Giải pháp xã hội hoá công tác thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn huyện Từ Liêm - Hà Nội

MỞ ĐẦU Môi trường luôn được coi là một trong những mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia, đặc biệt trong những năm gần đây khi tốc độ đô thị hoá diễn ra ngày một nhanh chóng, sự phát triển kinh tế vói tốc độ cao kéo theo những tác động tiêu cực tới môi trường. Hiện nay mỗi quốc gia đều đặt cho mình mục tiêu phát triển bền vững – đó là quá trình phát triển kinh tế nhưng vẫn đảm bảo được việc bảo vệ môi trường. Đối với Việt Nam nói riêng, khi nước ta đang trên đà phát triển công nghiệp hoá, hiệ

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp xã hội hoá công tác thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn huyện Từ Liêm - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đại hoá, quan điểm và chủ trương cơ bản của Đảng và Nhà nước ta là thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hóa, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường, đảm bảo sự phát triển ổn định bền vững. Môi trường bị đe doạ suy thoái dẫn đến hiện tượng như Trái Đất nóng lên, mưa axít, hiệu ứng nhà kính, hiện tượng băng tan, lũ lụt và hạn hán... Những hiện tượng này ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống con người.Việc bảo vệ môi trường luôn là trách nhiệm của mỗi quốc gia. Có rất nhiều biện pháp để kiểm soát cũng như bảo vệ môi trường trong phạm vi đề tài nghiên cứu tôi xin trình bày khía cạnh xã hội hoá trong việc bảo vệ môi trường thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. Rác thải là một lĩnh vực khá rộng, nó bao gồm rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp, xây dựng, rác thải y tế.Thu gom và xử lý rác thải là một công tác vô cùng quan trọng trong việc góp phần bảo vệ môi trường sống của con người và xã hội. Hiện nay trên các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, T.phố Hồ Chí Minh… rác thải sinh hoạt đang là một mối lo ngại lớn đối với đời sống người dân.Theo cục thống kê tổng lượng chất thải rắn phát sinh trong các đô thị cả nước là 6,4 triệu tấn/năm, trong đó chất thải rắn sinh hoạt chiếm khoảng 80%.Các khu đô thị tuy chỉ chiếm 28% về dân số của cả nước nhưng lại phát sinh tới trên 50% tổng lượng chất thải sinh hoạt. Những ảnh hưởng tiêu cực của rác thải đến đời sống con người như ô nhiễm môi trường, bệnh tật, ảnh hưởng đến cảnh quan môi trường xung quanh… Vì thế việc xử lý và thu gom rác thải đang là một vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia mỗi thành phố. Trong quá trình học tập và đặc biệt được tham gia thực tập tại UBND Huyện Từ Liêm, tôi có cơ hội được tham gia tiếp xúc trực tiếp và được tìm hiểu các vấn đề liên quan tới công tác thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn Huyện Từ Liêm, tôi nhận thấy vấn đề quản lý và công tác xử lý rác thải sinh hoạt là hết sức cần thiết và quan trọng. Do đó, mục đích của đề tài “GIẢI PHÁP XÃ HỘI HOÁ CÔNG TÁC THU GOM VÀ XỬ LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TỪ LIÊM – HÀ NỘI” góp phần hiếu sâu hơn về tầm quan trọng của công tác thu gom xử lý rác thải với đối với đời sống con người, đồng thời mục tiêu của đề tài nhằm đẩy mạnh công tác xã hội hoá Vệ sinh môi trường, đảm bảo thu gom, vận chuyển tối đa lượng rác thải; nâng cao ý thức trách nhiệm, tính tự chủ và sự đoàn kết mang tính cộng đồng của các ngành, các cấp, các tổ chức, các đơn vị dịch vụ vệ sinh môi trường và của nhân dân. Chuyên đề gồm ba chương: Chương I. Một số lý luận chung về đô thị và tổng quan công tác thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt.Bài học kinh nghiệm một số nước. Chương II. Hiện trạng công tác thu gom xử lý rác thải và mô hình xã hội hoá thu gom xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn Huyện Từ Liêm. Chương III. Một số giải pháp kiến nghị Để hoàn thành chuyên đề này trước hết tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến TS.Nguyễn Hồng Danh đã hướng dẫn và chỉ bảo hướng dẫn tôi ngay