Hiệu quả sản xuất kinh doanh trong Công ty Dược Liệu TWI - Hà Nội

Lời mở đầu Hiện nay nền kinh tế nước ta đang vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong bối cảnh đó nhiều loại hình tổ chức kinh doanh, thuộc các thành phần kinh tế ra đời và cùng hoạt động trên thị trường, chính vì thế mà cạnh tranh trong kinh doanh ngày càng cao. Xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế đã thúc đẩy sản xuất tăng trưởng mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Xu hướng này đã lôi kéo tất cả các doanh nghiệp dù muốn hay không cũng phải từng bước hội nhập vào quỹ đạo c

doc53 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1209 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả sản xuất kinh doanh trong Công ty Dược Liệu TWI - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa nền kinh tế. Trong quá trình hội nhập của các doanh nghiệp thì hiệu quả sản xuất kinh doanh chiếm vị trí hết sức quan trọng, nó là một trong những nhân tố cơ bản cấu thànhvà quyết định xu hướng phát triển của doanh nghiệp, không những thế nó còn là mục tiêu số 1 mà mọi doanh nghiệp đều phải quan tâm. Như vậy, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh không những có ý nghĩa quyết định với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội. Sau thời gian thực tập tại Công ty Dược Liệu TWI, em nhận thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty còn thấp so với đơn vị cùng ngành. Vì vậy em mạnh dạn chọn chuyên đề: “Hiệu quả sản xuất kinh doanh trong Công ty Dược Liệu TWI - Hà Nội ’’ cho báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình. Để hoàn tất tốt báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo bộ môn Tài chính doanh nghiệp - Phương Thị Hồng Hà và các cô chú, anh chị trong Công ty Dược Liệu TWI - Hà Nội. Nội dung của báo cáo thực tập gồm ba chương sau: Chương I: Những vấn đề chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Chương II: Thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Chương III: Một số kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. CHƯƠNG I NHữNG VấN Đề CHUNG Về HIệU QUả SảN XUấT KINH DOANH TRONG DOANH NGHIệP Hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường: Trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đều nhằm đạt được lợi nhuận ở mức tối đa. Muốn đạt được mục tiêu này đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược sản xuất kinh doanh hợp lý, phù hợp với đIều kiện thực tế, thích ứng được với biến động thị trường. Mỗi doanh nghiệp là hệ thống có cấu trúc bên trong bao gồm nhiều phân hệ khác nhau và có mối quan hệ chặt chẽ với bên ngoài. Sản xuất kinh doanh là một trong những phân hệ chính có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ cho xã hội. Một sản phẩm (dịch vụ) có chất lượng cung cấp cho thị trường và được thị trường chấp nhận, đồng thời đem về cho doanh nghiệp một khoản thu lớn hơn khoản chi phí bỏ ra, điều đó chứng tỏ rằng phương án sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đang thực hiện có hiệu quả, cũng có nghĩa là mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp đã được thực hiện là có hiệu quả, cũng có nghĩa là mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp đã được thực hiện. Xét trong phạm vi một doanh nghiệp thì hiệu quả kinh doanh của hoạt động sản xuất kinh doanh gắn liền với yếu tố đầu vào và đầu ra. Muốn quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả cần phảI tổ chức khai thác sử dụng các yếu tố này một cách hợp lý. Đầu vào của quá trình sản xuất sản phẩm có thể bao gồm các yếu tố như: lao động (sống), nguyên vật liệu, công nghệ máy móc... Sản xuất đầu ra của các doanh nghiệp chủ yếu gồm hai loại: sản phẩm vật chất và dịch vụ. Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ thì sản phẩm đầu ra của nó thể hiện dưới dạng khó nhận biết một cách cụ thể so với quá trình sản xuất ra sản phẩm. Trình độ sử dụng các nguồn lực chỉ có thể dược đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức nào. Vậy: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là đại lượng so sánh giữa kết quả đầu vào và các nguồn lực được sử dụng. Bản chất của hiệu quả kinh doanh: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong tái sản xuất mở rộng, nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu kinh tế đã xác định cho mình. Khi nói tới hiệu quả kinh doanh là phạm trù tái sản xuất mở rộng có ý nghĩa là nó phải được xét trên tất cả các khâu từ sản xuất tới tiêu dùng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh trình độ và năng lực quản lý sản xuất để đảm bảo thực hiện có kết quả cao những nhiệm vụ (trước hết là kinh tế) đặt ra với chi phí thấp nhất. Muốn hiểu rõ hiệu quả sản xuất kinh doanh, phải phân tích sự khác biệt giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh và kết quả sản xuất kinh doanh đạt được trong một kỳ sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là phản ánh mối quan hệ so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu về dựa trên cơ sở của các thước đo chính là thước đo giá trị và thước đo hiện vật của các chỉ tiêu, có nghĩa là hiệu quả sản xuất kinh doanh bao gồm tất cả kết quả sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đạt được. Một doanh nghiệp tồn tại và hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp đó sản xuất kinh doanh phải có lãi và như thế là phải chiếm được thị phần trên thị trường. Vì vậy có thể hiểu rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh là hiệu số của cải thu về và cái bỏ ra, nó được biểu hiện ở hai mặt định lượng và định tính, hai mặt này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều kiện tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chỉ có hiệu quả khi mức đạt được bằng hoặc lớn hơn mục tiêu sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp xác định. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp đã đạt được mục tiêu lợi nhuận, giảm chi phí, đồng thời giúp doanh nghiệp tái đầu tư về chiều sâu, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới dây truyền công nghệ. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doang nghiệp được cải thiện tốt hơn, được nâng cao hơn, điều này có nghĩa là doanh nghiệp đã đạt được mục tiêu lợi nhuận. Từ đó mà doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, tăng chất lượng sản phẩm, nâng cao mức sống cho công nhân viên. Ngoài ra nó còn góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế cả nước. Còn đối với xã hội, một khi nền kinh tế xã hội hoạt động có hiệu quả, không chỉ tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, mà còn tăng thu nhập quốc dân, xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao phúc lợi xã hội, nâng cao mức sống và trình độ văn hoá cho nhân dân. Đó chính là sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Phương pháp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh và hệ thống chỉ tiêu đánh giá. Phương pháp đánh giá: Trong thực tế có rất nhiều phương pháp phân tích đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh được đề cập trong lý thuyết, nhưng thực chất người ta thường sử dụng hai phương pháp chính đó là: phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ. Phương pháp So sánh: Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các đIều kiện có thể so sánh được các chỉ tiêu tài chính (thông nhất về nội dung, tính chất và đơn vị tính toán...) và theo mục đích đánh giá mà xác định gốc so sánh. Nội dung so sánh bao gồm: - So sánh giữa số kỳ thực hiện này với kỳ trước để thấy rõ xu hướngthay đổi về tài chính của doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. - So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình tốt hay xấu. - So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về ssố lượng tương đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp. Phương pháp đánh giá tỷ lệ: Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ đại lượng tài chính trong quan hệ tài chính. Về nguyên