Hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hồng Hà

Tài liệu Hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hồng Hà: ... Ebook Hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hồng Hà

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hồng Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Kỹ năng thành công trong hoạt động quản lý Tài chính là khả năng đạt được sự cân bằng hợp lý giữa lợi nhuận và rủi ro. Dĩ nhiên một quy tắc thông thường là lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Hoạt động tín dụng với vai trò là hoạt động kinh doanh nòng cốt trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ của các Ngân hàng thương mại cũng không nằm ngoài quy tắc đó. Để đạt được mức lợi nhuận mong muốn, các Ngân hàng bắt buộc phải chấp nhận song hành cùng rủi ro. Về bản chất, rủi ro là tồn tại khách quan, vì vậy chấp nhận và đối đầu với rủi ro là một điều tất yếu, không tránh khỏi nhưng vấn đề đặt ra ở đây không phải có hay không có rủi ro, mà ở chỗ phải phòng ngừa để giảm thiểu rủi ro ở mức chấp nhận được. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của một Ngân hàng sẽ tùy thuộc vào năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng đó. Vì vậy việc tìm ra các giải pháp nhằm hạn chế phòng ngừa rủi ro đang là yêu cầu thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển bền vững của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hồng Hà là một trong những đơn vị dẫn đầu về thành tích kinh doanh trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam. Trong những năm qua, hoạt động tín dụng của Chi nhánh luôn chiếm tỷ trọng đến 90% trong danh mục tài sản có và là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho Ngân hàng. Song, cũng chính vì vậy mà Ngân hàng phải chấp nhận nhiều rủi ro nhất. Việc tập trung quá nhiều vào hoạt động tín dụng khiến Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong công tác quản trị rủi ro. Trong thời gian tới, trước xu thế tự do, toàn cầu hóa kinh tế và quốc tế hóa các luồng tài chính, hoạt động kinh doanh sẽ trở nên phức tạp hơn, áp lực cạnh tranh giữa các Ngân hàng lớn hơn và cùng với nó, mức độ rủi ro cũng tăng lên, thực tế đó đòi hỏi Chi nhánh phải có những cải cách mạnh mẽ và những giải pháp thiết thực nhằm giảm thiểu rủi ro tới mức thấp nhất. Xác định đây là một trong những vấn đề then chốt cho sự tồn tại và phát triển bền vững của Chi nhánh, trong thời gian thực tập tại Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà, trên cơ sở những nghiên cứu thực tế, tôi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hồng Hà” làm chuyên đề thực tập của mình. Kết cấu của Chuyên đề bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hạn chế rủi ro tín dụng tại NHTM Chương 2: Thực trạng về công tác hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà Xin chân thành cảm ơn các Anh/Chị phòng Kế hoạch kinh doanh, Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà, và đặc biệt là PGS.TS Phan Thu Hà đã tận tình hướng dẫn và giúp em hoàn thành tốt chuyên đề này! Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại 1.1.Tổng quan về Ngân hàng Thương mại 1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng Thương mại Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Có nhiều cách để định nghĩa về Ngân hàng thương mại, trong đó chủ yếu thường dựa trên mục đích hoạt động kinh doanh của nó trên thị trường tài chính và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động. Theo tinh thần của Luật các Tổ chức tín dụng (công bố ngày 26/12/1997) và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2004): Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Tại Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi, cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một Ngân hàng. Như vậy chúng ta có thể hiểu về NHTM là: Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh về tiền tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan. Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính trung gian cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của Ngân hàng dẫn đến việc chúng còn được gọi là các “ bách hoá tài chính” (Financial department stores- a full sercice Financial institution). 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn: Nghiệp vụ huy động vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân Ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, Ngân hàng thương mại được phép sử dụng những công cụ và biện pháp cần thiết mà pháp luật cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội làm nguồn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế. Vốn huy động được xem là nguồn vốn chủ yếu, là cơ sở quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thực chất đó là tài sản bằng tiền của các chủ sở hữu mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng nhưng phải có nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng yêu cầu. Theo Luật các tổ chức tín dụng, Ngân hàng được huy động vốn dưới các hình thức sau: Nhận tiền gửi của các tổ chức, các nhân dưới các hình thức như: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác Phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác trong và ngoài nước Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước 1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn Nghiệp vụ tín dụng: Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất, quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của Ngân hàng thương mại. Đây là nghiệp vụ cấu thành bộ phận chủ yếu và quan trọng của tài sản Có của Ngân hàng. Hoạt động tín dụng là quan hệ chuyển giao quyền sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và cho vay trên nguyên tắc có hoàn trả. Quan hệ tín dụng dựa trên nền tảng của sự tin tưởng nhau giữa các chủ thể. Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức: cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, bảo lãnh và cho thuê tài chính. Trong đó cho vay là hình thức chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Nghiệp vụ đầu tư: Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cho vay, nó mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể cho các NHTM, đồng thời giúp ngân hàng phân tán rủi ro. Trong nghiệp vụ này, NHTM sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới hình thức như mua chứng khoán ( cổ phiếu công ty, trái phiếu chính phủ...) Nghiệp vụ ngân quỹ: Bao gồm dự trữ tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương và tiền gửi tại các Ngân hàng Thương mại khác Nghiệp vụ Có khác: Là các khoản mục còn lại của Tài sản Có trong đó chủ yếu là tài sản lưu động nhằm xây dựng trụ sở, phòng giao dịch, trang thiết bị... 1.1.2.3. Các hoạt động khác Bên cạnh nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp vụ cấp tín dụng là hai hoạt động quan trọng nhất, các Ngân hàng hiện nay còn tiến hành cung cấp các dịch vụ sau: Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng bạc, đá quý Dịch vụ thanh toán thu hộ chi hộ cho khách hàng trong và ngoài nước: chuyển tiền, thẻ thanh toán, séc... tư vấn tài chính Nghiệp vụ ngoại bảng: option, forward, future... 1.2. Hạn chế rủi ro tín dụng tại NHTM 1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng Rủi ro là một điều rất phổ biến và gần như mang tính tất yếu đối với mọi hiện tượng cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống kinh tế, xã hội của con người. Đó là khả năng xảy ra những biến cố không lường trước và thường gây ra hậu quả xấu. Hoạt động kinh doanh Ngân hàng là một trong những lĩnh vực mang lại nhiều lợi nhuận, và do vậy nó cũng là lĩnh vực hàm chứa nhiều rủi ro. Thực tiễn hoạt động kinh doanh của các NHTM đã cho thấy, rủi ro đối với NHTM trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản..., trong đó đặc biệt và thường xuyên là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng có quan hệ mật thiết với các rủi ro còn lại, và được coi là một trong những loại rủi ro lâu đời nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây ra hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy rủi ro tín dụng không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của các NHTM trong công tác quản trị ngân hàng, mà còn thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả. Rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết về rủi ro tín dụng đã ra đời và cùng với nó là nhiều khái niệm về rủi ro tín dụng đã được đưa ra, sau đây là một vài khái niệm mà chúng ta có thể xem xét: Theo tài liệu “Financial Institution Managerment- A modern pespective” của A.Saunders và H. Langer thì: Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự tính mang lại từ các khoản vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ cả về số lượng và thời hạn. Theo Joel Bessis trong “ Risk managerment in banking”: Rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả được nợ hoặc sự giảm sút chất lượng của những khoản vay này. Theo Timothy W. Koch trong “Bank managerment”: Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi theo thỏa thuận. Đó là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán chậm trễ. Theo Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng được ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: “ Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng được coi là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết” Như vậy, nếu coi tín dụng là việc ngân hàng “tin tưởng” mà đưa cho khách hàng sử dụng giá trị hiện tại với mong muốn nhận được giá trị tương lai trong một thời gian nhất định thì rủi ro tín dụng chính là khả năng mà mong muốn đó không được thực hiện, hay nói cách khác đó là khả năng xảy ra sự khác biệt không mong đợi giữa kết quả thực tế và kết quả kỳ vọng theo đúng kế hoạch- đúng hạn nhận được đầy đủ gốc và lãi. Một điểm cần lưu ý rằng, trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng, khi ngân hàng thực hiện một nghiệp vụ cấp tín dụng thì đó mới chỉ là một giao dịch chưa hoàn thành. Giao dịch tín dụng chỉ được xem là hoàn thành khi nào ngân hàng thu hồi về được khoản tín dụng bao gồm cả gốc và lãi. Như vậy, từ lúc giải ngân đến khi thu hồi vốn về cả gốc và lãi, ngân hàng không biết chắc giao dịch đó có hoàn thành hay không, nó có khả năng hoàn thành cũng có khả năng không hoàn thành. Do đó rủi ro tín dụng thể hiện ở khả năng hay xác suất hoàn thành giao dịch tín dụng đó. Có thể nói, tất cả các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng bao gồm cho vay ngắn hạn, cho vay trung- dài hạn, chiết khấu chứng từ có giá, cho thuê tài chính...đều chứa đựng rủi ro tín dụng. Lúc quyết định cấp tín dụng, ngân hàng chưa biết chắc được khả năng có thu hồi được khoản tín dụng ấy hay không, đơn giản là vì lúc đó việc thu hồi khoản tín dụng chưa xảy ra. 1.2.2 Sự cần thiết phải hạn chế rủi ro tín dụng Rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng là thực trạng luôn luôn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Quy tắc đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận đã chỉ ra rằng: muốn có lợi nhuận cao thì đòi hỏi cũng phải chấp nhận một mức rủi ro cao. Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng vậy, khi tiến hành cho vay, ngân hàng biết rằng sẽ có rủi ro. Vậy tại sao ngân hàng lại tiến hành cho vay để rồi lại phải hạn chế rủi ro? Mấu chốt của vấn đề nằm ở chỗ: rủi ro là một biến cố không chắc chắn, có thể xảy ra hoặc không xảy ra (Rủi ro chỉ phát sinh khi có một sự không chắc chắn về mất mát sẽ xảy ra, vì nếu xác suất là 0 hoặc 1 thì không có rủi ro). Như vậy, nếu biết chắc rằng cho vay sẽ mất vốn thì ngân hàng đã không cho vay. Hơn nữa, do rủi ro vừa tiềm ẩn thiệt hại vừa tiềm ẩn lợi nhuận. Ngân hàng cho vay là kỳ vọng tìm kiếm lợi nhuận. Nếu biết chắc rằng cho vay không có lợi nhuận, ngân hàng đã không cho vay. Từ những phân tích trên cho thấy, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn có thể bằng những biện pháp tích cực tác động vào tính “không chắc chắn” của rủi ro để ngăn chặn và hạn chế xác suất rủi ro xảy ra nhằm đạt được sự cân bằng lý tưởng giữa lợi tức và rủi ro, giúp tối đa hóa lợi nhuận và tối đa hóa giá trị cho cổ đông. Mặt khác, nếu xem xét trên góc độ những ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói riêng và sự phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính và toàn bộ nền kinh tế nói chung thì những hậu quả, tổn thất mà rủi ro tín dụng gây ra là vô cùng to lớn, thậm chí có thể dẫn đến phá sản ngân hàng, làm khuynh đảo toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy hạn chế rủi ro tín dụng không chỉ là một trong những mắt xích then chốt quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống các NHTM, mà còn là một vấn đề mang tính “thời sự” trên các diễn đàn kinh tế. Những phân tích dưới đây về tác động của rủi ro tín dụng sẽ cho chúng ta thấy rõ điều này: Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với hoạt động của Ngân hàng: Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng: Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu hồi được các khoản tín dụng đã cấp và lãi cho vay, điều này làm cho nợ quá hạn tăng lên, nợ khó đòi gia tăng, chi phí gia tăng do phải trích lập dự phòng rủi ro để bù đắp tổn thất. Mặt khác, việc không thu hồi được vốn và lãi khi đến hạn khiến ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi, vòng quay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả. Hơn nữa để bù đắp được một khoản vay bị mất vốn, ngân hàng phải thực hiện nhiều khoản cho vay mới để đủ thu nhập thay thế cho vốn gốc đã mất. Kết quả dẫn đến là lợi nhuận của ngân hàng do đó mà giảm sút đáng kể. Rủi ro tín dụng làm ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng: Hai hoạt động cơ bản của ngân hàng là nhận tiền gửi và cho vay, trong đó hoạt động cho vay được tiến hành trên cơ sở số tiền huy động được từ tiền gửi của khách hàng. Nếu một trong các khoản tín dụng gặp rủi ro không thu được nợ sẽ dẫn đến việc ngân hàng gặp khó khăn trong việc thanh toán khi đến hạn rút tiền của khách hàng. Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng và có thể dẫn đến khả năng phá sản: Một ngân hàng có mức độ rủi ro tín dụng cao thì ngân hàng đó thường đứng trước nguy cơ mất uy tín và vị thế của mình trên thị trường. Mọi người sẽ không có lòng tin để gửi tiền vào ngân hàng khi mà tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng đó vượt quá mức cho phép, chất lượng tín dụng không cao và thường xuyên xảy ra thất thoát vốn do khách hàng không trả được nợ. Hoạt động huy động vốn và các dịch vụ khác của ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn, hiệu quả hoạt động kinh doanh suy giảm, dẫn tới thu nhập giảm, giảm lương và ngân hàng lại bị cuốn vào vòng luẩn quẩn là cán bộ nghỉ việc nhiều, thiếu cán bộ có năng lực trong khi nguồn nhân lực có chất lượng cao lại rất quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng, dẫn đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng sẽ bị suy yếu, uy tín suy giảm, hoạt động kinh doanh đi xuống. Mặt khác tỷ lệ nợ quá hạn cao, vượt quá giới hạn an toàn theo quy định quốc tế, không thực hiện đúng các cam kết mở L/C, uy tín của NHTM trong trên thị trường quốc tế cũng sẽ bị giảm mạnh. Hơn nữa, khi uy tín của ngân hàng giảm sút, có thể gây ra phản ứng dây chuyền trong dân chúng, khách hàng sẽ đổ xô đến ngân hàng để rút tiền gửi hàng loạt và đến khi ngân hàng không đủ nguồn vốn để chi trả, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán thậm chí là đẩy ngân hàng đến tình trạng phá sản. Sơ đồ 1.1: Các tác động chính của rủi ro tín dụng đến hoạt động của ngân hàng Khả năng thanh toán suy giảm, hiệu quả kinh doanh giảm, thất thoát vốn, giảm uy tín, phá sản Rủi ro tín dụng Rủi ro đọng vốn Rủi ro mất vốn Ảnh hưởng đến KH sử dụng vốn Ả/h đến khả năng thanh khoản Tăng chi phí Vòng quay vốn giảm Tỷ lệ SL giảm NQH và nợ khó đòi Chi giám sát CF pháp lý Vốn TD giảm DT chậm lại hoặc mất Mất gốc Thực hiện dự trữ Chú thích: Rủi ro đọng vốn: Đó là rủi ro khách hàng sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng bao gồm cả vốn gốc và/hoặc lãi vay. Sai hẹn này là do khách hàng chậm thanh toán Rủi ro mất vốn: Đó là rủi ro khi khách hàng sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng bao gồm vốn gốc và/hoặc lãi vay. Sai hẹn này là do khách hàng không thanh toán. Ảnh hưởng của Rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế: Ngân hàng là một trong những định chế tài chính đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông. Khi một ngân hàng gặp rủi ro tín dụng sẽ làm giảm vòng quay sử dụng vốn của ngân hàng, từ đó giảm khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế. Mặt khác do tính dễ lây lan rủi ro giữa các ngân hàng với nhau khiến cho rủi ro tín dụng mà một ngân hàng gặp phải có thể gây ra tác động xấu tới toàn bộ hệ thống tài chính của một quốc gia. Trong mối tương quan ràng buộc tất yếu và ngày càng chặt chẽ giữa các trung gian tài chính, rủi ro tín dụng có thể châm ngòi cho một hiệu ứng đổ vỡ dây chuyền khiến cho toàn bộ nền kinh tế bị khủng hoảng nghiêm trọng, điển hình như ở Anbani, một số nước Đông Nam Á hay Argentina trong thời gian qua... Không những thế, rủi ro tín dụng còn ảnh hưởng tới nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước liên quan. Ngoài ra, rủi ro tín dụng có thể gây hậu quả tiêu cực tới mọi đối tượng trong xã hội, làm giảm lòng tin của công chúng vào sự vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, từ đó gây ra những tác động tiêu cực và làm giảm hiệu quả các công cụ, chính sách tiền tệ của Chính phủ. Nói tóm lại, những hậu quả, tổn thất nặng nề có thể gây ra bởi rủi ro tín dụng là vô cùng to lớn, nó cho thấy cần thiết phải có các hoạt động quản trị, đo lường và kiểm soát rủi ro...Vì vậy, việc phòng ngừa, hạn chế và quản lý rủi ro là nhiệm vụ thiết yếu không chỉ của riêng đối với các NHTM nói riêng mà còn của tất cả các chủ thể liên quan nói chung. 1.2.3. Hạn chế rủi ro tín dụng 1.2.3.1. Phân loại rủi ro tín dụng Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và người đi vay. Những người đi vay sử dụng tiền trong một thời gian, không gian cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định, mà ta gọi là môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan: - Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định: môi trường kinh tế bị ảnh hưởng bởi: chu kỳ kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, tỷ giá...ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng và của ngân hàng - Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi: Thiếu đồng bộ trong cơ chế chính sách, luật pháp thường xuyên thay đổi... - Rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, bão lụt, hỏa hoạn, động đất... Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan: Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay: - Rủi ro đạo đức: Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay. - Rủi ro do năng lực trình độ của người điều hành, khả năng quản lý kinh doanh kém - Rủi ro do khả năng tài chính của người vay: tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch, không đủ khả năng trả nợ... Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay: - Rủi ro từ khâu chính sách: Do thiếu đồng bộ, nhất quán trong cơ chế chính sách cấp tín dụng, sự lỏng lẻo, bất cập trong các quy trình nghiệp vụ tín dụng, thiếu các tiêu chuẩn rõ ràng hoặc cấp tín dụng quá tập trung - Rủi ro từ khâu cán bộ: do bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ - Rủi ro ở khâu kiểm tra, giám sát: Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ, thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay - Rủi ro ở khâu thông tin: do thiếu thông tin về kinh tế, về khách hàng và các thông tin khác có liên quan 1.2.3.2 Xác lập mục tiêu và thiết lập chính sách tín dụng Tín dụng là hoạt động chính yếu của ngân hàng. Nếu quản lý tốt, tín dụng góp phần đáng kể trong việc tạo ra lợi nhuận và làm gia tăng giá trị ngân hàng. Ngược lại, nếu quản lý kém tín dụng có thể gây ra tổn thất lớn và làm giảm giá trị của ngân hàng. Một trong những mục tiêu quan trọng của quản lý tín dụng là giảm tối đa rủi ro tín dụng. Muốn vậy, ngân hàng cần phải có các phương thức quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả. Xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý được xem là một giải pháp hiệu quả giúp giảm thiểu rủi ro tín dụng, nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng. Chính sách tín dụng là hệ thống các quan điểm và công cụ do Hội đồng tín dụng đề ra và thực thi khi xem xét cấp tín dụng cho khách hàng nhằm mục đích quản lý tốt dư nợ và rủi ro tín dụng. Chính sách tín dụng cung cấp cho cán bộ tín dụng và nhà quản lý một khung chỉ dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng danh mục đầu tư tín dụng của ngân hàng. Thông qua đó, hoạt động tín dụng được điều tiết từ định hướng phát triển, chính sách ứng xử đối với khách hàng, các bước thực hiện nghiệp vụ tín dụng...Đối với cán bộ tín dụng, chính sách tín dụng giúp cho họ biết được cần phải làm các bước như thế nào khi thực hiện cấp một khoản tín dụng, đồng thời biết được trách nhiệm, quyền hạn của mình đến đâu. Đối với ngân hàng, chính sách tín dụng giúp ngân hàng xây dựng được một danh mục tín dụng tối ưu, làm tăng khả năng sinh lời và kiểm soát được những tiềm ẩn rủi ro. Trong Chính sách tín dụng, Ngân hàng sẽ quy định cụ thể về đối tượng khách hàng vay, về phương thức cho vay, cách xác định mức tiền cho vay, lãi suất cho vay và bảo đảm tiền vay. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của lãi suất cho vay và bảo đảm tiền vay. Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay là một yếu tố quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Việc quyết định lãi suất cho vay sẽ phải dựa trên các thông số về mức sinh lời kỳ vọng của ngân hàng, rủi ro tín dụng của khoản vay và tỷ lệ an toàn vốn. Lãi suất cho vay phải bảo đảm bù đắp được các chi phí như chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động, chi phí dự phòng rủi ro, chi phí thanh khoản...và đảm bảo khả năng sinh lợi. Chính sách về lãi suất cho vay của một ngân hàng sẽ góp phần quan trọng tới công tác hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Đối với mỗi đối tượng khách hàng có mức độ rủi ro khác nhau, ngân hàng sẽ áp dụng một mức lãi suất cho vay khác nhau.Ví dụ, đối với những khách hàng có mức rủi ro thấp, ngân hàng có thể có những ưu đãi về lãi suất, và ngược lại, sẽ áp dụng mức lãi suất cao đối với những khách hàng có tiềm ẩn rủi ro cao. Về bảo đảm tín dụng: Bảo đảm tín dụng hay còn gọi là bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Các hình thức bảo đảm tín dụng theo quy định bao gồm: Thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, bảo đảm bằng các tài sản hình thành từ vốn vay và bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh của bên thứ ba. Ngân hàng cần có những quy định cụ thể về danh mục các tài sản đảm bảo, điều kiện đối với tài sản đảm bảo, phạm vi bảo đảm...Về mức cho vay so với giá trị đảm bảo, thì tùy từng trường hợp cụ thể, ngân hàng tự tính toán và quyết định mức cho vay so với tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, giá trị đảm bảo phải đủ bù đắp rủi ro, nghía là ngân hàng có thể thu được nợ gốc, nợ lãi và các chi phí khác từ việc xử lý tài sản đảm bảo. Như vậy, công tác hạn chế rủi ro tín dụng sẽ được quyết định trước hết bởi chính sách tín dụng. Vì vậy, việc xây dựng một chính sách tín dụng phù hợp là rất quan trọng. Khi xây dựng Chính sách tín dụng, Ngân hàng có thể xây dựng theo hai hướng: thắt chặt hoặc mở rộng và được thực hiện thông qua các công cụ như lãi suất, các điều kiện và tiêu chuẩn xét duyệt cấp tín dụng. Sơ đồ 1.2: Trạng thái của chính sách tín dụng Chính sách tín dụng CSTD thắt chặt CSTD mở rộng Các điều kiện cấp tín dụng chặt chẽ (Giá trị cho vay so với TSĐB thấp, tỷ lệ tham gia vốn NH cho vay so với nhu cầu KH thấp Các điều kiện cấp tín dụng (giá trị cho vay so với TSĐB cao, tỷ lệ tham gia vốn NH so với nhu cầu KH cao...) Quy trình đánh giá xét duyệt kỹ lưỡng và ở mức độ khó khăn Lãi suất cho vay ở mức cao Quy trình đánh giá, xét duyệt nhanh chóng và ở mức độ dễ dàng Lãi suất cho vay ở mức thấp và vừa phải Tùy theo mục tiêu quản lý của Ngân hàng và trên cơ sở tình hình thực tế của nền kinh tế, Ngân hàng có thể xây dựng và điều tiết chính sách tín dụng theo hai hướng thắt chặt hoặc mở rộng một cách linh hoạt và hiệu quả nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng, đồng thời tối đa hóa được lợi nhuận. Chính sách tín dụng mở rộng thích hợp và nên được áp dụng trong hoàn cảnh nền kinh tế tăng trưởng và công tác quản lý tín dụng của ngân hàng được đảm bảo. Ngược lại, chính sách tín dụng thắt chặt thích hợp và nên được áp dụng trong hoàn cảnh ngân hàng quản lý tín dụng kém hiệu quả hoặc khi nền kinh tế có dấu hiệu chựng lại mở đầu cho thời kỳ suy thoái. Mặt khác, chính sách tín dụng của ngân hàng phải gắn bó chặt chẽ với chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Một số biểu hiện của chính sách tín dụng kém hiệu quả: - Sự lựa chọn khách hàng không đúng với cấp độ rủi ro của họ - Thiếu kế hoạch rõ ràng để thanh lý các khoản tín dụng xấu - Tỷ lệ cho vay nội bộ cao - Cho vay hỗ trợ các mục đích đầu cơ như chứng khoán, bất động sản... - ... Xây dựng các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng Các dấu hiệu tài chính: Nhóm chỉ tiêu thanh khoản: Hệ số thanh toán ngắn hạn: Tài sản có ngắn hạn _______________________________ x 100% Tài sản nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn đến hạn Tỷ số này được dùng để đánh giá khả năng thanh toán chung của công ty. Một tỷ lệ quá cao có thể dẫn đến những nhận định sau đây về công ty: quá nhiều tiền nhàn rỗi; quá nhiều các khoản phải thu; quá nhiều hàng tồn kho. Một tỷ lệ nhỏ hơn 1 có thể cho ta những nhận định rằng công ty: trả chậm các nhà cung ứng quá nhiều; dùng các khoản vay ngắn hạn để mua tài sản cố định; dùng các khoản vay ngắn hạn để trả các khoản nợ thay vì dùng lãi trong hoạt động kinh doanh để chi trả. Một xu hướng tăng lên của hệ số này cũng cần được kiểm tra kỹ vì có thể đó là kết quả của một số bất lợi: Doanh số bán hàng giảm; sự tồn đọng hàng tồn kho do việc lập kế hoạch sản xuất yếu kém hoặc yếu kém trong việc kiểm soát hàng tồn kho, hàng tồn kho lỗi thời, chậm trong việc thu hồi công nợ... Hệ số thanh toán nhanh: Tài sản có tính lỏng cao ________________________________ x 100% Tài sản nợ ngắn hạn Đây là chỉ số đánh giá khả năng thanh toán nhanh., được tính giữa các tài sản Có có tính lỏng cao (như tiền mặt và tiền gửi, các khoản phải thu và chứng khoán có khả năng bán ngay) với tài sản Nợ ngắn hạn. Do đó, hệ số thanh toán nhanh có thể kiểm tra tài sản chặt chẽ hơn so với hệ số thanh toán ngắn hạn. Như vậy các chỉ số trên nếu thấp và suy giảm sẽ phản ánh những dấu hiệu của rủi ro tín dụng. Nhóm chỉ tiêu sinh lời: Mức sinh lời trên tổng vốn sử dụng ( Mức sinh lời trên tài sản ROA): Lợi nhuận/lỗ hoạt động ______________________________________ x 100% Bình quân tổng vốn sử dụng đầu kỳ và cuối kỳ Mức sính lời trên vốn chủ sở hữu (ROE): Lợi nhuận sau thuế _________________________________________________________ x 100% Bình quân vốn chủ sở hữu đầu kỳ và cuối kỳ -> Các hệ số này phản ánh khả năng sinh lợi cũng có thể gọi là hiệu quả đầu tư của dựa án hoặc phương án kinh doanh, do đó phản ánh khả năng trả nợ và lãi của khách hàng. Các chỉ tiêu này thấp hoặc suy giảm là một trong những dấu hiệu cho thấy rủi ro tín dụng. Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy tài chính( phản ánh cơ cấu vốn ): Hệ số nợ: Tài sản nợ ____________________________ x 100% Vốn chủ sở hữu Hệ số thích ứng dài hạn của tài sản cố định: Tài sản cố định _______________________________________ x 100% Vốn chủ sở hữu + Nợ dài hạn ->Các tỷ số này đo lường mức độ sử dụng nợ để tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của khách hàng, cho thấy quan hệ đối ứng giữa vốn của khách hàng và vốn vay của ngân hàng. Đứng trên góc độ ngân hàng, tỷ số này chỉ nên biến động từ 0 đến 1. Nếu bằng hoặc vượt quá 1, cho thấy doanh nghiệp đã quá lệ thuộc vào vốn vay và như vậy rủi ro của doanh nghiệp dồn hết cho ngân hàng gánh chịu Sơ đồ 1.3: Các dấu hiệu tài chính nhận biết rủi ro tín dụng Các chỉ số thanh khoản cho thấy dấu hiệu suy yếu Các vòng quay hoạt động thể hiện dấu hiệu suy yếu Các chỉ số khả năng sinh lời cho thấy dấu hiệu suy yếu Cơ cấu vốn không hợp lý Các dấu hiệu phi tài chính: Các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý với khách hàng: + Có sự thay đổi về cơ cấu nhân sự trong hệ thống quản trị + Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống điều hành + Thuyên chuyển nhân viên quá thường xuyên + Tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình quản lý + Ít kinh nghiệm, xuất hiện nhiều hành động nhất thời + Chi phí quản lý bất hợp pháp + Quản lý có tính gia đình + Tình hình sử dụng tài khoản, mức độ vay thường xuyên gia tăng + Sử dụng vốn sai mục đích + Khách hàng sử dụng nhiều khoản vay ngắn hạn để tài trợ cho các hoạt động phát triển dài hạn + Yêu cầu gia hạn nợ liên tục + Tài sản thế chấp không đủ tiêu chuẩn + Chậm thanh toán nợ gốc và lãi + ... Các dấu hiệu thuộc về vấn đề kỹ thuật và thương mại: + Khách hàng gặp khó khăn trong phát triển sản phẩm mới hoặc không có sản phẩm thay thế + Các sản phẩm của khách hàng có tính thời vụ cao + Có các biểu hiện cắt giảm chi phí + Những thay đổi về chính sách của Nhà nước + Thay đổi trên thị trường về lãi suất, tỷ giá, mất khách hàng lớn, vấn đề thị hiếu... + ... Các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính: + Sự gia tăng tỷ lệ không cấn đối nợ + Chuẩn bị số liệu tài chính không đủ, chậm chế hay tr._.ì hoãn nộp báo cáo tài chính + Khả năng tiền mặt giảm + Phải thu tăng nhanh và thời hạn thanh toán nợ kéo dài + Kết quả kinh doanh thua lỗ + Cố tình làm đẹp bảng Cân đối tài sản bằng tài sản vô hình +... Các dấu hiệu phi tài chính khác: + Có sự xuống cấp của cơ sở kinh doanh + Hàng tồn kho tăng do không bán được hoặc hư hỏng, lạc hậu + Có sự kỷ luật với cán bộ chủ chốt + Khách hàng trông chờ vào các nguồn thu bất thường để đáp ứng nghĩa vụ thanh toán ( bán nhà xưởng, trang thiết bị...) + ... Trên đây là những dấu hiệu về một khoản tín dụng có vấn đề mà các Ngân hàng cần quan tâm trong quá trình triển khai các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng. Việc nhận diện được các dấu hiệu rủi ro trên sẽ giúp ngân hàng nhanh chóng đưa ra được các biện pháp thích hợp để phòng ngừa rủi ro xảy ra. Tuy nhiên việc nhận diện rủi ro trên thực tế không phải là một công viêc dễ dàng, cán bộ Ngân hàng cần phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát và phải nhạy bén với những dấu hiệu rủi ro tiềm ẩn trên. 1.2.3.4 Các tiêu chí đánh giá rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau: Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn: Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn là hai thước đo quan trọng nhất đánh giá sự lành mạnh của thể chế, là chỉ tiêu rộng rãi nhất phản ảnh rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Nợ quá hạn được hiểu là những khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thanh toán đã thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu tương đối, phản ánh bao nhiêu phần trăm trong tổng dư nợ chưa thanh toán bị quá hạn, được xác định bằng công thức: Tỷ lệ nợ quá han =( Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ)* 100 Hai chỉ tiêu này càng cao thì khả năng rủi ro tín dụng của Ngân hàng càng lớn và qua đó phản ánh công tác hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng chưa tốt. Các khoản nợ xấu: Nợ xấu cũng là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng. Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập và dự phòng rủi ro tín dụng, thì nợ xấu là các khoản nợ bao gồm: Nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3): Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày tính theo thời hạn đã cơ cấu lại và các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm nợ dưới tiêu chuẩn. Nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4): Bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại và các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm nợ nghi ngờ Nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5): Bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại, các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý và các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm nợ có khả năng mất vốn Nợ xấu càng cao phản ánh rủi ro tín dụng của ngân hàng càng lớn Các khoản tín dụng có vấn đề: Là những khoản vay chưa đến hạn, chưa được xem là nợ quá hạn nhưng trong quá trình theo dõi, ngân hàng phát hiện khách hàng có những dấu hiệu rủi ro như: sử dụng vốn sai mục đích, kỳ hạn của khoản vay bị thay đổi liên tục; không tuân thủ lịch trình trả nợ, có dấu hiệu trả nợ không đúng kỳ hạn, doanh thu bán hàng giảm, xuất hiện những khác biệt đáng kể giữa hoạt động kinh doanh và ngân sách,... Đánh giá rủi ro tín dụng Hạn chế rủi ro tín dụng phải bắt đầu từ việc lựa chọn đúng đối tượng khách hàng để cho vay. Thông thường khi ra một quyết định tín dụng, Ngân hàng thường gặp phải hai loại sai lầm cơ bản là: Quyết định chấp thuận cho vay đối với một khách hàng không tốt và từ chối cho vay đối với một khách hàng tốt. Cả hai loại sai lầm này đều đưa đến cho ngân hàng những thiệt hại đáng kể. Loại sai lầm thứ nhất làm phát sinh rủi ro tín dụng ( nợ quá hạn và nợ không thể thu hồi). Loại sai lầm thứ hai dẫn đến thiệt hại về giảm uy tín và mất cơ hội cho vay. Đánh giá rủi ro tín dụng là một trong những kỹ thuật cơ bản giúp Ngân hàng phân loại và đánh giá được mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng, tạo cơ sở khoa học cho Ngân hàng lựa chọn đúng đối tượng để cho vay, giảm thiểu được xác suất của hai loại sai lầm trên, từ đó giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro tín dụng có thể xảy ra đồng thời tối đa hóa được lợi nhuận. Đánh giá rủi ro tín dụng theo phương pháp định tính: Đây là phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng truyền thống dựa trên những phân tích