từ giai đoạn đầu quá trình làm đề tài đến khi hoàn thành. Tôi cũng xin chân thành cám ơn các cán bộ phòng Xây dựng – Đô thị UBND Huyện Từ Liêm đã cung cấp cho tôi một số tư liệu quý báu để tôi có thể nghiên cứu và tham khảo. Cuối cùng tôi xin bày tỏ lời cám ơn đến các thầy cô trong khoa Kinh tế - Đô thị đã trực tiếp giảng dạy và giúp tôi có thêm những kiến thức về lĩnh vực mà tôi đang học hỏi nghiên cứu. Trong đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp từ thầy cô và các độc giả. Tôi xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÔ THỊ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU GOM VÀ XỬ LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT .BÀI HỌC KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG NAM Á 1.1 TỔNG QUAN VỀ ĐÔ THỊ 1.1.1 Khái niệm về đô thị và quản lý môi trường đô thị: Trước đây có rất nhiều định nghĩa khác nhau về đô thị nhưng hiện nay khái niệm đô thị đã được thống nhất như sau: “ Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên nghành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, một tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong tỉnh hoặc trong huyện”. (Giáo trình kinh tế đô thị -Trường ĐH Kinh tế Quốc dân – Khoa kinh tế - quản lý môi trường và đô thị) Quản lý môi trường đô thị là sự tác động liên tục, có tổ chức, có phương hướng và mục đích xác định của chủ thể (con người sinh sống và làm việc trong một đô thị) lên đối tượng (môi trường sống ở đô thị) nhằm khôi phục, duy trì và cải thiện tốt hơn môi trường sống của con người trong những khoảng thời gian dự định. 1.1.2 Các vấn đề về môi trường đô thị Những nội dung chủ yếu của môi trường đô thị nhằm giới hạn nghiên cứu các vấn đề môi trường trong một đô thị và trong hệ thống đô thị, do đó nó bao gồm các vấn đề cơ bản sau: Môi trường nước đô thị: Hệ thống thoát nước mưa, nước thải công nghiệp và sinh hoạt, tiêu chuẩn mức thải, nước ngầm cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất. Môi trường không khí: Khí thải, tiêu chuẩn và chất lượng không khí, tiêu chuẩn mức thải. Hệ thống cây xanh đô thị: Công ty công viên trồng và khai thác Tiếng ồn: Được xem như một loại rác thải làm mất đi sự yên tĩnh của không gian. Rác thải rắn đô thị: Rác thải đô thị gồm 3 loại chính: Rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp và rác thải bệnh viện. Môi trường xã hội: Thành phố văn minh, xanh, sạch, đẹp, an ninh và an toàn xã hội, sống có văn hoá là sự cần thiết cho mọi người dân đô thị. Trong các vấn đề nêu trên thì rác thải sinh hoạt đang là một trong những vấn đề nổi cộm đang được chú ý và quan tâm.Theo báo cáo diễn biến Môi trường Việt Nam 2004, mỗi năm Việt Nam sản sinh trên 15 triệu tấn chất thải rắn. Các khu đô thị tuy chỉ chiếm 28% về dân số của cả nước nhưng lại phát sinh tới trên 50% tổng lượng chất thải sinh hoạt. Dự báo đến năm 2010 Việt Nam sẽ có khoảng 10 triệu dân sinh sống tại các đô thị lớn sẽ làm lượng chất thải sinh hoạt tăng thêm 60%. Vấn đề xử lý và thu gom rác thải đang là một trong những mối quan tâm của mỗi quốc gia. 1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến môi trường đô thị 1.1.3.1Ảnh hưởng của nhân tố kinh tế đến môi trường đô thị Qúa trình đô thị hoá là một trong những nhân tố tác động đên sự biến đổi của môi trường ở đô thị.Đô thị hoá và sự phát triển của các nhà máy, các khu công nghiệp có ô nhiễm: Phần lớn các nhà máy có gây ô nhiễm không khí, nước nhưng việc sử dụng các biện pháp nào để chống ô nhiễm thì tuỳ thuộc vào chính sách môi trường của từng thành phố, bởi vì việc áp dụng bất cứ biện pháp nào đều làm tăng chi phí sản xuất của các nhà máy. Việc tăng chi phí sản xuất đều làm giảm tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra môi trưòng còn chịu tác động mạnh mẽ từ các ngành công nghiệp như các ngành dịch vụ: y tế (các bệnh viện) và các tổ chức dịch vụ khác nhau trong quá trình sản xuất cũng thải ra môi trường một lượng rác thải, nước thải làm ô nhiễm đất và các nguồn nước. Giao thông: ngày nay