TCT xây dựng kế hoạch giá mua, giá bán, giá tồn kho các loại vật tư, hàng hóa và tài sản của công ty mẹ. Thực hiện các nhiệm vụ khác do TGĐ giao. Phòng kỹ thuật. Chức năng: là tham mưu, giúp việc cho HĐQT, TGĐvề lĩnh vực kĩ thuật nông nghiệp, công nghiệp, thiết bị máy móc và xây dựng cơ bản. Nhiệm vụ chủ yếu: Xây dựng và chỉ đạo, làm nhiệm vụ hướng dẫn thực hiện quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hái chè và kỹ thuật sản xuất chế biến chè phù hợp với các điều kiện nguyên liệu và thiết bị hiện có đáp ứng yêu cầu của từng đơn vị và nhu cầu thị trường tiêu thụ chè. Ngoài ra, phòng còn có nhiệm vụ phối hợp các tổ chức khoa học kỹ thuật trong và ngoài ngành nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tế sản xuất của công ty. Tiến hành tổ chức bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ công nhân kỹ thuật, đào tạo sát hạch tay nghề công nhân. Đồng thời phối hợp với các phòng liên quan thực hiện nhiệm vụ được giao. Phòng kiểm tra chất lượng và sản phẩm. Chức năng: Làm tham mưu, giúp việc cho HĐQT, TGĐ về kiểm tra chất lượng sản phẩm chè. Nhiệm vụ chủ yếu: Kiểm tra chất lượng sản phẩm về các chỉ tiêu hóa lý, cảm quan chè nhập kho xuất kho. Chịu trách nhiệm trước TGĐ về chất lượng chè nhập kho và chè tiêu thụ ra thị trường. Chỉ đạo kỹ thuật sàng, phân loại, tinh chế, đấu trộn chè. Phối hợp với phòng kinh doanh để xây dựng tiêu chuẩn chất lượng chè nội tiêu và phát triển sản phẩm chè mới. Phối hợp với phòng kỹ thuật công nghiệp chỉ đạo và tư vấn quy trình sản xuất của đơn vị khi phát hiện thấy sản phẩm có khuyết tật. Đồng thời phối hợp với các phòng ban khác có liên quan thực hiện nhiệm vụ được giao. Phòng tổ chức pháp chế. Chức năng: Là tham mưu, giúp việc cho HĐQT, TGĐ về các lĩnh vực: quản lý và tổ chức nhân sự; các chế độ chính sách đối với người lao động thuộc công ty mẹ; công tác dân quân tự vệ và nghĩa vụ quân sự; thi đua khen thưởng; thanh tra – pháp chế; giải quyết khiếu nại tố cáo liên quan đến công ty mẹ. Nhiệm vụ chủ yếu: Theo dõi việc thực hiện nhiệm vụ và đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cán bộ công nhân viên trong công ty mẹ, xây dựng các phương án quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt của cơ quan TCT và các đơn vị thành viên. Quản lý hồ sơ cán bộ, hồ sơ lao động của cán bộ công nhân viên cơ quan TCT và các đơn vị báo sổ. Thực hiện chế độ chính sách cho người lao động theo quy định của nhà nước (lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, an toàn vệ sinh lao động). Ngoài ra, phòng tiến hành tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của TCT. Tổ chức xây dựng chức danh tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật của cán bộ công nhân viên trong toàn Tổng công ty. Thực hiện việc thi chuyển ngạch, nâng bậc. Thực hiện công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo theo quy định của pháp luật trong phạm vi của công ty mẹ. Soạn thảo hoặc thẩm định tính pháp lý của các nội quy quy chế của TCT, chịu trách nhiệm về