mang tính chất chủ quan và kinh nghiệm của các chuyên gia, các cán bộ ngân hàng để xác định rủi ro tín dụng của khách hàng. Theo phương pháp này, Ngân hàng sẽ đi sâu vào nghiên cứu “5 tiêu chí- 5C” của người xin vay, bao gồm: tư cách (Character), năng lực (Capacity), vốn (Captital), tài sản thế chấp (Collateral), các điều kiện (Conditions). Sơ đồ 1.4: 5 yếu tố trong xem xét phân tích tín dụng Tư cách người vay: Là ý thức trách nhiệm, thiện chí hoàn trả lại khoản vay của người vay. Vì không có một phương pháp định lượng chính xác nào để đánh giá uy tín, tư cách của người vay cho nên Ngân hàng sẽ quyết định chủ quan xem liệu khách hàng có khả năng trả nợ vay hay không. Ngân hàng sẽ phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng có rõ ràng, phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng hay không, đồng thời sẽ kiểm tra những khoản nợ trước đây của khách hàng, xem xét những báo cáo tín dụng và trình độ học vấn cũng như kinh nghiệm kinh doanh của khách hàng. Các vấn đề cá nhân của khách hàng và trình độ, kinh nghiệm của nhân viên cũng được xem xét. Nếu phát hiện có điều gì đó bất ổn, ngân hàng cần phải xem xét cân nhắc nếu không rủi ro tín dụng sẽ phát sinh cho ngân hàng. Năng lực của người vay: Đây chính là khả năng trả nợ của khách hàng. Ngân hàng cần xem xét đến khả năng khách hàng có tiền đề thanh toán các khoản vay hay không, Ngân hàng sẽ xem xét luồng tiền trong kinh doanh, thời gian chi trả và khả năng chi trả thành công các khoản vay. Vốn của khách hàng: Đây chính là đóng góp của các chủ sở hữu. Vốn phản ánh quy mô hoạt động kinh doanh của khách hàng. Ngoài ra Ngân hàng cần quan tâm đến các tỉ số nợ của khách hàng để hiểu được tổng nợ trên tổng đầu tư... Bảo đảm tiền vay: Tài sản thế chấp hay sự bảo lãnh của bên thứ ba là một hình thức mà khách hàng có thể đảm bảo với ngân hàng khi tiến hành vay vốn. Nếu khách hàng không đủ khả năng trả nợ, ngân hàng có thể được đảm bảo bằng một nguồn thanh toán khác, điều này giúp ngân hàng giảm thiểu được tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra. Khi đánh giá khía cạnh của tài sản đảm bảo, ngân hàng cần phải chú ý đến tính chất sở hữu, tuổi thọ, điều kiện và mức độ chuyên dụng của tài sản...nhằm thu được giá trị lớn nhất khi phải tiến hành xử lý tài sản thế chấp để bù đắp tổn thất rủi ro tín dụng. Các điều kiện khác: Đây là những điều kiện có liên quan đến hoạt động kinh doanh của từng ngành, từng địa phương và từng quốc gia. Doanh số hoạt động kinh doanh của khách hàng sẽ bị ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế? Nếu nền kinh tế bị suy thoái, liệu doanh số hoạt động của khách hàng có bị giảm mạnh hay không, hoặc có thể không bị ảnh hưởng? Những công ty có doanh số ổn định không bị ảnh hưởng nhiều bởi nền kinh tế thường sẽ được ngân hàng ưu ái hơn (Ví dụ các công ty trong lĩnh vực lương thực, thực phẩm) Đánh giá rủi ro tín dụng theo mô hình định lượng Mô hình phân biệt tuyến tính( Mô hình điểm số Z) Đây là mô hình do E. I. Altaman dùng để cho điểm tín dụng đối với doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào: Trị số của các chỉ số tài chính đối với người vay (Xi) Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ. Theo đó: Z = 1,2X1 + 1,4X2 +3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5 Trong đó: X1= Tổng Tài sản lưu động/Tổng tài sản có X2 = Lợi nhuận tích lũy/Tổng tài sản có X3 = Lợi nhuận trước thuế và lãi/Tổng tài sản có X4 = Thị giá cổ phiếu/Giá trị kế toán của khoản nợ X5 = Doanh thu/Tổng tài sản có Kết luận: Nếu Z>3: Người vay không có khả năng vỡ nợ 1,8<Z<3: Không xác định được Z nguy cơ rủi ro tín dụng cao Chấm điểm và xếp hạng tín dụng: Chấm điểm và xếp hạng tín dụng là một kỹ thuật đặc biệt đánh giá rủi ro tín dụng dựa trên các tiêu chí phản ánh uy tín tín dụng của người vay. Thực chất, chấm điểm và xếp hạng tín dụng là một quy trình đánh giá xác suất một khách hàng tín dụng không thực hiện được các nghĩa vụ tài chính của mình đối với ngân hàng cho vay như không trả được lãi và gốc nợ vay khi đến hạn hoặc vi phạm các điều kiện tín dụng khác. Các tình huống này là các rủi ro tín dụng trong hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng cho vay. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm, dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính có sẵn tại thời điểm chấm điểm tín dụng. Về hiệu quả, việc chấm điểm và xếp hạng tín dụng không chỉ hỗ trợ Ngân hàng trong việc ra quyết định cấp tín dụng chính xác mà còn cho phép ngân hàng lường trước được những dấu hiệu cho thấy khoản vay đang có chất lượng xấu đi và có biện pháp đối phó kịp thời. Xét trên góc độ quản lý toàn danh mục tín dụng, hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng còn là cơ sở để ngân hàng ước lượng được mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích lập dự phòng tổn thất. Xếp hạng tín dụng thường được áp dụng đối với khách hàng doanh nghiệp, còn đối với khách hàng cá nhân thì ngân hàng thường áp dụng hình thức chấm điểm tín dụng. Việc xếp hạng tín dụng đối với doanh nghiệp thường được thực hiện theo phương thức so sánh dựa vào loại hình doanh nghiệp và các chỉ tiêu tài chính, phi tài chính đã xác định. Các tiêu chí khi xếp hạng tín dụng cho một doanh nghiệp thường bao gồm: vốn kinh doanh, lao động, doanh thu thuần, nộp ngân sách, các chỉ số tài chính (chỉ số thanh khoản, chỉ số nợ, chỉ số sinh lợi: ROE, ROA...), các chỉ tiêu phi tài chính (uy tín, môi trường kinh doanh, mối quan hệ với ngân hàng...) Kết quả xếp hạng thường được ngân hàng sử dụng chữ cái A, B, C để biểu thị xếp hạng. Ví dụ có ngân hàng xếp hạng khách hàng thành sáu loại và ký hiệu từ thấp đến cao như sau: C, CC, B, BB, A và AA, trong đó loại AA là loại tối ưu (rủi ro thấp nhất) và C là loại yếu kém (rủi ro cao nhất). Chấm điểm tín dụng là kỹ thuật sử dụng các dữ liệu nghiên cứu thống kê và hoạt động để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng đối với một khách hàng cá nhân. Các yếu tố được xem xét khi chấm điểm tín dụng thường bao gồm: các thông tin cá nhân (tuổi, trình độ học vấn, thời gian công tác, nghề nghiệp, tình trạng cư trú, cơ cấu gia đình, thu nhập,...), mối quan hệ với ngân hàng...Điểm số tín dụng thể hiện ở một con số do ngân hàng xác định dựa trên cơ sở phân tích thống kê của chuyên viên tín dụng, của phòng phân tích tín dụng hoặc của công ty chuyên thực hiện dịch vụ chấm điểm tín dụng. Kiểm tra và giám sát tín dụng Kiểm tra và giám sát khoản vay là quá trình thực hiện các bước công việc sau khi cho vay nhằm hướng dẫn, đôn đốc người vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả số tiền vay, hoàn trả nợ gốc, lãi vay đúng hạn, đồng thời thực hiện các biện pháp thích hợp nếu người vay không thực hiện đầy đủ, đúng hạn các cam kết. Đây được xem là một khâu rất quan trọng trong công tác hạn chế rủi ro tín dụng, qua đó giúp ngân hàng có thể nhanh chóng phát hiện những biểu hiện rủi ro mất vốn và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ sau này. Các phương pháp giám sát tín dụng có thể áp dụng là: Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng Phân tích các báo cáo tài chính của khách hàng theo định kỳ Giám sát khách hàng thông qua việc trả lãi định kỳ Viếng thăm và kiểm tra cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nơi cư trú của khách hàng vay vốn Kiểm tra các hình thức bảo đảm tín dụng Giám sát hoạt động khách hàng thông qua mối quan hệ với khách hàng khác Giám sát hoạt động khách hàng thông qua những thông tin thu thập khác Ngoài việc giám sát đối với từng khoản vay, các Ngân hàng còn cần: Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định – 30, 60, 90 ngày Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra thận trọng và chi tiết Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề Kiểm tra những ngành nghề có dấu hiệu suy thoái Chương 2: Thực trạng về công tác hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hồng Hà từ năm 2005 đến năm 2007 2.1. Tình hình hoạt động kinh doanh Gắn liền với sự phát triển và lớn mạnh không ngừng của NHNo & PTNT Việt Nam, chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà từ ngày thành lập đến nay đã nhanh chóng khẳng định được vị thế của mình và là một trong những đơn vị dẫn đầu về thành tích kinh doanh trong toàn hệ thống. Với sự triển khai đồng bộ nhiều giải pháp trong quản lý và điều hành cùng với việc phát triển mạng lưới khách hàng, hoàn thiện các dịch vụ và mở rộng phạm vi hoạt động, chỉ sau 4 năm đi vào hoạt động, chi nhánh Ngân hàng Nno & PTNT Hồng Hà đã bắt nhịp được với sự phát triển trong hệ thống ngân hàng và từng bước thiết lập được vị thế của một ngân hàng thương mại Nhà nước trong việc phát triển dịch vụ và phục vụ mọi thành phần kinh tế, được khách hàng tín nhiệm và đánh giá cao. Hoạt động huy động vốn Trong những năm qua, nền kinh tế của nước ta đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ, trong đó đặc biệt là sự phát triển sôi động của thị trường tài chính, sự ra đời của hàng loạt các ngân hàng thương mại cổ phần và thị trường chứng khoán đã khiến cho việc cạnh tranh thu hút vốn trở nên gay gắt, các NHTM đều nỗ lực tìm kiếm và áp dụng các biện pháp huy động vốn hiệu quả. Trên địa bàn Hà Nội, các NHTM đã cạnh tranh gay gắt bằng cách đưa ra các mức lãi suất với nhiều hình thức huy động hấp dẫn. Là một chi nhánh mới thành lập nhưng chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà đã rất nỗ lực trong công tác huy động vốn bằng cách đẩy mạnh tiếp thị quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, mở rộng mạng lưới hoạt động thông qua việc thành lập thêm các phòng giao dịch, thiết lập và củng cố các mối quan hệ lâu dài với khách hàng, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, hoàn thiện thêm các tiện ích như tiền gửi rút gốc linh hoạt, đơn giản hóa thủ tục gửi tiền...từ đó thu hút thêm khách hàng đến vói chi nhánh, nhờ vậy mà nguồn vốn huy động được của ngân hàng ngày càng tăng trưởng mạnh góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn chi nhánh. Tình hình hoạt động huy động của Chi nhánh được thể hiện thông qua bảng tổng kết sau: Bảng 2.1: Kết quả huy động vốn của Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 So sánh 2007/2006 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Tăng/ giảm Tỷ lệ (%) Tổng nguồn vốn huy động 1.202 100 2.121 100 4.487 100 2.366 +111,5 I. Phân theo loại tiền 1. Nội tệ 1.152 95,8 1.976 93,1 4.038 90,0 2.062 +104,4 2. Ngoại tệ 50 4,2 144 6,7 449 10,0 305 +211,8 II. Phân theo thời gian 1. Không kỳ hạn 571 47,5 203 9,5 108 2,4 -95 -46,8 2. Có kỳ hạn dưới 12th 275,5 22,9 211 9,9 130 2,9 -81 -38,4 3. Có kỳ hạn trên 12th 355,5 29,5 1.706 80,4 4249 94,7 +2.543 +149,1 III.Phân theo TPKT 1. Tiền gửi từ dân cư 236,9 19,7 385 18,1 862 19,2 +477 +123,9 2.Tiền gửi các TCKT 361 30 1.714 80,8 3.513 78,3 +1.799 +104,9 3. TG có kỳ hạn của TCTD 200 16,6 15 0,7 81 1,8 +66 +440 4. TG ko kỳ hạn của TCTD 404 33,6 6 0,28 31 0,7 +25 +416,7 ( Nguồn: Báo cáo hoạt động KD của CN NHNo&PTNT Hồng Hà từ năm 2005-2007) Hoạt động cho vay Trong những năm gần đây, với lợi thế về nhiều mặt, chi nhánh đã thu hút được khá nhiều khách hàng nằm trên địa bàn Thủ đô, trong đó có những khách hàng thuộc Tổng công ty 90, 91 và các đơn vị thành viên như Công ty Muối – Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp...Ngoài ra chi nhánh đã đầu tư cho nhiều công ty cổ phần, Công ty TNHH, Hộ kinh doanh cá thể như Công ty cổ phần BOT Quốc lộ 2, Công ty CPTM Bình Phát, Công ty cổ phần thương mại và tư vấn Tân Cơ, Công ty CPTB Công nghiệp và xây dựng, Nhà máy Xi măng Hạ Long...