khi cuộc sống ngày càng trở nên đầy đủ và hiện đại hơn, việc sắm cho mỗi cá nhân một phương tiện đi lại không còn là điều khó khăn như trước kia.Sự gia tăng với tốc độ chóng mặt các phương tiện cá nhân tham gia giao thông, hậu quả dẫn đển một lượng xăng dâu đi lại hằng ngày thải vào không khí một lượng khí thải đáng kể làm ô nhiễm không khí.Trong khi đó, các giải pháp về giao thông công cộng hiện nay chưa thực sự giải quyết tốt được các vấn đề này. Một yếu tố tác động nữa tới môi trường là sự hạn chế của cơ sở hạ tầng: Hệ thông thu gom xử lý rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, rác thải xây dựng, nước thải không qua xử lý mà chạy trực tiếp vào các dòng sông, các hồ chứa…Hệ thống thoát nước mưa, nước thải chậm… cũng là một trong các yếu tố dẫn đến tác động tiêu cực tới môi trường. 1.1.3.2 Ảnh hưởng của nhân tố quản lý đến môi trường đô thị. Các nhà quản lý chưa nhận thức đầy đủ vấn đề môi trường: Môi trường là vấn đề chung toàn xã hội, mọi tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ.Cần tránh quan điểm cho rằng chỉ có những ai gây ô nhiễm môi trường mới phải bảo vệ môi trường. Hiện nay chính quyền các cấp chưa có các chính sách, pháp luật phù hợp: Các biện pháp chưa dựa trên cơ sở kinh tế mà mới dừng ở mức độ chữa trị triệu chứng. Ngoài ra luật bảo vệ môi trường ra đời quá chậm; khi đã ra đời còn nhiều vấn đề và chưa nhanh chóng đi vào thực tế đời sống xã hội. 1.1.3.3 Ảnh hưởng của nhân tố xã hội đến môi trường đô thị Dân số và môi trường: Mật độ dân số đô thị ngày càng cao, tốc độ tăng dân số nhanh. Đô thị mới hình thành và sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ đã thu hút lao động và dân số nông thôn vào thành phố. Dân số đô thị trong cả nước tăng và quy mô dân số của từng đô thị cũng tăng nhanh. Tất cả những nguyên nhân đó đã dẫn đến rất nhiều vấn đề cho môi trường như: Tăng rác thải, nước thải, và tăng mật độ đi lại. Nhà ở và môi trường: Những khó khăn về nhà ở mà xã hôi không có khả năng can thiệp là những vấn đề tài chính; đất đai không có hạn ở đô thị cũng làm cho môi trường đô thị có thể bị xấu đi.Các khu nhà ổ chuột với cơ sở hạ tầng hầu như chưa được xây dựng vẫn còn tồn tại trong các thành phố. Văn hoá: Bảo vệ môi trường chưa thành một thói quen hay tập quán của mọi người dân thành phố, dư luận xã hội chưa có sự lên án về các hành vi vi phạm môi trường.Hiện tượng vứt rác, đổ nước thải không đúng chỗ rất phổ biến hiện nay ỏ các đô thị. Trình độ dân trí thấp, nhu cầu chất lượng cuộc sống chưa cao, một bộ phận dân số đô thị còn nghèo,đói.Những vấn đề đó làm cho người dân không quan tâm đến vấn đề môi trường mà chỉ quan tâm đến bữa ăn, chỗ ở tránh mưa nắng hàng ngày. Ngoài các nhân tố trên thì đặc điểm tự nhiêm của mỗi quốc gia cũng ảnh hưởng đến khả năng bảo vệ môi trường.Các biện pháp áp dụng sẽ khó, dễ tuỳ theo từng thành phố, chi phí sẽ phụ thuộc vào các giải pháp kỹ thuật áp dụng. 1.1.4 Mối quan hệ giữa môi trường đô thị và sự phát triển của đô thị: Phát triển đô thị hay nói một cách đầy đủ hơn đó là quá trình đô thị hoá. Đô thị hoá kéo theo một loạt những thay đổi: sự gia tăng dân số, quá trình phát triển kinh tế, giao thông đô thị… cũng phát triển theo. Đô thị hoá mang lại cho các đô thị một diện mạo mới, kết quả là nâng cao thu nhập, tăng GO và GDP, tăng tích luỹ, mức sống người dân được nâng cao.Tuy nhiên mặt trái của quá trình đô thị hoá đó là những tác động tiêu cực tới người dân, sự phát triển nhanh chóng nói cách khác là bùng nổ dân số dẫn đến khan hiếm về quỹ nhà ở, sự đáp ứng không đầy đủ về các măt như y tế, giáo dục …vấn đề môi trường cũng bi đe doạ, khi lượng rác thải, khí độc hại từ các nhà máy, từ các khu công nghiệp, từ các phương tiện giao thông thải ra. Một loạt các khí độc hại như CO2, H2S, NO2, SO2… thải ra cùng các bãi rác thải lộ thiên bốc mùi đang là nguy cơ đe doạ trầm trọng tới môi trường sống và sức khoẻ con người. 