tắc phương pháp này yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu. Trong phương pháp phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là nhóm tỷ lệ về doanh thu, về lợi nhuận và về vốn...các nhóm này phục vụ cho mục tiêu phân tích đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh: Để đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động kinh doanh phải sử dụng một số chỉ tiêu tổng quát vừa chi tiết vì mỗi chỉ tiêu có ý nghĩa và phạm vi đánh giá khác nhau. Như vậy, chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh được xác định bởi hai yếu tố là chi phí đầu vào và kết quả đầu ra, với hai dạng biểu sau: Dạng 1: Kết quả đầu ra Hiệu quả kinh doanh = Chi phí đầu vào Chỉ tiêu này phản ánh sức sản xuất, sinh lời của 1 đồng chi phí bỏ ra. Dạng 2: Chi phí đầu vào Hiệu quả kinh doanh = Kết quả đầu ra Chỉ tiêu này phản ánh suất hao phí chi ra để đạt được 1 đơn vị kết quả. Các kết quả đầu ra thường được sử dụng là các chỉ tiêu: giá trị tổng sản lượng, doanh thu, lợi nhuận, số nộp ngân sách... Chi phí đầu vào thường được sử dụng là: vốn, tổng vốn, vốn cố định, vốn lưu động, tài sản cố định,lao động, giá thành... 4.2.1 - Đánh giá các chỉ tiêu tổng quát: Để đánh giá hiệu quả kinh doanh chính xác và có cơ sở khoa học thì việc đầu tiên cần thiết phải thuực hiện xây dựng hệ thống các chỉ tiêu tổng quát: Lợi nhuận trước thuế - Tỷ suất lợi nhuận/ doanh thu = Doanh thu thuần Doanh thu thuần - Số lần luân chuyển tài sản = Vốn sản xuất bình quân 4.2.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định: Phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định là việc dựa vào các chỉ tiêu như sau: sức sản xuất, mức sinh lời, suất hao phí, để đánh giá hiệu quả cũng như lợi ích sử dụng vốn cố định đem lại. Từ đó có các căn cứ để đưa ra quyết định về mặt tài chính. Ta có các chỉ tiêu đánh giá như sau: Lợi nhuận trước thuế -Hệ số sinh lời TSCĐ = Nguyên giá TSCĐ bình quân Nguyên giá TSCĐ bình quân - Suất hao phí TSCĐ cho = 1 dơn vị lợi nhuận Giá trị xản suất - Hệ quả sử dụng vốn cố định = VCĐ bình quân 4.2.3 - Đánh giá hiệu quả sử dụng Vốn lưu động: Song song với việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định, các nhà quản trị càn lưu tâm đến phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc trưng của vốn lưu động luôn chịu sự chi phối của những đặc đIểm của tàI sản lưu động. Trong quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn. Nghĩa là vốn lưu động của doanh nghiệp không ngừng hoạt động qua các giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh doanh. Qúa trình này thường được diễn ra liên tục và thường xuyên lặp lại theo chu kỳ được gọi là quá trình tuần hoàn chu chuyển của vốn lưu động. Bao gồm các nội dung phân tích gồm các chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng của VLĐ = Hệ số sinh lời của VLĐ = Thời gian của 1 vòng luân chuyển = 4.2.4- Đánh giá kết quả tiêu thụ sản phẩm và lợi nhuận: Kết quả về tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trong doanh nghiệp được biểu hiện qua chỉ tiêu lỗ lãi giữ vai trò quyết định trong việc xác định kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm cao hay thấp chịu ảnh hưởng từ các nguyên nhân thuộc lĩnh vực trực tiếp sản xuất đến lĩnh vực quản lý. Do đó, đánh giá kết quả tiêu thụ sản phẩm hàng hoá sẽ cho thấy những chỗ còn yếu kém hay thế mạnh của qúa trình kinh doanh để đưa ra những giải pháp thích hợp. Lợi nhuận về tiêu thụ nhìn chung chịu ảnh hưởng của ba nhân tố chính: chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và lãi gộp. - Chi phí bán hàng: là những khoản chi phí phát sinh trong hoạt động bán hàng, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trong kỳ. Tiết kiệm chi phí bán hàng một cách hợp lý sẽ góp phần làm tăng lợi nhuận. - Chi phí quản lý doanh nghiệp là các khoản chi có liên quan đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp mà không tách riêng cho bất kỳ một hoạt động nào. Nó bao gồm chi phí liên