Đây là những khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh và có hiệu quả kinh doanh cao nên trong thời gian vừa qua Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà đã đạt được kết quả cho vay khả quan, thể hiện trong bảng sau: Bảng 2.2: Quy mô cho vay từ năm 2005 đến năm 2007 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 So sánh 06/05 So sánh 07/06 +/- % +/- % 1.Doanh số cho vay 844.149 1.920.307 4.060.460 1.076.158 127 2.140.153 111,4 2.Doanh số thu nợ 658.609 1.651.402 3.487.607 992.793 150,7 1.836.205 111 3.Dư nợ cho vay 401.331 670.000 1.243.088 268.669 66,9 573.088 86 (Nguồn: Báo cáo tài chính Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà năm 2005-2007) Một số hoạt động kinh doanh khác Mặc dù hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong các hoạt động dịch vụ của Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà, tuy nhiên để nhằm tăng hơn nữa hiệu quả kinh doanh, đồng thời đẩy mạnh cung cấp dịch vụ Ngân hàng một cách tốt nhất, nâng cao hình ảnh và quảng bá thương hiệu Hồng Hà, Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà đã đẩy mạnh phát triển các dịch vụ kinh doanh, thanh toán và bước đầu được những thành công nhất định. Cụ thể là: * Đối với hoạt động kinh doanh đối ngoại: Trong những năm gần đây xu thế hội nhập nền kinh tế đã tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiều khởi sắc, nhu cầu về ngoại tệ phục vụ trong thanh toán do vậy cũng tăng cao. Đặc biệt là khi hệ thống chuyển tiền điện tử Western Union được mở rộng ra toàn bộ chi nhánh thì hoạt động mua bán ngoại tệ trở thành một yếu tố làm tăng thu nhập của ngân hàng, đồng thời đa dạng hơn các dịch vụ của Ngân hàng đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng khi đến giao dịch với Chi nhánh. Một đặc thù trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà là chỉ được phép mua ngoại tệ rồi bán cho Ngân hàng cấp trên chứ không được bán trực tiếp ra ngoài. Một số kết quả đạt được của Chi nhánh trong thời gian qua: - Doanh số mua ngoại tệ: Năm 2006, doanh số mua ngoại tệ của Chi nhánh là 16,817 triệu USD tăng 55% so với năm 2005, và Năm 2007 con số này là 23,543 triệu USD tăng 40% so với năm 2006. - Doanh số bán ngoại tệ: Năm 2006 đạt 16,764 triệu USD tăng 56% so với năm 2005. Đến năm 2007 thì đạt 23,322 triệu USD tăng 39,1% so với năm 2006. * Đối với hoạt động thanh toán quốc tế: Nghiệp vụ này Chi nhánh Hồng Hà được độc lập thực hiện do đó được hưởng một phần phí, lãi cho vay (nếu khách hàng nhận nợ) và tận dụng nguồn vốn ký quỹ của khách hàng nên thu nhập từ nghiệp vụ này cho Chi nhánh tương đối tốt. Hiện nay, Chi nhánh đã có những khách hàng truyền thống trong dịch vụ thanh toán quốc tế như: Công ty TNHH Tùng Lâm, Công ty CMS, Chi nhánh công ty nuôi trồng thủy sản... - Hoạt động thanh toán xuất khẩu: Năm 2006 đạt 3,363 triệu USD tăng 24% so với năm 2005, con số này năm 2007 là 4,1 triệu USD tăng 21,9% so với năm 2006. - Hoạt động thanh toán nhập khẩu: Năm 2006 đạt 7,079 triệu USD tăng 24% so với năm 2005. Đến năm 2007 đạt 8,624 triệu USD tăng 21,8% so với năm 2006. * Đối với hoạt động thanh toán- điện toán: Trong năm 2007, Chi nhánh đã thực hiện trên 19.825 món với số tiền là 13.421 triệu đồng thanh toán, chuyển tiền thông qua hệ thống thanh toán điện tử nội bộ, thanh toán điện tử liên ngân hàng được thực hiện tốt, đảm bảo luân chuyển vốn cho khách hàng nhanh chóng, thuận lợi và hiệu quả. Dịch vụ thanh toán chuyển tiền ra nước ngoài năm 2007 thực hiện 102 món với số tiền là 4.921.304 USD Chi nhánh luôn được NHNo & PTNT Việt Nam trang bị đầy đủ các trang thiết bị cần thiết để phục vụ giao dịch nhằm đảm bảo thực hiện tốt công tác tổng hợp, truyền nhận file, đảm bảo đến 8h/ngày làm việc kế tiếp đã có số liệu tổng hợp của ngày hôm trước. Chi nhánh đã và đang tích cực, chủ động và sẵn sàng thực hiện chương trình hiện đại hóa ngân hàng theo chỉ đạo của NHNo & PTNT Việt Nam. Cụ thể năm 2005 và 2006, 2007 Chi nhánh đã tổ chức cho 100% cán bộ đi học lớp WB, Western Union, chuyển tiền điện tử... * Đối với hoạt động phát triển dịch vụ Ngân hàng: - Dịch vụ thẻ ATM: Năm 2006 và 2007, được sự giúp đỡ của NHNo & PTNT Việt Nam, chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà đã đẩy mạnh công tác tiếp thị, ký các hợp đồng chi hộ lương qua ATM, ký các hợp đồng mở thẻ ATM cho các doanh nghiệp, trường học trên địa bàn Thủ đô và các khu vực lân cận khác, đến nay đã mở được 2.192 thẻ ATM tăng 86% so với năm 2006, hiện chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà có 6 máy ATM. - Dịch vụ thu – chi theo yêu cầu: Dịch vụ này thu – chi tiền lưu động, chi tiền, chi hộ lương tại các cơ quan, đơn vị của khách hàng tiếp tục được duy trì và thực hiện tốt, được nhiều bạn hàng tín nhiệm, binh quân mỗi tháng chi khoảng 100 tỷ đồng. Như vậy, với những thành quả đạt được trên, Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà đã chứng tỏ được vị thế của mình là một trong những đơn vị dẫn đầu trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam về thành tích kinh doanh. Mặc dù với tuổi đời còn non trẻ, nhưng ngay từ khi mới thành lập, Chi nhánh đã nhanh chóng tạo được niềm tin cho khách hàng về một Ngân hàng năng động, tin cậy chất lượng và hiệu quả. Đến nay, Chi nhánh Hồng Hà hoàn toàn có đủ năng lực cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiên tiến, tiện ích cho mọi đối tượng khách hàng trong và ngoài nước. Trong tương lai, Chi nhánh tiếp tục phát huy những thế mạnh của mình, nâng cao hơn nũa chất lượng hoạt động tín dụng, hoạt động huy động vốn, chất lượng và hiệu quả kinh doanh, giữ gìn “ chữ Tín” trong kinh doanh để Chi nhánh Hồng Hà mãi xứng đáng là chỗ dựa tin cậy, là người bạn đồng hành của khách hàng và là thành viên của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam- Anh hùng lao động Thời kỳ dổi mới. 2.2 Thực trạng về công tác hạn chế rủi ro tín dụng 2.2.1. Hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Việt Nam (AGRIBANK) AGRIBANK là một trong những ngân hàng thương mại Nhà nước lớn nhất Việt Nam trên nhiều phương diện: quy mô vốn lớn, mạng lưới hoạt động rộng khắp các địa bàn toàn quốc, có được mối quan hệ truyền thống với khách hàng... Để giữ vững được vị thế dẫn đầu của mình, AGRIBANK không chỉ chú trọng đến việc đầu tư, đổi mới và ứng dụng công nghệ ngân hàng phục vụ đắc lực cho công tác quản trị kinh doanh và phát triển mạng lưới dịch vụ ngân hàng tiên tiến mà còn rất quan tâm đến việc nâng cao năng lực quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Quán triệt tinh thần coi việc phát triển tín dụng một cách an toàn, hiệu quả làm sự nghiệp tồn tại của toàn hệ thống, Agribank đã hình thành một hệ thống quản lý rủi ro từ trung ương đến các chi nhánh. Công tác hạn chế rủi ro tín dụng được Agribank quán triệt từ trong chính sách tổ chức hoạt động tín dụng của toàn hệ thống: Tổ chức hoạt động tín dụng tại AGRIBANK: Tổ chức hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT được xây dựng theo mô hình quản trị phân quyền dựa trên cơ sở các chính sách và nguyên tắc được điều hành tập trung. Trong đó, Ban tín dụng chịu trách nhiệm xây dựng văn hóa và toàn bộ các chính sách và quy tắc quản trị chung cho công tác quản trị tín dụng tại Ngân hàng. Đồng thời, các Ban nghiệp vụ tín dụng dựa trên những chính sách và nguyên tắc đó trực tiếp thực hiện các giao dịch tín dụng, quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng. Mô hình quản lý tín dụng này hướng tới: Xác định mức chấp nhận rủi ro tín dụng phù hợp Xây dựng quy trình cấp tín dụng thống nhất và khoa học Duy trì một quy trình giám sát và đo lường rủi ro hợp lý Bảo đảm kiểm soát chặt chẽ đối với rủi ro tín dụng Thu hút khách hàng và dự án tín dụng tốt Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tín dụng Tại trung tâm điều hành Hội đồng quản trị Tổng Giám đốc Kiểm tra giám sát tín dụng độc lập Phó Tổng Giám đốc phụ trách tín dụng Trung tâm Phòng ngừa và xử lý rủi ro Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ban Tín dụng Ban Quan hệ quốc tế Ban Thẩm định dự án Ban Quản lý Dự án UTĐT Tại Chi nhánh các cấp: Giám đốc Chi nhánh Kiểm tra giám sát tín dụng độc lập chi nhánh Phòng (Tổ) thẩm định Phòng (Tổ) Tín dụng Như vậy với cơ cấu tổ chức trên, mỗi bộ phận đều thực hiện một chức năng và chịu trách nhiệm riêng biệt, đồng thời hỗ trợ nhau trong công tác kiểm soát rủi ro. Đặc biệt là vai trò của bộ phận Kiểm tra giám sát tín dụng được tổ chức hoàn toàn độc lập với các Ban Tín dụng nhằm đảm bảo quản lý rủi ro tín dụng một cách khách quan. Cụ thể, nhiệm vụ của bộ phận này tại trung tâm điều hành là: Đánh giá mức rủi ro của danh mục tín dụng và quy trình quản trị rủi ro từ góc độ kinh doanh của từng phòng ban nghiệp vụ tại trung tâm điều hành Kiểm tra việc chấp hành pháp luật, các quy định và chính sách của NHNo & PTNT VN trong lĩnh vực tín dụng, phát hiện những sai phạm, từ đó đề ra các biện pháp chấn chỉnh, khắc phục có hiệu quả Định kỳ tiến hành các cuộc kiểm tra về hoạt động tín dụng của các chi nhánh... Ngoài ra, Agribank còn thành lập riêng một trung tâm Phòng ngừa và xử lý rủi ro. Nhiệm vụ của trung tâm này là tổ chức xây dựng các chiến lược phòng ngừa và xử lý rủi ro. Đồng thời dự thảo các văn bản quy định của NHNo & PTNT về thông tin phòng ngừa và xử lý rủi ro. Tổng hợp, phân tích, theo dõi thông tin rủi ro, nghiên cứu và thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Về quy trình tín dụng: Trên cơ sở một quy trình tín dụng cơ bản, Agribank đã xây dựng một quy trình tín dụng hướng tới hai mục tiêu là an toàn và hiệu quả. Toàn bộ quy trình được liên kết chặt chẽ từ nghiên cứu thị trường thông qua các mối liên lạc với khách hàng, điều tra và đánh giá tín dụng, phê duyệt và soạn thảo hồ sơ, giải ngân, đánh giá và thu nợ cho tới quay vòng, gia hạn hay chấm dứt khoản vay. Quy trình tín dụng của Agribank được soạn thảo với mục đích giúp cho quá trình cho vay diễn ra thống nhất, khoa học, hạn chế, phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu vay vốn của khách hàng. Quy trình này cũng xác định người thực hiện công việc và trách nhiệm của cán bộ có liên quan trong quá trình cho vay. Quy trình được bắt đầu từ khi cán bộ tín dụng tiếp nhận hồ sơ khách hàng và kết thúc khi kế toán viên tất toán – thanh lý hợp đồng tín dụng, được tiến hành theo ba bước: (1) Thẩm định trước khi cho vay; (2) Kiểm tra, giám sát trong khi cho vay, (3) Kiểm tra, giám sát, tổ chức thu lãi tín dụng và thu hồi nợ. Đối với mỗi quy trình, Agribank đều có những văn bản hướng dẫn cụ thể, những mẫu quy định sẵn trong đó tổng hợp tất cả các thông tin trợ giúp cho các cán bộ tín dụng trong quá trình đánh giá và phân tích tín dụng. Ví dụ đối với khâu thẩm định tín dụng, có các văn bản như: Văn bản hướng dẫn phân tích tư cách và năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự, năng lực điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng Văn bản hướng dẫn kiểm tra tính chính xác của báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh Văn bản hướng dẫn phân tích, đánh giá tình hình hoạt động và khả năng tài chính Danh mục điều tra đánh giá kế hoạch kinh doanh ... Các văn bản này chủ yếu được xây dựng dưới dạng các bảng câu