1.2 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CÔNG TÁC THU GOM VÀ XỬ LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT 1.2.1 Giới thiệu chung về rác thải sinh hoạt: 1.2.1.1Khái niệm về rác thải sinh hoạt Trong quá trình sản xuất và sinh hoạt của con người, một bộ phận vật liệu không có hoặc không còn giá trị sử dụng nữa được gọi chung là chất thải. Chất thải sinh hoạt bao gồm thực phẩm thừa, giấy vụn, vật liệu sành sứ, phế thải, bọc nilông, đồ dùng gia đình... Chất thải sinh hoạt gồm 3 loại: + Chất thải vô cơ: như mảnh thuỷ tinh, vỏ lon, đá vụn…thường chôn lấp hoặc tái chế + Chất thải hữu cơ như: thức ăn thừa, giấy loại, quần áo rách, gỗ, rau, lá cây… có thể phân huỷ làm phân bón. + Chất thải nguy hại thường cho vào lò đốt và chôn lấp. Sơ đồ hoá phân loại rác thải sinh hoạt như sau: Gíấy vụn, kim loại, nhựa dẻo.. Vải vụn, cao su, da thuộc… Xà bần, sành sứ, chất trơ… Chất hữu cơ dễ phân huỷ,… Rác thải Tái chế Thiêu đốt Chôn lấp Chôn đốt hoặc tái chế biến phân 1.2.1.2 Đặc điểm của chất thải sinh hoạt: Chất thải sinh hoạt bao gồm chủ yếu là các chất hữu cơ dễ phân huỷ như các loại rau, củ, thực phẩm thừa và hư hỏng, xác các bộ phận của động vật, vỏ hoa quả…Ngoài ra là các vật liệu khác bao gồm các chất dễ cháy: cao su, nhựa, nilon, giấy, cacton, vải, gỗ; các chất không cháy: thuỷ tinh, kim loại, đất đá, vật liệu xây dựng… Trong chất thải rắn sinh hoạt đôi khi cũng có chất thải nguy hại như: chất dẻo PVC, keo diệt chuột, pin, bóng đèn hỏng có chứa thuỷ ngân. Tỷ lệ thành phần chất thải rắn sinh hoạt tại Hà Nội năm 2003 ( Theo nguồn: Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam 2004 - Chất thải rắn Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Ngân hàng Thế Giới (WB), Cơ quan phát triển Quốc tế Canada (CIDA), Việt Nam , 2004) Thành phần chất thải Tỷ lệ % so với tổng lượng chất thải rắn năm Hữu cơ 49,1 Giấy, vải 1,9 Nhựa 15,6 Kim loại 6,0 Thuỷ tinh 7,2 Đất đá, vật liệu xây dựng 18,4 Các loại khác 1,8 1.2.1.3 Nguồn gốc phát sinh Rác thải sinh hoạt được thải ra trong các hoạt động hàng ngày của con người, trong đó các nguồn chính thải ra bao gồm: rác thải từ các hộ dân, khu dân cư.Thành phần chính bao gồm rau quả, củ thừa và hư hỏng, thực phẩm, giấy nhựa, gỗ, thuỷ tinh…ngoài ra còn một số loại chất độc hại như sơn, pin, bong đèn…có chứa thuỷ ngân.. rác thải ra từ các khu trung tâm thương mại, phát sinh từ các hoạt động bán buôn của các cửa hàng bách hoá, nhà hàng, khách sạn, siêu thị, văn phòng giao dịch…Các loại chất thải từ khu thương mại bao gồm giấy, bìa cactông, nhựa, gỗ, thực phẩm, thuỷ tinh, kim loại, đồ điện từ gia dụng…Ngoài ra khu thương mại còn chứa một phần chất độc hại. từ các khu công sở, trường học, bệnh viện, bến xe… thành phần rác thải ở đây gần giống như ở khu thương mại.Chợ : phát sinh từ các hoạt động mua bán ở các chợ, thành phần chủ yếu là rác thải hữu cơ bao gồm rau, củ, quả thừa hư hỏng, thực phẩm hỏng. từ khu công nghiệp và công trường xây dựng (không tính đến rác thải xây dựng) Theo tin từ Sở Tài Nguyên Môi trường và Nhà đất lượng rác thải sinh hoạt bình quân một người tại Hà Nội thải ra đã tăng từ 0,44kg/ngày tới 0,8-1kg/ ngày.Như vậy tổng mức chất thải rắn trong sinh hoạt bị xả ra môi trường trong nội thành ước tính lên tới 500.000 tấn/năm. 1.2.1.4 Tác động của rác thải sinh hoạt đến môi trường và các mặt của đời sống * Thực trạng rác thải sinh hoạt tại phần lớn các đô thị ở Việt Nam. Hầu hết rác thải sinh hoạt tại các đô thị không được phân loại tại nguồn, chỉ thu gom chung rồi vận chuyển đến bãi chôn lấp. Việc tập trung rác thải sinh hoạt tại các đô thị cho đến nay vẫn chủ yếu là dồn đổ vào các bãi lộ thiên chưa có sự kiểm soát đầy đủ về kỹ thuật.Do đó ô nhiễm do rác thải gây ra: những nơi vứt rác bừa bãi sinh ra muỗi, ruồi nhặng là những sinh vật truyền nhuyễm sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người (sốt rét, sốt xuất huyết, bệnh viêm não…); rác làm thức ăn cho chuột, từ chuột dễ lây lan cho người các bệnh như dịch hạch, sốt có thể dẫn tới tử vong; rác gây mùi hôi thối khó chịu cho môi trường xung quanh… * Gây