pháp lý và tư vấn đối với hoạt động của công ty mẹ. Tổ chức phát động, hướng dẫn phong trào thi đua theo dõi và tổng kết phong trào thi đua lao động sản xuất trong toàn TCT. Đồng thời phối hợp với các phòng liên quan thực hiện nhiệm vụ được giao. Văn phòng Chức năng: Là tham mưu, giúp việc cho HĐQT, TGĐ về công tác trong lĩnh vực văn phòng. Nhiệm vụ chủ yếu: Đảm bảo đáp ứng đầy đủ, kịp thời các cơ sở vật chất mang tính chất văn phòng để lãnh đạo các phòng ban trong cơ quan công ty mẹ hoạt động bình thường. Thực hiện quản lý, tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng toàn bộ nhà cửa, trang thiết bị và tài sản của cơ quan văn phòng công ty mẹ. Khối văn phòng TCT thực hiện quản lý, cập nhật và phát triển trang web của Tổng công ty, giới thiệu hình ảnh, thương hiệu, sản phẩm của TCT trên internet. Tiến hành quản lý mạng LAN trong TCT, sửa chữa bảo dưỡng các thiết bị ngoại vi và máy tính của văn phòng TCT. Các phòng kinh doanh. Phòng kinh doanh số 1: Thực hiện xuất khẩu chè vào thị trường Iraq, Gordani, Lyban, Angeri và một số khách hàng tại các thị trường Trung đông; khai thác kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng trên cơ sở các phương án kinh doanh có hiệu quả. Phòng kinh doanh số 2: Thực hiện xuất khẩu chè vào thị trường: SNG, Đức, Pakistan, Thổ Nhĩ kỳ, Iran, Châu phi, Châu mỹ và các nước khác; khai thác kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng trên cơ sở các phương án kinh doanh có hiệu quả. Phòng kinh doanh số 3: Chịu trách nhiệm quản lý các loại bao bì, nhãn mác sản phẩm chè hiện có và nghiên cứu phát triển các loại sản phẩm chè của công ty mẹ quản lý mã vạch sản phẩm, bản quyền sở hữu công nghiệp và chịu trách nhiệm đăng ký bản quyền sở hữu công nghiệp đối với các sản phẩm chè của Tổng công ty. Thực hiện kinh doanh chè và nông sản thực phẩm tại thị trường nội địa, tổ chức và thực hiện việc xúc tiến thương mại trong nước. 2.1.3. Cơ cấu tổ chức. Cơ cấu tổ chức theo không gian. VINATEA có một cơ cấu tổ chức vững mạnh, các đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty nằm trải dài khắp dọc lãnh thổ Việt Nam, với các vùng nguyên liệu chè trù phú có chất lượng cao ở Việt Nam. Các công ty trực thuộc công ty mẹ : - Xí nghiệp tinh chế chè Kim Anh - Công ty Chè Việt Cường - Công ty Chè Sài Gòn - Công ty Thương Mại Hương Trà. - Trung tâm phục hồi chức năng và điều trị bệnh nghề nghiệp Đồ Sơn. - Xí nghiệp cơ khí Mai Đình - Công ty thương mai và du lịch Hồng Trà. - Chi nhánh Xuất khẩu chè Hải Phòng. - Công ty kinh doanh thương mại tổng hợp Nam Sơn. Các công ty con : Công ty con CT TNHHNN một thành viên CT TNHH một thành viên chè Sông Cầu CT TNHH một thành viên chè Long Phú CT TNHH một thành viên chè Mộc Châu CT Cổ phần 51% vốn trở lên CT 100% vốn tại nước ngoài CT Cổ phần chè Trần Phú CT Cổ phần chè Nghĩa Lộ CT Cổ phần chè Liên Sơn CT chè Ba Đình- Liên bang Nga Sơ đồ 2.1 : Các công ty con Các công ty liên kết : Sơ đồ 2.2 : Các công ty liên kết Công ty con Công ty con Công ty con CT cổ phần chè Quân Chu CT cổ phần chè Bắc Sơn CT cổ phần xây lắp VT KT CT cổ phần CK Biển Việt CT cổ phần chè Hà Tĩnh CT cổ phần chè TN CT cổ phần cơ khí chè CT cổ phần kinh doanh TBD CT cổ phần chè Kim Anh CT liên doanh chè Phú Đa Nguồn : Tổng công ty chè Việt Nam Cơ cấu bộ máy quản trị. Bộ máy quản trị của tổng công ty được tổ chức theo kiểu mẹ - con và theo chiều ngang, cơ cấu công ty mẹ có hội Đồng Quản Trị (HĐQT) cấp cao nhất, dưới HĐQT là Tổng Giám Đốc (TGĐ), bộ phận tham mưu của TGĐ là Ban kiểm soát, dưới TGĐ là các phó tổng giám đốc (PTGĐ), dưới PTGĐ là các phòng ban. Bộ phận chức năng, đứng đầu các phòng ban, bộ phận là các trưởng phòng (bộ phận); Dưới công ty mẹ là các công ty con và các công ty liên kết. 2.1.4. Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu. - Trồng trọt, sản xuất chè, chăn nuôi gia súc và các nông , lâm sản khác: hiện nay công ty có tới 120.000 ha đất trồng chè; trước năm 1987 tổng công ty có 110 đàn gia súc, nay chỉ còn 2 nông trường chăn nuôi bò và lợn. - Công nghiệp chế biến thực phẩm: Các sản phẩm chè, sản xuất các loại đồ uống, nước giải khát… - Kinh doanh vật liệu xây dựng: Tổng công ty đã xây dựng 80km đường sắt từ Bắc vào Nam - Sản xuất phân bón các loại phục vụ vùng nguyên liệu - Sản xuất bao bì các loại - Kinh doanh phụ tùng, thiết bị chế biến chè và lắp đặt, chế tạo các sản phẩm cơ khí, phụ tùng thiết bị, máy móc phục vụ chuyên ngành chè và đồ gia dụng. - Dịch vụ kỹ thuật đầu tư phát triển vùng nguyên liệu và khu vực chế biến chè. - Xây dựng cơ bản và tư vấn đầu tư, xây lắp phát triển ngành chè, xây dựng dân dụng, xây dựng các công trình công nghiệp, nông nghiệp, đường giao thông. - Kinh doanh khách sạn, du lịch, nhà ở bất động sản. - Bán buôn, bán lẻ, bán các đại lý các sản phẩm của ngành nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, vật tư, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống. - Kinh doanh và dịch vụ các ngành nghề khác theo pháp luật Nhà nước. - Xuất khẩu các sản phẩm chè (chè xanh, chè đen...) và các mặt hàng nông lâm sản, thủ công mỹ nghệ... - Nhập khẩu: nguyên vật liệu, vật tư, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải và hàng tiêu dùng. 2.2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu chè của Tổng công ty chè Việt Nam trong thời gian vừa qua. 2.2.1. Tình hình xuất khẩu của Tổng công ty chè Việt Nam. 2.2.1.1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. - Giai đoạn từ năm 1997 cho đến nay tổng công ty chè Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ với nhiều thành tựu đáng kể, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục, đôi lúc có chững lại, song sau thời gian ngắn lại tiếp tục trở lại ổn định và tăng tiếp. Có thể nói rằng sự tăng trưởng của giá trị mang lại cho công ty là không đều, bấp bênh, luôn tiềm ẩn nguy cơ, nhưng với sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ công nhân viên đã từng bước khắc phục khó khăn và mang lại nhiều thành tựu đáng kể (Những vấn đề đó được thể hiện cụ thể qua bảng 