hỏi có chức năng cung cấp thông tin giúp cán bộ tín dụng có thể đánh giá một cách khách quan và chính xác nhất về khách hàng, mức độ rủi ro của khoản tín dụng. Đồng thời còn giúp ngân hàng nhanh chóng phát hiện ra được những dấu hiệu về một khoản tín dụng có vấn đề để từ đó có những biện pháp can thiệp và chấn chỉnh kịp thời. Về chính sách tín dụng: Theo quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống AGRIBANK được ban hành kèm theo quyết định số 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/3/2002 của Hội đồng quản trị, các sản phẩm và dịch vụ tín dụng AGRIBANK đang cung cấp bao gồm: Cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư, Phương thức cho vay trả góp, Phương thức cho vay thông qua nghiệp vụ pháp hành và sử dụng thẻ tín dụng, phương thức cho vay hợp vốn (đồng tài trợ). Đối với mỗi phương thức cho vay, Agribank có những quy định cụ thể về đối tượng được vay vốn, thời hạn vay, mức vay, lãi suất cho vay, thời gian ân hạn và định kỳ trả nợ... Về lãi suất cho vay được Agribank xây dựng dựa trên các thông số về mức sinh lời kỳ vọng của ngân hàng, rủi ro tín dụng của khoản vay và tỷ lệ an toàn vốn. Lãi suất cho vay được giám sát chặt chẽ để bảo đảm bù đủ các loại chi phí như chi phí vốn, chi phí rủi ro tín dụng...và các khoản sinh lời cần thiết để hoạt động ngân hàng có lãi và tăng trưởng Lãi suất cho vay = Chi phí huy động vốn + Chi phí dự phòng rủi ro + Chi phí thanh khoản + Chi phí hoạt động Trong đó chi phí dự phòng rủi ro được xác định căn cứ vào kết quả thẩm định rủi ro của khách hàng và dự án/phương án vay vốn, mức trích dự phòng rủi ro tương ứng với từng bậc điểm tín dụng của khách hàng. Phương pháp này giúp cho ngân hàng xây dựng được mức lãi suất tương quan với mức rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn phân chia lãi suất cho vay thành hai loại là lãi suất cho vay trong hạn và lãi suất cho vay quá hạn, trong đó lãi suất cho vay quá hạn thường cao hơn lãi suất cho vay trong hạn nhưng không quá 150% so với lãi suất cho vay trong hạn. Về hạn mức cho vay, Ban tín dụng sẽ quyết định thiết lập các hạn mức xác định độ tập trung trong cơ cấu danh mục tín dụng dựa trên mức độ rủi ro có thể chấp nhận được của toàn hệ thống ngân hàng, tính toán cân đối nguồn vốn và đánh giá thị trường. Việc đặt ra các hạn mức này sẽ giúp cho ngân hàng tránh được sự cho vay tập trung quá mức vào một lĩnh vực, ngành nghề, nhóm khách hàng hoặc địa bàn nào đó, và đảm bảo rằng không có tài sản (hoặc một nhóm) tài sản nào hoặc trạng thái rủi ro nào có thể gây ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh cuối cùng của toàn hệ thống. Về nguyên tắc xác định hạn mức, thì hàng năm, NHNo & PTNT Việt Nam sẽ thiết lập hạn mức tập trung tín dụng theo các yếu tố rủi ro như: khách hàng, ngành hàng, bảo đảm tiền vay, thời hạn vay, sản phẩm...Các hạn mức tập trung tín dụng lập theo các yếu tố rủi ro nói trên phải bảo đảm phù hợp tương xứng với phân đoạn thị trường và đối tượng khách hàng mục tiêu, địa bàn hoạt động và năng lực quản lý của từng chi nhánh...Các hạn mức ._. công thẩm quyền trách nhiệm của cán bộ các cấp trong việc xét duyệt và quản lý khoản nợ. Nội dung của thẩm định phải bao gồm năng lực tư cách của người vay, cơ cấu tài chính và các chiến lược đầu tư của khách hàng đối với khoản vay (tình hình vốn tự có, các chỉ tiêu tài chính, mặt hàng kinh doanh, giá thành, thị trường, ...), giá trị và tính thanh khoản của tài sản thế chấp, khả năng ứng phó của khách hàng trước các thách thức...Bên cạnh đó, cần chuẩn hóa phương pháp phân tích theo hướng cho điểm để xếp loại khách hàng hoặc phương pháp các hệ thống chuyên gia (phương pháp 5C). Việc phân tích để đánh giá khách hàng cần được thực hiện một cách thường xuyên để kịp thời pháp hiện và khắc phục sai sót. Đồng thời là cơ sở để ban hành các chính sách tín dụng phù hợp với từng thời kỳ cụ thể, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. 3.2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản trị và tác nghiệp trong lĩnh vực tín dụng Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tín dụng là nhân tố cơ bản quyết định đến chất lượng tín dụng. Như đã đề cập, cán bộ tín dụng hiện nay còn thiếu khả năng, kỹ năng dự báo kinh tế, thị trường, phân tích tình hình tài chính, phi tài chính của doanh nghiệp, do vậy trong quá trình phân tích tín dụng còn có nhiều sai sót, đánh giá chưa chính xác về khách hàng hoặc có những kết luận mang tính chất chủ quan. Những sai lầm này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự an toàn của các khoản tín dụng. Vì vậy, kết quả của công tác hạn chế rủi ro tín dụng sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như đạo đức của đội ngũ cán bộ ngân hàng. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng phải bảo đảm cả về mặt định lượng và định tính. Đánh giá đúng chất lượng cán bộ tín dụng phải đánh giá đồng thời cả hai mặt này vì đều có tầm quan trọng như nhau, nếu thiếu một trong hai mặt thì không thể đánh giá chính xác chất lượng cán bộ tín dụng và theo đó việc sử dụng cán bộ cũng sẽ bất cập, hạn chế và nhiều khi phản tác dụng. Về mặt định tính: Cán bộ tín dụng phải có bản lĩnh kinh doanh vững vàng: Trong cơ chế thị trường luôn luôn có những mặt trái, là người trực tiếp tiếp giao dịch với khách hàng, tiếp xúc trực tiếp với cơ chế, nếu cán bộ tín dụng không rèn luyện bản lĩnh vững vàng, đạo đức nghề nghiệp rất có thể sẽ bị cuốn theo những cám dỗ tầm thường, không tự làm chủ bản thân, hạ thấp các tiêu chuẩn tín dụng dẫn đến thất thoát vốn, gây rủi ro cho ngân hàng. Bản lĩnh kinh doanh của cán bộ tín dụng còn thể hiện ở chỗ đánh giá, thẩm định, nhìn nhận khách hàng một cách chính xác; không co cụm trong cho vay, biết tiếp cận, thu hút, sàng lọc khách hàng tốt để phục vụ. Trong xử lý nghiệp vụ không manh động, làm việc đúng chức năng, vai trò và nhiệm vụ được giao. Có tinh thần tập thể, kỷ luật và sáng tạo. Cán bộ tín dụng phải có phẩm chất đạo đức tốt: Đạo đức nghề nghiệp cán bộ tín dụng phải luôn lấy mục đích sự nghiệp phát triển ngân hàng làm mục đích phấn đấu. Nâng cao tính kỷ luật, tính liêm khiết, chấp hành tốt chủ trương của ngành, quy chế, cơ chế của cơ quan. Về mặt định lượng: Cán bộ tín dụng phải có trình độ học vấn, năng lực chuyên môn nghiệp vụ: Năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng thể hiện ở những mặt như: Đánh giá, phân tích tài chính khách hàng một cách chính xác. Thẩm định phương án và dự án kinh doanh một cách khoa học trên cả hai phương diện là tính chính xác và thời gian thực hiện. Thẩm định tài sản đảm bảo tiền vay đúng quy trình, chế độ. Xử lý tốt các nghiệp vụ phát sinh trong quá trình cho vay; quản lý các khoản vay trong và sau khi cho vay. Vấn đề tham mưu cho khách hàng trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cán bộ tín dụng phải có khả năng nắm bắt và cập nhật được rất nhiều thông tin về các lĩnh vực, nhất là những vấn đề về khách hàng, vấn đề về đầu tư để có thể tham mưu cho lãnh đạo ra quyết sách đầu tư đúng đắn mang lại hiệu quả cho ngân hàng. Cán bộ tín dụng phải có khả năng giao tiếp với khách hàng: Khả năng giao tiếp thể hiện ở việc phải làm sao để khách hàng bày tỏ được tâm tư nguyện vọng của mình. Nắm được thông tin từ khách hàng cũng như đối tác của khách hàng. Phải có trình độ tư vấn cho khách hàng để giúp khách hàng có thêm điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh của mình, hạn chế được những rủi ro trong hoạt động Cán bộ tín dụng phải có khả năng tiếp thị thu hút khách hàng: Cán bộ tín dụng phải khả năng tiếp thị thu hút khách hàng tốt có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, làm ăn hiệu quả, có năng lực tài chính vững vàng, vay trả sòng phẳng...) Cán bộ tín dụng phải có năng lực điều tra thu thập, liên kết, xử lý và tổng hợp thông tin: Vấn đề thông tin rất cần thiết, vì trong môi trường tương quan kinh tế, khách hàng có thể gặp rủi ro vì nhiều nguyên nhân. Nếu cán bộ tín dụng thiếu sự cập nhật thông tin về khách hàng để có biện pháp xử lý nợ, thì khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn. Tóm lại, yêu cầu về định tính và định lượng đối với cán bộ tín dụng là yêu cầu cấp thiết nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Đây là kiện cần và đủ để nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Tuy nhiên, trong thực tế để hội đủ tất cả những điều kiện trên là một vấn đề bất cập hiện nay đối với các ngân hàng nói chung và đối với Chi nhánh Hồng Hà nói riêng. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng được coi là một nhiệm vụ trọng tâm và chi nhánh cần phải có những giải pháp thiết thực và hiệu quả. Một số giải pháp có thể đề xuất là: Trước hết, nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng phải bắt đầu từ khâu tuyển dụng và đạo tạo. Việc tuyển dụng cán bộ tín dụng phải được thực hiện tốt, đảm bảo đúng quy trình, đúng quy định của ngành và cần tuyệt đối có sự công bằng trong khâu tuyển dụng. Tiêu chuẩn tuyển dụng cán bộ tín dụng mới cần có là: tiêu chuẩn đạo đức, tư cách (liêm khiết, trung thực, tự tin, tháo vát), tiêu chuẩn chuyên môn (học vấn, trình độ nghiệp vụ, kỹ năng chuyên môn), tiêu chuẩn về thể chất (sức khỏe, hình thức...) Về công tác đào tạo, cần tập trung tăng cường hình thức đào tạo tập trung, kết hợp với hình thức tập huấn tại chỗ, hình thức đào tạo này nhằm làm cho cán bộ tín dụng nắm bắt được một số nghiệp vụ trong thời gian ngắn như: Tổ chức các buổi sinh hoạt nghiệp vụ theo định kỳ, thảo luận các vướng mắc trong công tác tín dụng, văn bản và quy trình nghiệp vụ. Phát động phong trào tự học, tự nghiên cứu, tự nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tránh sự tụt hậu trước sự thay đổi của nền kinh tế, của công nghệ trong quá trình phát triển và hội nhập của ngân hàng. Tổ chức thi tay nghề hàng năm và có khen thưởng hợp lý để khuyến khích những cán bộ tín dụng giỏi, có nhiều cống hiến. Đồng thời, thường xuyên tổ chức và phối hợp với ngân hàng cấp trên và các trường đại học trong và ngoài nước mở các lớp học, tập huấn, đào tạo và đào tạo lại để cập nhật kiến thức ngân hàng thời kỳ kinh tế thị trường. Việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ tín dụng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Cần tránh đào tạo nghiệp vụ chung chung mà phải chú trọng vào đào tạo tập trung chuyên sâu từng lĩnh vực cụ thể. Mục tiêu của việc đào tạo là làm cho cán bộ tín dụng không chỉ am tường khai thác, phục vụ khách hàng mà còn có khả năng phát hiện, ngăn ngừa và hạn chế các rủi ro trong lĩnh vực mình phụ trách. Song song với việc tuyển dụng và đào tạo, Chi nhánh cũng cần có các chính sách sàng lọc và sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ tín dụng. Hàng năm, chi nhánh cần phải thực hiện rà soát, đánh giá, phân loại cán bộ tín dụng để có hướng đào tạo, bổ sung kịp thời, tránh sự hẫng hụt về đội ngũ cán bộ tín dụng. Đồng thời qua phân loại cán bộ tín dụng để thực hiện việc tiêu chuẩn hóa cán bộ tín dụng trên cả hai mặt định tính và định lượng, tạo ra đội ngũ cán bộ mạnh toàn diện, có sức cống hiến cao. Mặt khác, để tạo động lực làm việc cho các cán bộ tín dụng cũng như đảm bảo tính nghiêm ngặt trong việc tuân thủ các quy chế và quy trình làm việc, Chi nhánh cũng cần phải đổi mới về chính sách đãi ngộ, thực hiện định chế đi đôi với chế tài. Trong điều kiện kinh tế thị trường, chính sách đãi ngộ với chế độ tiền lương, tiền thưởng...hợp lý càng có ý nghĩa quan trọng bởi vì có thể đội ngũ này có sự cống hiến nhiều nhất, chịu nhiều áp lực nhất do công việc mang tính rủi ro cao. Có như vậy, đội ngũ cán bộ tín dụng mới phát huy được khả năng và nhiệt tình lâu dài của mình. Đồng thời thực hiện cơ chế thưởng phạt nghiêm minh, tạo ra bầu không khí thi đua, khuyến khích sáng tạo, phát huy trách nhiệm và quyền hạn cá nhân trong việc đầu tư vốn sao cho an toàn và hiệu quả nhất. Những cán bộ tín dụng vi phạm quy chế, quy trình nghiệp vụ tín dụng, làm thất thoát vốn của ngân hàng phải xử lý nghiêm khắc, đặc biệt là cán bộ thoái hóa biến chất. Những cán bộ tín dụng có đạo đức tốt, yêu ngành, yêu nghề, có khả năng làm việc tốt, mang lại hiệu quả cho ngân hàng thì có chế độ khen thưởng xứng đáng như nâng lương trước hạn... Cuối cùng, trong công tác quản lý, chi nhánh cần phải thường xuyên quan tâm đến việc xác định đúng nhiệm vụ chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ tín dụng. Kiên quyết không sử dụng những cán bộ thiếu bản lĩnh chính trị, bản lĩnh kinh doanh, thiếu trung thực, không công tâm, kém năng lực...làm công tác tín dụng. Quản lý cán bộ tín dụng trong công việc, trong sinh hoạt một cách chặt chẽ, khoa học. Có biện pháp chủ động, tích cực giáo dục cán bộ tín dụng để cán bộ tín dụng không bị lôi cuốn vào các vấn đề tiêu cực của xã hội, bị lôi cuốn vào đồng tiền mà hạ thấp nhân phẩm, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, làm phương hại đến bản thân cũng như phương hại về kinh tế và uy tín của ngành... 