ô nhiễm môi trường đất: Quá trình đô thị hóa diễn ra một cách nhanh chóng và liên tục đã tạo ra những ảnh hưởng to lớn đối với quá trình sử dụng đất.Vấn đề ô nhiễm đất bao gồm: thoái hóa đất tự nhiên và đất canh tác (sa mạc hóa, xói mòn, axit hóa), nhiễm bẩn do công nghiệp và sinh hoạt( do bãi rác, khu công nghiệp ô nhiễm nghĩa địa * Gây ô nhiễm môi trường nước: Nguồn nước đô thị bao gồm nước bề mặt và nước ngầm, tuy nhiên hiện nay cả hai nguồn trên đều bị ô nhiễm trầm trọng.Theo thống kê chưa đầy đủ, mỗi ngày Hà Nội có khoảng 30.000 – 40.000 m3 nước thải, trong đó 75% nước thải bệnh viện bệnh phẩm được phóng thẳng vào các sông hồ, kênh mương từ các cửa cống nước thải. Có các số liệu sau: 26/31 bệnh viện, 364/400 cơ sở sản xuất ở Hà Nội không có hệ thống xử lý nước thải, 1200 m3 rác không được thu gom hàng ngày và nguồn nước thải dân cư vô cùng cẩu thả. Tại thành phố Hồ Chí Minh còn thê thảm hơn, khi có tới 118/142 vô tư xả nước thải bệnh viện vào môi trường, 3000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời. Nước thải trực tiếp vào các con sông, con mương thành phố dẫn tới tình trạng nước ở các con sông này bị ô nhiễm một cách nặng nề, như ở Hà Nội các dòng sông như Tô Lịch, sông Sét, sông Lừ, sông Kim Ngưu đều có màu đen, hôi thối, sông Nhuệ chịu ảnh hưởng nước thải của thành phố nên chứa nhiều các chất độc như hàm lượng phenol cao gấp 10 lần tiêu chuẩn nước sinh hoạt. Mức độ ô nhiễm tập trung tương đối cao ở phía Nam thành phố, đồng thời ở đây có nhiều nhà máy nước tập trung như Phương Mai, Hạ Đình, Pháp Vân, Hà Đông làm cho mực nước ngầm tụt sâu, tăng cường sự xuyên thấm nước ngầm bề mặt. * Gây ô nhiễm môi trường không khí Theo các nhà khoa học, hiện nay số nhu cầu ôxy hóa, ôxy hòa tan, chất NH4, NO2, NO3, hàm lượng chất rắn lơ lửng, dư lượng chì.. đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 10 đến 20 lần. Tác động tiêu cực đến sức khỏe con người Các độc tố nêu trên có thể gây ra các căn bệnh nguy hiểm như ung thư, viêm gan, thoái hóa giống nòi, viêm nhiễm đường hô hấp, vô sinh…Ví dụ điển hình là Trung Quốc, ở tại thành phố Bắc Kinh, 70 – 80% trường hợp bị ung thư là do môi trường ô nhiễm gây ra. Nếu cứ đà phát triển như hiện nay thì các đô thị lớn như Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh cũng sẽ bị ô nhiễm nặng nề như Bắc Kinh. Sơ đồ tóm tắt tác hại của rác thải sinh hoạt đối với đời sống con người Môi trường không khí Rác thải sinh hoạt Chất thải vô cơ Chất thải hữu cơ Chất thải nguy hại Nước mặt Nước ngầm Môi trường đất Người, động vật. 1.3 BÀI HỌC KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG NAM Á 1.3.1 Nhật bản Ở Nhật bản, người dân Nhật rất coi trọng bảo vệ môi trường, đặc biệt là vấn đề xử lý rác thải nên đã ban bố luật: "Xúc tiến sử dụng những tài nguyên tái chế" từ năm 1992, góp phàn làm tăng các sản phẩm tái chế. Sau đó, luật "Xúc tiến thu gom, phân loại, tái chế các loại bao bì" được thông qua năm 1997, đã nâng cao hiệu quả sử dụng những sản phẩm tái chế bằng cách định rõ trách nhiệm của các bên liên quan.Theo luật này người dân phải phân chia rác theo từng loại, hiện tại là 4 loại: rác cháy được, rác không cháy được, rác tái sinh gồm hai loại là: giấy catton hộp và plastic, vỏ lon, chai bia rượu... ngoài ra còn có loại rác cồng kềnh. Sau đó chính quyền địa phương sẽ đến thu gom rác theo từng loại, theo từng ngày nhất định rồi chuyển tới nhà máy xử lý rác.Việc tái chế bao bì và nhựa gặp rất nhiều trở ngại. Lý do là công suất tái chế trên toàn quốc mới đạt 50 triệu tấn năm. Nhật bản phải sử dụng 10% lượng dầu thô nhập khẩu để chế tạo ra 12 triệu tấn nhựa công nghiệp, chiếm 10% hàng nhựa trên thế giới. Rác thải nhựa được tái chế thành nguyên liệu chỉ chiếm 17%,trong đó 10% tái chế thành hạt nhựa, còn lại 7% dùng để phát điện hay mục đích khác.Tái chế phế thải xây dựng cũng làm đau đầu các nhà quản lý môi trường. Người ta phải thu gom vật liệu và bê tông phế thải từ các công trường xây dựng chuyển đền nhà máy chuyên tái chế thành cát và sắt thép.Chi phí cho việc này rất tốn kém, thậm chí còn cao hơn cả việc nhập khẩu nguyên liệu tương tự, nhưng không tái chế sẽ gây ô nhiễm môi trường.