1). Trước khi đi vào phân tích mức sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chúng ta phân tích qua tình hình sản xuất của Tổng công ty chè Việt Nam. Sau năm 2007, diện tích chè ở Việt Nam đã đạt mức trên 120.000 ha, tăng 159% so với 10 năm trước, mức tăng 15,9% / năm; năng suất tăng 176%, mức tăng 17,6% / năm. Như vậy mức tăng năng suất cao hơn mức tăng diện tích và đã đạt mức trung bình quốc tế. Bảng 2.1: Các chỉ tiêu dự kiến ( cuối 2008) Chỉ tiêu Năm Diện tích (1.000ha) Sản lượng (tấn khô) Xuất khẩu (1.000 tấn) Tổng Kim ngạch (triệu USD) NăngSuất Kg khô / ha TD trong nước g/ng/năm 1997 78,6 52,2 32,3 47,997 740 270 1998 79,2 56,6 33,2 50,497 780 290 1999 84,8 65,0 36,4 45,145 90 330 2000 87,7 69,9 57,7 69,605 955 330 2001 95,6 82,6 68,2 78,406 962 330 2002 108,0 88,0 74,8 82,523 1040 330 2003 116,3 106,9 59,8 59,848 1150 350 2004 118,7 108,36 99,3 95,55 1200 370 2005 118,4 118,71 87,92 96,93 1260 390 2006 125,0 125,75 105,63 110,43 1270 410 2007 127,0 135,95 106,0 115,0 1310 410 2008 131,5 160,0 104,0 147,0 1541 420 Nguồn: Nguyễn Tấn Phong- Tổng thư ký VITAS- hà nội 12/2008 Tính đến hết năm 2008, tổng diện tích chè đạt 131.500 ha, diện tích chè kinh doanh 115.600 ha, diện tích kiến thiết cơ bản 15,900 ha. Năng suất : 6,5 tấn/ ha. Sản lượng 751.000 tấn búp tươi. Một số vùng ở trong nước có năng suất cao hơn mức bình quân của cả nước như Yên Bái, Phú Thọ, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Sơn La, Nghệ An, Hà Tĩnh, Lâm Đồng. Đặc biệt vùng chè Mộc Châu có mức năng suất cao hơn bình quân cả nước tới ba lần. Vùng Bắc Trung Bộ có gió Tây khô nóng nhưng năng suất vào loại cao nhất cả nước (năm 2005, năng suất bình quân cả nước đạt 5,65 tấn búp tươi/ ha, riêng năng suất ở Nghệ An đạt 7 tấn và ở Hà Tĩnh đạt 7,3 tấn so với các mức 6,9 tấn ở Thái Nguyên; 6,6 tấn ở Sơn La; 6,4 tấn ở Tuyên Quang và Yên Bái; 6,2 tấn ở Phú Thọ và Lâm Đồng). Mức năng suất cao này đều rơi vào các tỉnh trọng điểm chè của Việt Nam, có khá nhiều vùng tập trung chuyên canh đã được xây dựng từ cuối thập niên 50 và phát triển trong các thập niên 70, đầu 80 theo hướng công nghiệp hóa. Công nghiệp chế biến chè Việt Nam phát triển vào loại sớm nhất so với các loại nông sản chế biến khác cũng như trong lĩnh vực công nghiệp thực phẩm và đã bắt đầu hình thành hơn 50 năm trước đây ( 1958 ) tại trung tâm công nghiệp chè Việt Nam ( Phú Thọ ).Với sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả của Liên Xô, Việt Nam đã hình thành hạ tầng cơ sở cơ bản và công nghiệp chế biến chè ở Việt Nam. Trên các vùng chè được xây dựng theo hướng tập trung – chuyên canh, chúng ta đã phát triển công nghiệp chế biến song song, nhờ đó đã hình thành trung tâm kinh tế - xã hội ở trung du miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội trên các địa phương có chè, mở mang dân trí, phân bổ lại lao động xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo và cho đến nay, nhiều người lao động đã tiến tới làm giàu từ cây chè. Từ những năm cuối của thập niên 90 