3.2.3. Nâng cao chất lượng hệ thống quản lý thông tin tín dụng đáp ứng nhu cầu đối với công tác hạn chế rủi ro tín dụng Thông tin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động tín dụng của các NHTM, giúp các Ngân hàng xác định khá chính xác về đối tượng vay vốn, uy tín, thiện chí trả nợ, tính khả thi của dự án đầu tư kinh doanh của khách hàng. Thông tin chính là cơ sở để các NHTM tin tưởng vào khách hàng của mình. Bởi vì, quan hệ tín dụng luôn được hình thành dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng. Điều đó có nghĩa là ngân hàng chỉ cho khách hàng vay vốn khi và chỉ khi ngân hàng hoàn toàn tin tưởng vào khả năng hoàn trả ( vốn và lãi) của khách hàng khi đáo hạn. Để các khoản vay an toàn và hiệu quả, thông tin phải được ngân hàng khai thác từ nhiều nguồn khác nhau: hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, hồ sơ khách hàng, các cơ quan chức năng có liên quan ( cơ quan thuế, trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước...), trực tiếp phỏng vấn khách hàng, cập nhật thông tin trên thị trường...nhằm phục vụ kịp thời cho các giai đoạn của quy trình tín dụng. Như vậy, sau khi nhận hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, ngân hàng phải tiến hành phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách hàng về việc sử dụng vốn tín dụng cũng như khả năng hoàn trả vốn vay, ngân hàng từ những thông tin cơ bản này sẽ đưa ra các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Tất nhiên, để có được những thông tin chính xác và đầy đủ, ngân hàng cần phải biết tạo thông tin cho riêng mình. Thông tin tín dụng chính xác, quyết định tín dụng hợp lý chắc chắn khả năng quay về của vốn tín dụng cao, vốn tín dụng được hoàn trả đúng hạn, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tín dụng và hoạt động ngân hàng. Đối với Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà như đã đề cập ở trên, hệ thống thông tin phục vụ cho công tác hạn chế rủi ro tín dụng còn chưa được đánh giá đúng tầm quan trọng, do vậy chưa có các biện pháp xử lý, khai thác thông tin một cách có hiệu quả nhất phục vụ cho toàn bộ quy trình tín dụng. Do vậy, trong thời gian tới để nâng cao chất lượng của công tác hạn chế rủi ro tín dụng, bảo đảm cho hoạt động tín dụng phát triển một cách an toàn và hiệu quả, tạo ra một sinh khí mới, một động lực mới thúc đẩy Chi nhánh phát triển lên một tầm cao mới, tất yếu cần thúc đẩy hoạt động thông tin tín dụng thực sự phát triển có chất lượng: đầy đủ, chính xác và cập nhật. Sau đây là một số giải pháp cụ thể đối với Chi nhánh: - Trước mắt, chi nhánh cần thiết lập một bộ phận chuyên làm nhiệm vụ thu thập, phân tích, lưu trữ thông tin về khách hàng, năng động tìm kiếm các biện pháp xử lý, khai thác, sử dụng những thông tin đó một cách có hiệu quản nhất. Nguồn thông tin mà Chi nhánh có thể khai thác bao gồm: Thông tin từ khách hàng cung cấp , thông tin từ các khách hàng đang có quan hệ giao dịch với chi nhánh, thông tin từ các ngân hàng thương mại khác, thông tin từ thị trường và từ các cơ quan chức năng có liên quan (cơ quan Kiểm toán, thuế, trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước...) Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tín dụng thông thạo kỹ năng phân tích doanh nghiệp, chuyên sâu về nghiệp vụ thông tin tín dụng, khuyến khích họ tiếp cận với công nghệ thông tin hiện đại. Xây dựng mạng lưới ngân hàng vững mạnh, rộng khắp vừa có thể phục vụ nhu cầu vay vốn đa dạng của khách hàng, vừa thiết lập một hệ thống thông tin thông suốt, tiết kiệm đáng kể chi phí liên quan đến vấn đề thông tin. Chi nhánh nên xúc tiến việc thành lập thêm các chi nhánh cấp dưới và các phòng giao dịch, mở rộng địa bàn. Nhờ đó, sẽ giúp chi nhánh tiếp cận được những thông tin có giá trị như nhu cầu cụ thể của từng khúc thị trường, khách hàng tiềm năng và những thông tin về hoạt động của họ... Thiết lập hệ thống thông tin hai chiều thông suốt giữa các NHTM với nhau và với trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước làm phong phú thêm nguồn dữ liệu thông tin. Đẩy nhanh tốc độ trang bị công nghệ hiện đại như các trang thiết bị, máy móc thiết bị tin học...tạo đòn bẩy cho sự phát triển, giúp chi nhánh gia tăng sự thỏa mãn cho khách hàng, tăng tính an toàn, đồng thời tạo điều kiện cho chi nhánh có thể xử lý nhanh và chính xác một khối lượng giao dịch ngày càng lớn. Ngoài ra, chi nhánh cần chú trọng triển khai ứng dụng thành tựu của công nghệ thông tin như các phần mềm về lưu trữ và quản lý thông tin khác hàng, thông tin tài chính, tài sản, phần mềm về phân tích và phân loại khách hàng, hỗ trợ cho việc ra các quyết định tín dụng. 3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát tín dụng Kiểm tra và giám sát tín dụng là khâu rất quan trọng nhằm mục tiêu bảo đảm cho tiền vay được sử dụng đúng mục đích đã cam kết. Thông qua hoạt động này cũng giúp ngân hàng nhanh chóng phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hưởng tới khả năng thu hồi nợ sau này. Tuy nhiên, trên thực tế là các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà nới lỏng quá trình kiểm tra, giám sát đồng vốn sau khi cho vay. Điều này một phần là do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được đầy đủ, kịp thời các thông tin mà ngân hàng yêu cầu. Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả của công tác hạn chế rủi ro tín dụng, Chi nhánh cần phải tăng cường hơn nữa việc kiểm tra và giám sát tín dụng, thường xuyên xem xét các khoản vay, kiểm tra lại các điều kiện cho vay, đánh giá tình trạng kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng. Đồng thời, cũng cần xác định lại các hạn mức tín dụng cho từng ngành nghề hoặc khu vực kinh tế cụ thể. Đối với công tác kiểm tra nội bộ: Trong quá trình kiểm tra, Cán bộ thanh tra cần chú trọng hơn nữa đến giám sát việc tuân thủ các chính sách và chế độ tín dụng, bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt quy trình tín dụng, phân cấp thẩm quyền tín dụng và hạn mức tín dụng. Bên cạnh đó, một yêu cầu đối với công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ là phải dự báo được những rủi ro trong hoạt động để ngăn chặn, phòng ngừa. Muốn vậy, đòi hỏi phải nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ kiểm tra, kiểm soát. Đồng thời nâng cao kỷ cương, kỷ luật trong công tác kiểm tra nhằm ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, bảo đảm công tác thanh tra có hiệu quả. Ngoài ra, phải gắn hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ với trách nhiệm cụ thể để đảm bảo đây là công cụ hữu hiệu trong công tác phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng. Đối với công tác giám sát việc sử dụng vốn vay: Chi nhánh cần quan tâm tổ chức theo dõi chặt chẽ tiến độ hoàn thành từng hạng mục dự án đầu tư, quá trình nhập vật tư, hàng hóa, tình hình hiệu quả tài chính thông qua các báo cáo định kỳ do khách hàng cung cấp...Nếu phát hiện thấy có những vi phạm như sử dụng vốn sai mục đích hoặc phát sinh những vấn đề có nguy cơ ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ, thì cán bộ tín dụng cần phải báo cáo ngay với trưởng phòng tín dụng để trình lãnh đạo xem xét quyết định ngừng cho vay hoặc có biện pháp thu hồi nợ trước hạn...Ngoài ra, việc nhận diện rủi ro thông qua các dấu hiệu cảnh báo cũng là một nội dung quan trọng giúp cán bộ tín dụng nhanh chóng phát hiện và xử lý kịp thời các khoản tín dụng có vấn đề. 3.2.5. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay Mặc dù đã có rất nhiều biện pháp được đề xuất nhằm hạn chế rủi ro, tuy nhiên không thể hoàn toàn loại bỏ được sai lầm, nghĩa là vẫn tiềm ẩn rủi ro tín dụng. Vì vậy, biện pháp bảo đảm tiền vay được xem như chiếc phao cứu sinh cuối cùng giúp ngân hàng khắc phục những tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra. Với ý nghĩa như vậy, hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay sẽ là giải pháp quan trọng tiếp theo mà chi nhánh cần quan tâm tới. Trong thời gian tới, để thực hiện đúng quy định về biện pháp bảo đảm tiền vay, đảm bảo an toàn và hiệu quả, Chi nhánh cần thực hiện tốt các giải pháp sau: Một là, Chi nhánh cần phải tuân thủ các điều kiện của Nhà nước, và của NHNo & PTNT Việt Nam về biện pháp bảo đảm tiền vay tương ứng. Tuy nhiên, để thực hiện tốt yêu cầu trên, chi nhánh cần phải có biện pháp tích cực nhằm hạn chế tính chủ quan trong các quyết định lựa chọn, đặc biệt kiên quyết xử lý đối với những hành vi thông đồng với khách hàng gây thiệt hại cho ngân hàng. Hai là, để có được một biện pháp bảo đảm tiền vay không những phù hợp với từng loại hình khách hàng cụ thể, mà còn đảm bảo an toàn, hiệu quả, trước hết chi nhánh cần phải có sự tính toàn đầy đủ, đồng bộ và cân nhắc chính xác các yếu tố như tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, hiệu quả dự án, tài sản bảo đảm, mối quan hệ tín dụng trên cơ sở phối hợp kiểm tra, đối chiếu thực tế, sau đó phân ra từng loại khách hàng để có những chính sách ưu tiên hợp lý. Ba là, mặc dù cho vay có tài sản bảo đảm, các khoản vay vẫn hàm chứa rủi ro không thu đủ nợ do nhiều nguyên nhân khác nhau như tài sản hư hỏng, khó bán, giảm giá trị...vì vậy, việc quyết định lựa chọn đúng đắn biện pháp bảo đảm tiền vay cho từng khảo vay cụ thể đảm bảo an toàn và hiệu quả thì cần phải đánh giá khách hàng một cách toàn diện và chính xác, sau đó chọn lấy yếu tố mạnh nhất để quyết định biện pháp bảo đảm tiền vay. Đặc biệt, Chi nhánh không được chủ quan cho vay chỉ căn cứ vào mỗi tài sản đảm bảo, xem nhẹ các yếu tố tài chính, dự án sản xuất kinh doanh của khách hàng, nhất là đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 3.2.6. Trích lập dự phòng rủi ro Như đã đề cập, đôi khi tài sản đảm bảo tiền vay vẫn chưa thể đủ để giúp ngân hàng thu hồi được khoản vay. Mặt khác, không phải lúc nào khách hàng cũng có đủ tài sản đảm bảo nợ vay trong khi áp lực cạnh tranh