Đối với rác nhà bếp, 70% được tái chế thành phân bón hữu cơ, góp phần cải tạo đất, giảm bớt nhu cầu sản xuất và nhập khẩu phân bón.Chính quyền địa phương đôi khi còn tổ chức các chiến dịch xanh, sạch, đẹp phố phường nhàm nâng cao nhân thức của nhân dân, và tặng thưởng những cá nhân có thành tích xuất sắc.Chương trình này đã được đưa vào trường học và đã tỏ ra hiệu quả.Học sinh ngày từ cấp tiểu học đã được dạy về việc ý thức bảo vệ môi trường.Do đó ý thức bảo vệ môi trường của người dân Nhật quả thật là đáng để Việt nam học tập. 1.3.2 Singapo. Vấn đề bảo vệ môi trường được xã hội hoá thông qua hình thức giáo dục rất quy củ và bài bản: Các chương trình giáo dục về môi trường bao gồm từ tiểu học, trung học đến đại học.Thiếu nhi cũng tham gia vào các chuyến tham quan về bảo vệ thiên nhiên, làm quen với trang thiết bị xử lý và tái chế chất thải. Các trường học cũng tổ chức nhiều cuộc triển lãm để tuyên truyền về nhận thức môi trường và tái chế chất thải.Bộ Môi trường thường xuyên làm việc với các tổ chức xã hội để thực hiện những chiến dịch giáo dục tới tận các cộng đồng dân cư, tới công chức và khu vực tư nhân.Tất cả những biện pháp nêu trên làm cho quốc đảo này có một môi trường trong sạch.Thiết tưởng đây cũng là những bài học quý giá, cần nghiên cứu và học tập. 1.3.3 Một số nước trong khu vực Đông Nam Á (Đài Loan, Triều Tiên…) Kinh nghiệm cho thấy việc thu gom và xử lý chất thải sinh hoạt ở đô thị thông qua việc vận động các nguồn lực sẵn có của cộng đồng là cần thiết. Những nguồn lực đó thuộc về những người đại diện khác nhau (cộng đồng, tư nhân, chính thức, không chính thức…). Các cư dân, những người được sử dụng dịch vụ đô thị và phải trả thuế cho các dịch vị đó là những thành viên của cộng đồng có mối quan tâm trực tiếp đến hiệu quả của việc quản lý chất thải sinh hoạt đô thị.Nếu không chấp thuận việc quản lý chất thải sinh hoạt đô thị, họ có thể đưa ra các sáng kiến để hoặc thành lậo tổ chức của chính mình nhằm đẩy mạnh hình thức phân loại nguồn chất thải đô thị, quay vòng các hoạt động thu gom và xử lý chất thải.Các thành viên của cộng đồng có thể tạo được ảnh hưởng lớn hơn khi họ đứng trong một tổ chức nào đó, chứ không phải chỉ với tư cách một cá nhân. CHƯƠNG 2.HIỆN TRẠNG CÔNG TÁC THU GOM , XỬ LÝ RÁC THẢI VÀ MÔ HÌNH XÃ HỘI HOÁ CÔNG TÁC THU GOM XỬ LÝ RÁC THẢI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TỪ LIÊM. 2.1CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ THU GOM RÁC THẢI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TỪ LIÊM. 2.1.1 Khái niệm và mục đích của công tác thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt trên điạ bàn Huyện Từ Liêm. 2.1.1.1 Khái niệm chung: Theo Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam đã quy định rất cụ thể quyền lợi và nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức đối với công tác bảo vệ môi trường.Điều này được Đảng và Nhà nước ta nhấn mạnh trong nhiều văn bản khác. Nghị quyết 41- NQ/TW của Bộ Chính trị họp tháng 11 năm 2004 cũng đã nêu rõ “Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi cá nhân và mỗi người, là biểu hiện của nếp sống văn hoá, đạo đức, là tiêu chí quan trọng của xã hội văn minh và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hoà hợp với tự nhiên của cha ông ta”.Nói cách khác bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà là trách nhiệm của cả xã hội cả cộng đồng. Sở Giao thông công chính Thành phố Hà Nội: Xã hội hoá công tác Bảo vệ môi trường là việc vận động và tổ chức toàn xã hội và nhân dân tham gia một cách rộng rãi vào công tác Bảo vệ môi trường nhằm cải thiện môi trường và từng bước nâng cao mức hưởng thụ vật chất và tinh thần của người dân. Theo Tiến sĩ Trần Thanh Lâm (Tạp chí Bảo vệ Môi trường số 9/2003- Học Viện Hành Chính quốc gia): Xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường là quá trình chuyển hoá tạo lập cơ chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản lý mới trong hoạt động bảo vệ môi trường trên cơ sở đồng trách nhiệm, nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường để đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Qua đó thấy có rất nhiều những định nghĩa khác nhau nhưng ta có thể hiểu một cách khái quát: Xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường là đưa công tác bảo vệ môi trường trở thành công việc chung của xã hội; là huy động ở mức cao nhất sự tham gia của toàn xã hội vào công tác bảo vệ môi trường, xác lập cơ chế khuyến khích, các chế tài hành chính, hình sự và thực hiện một cách công bằng, hợp lý đối với tất cả cá đối tác thuộc Nhà nước cũng như tư nhân khi tham gia hoạt động bảo vệ môi trường, khuyến khích Nhà nước và Nhân dân cùng làm. 2.1.1.2 Mục đích của Xã hội hoá công tác thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. Nâng cao chất lượng môi trường đồng thời giáo dục ý thức bảo vệ môi trường của người dân. Những chiến lược chính sách về môi trường của nước ta luôn nhấn mạnh việc bảo vệ môi trường là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân. Có thể nói bảo vệ môi trường là trách nhiệm chung của cả cộng đồng không riêng gì một cá nhân hay đoàn thể nào.Muốn cho công tác bảo vệ môi trường đạt được hiệu quả cao thì điều cốt yếu là phải làm cho mọi người nhận thức được tầm quan trọng của môi trường và có ý thức bảo vệ môi trường. Giáo dục và xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường đóng một vai trò chủ đạo , nền tảng trong công tác bảo vệ môi trường.Thực hiện xã hội hoá bảo vệ môi trường chính là nhằm nâng cao trách nhiệm của toàn cộng đồng. Vì thế để đảm bảo đạt được hiệu quả cao trong công tác thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt đòi hỏi Nhà nước cần có chính sách khuyến khích người dân tham gia công tác này tích cực nhằm nâng cao chất lượng môi trường. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế tham gia giải quyết các vấn đề liên quan đến vệ sinh môi trường và đặc biệt là công tác thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn. Công tác xã hội hoá bảo vệ môi trường nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong các vấn đề có liên quan đến môi trường.Nhận thấy rõ tầm quan trọng, quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với công tác bảo vệ môi trường sẽ tạo ra động lực khuyến khích các tổ chức, các thành phần kinh tế tham gia một cách tích cực nhất nhằm đạt được hiệu quả cao trong việc giải qyuết các vấn đề môi trường. Họ có thể tham gia dưới những hình thức như: tham gia giữ gìn vệ sinh môi trường nhằm cải thiện tình hình môi trường tại khu dân cư; thành lập các công ty, hợp tác xã, tổ dân lập…đảm bảo khâu thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt Tạo công ăn việc làm và thu nhập chính đáng cho một bộ phận dân cư địa phương. Công tác xã hội hó bảo vệ môi trường nói chung và trong lĩnh vự thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt nói riêng tạo ra động lực khuyến khíc tổ chức, cá nhân, hay các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp vào công tác này.Các công ty, các hợp tác xã hày cá tổ cung cấp dịch vụ vệ sinh môi trường… sẽ hình thành và thu hút một lực lượng lao động, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao mức sống và thu nhập cho một bộ phận dân cư địa phương. Do đó góp phần giải quyết công ăn việc làm, môi trong những vấn đề khá bức xúc trong giai đoạn hiện nay. Từng bước giảm dần sự bao cấp của Nhà nước, tăng nguồn đóng góp của người dân, huy động các nguồn vốn hiện có trong dân. Trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay thì mô hình Nhà nước bao cấp không còn phù hợp với sự phát triển kinh tế hiện nay. Một trong những vấn đề quan trọng là giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Do Ngân sách Nhà nước còn hạn chế, phải san sẻ cho nhiều lĩnh vực nên đầu tư cho các vấn đề môi trương chưa thật sự nhiều