cho đến vài năm đầu thiên niên kỷ III, chè là ngành sản xuất vật chất có mức thu hút nguyên liệu vào công nghiệp chế biến cao nhất so với các ngành nông sản xuất khẩu khác (tới hơn 85%). Từ những năm cuối của thập niên 90 cho đến vài năm đầu của thế kỷ 21, chè là ngành sản xuất vật chất có mức thu hút nguyên liệu vào công nghiệp chế biến cao nhất so với các ngành nông sản xuất khẩu khác ( tới hơn 85%). Cho đến nay, theo thống kê chính thức, cả nước có hơn 400 ngàn hộ gia đình trồng chè. Bên cạnh đó, theo thống kê chưa đầy đủ và số liệu điều tra chỉ mới đến năm 2003, có khoảng 184 cơ sở chế biến chè có qui mô công nghiệp ( công suất từ 1 – 4 tấn tươi / ngày trở lên ), tổng công suất thiết kế 2299,5 tấn/ ngày; tổng năng lượng chế biến 68955 tấn / năm. So với năm 1999 ( là năm chính phủ ban hành Quyết định số 43/TTg về kế hoạch phát triển chè đến năm 2010 và cũng là Văn Bản pháp quy đầu tiên công bố những vấn đề liên quan đến chiến lược phát triển chè của Việt Nam trung hạn), số cơ sở chế biến công nghiệp đã tăng 2,8 lần; tổng công suất chế biến tăng 2,01 lần. Vào cùng thời điểm(2003), các vùng/tỉnh có nhiều cơ sở chế biến nhất là Phú Thọ (41 cơ sở, 553 tấn công suất, năng lực chế biến 16950 tấn/ năm); Yên Bái (các số liệu tương ứng là: 35; 378,5 và 11335); Thái Nguyên (26; 393,5; 11805). Chỉ tính riêng 3 tỉnh này số cơ sở chế biến đã lên tới 102; tổng công suất chế biến 1325 tấn/ngày (cao hơn tổng năng lực chế biến của cả nước năm 1999 là 1142 tấn) với tổng năng lực chế biến 39750 tấn sản phẩm/năm, chiếm 37% tổng năng lực chế biến của cả nước. Ngoài ra các địa phương trọng điểm chè, còn có hàng trăm ngàn cơ sở chế biến thủ công, quy mô nhỏ đến rất nhỏ của các hộ gia đình (riêng Phú Thọ đã có trên 55000 cơ sở chế biến thủ công như vậy vào năm 2005). Các chủ thể sản xuất kinh doanh trong ngành chè bao gồm các hộ sản xuất kinh doanh có đăng ký (diện tích 0.5-1ha; công suất chế biến 0.5-1 tấn khô/ngày; số lượng sản phẩm 15-90 tấn/năm; Tuy nhiên các hộ này khai thác thêm nguyên liệu ở các vùng phụ cận để sản xuất thêm từ 45 – 270 tấn sản phẩm / năm, bằng phương thức sàng phân loại và đấu trộn thủ công ). Loại hình thứ hai là loại hình mà gắn kết các trang trại chè với kinh doanh vườn - đồi - rừng - chăn nuôi tổng hợp. Loại hình thứ 3 là các HTX, tuy nhiên loại hình này đã giảm đáng kể và hiện nay hoạt động tương tự các công ty cổ phần, do xã viên góp vốn, nhiệm vụ chính là sản xuất chế biến chè sơ chế với quy mô sản xuất 40 - 345 tấn chè khô/năm ( điều tra 16 HTX ở phía bắc Lâm Đồng năm 2004) loại hình thứ tư là các nông trường chè với số lượng giảm đáng kể, phần lớn là các nông trường quốc doanh được thành lập trước năm 1990 (điều tra 14 tỉnh phía Bắc năm 2004 chỉ còn 16 nông trường). Loại hình thứ 5 là loại hình quốc doanh trung ương và địa phương với thời gian hoạt động từ 30 – 40 năm. Các doanh nghiệp nhà nước này tiền thân là các nông trường quốc doanh hoặc xí nghiệp nông công nghiệp chè, khép kín hai khâu canh tác và chế biến. Nói chung