đòi hỏi ngân hàng đôi khi phải chấp nhận cho vay không có tài sản bảo đảm. Trong những trường hợp như vậy, để khắc phục rủi ro thì các ngân hàng đều phải lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Đối với Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà cũng vậy, để giảm thiểu những tác động bất lợi khi rủi ro xảy ra trong hoạt động tín dụng, Chi nhánh phải có các giải pháp chủ động chống đỡ bằng cách thực hiện trích lập quỹ dự phòng tạo nguồn để xử lý rủi ro. Dự phòng là việc trích lập ra từ thu nhập theo một tỷ lệ quy định để trang trải một phần hoặc toàn bộ phần vốn bị mất, trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro đối với từng khoản đã cho vay và toàn bộ danh mục cho vay. Như vậy, vấn đề cần quan tâm ở đây là cách phân loại và đánh giá khoản vay như thế nào để có thể đánh giá được mức độ rủi ro. Để bảo đảm phân loại khoản vay đúng với mức độ rủi ro của nó, Chi nhánh cần dựa vào các chỉ tiêu như: lịch sử quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng; tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh; các luồng tiền và dư nợ của khách hàng tại ngân hàng; năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ...Với việc phân loại này, sẽ giúp nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong việc theo dõi chặt chẽ khoản vay để đánh giá rủi ro tín dụng tại từng thời điểm, từ đó giúp chi nhánh có thể đánh giá được mức độ rủi ro hợp lý của mỗi danh mục đầu tư, giám sát nguồn vốn phân bổ hiệu quả hơn. Việc trích lập dự phòng rủi ro của Chi nhánh hiện nay đang tuân thủ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước tuy nhiên không nên quá máy móc. Theo đó, hiện nay chi nhánh chỉ trích lập dự phòng đối với các khoản nợ quá hạn còn các khoản vay trong hạn thì tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro là 0%. Trong thời gian tới, để giảm thiểu được rủi ro, chi nhánh cần trích lập dự phòng đối với cả những khoản vay đã xuất hiện dấu hiệu rủi ro, tỷ lệ trích lập sẽ được căn cứ vào mức độ rủi ro. Muốn đảm bảo ngồn để trích lập dự phòng rủi ro, đòi hỏi hoạt động tín dụng của Chi nhánh phải có hiệu quả tài chính cao, tức là chênh lệch lãi suất giữa đầu ra và đầu vào phải đảm bảo về mặt tài chính. Đồng thời, hoạt động tín dụng cũng phải đạt chất lượng đúng như yêu cầu đủ để trích lập dự phòng theo phân loại nợ. 3.3. Một số kiến nghị đề xuất đối với các cơ quan Trong thời gian qua, Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà, bằng chính động lực và sự phấn đấu của mình đã có những cố gắng trong công tác hạn chế rủi ro tín dụng và đạt được những thành công nhất định. Trong thời gian tới, để đảm bảo cho các giải pháp đưa ra thực sự có hiệu quả và mang tính khả thi thì cần phải có sự tác động của môi trường vĩ mô tới hoạt động của ngân hàng. Là một đơn vị trực thuộc hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam, đồng thời chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ vì vậy các giải pháp đưa ra với chi nhánh sẽ không phát huy tác dụng nếu như NHNo & PTNT Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ không hỗ trợ và tạo được môi trường thuận lợi, ổn định. Một số đề xuất gồm: 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ Tạo điều kiện để đổi mới và hiện đại hóa hệ thống thông tin tín dụng: Như đã đề cập, thông tin có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động tín dụng. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, thông tin vẫn chưa được các NHTM Việt Nam khai thác triệt để phục vụ cho các giai đoạn của quy trình tín dụng. Bên cạnh nguyên nhân chủ quan từ phía các Ngân hàng thì nguyên nhân khách quan là do Việt Nam hiện nay về cơ bản vẫn là một nước lạc hậu về thông tin, nguồn cung cấp thông tin còn nghèo nàn, việc truyền tải thông tin kém hiệu quả và không bình đẳng. Do thiếu thẩm định thông tin nên nhiều NHTM còn ngần ngại trong việc tài trợ cho doanh nghiệp để xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài vì không thể thẩm định thẩm định hợp đồng của đối tác. Trong thời gian tới, Chính phủ cần tạo điều kiện để phát triển thông tin, cụ thể là: Chính phủ cần tạo điều kiện để các tổ chức xúc tiến thương mại Việt Nam mở nhiều chi nhánh ở những thị trường được đánh giá là có tiềm năng lớn. Đồng thời tăng cường hỗ trợ về tài chính, trang bị thêm các phương tiện cho các cán bộ ngoại giao để mở rộng giao tiếp, tạo mối quan hệ tốt đẹp với chính phủ và doanh nghiệp các nước sở tại, có như vậy các tổ chức xúc tiến thương mại Việt Nam mới có thể lấy được những thông tin đắt giá và đồng hành cùng doanh nghiệp, giúp ngân hàng thẩm định thông tin về đối tác, tính khả thi của các dự án xuất khẩu của doanh nghiệp. Song song với việc ban hành các văn bản quy định rõ ràng những thông tin nào được phổ biến, những thông tin nào không được phổ biến, Chính phủ nên sớm thành lập tổ chức chuyên cung cấp thông tin, chuyển tải luật lệ, quy định đến các ngân hàng nói riêng và dân cư nói chung. Bên cạnh đó, tăng cường kiểm tra, xử lý thích đáng tổ chức tín dụng không báo cáo thông tin theo đúng quy định, báo cáo không đầy đủ, không kịp thời và thiếu chính xác cho Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Hoàn thiện các chính sách, chế tài về bảo đảm tiền vay: Đối với các NHTM, tài sản bảo đảm có vai trò quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng. Tuy nhiên hiện nay, các chính sách về đảm bảo tiền vay vẫn còn nhiều bất cập như việc cấp giấy chứng nhận quyền sử đụng đất, các đăng ký giao dịch đảm bảo, công chứng tài sản còn chậm và thủ tục còn rắc rối làm mất cơ hội kinh doanh của nhà đầu tư cũng như cơ hội đầu tư tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần có những cải cách, các chế tài cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi, bảo vệ quyền lợi của ngân hàng và khách hàng. Bên cạnh đó, Chính phủ cần sớm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật và các cơ chế chính sách nhằm tạo lập hành lang pháp lý ổn định đối với hoạt động tín dụng nói riêng và các hoạt động kinh tế nói chung. Ổn định kinh tế- chính trị, tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Trao thêm quyền tự chủ cho các Ngân hàng thương mại... 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Tăng cường quản lý các ngân hàng thông qua các quy định về kiểm toán bắt buộc, kiểm tra trình độ định kỳ cũng như tằng cường thanh tra và hỗ trợ các Ngân hàng nhận biết các rủi ro tiềm ẩn thông qua công tác đã thanh tra của các Ngân hàng, từ đó đưa ra các biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu rủi ro. Tăng cường quan tâm chỉ đạo và hỗ trợ cho công tác quản trị rủi ro của các NHTM thông qua việc cập phổ biến kinh nghiệm về quản lý rủi ro của các ngân hàng trong và ngoài nước, ban hành các văn bản thống nhất về quản lý rủi ro và có biện pháp chế tài nghiêm túc các NHTM không tuân thủ các quy định này. Hỗ trợ các NHTM trong việc đào tạo, tập huấn cho cán bộ nghiệp vụ - Nâng cao vai trò cung cấp thông tin của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước. Thực hiện minh bạch và công khai hóa thông tin, coi đây là tiền đề để nâng cao chất lượng quản lý rủi ro. Việc minh bạch và công khai thông tin phải được đảm bảo thực hiện không chỉ giữa các NHTM với Ngân hàng Nhà nước, giữa các NHTM với nhau hay trong nội bộ NHTM mà còn giữa NHTM với các nhà đầu từ, với công luận. 3.3.3. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế với các bộ phận cấu thành: - Một mô hình tổ chức quản trị rủi ro thống nhất với sự tham gia của Hội đồng quản trị, các Ủy ban, Ban lãnh đạo ngân hàng Cơ chế báo cáo độc lập với cơ cấu tổ chức kinh doanh - Các chính sách, quy trình thủ tục và hệ thống hạn mức thống nhất giúp ngân hàng xác định, đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro tín dụng phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả nhất. - Cải tiến phương pháp đo lường, kiểm soát và hệ thống thông tin quản trị rủi ro để hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh và công tác quản trị rủi ro của toàn hệ thống - Xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận và cá nhân trong công tác quản trị rủi ro tín dụng Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tín dụng đối với toàn hệ thống Xây dựng chiến lược phát triển tín dụng tùy thuộc vào mục tiêu, khả năng và thế mạnh. Từ đó, xây dụng chính sách tín dụng khoa học, phù hợp với các quy luật kinh tế thị trường, quy trình cụ thể, chi tiết để hướng hoạt động tín dụng của toàn hệ thống theo hướng tăng trưởng bền vững, phát huy lợi thế so sánh, hiệu quả, ít rủi ro. Thực hiện đồng bộ các giải pháp hỗ trợ hoạt động tín dụng như phát triển công nghệ thông tin; phát triển và nâng cao nguồn nhân lực; tăng cường công tác marketing và chăm sóc khách hàng, xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 trong toàn hệ thống cho tất cả các mặt nghiệp vụ của ngân hàng. Kết luận Trong kinh doanh ngân hàng việc ngân hàng đương đầu với rủi ro tín dụng là điều không thể tránh khỏi. Thừa nhận một tỷ lệ rủi ro tự nhiên trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là yêu cầu khách quan hợp lý. Vấn đề là làm thế nào để hạn chế rủi ro này ở một tỷ lệ thấp nhất có thể chấp nhận được. Với ý nghĩa như vậy, rủi ro tín dụng và các biện pháp hạn chế rủi ro là một đề tài mà các nhà quản trị ngân hàng đã và đang nghiên cứu không ngừng nhằm hoàn thiện trong các điều kiện mới để đạt được tỷ lệ lý tưởng nói trên. Với mong muốn đóng góp một phần kiến thức nhỏ bé của mình vào công tác nghiên cứu đấy, trên cơ sở phân tích từ thực trạng rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà, tôi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà”. Sau quá trình nghiên cứu cả về lý luận và khảo nghiệm thực tiễn, chuyên đề đã hoàn thành các nhiệm vụ sau: Hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng và các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng Phân tích thực trạng về công tác hạn chế rủi ro tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà. Trên cơ sở đó, đánh giá những thành công, thách thức và tìm ra nguyên nhân của vấn đề. Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh Hồng Hà. Mặc dù còn nhiều hạn chế, song hy vọng rằng với việc ứng dụng một cách có hiệu quả các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng trên sẽ giúp cho Chi nhánh NHNo & PTNT Hồng Hà nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung phát triển vững mạnh hơn trên con đường hội nhập vào thị trường tài chính khu vực và thế giới. MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG Sơ đồ 1.1: Các tác động chính của rủi ro tín dụng đến hoạt động 11 Sơ đồ 1.2: Trạng thái của chính sách tín dụng 16 Sơ đồ 1.3: Các dấu hiệu tài chính nhận biết rủi ro tín dụng 19 Sơ đồ 1.4: 5 yếu tố trong xem xét phân tích tín dụng 24 Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tín dụng 37 Sơ đồ 3.1: Quy trình cho vay đề xuất đối với Chi nhánh 64 Bảng 2.1: Kết quả huy động vốn của Chi nhánh NHNo & PTNT 31 Hồng Hà 31 Bảng 2.2: Quy mô cho vay từ năm 2005 đến năm 2007 32 Bảng 2.3: Tình hình hoạt động tín dụng từ năm 2005-2007 48 Bảng 2.4: Tình hình sử dụng vốn phân theo thời gian 48 Bảng 2.5: Tình hình sử dụng vốn theo thành phần kinh tế 50 Bảng 2.6: Tình hình nợ quá hạn từ năm 2005-2007 53 Bảng 2.7: Tình hình nợ xấu tại chi nhánh từ năm 2005- 2007 54 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7577.doc
Tài liệu liên quan