và thoả đáng. Vì thế việc huy động nguồn vốn đóng góp từ cộng đồng nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, không như thời kỳ bao cấp trước đây Nhà nước phải tự giải quyết tất cả mọi viêc thì trong giai đoạn hiện nay đã đến lúc chúng ta phải chuyển sang cơ chế người trực tiếp sử dụng và hưởng dịch vụ phải chi trả cho người cung cấp. Do đó sẽ góp phần giảm nhẹ đi gánh nặng chi ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực môi trường, đồng thời khích thích các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh trong lĩnh vực mới mẻ này. Tạo sức mạnh tổng hợp cho lĩnh vực quản lý rác thải. Công tác xã hội hoá công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sẽ huy động được sụ tham gia của đông đảo quần chúng, của các tổ chức kinh tế, chính trị và xã hội dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của Nhà nước sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp để thực hiện mục tiêu trong quản lý rác thải sinh hoạt. Thực tế bất cứ chủ trương hay quyết định nào của Nhà nước mà được sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng Nhân dân thì đó là sự thành công lớn nhất. 2.1.1.3 Nội dung của công tác xã hội hoá thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. Tuyên truyền giáo dục ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường. Công tác xã hội hoá trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt chính là việc đưa công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt trở thành công việc chung của toàn xã hội.Việc giữ gìn vệ sinh môi trường cần phải là một thói quen ngày từ nhỏ, việc giáo dục ý thức mỗi cá nhân cần đưa vào ngay từ các bậc học, từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường mỗi cá nhân cần nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường. Phát động phong trào thi đua trong lĩnh vực thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt. - Phát động các phong trào thi đua trên phạm vi toàn quốc, có thể gắn với các đợt phát động đặc biệt, vào các ngày lễ, ngày chủ nhật tổng vệ sinh. - Lựa chọn những hình thức phát động phong trào sao cho phù hợp với trình độ, khả năng tham gia của từng loại đối tượng như tổ dân phố, cơ quan, trường học, cơ sở sản xuất, người dân. - Xây dựng các tiêu chí đánh gía thi đua và lập bảng khen thưởng cho các đợt phát động phong trào.Khen thưởng và khiển trách công bằng. - Xây dựng các mô hình thí điểm, các điển hình tiên tiến về công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt trên điạ bàn các tổ dân phố từng địa phương cho phù hợp và đạt được hiệu quả cao. Biện pháp thực hiện xã hội hoá công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt. - Cần tăng cường quyền lực cùa cộng đồng: là việc phát triển quyền lực của cộng đồng. Phần lớn các hoạt động sản xuất và sang tạo của cá nhân hay nhóm công dân đều thực hiện trong cộng đồng.Cộng đồng và nhóm công dân tạo điều kiện dễ dàng nhất cho mọi người tiến hành những việc làm có ích cho xã hội cũng như biểu thị những quan tâm của mình.Khi họ có đủ quyền lực, kiến thức cộng đồng sẽ có thể góp phần quyết định những việc làm liên quan đến họ và giữ một vai trò không thể thiếu được trong việc xây dựng một xã hội bền vững.Những hành động cộng đồng thường thông qua chính quyền địa phương đại diện cho họ.Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm trông coi, chăm sóc môi trường về tất cả mọi phương diện của đời sống.Vì thế, cộng đồng có thể hợp tác cùng chính quyền địa phương trong việc thúc đẩy công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt. - Thành lập các nhóm hành động: các nhóm hành động trong cộng đồng cho môi trường và phát triển bền vững khởi thuỷ do nhiều nguyên nhân khác nhau. Thông thường là do xuất phát từ ý muốn ngăn chặn những việc làm có ảnh hưởng xấu đến cộng đồng.Do đó để đáp ứng ngày càng tốt hơn cho công tác bảo vệ môi trường nhất là trong các vấn đề liên quan đến rác thải sinh hoạt t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33458.doc