loại hình này không thay đổi nhiều lắm về chức năng hoạt động, ngoài khâu tiêu thụ sản phẩm (trực tiếp, qua trung gian môi giới hoặc hợp tác với bên thứ 3). Loại hình thứ 6 là các công ty cổ phần. Đây là các đơn vị sản xuất mới theo chương trình cổ phần hóa của nhà nước ( trong 9 công ty cổ phần hoạt động trên địa bàn 6 tỉnh có 7 công ty là các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, có kinh nghiệm sản xuất trên 40 năm, theo kết quả điều tra năm 2004). Loại hình thứ 7 là các công ty tư nhân, công ty TNHH. Phần lớn đây là các công ty thương mại, là một chủ thể mới, góp phần quan trọng vào thị phần phát triển chè Việt Nam ( năm 2004 có 46 công ty thuộc loại hình này là thành viên Hiệp hội chè Việt Nam). Loại hình thứ 8 là các liên doanh, hiện có hơn 10 liên doanh như vậy với các đối tác nước ngoài bao gồm Iraq, Vương Quốc Bỉ, Đài Loan, Nhật Bản, trong đó có liên doanh lớn nhất về quy mô với hơn 40% vốn nước ngoài (Iraq) là công ty chè Phú Đa (Thanh Sơn- Phú Thọ) với năng lực chế biến 4000-5000 tấn thành phẩm/ năm. Loại hình thứ 9 là công ty 100% vốn nước ngoài (1 đơn vị, Vương Quốc Bỉ, tên gọi : Công ty chè Phú Bền, Thanh Ba- Phú Thọ, năng lực chế biến 5000 tấn /năm lớn nhất Việt Nam hiện nay và cũng vào loại lớn nhất khu vực Châu Á với trang thiết bị vào loại hiện đại nhất thế giới). Như chúng ta đã biết, chè từng là mũi nhọn xuất khẩu mà hiện nay vẫn nằm trong số những ngành nông sản xất khẩu chủ lực của Việt Nam. Nước ta có lợi thế cạnh tranh về các yếu tố khí hậu, đất đai, các yêu tố nguồn nhân lực... với quá trình công nghiệp hóa khá sớm, trong giai đoạn trước đổi mới, chè xuất khẩu của Việt Nam đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế và trao đổi hàng hóa của đất nước ta, chủ yếu với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, ngoài ra cũng có một tỷ lệ không nhỏ với các nước khu vực II ( ngoài xã hội chủ nghĩa ). Sau chính biến 19/8 năm 1991, xuất khẩu chè Việt Nam mất 66% thị phần tại Liên Xô và Đông Âu. Những năm từ 1992 đến năm 1996 là giai đoạn tìm kiếm những thị trường mới, từng bước khôi phục và phát triển diện tích, cải biến giá thu mua có lợi cho nông dân và hợp tác trao đổi hàng hóa trong khuôn khổ chương trình trao đổi lương thực của liên hợp quốc và trả nợ của phía Việt Nam với Iraq. Giai đoạn này xuất khẩu chỉ ở mức 15000 – 20000 tấn/ năm. Bước đột phá về Thương mại và xuất khẩu chè Việt Nam bắt đầu từ năm 1997, khi xuất khẩu tăng vọt từ 20,8 lên 32,3 ngàn tấn( như vậy chỉ mất 1 năm để xuất khẩu chè của Việt Nam vượt ngưỡng 3000 tấn, so với 12 năm từ năm 1984 đến năm 1996 để Việt Nam vượt qua mức 1 vạn tấn và vượt ngưỡng 2 vạn tấn). Và như vậy, kể từ năm 1997, xuất khẩu tăng khá đều hầu như không bị đứt quãng với các mốc đột biến như sau (những năm 1999-2000 xuất khẩu từ 36,4 lên 57,7 ngàn tấn; 2000-2001-2002, các mức tương ứng là 57,7; 68,2; 74,8; ngưỡng 2002 đến 2004: 74,8 và 99,3). Năm 2006, xuất khẩu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2032.doc
Tài liệu liên quan