quan đến việc tổ chức, điều hành doanh nghiệp như: chi phí nhân viên, chi phí quản lý, vật liệu ... - Giá vốn hàng bán: là chỉ tiêu quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đấu tiên đến lãi gộp, tiếp đến là lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp. Các nhân tố tác động đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Nhân tố đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp: Xét trong phạm vi một doanh nghiệp thì hiệu quả hạot động sản xuất kinh doanh gắn liền với hai yếu tố đầu ra và đầu vào. Muốn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần tổ chức khai thác sử dụng các yếu tố này một cách hợp lý. Đầu vào của quá trình sản xuất sản phẩm bao gồm các yếu tố sau: lao động ( sống ), nguyên vật liệu, công nghệ máy móc... - Lao động: Là một trong những nguồn lực cơ bản của quá trình sản xuất ra sản phẩm, nó quyết định trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Để quá trình sản xuất không bị gián đoạn thì doanh nghiệp luôn phải đảm bảo nguyên vật liệu được cung ưng phải có chất lượng tốt và kịp thời, tạo điều kiện để tăng năng suất lao động, đảm bảo về chất lượng sản phẩm. Từ đó sẽ thu hút được khách hàng, nâng cao uy tín cho doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. - Nguyên vật liệu: là một trong những yếu tố cơ bản sản xuất ra sản phẩm, nó quyết định trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Để quá trình sản xuất không bị gián đoạn thì doanh nghiệp phải luôn đảm bảo nguyên vật liệu được cung ứng phải có chất lượng tốt và kịp thời, sẽ tạo điều kiện để tăng năng suất lao động, đảm bảo về chất lượng sản phẩm. Từ đó sẽ thu hút được khách hàng, nâng cao uy tín cho doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. - Công nghệ máy móc: là yếu tố quan trọng đóng góp rất lớn vào quá trình sản xuất kinh doanh. Để sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp thì doanh nghiệp phải có máy móc công nghệ tốt để phù hợp với trình độ chuyên môn của lực lượng sản xuất của mỗi doanh nghiệp, thì mới phát huy hết khả năng và tránh lãng phí. Đầu ra của doanh nghiệp bao gồm hai yếu tố: nhu cầu thị trường và dịch vụ bán hàng. - Nhu cầu thị trường: là khả năng tiêu thụ sản phẩm nào đó trên thị trường. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn gắn liền với thị trường, sản phẩm các doanh nghiệp sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Do vậycác doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường để nắm bắt quy luật cung - cầu, từ đó có kế hoạch sản xuất và phân phối hàng hoá cho phù hợp nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Dịch vụ bán hàng: là những chế độ hậu mãi sau bán hàng của doanh nghiệp đói với khách mua như: chế độ khuyến mãi trực tiếp hay khuyến mại qua các trò chơi trúng thưởng... Kích thích sự tò mò và mang lại lợi ích cho khách hàng tạo điều kiện để tăng nhu cầu cho thị ttrường và đạt được hiệu quả kinh doanh tức là lợi nhuận. Nhân tố kỹ thuật và công nghệ: Trong quá trình sản xuất kinh doanh của cá doanh nghiệp đều có sự đóng góp rất lớn của cơ sở vật chất kỹ thuật. Thực tế cho thấy: khi doanh nghiệp có cơ sở kỹ thuật và công nghệ vững chắc thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó sẽ phát triển. Tuy vậy công nghệ kỹ thuật cũng phải phù hợp với trình độ của lực lượng lao động của mỗi doanh nghiệp thì mới phát huy hết khả năng và tránh được lãng phí. Trong điều kiện hiện nay khi mà chất lượng sản phẩm là mối quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng thì việc đảm bảo và cải tiển trên cơ sở kỹ thuật là một thách lớn của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp phải biết nâng cao khả năng đầu tư, cải tiến công nghệ và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và nâng cao trình độ của mình. Nhân tố tổ chức sản xuất: Trong bất kỳ một loại hình kinh doanh nào thì hiệu quả hoạt động của nó cũng gắn liền với trình độ quả lý và tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó, cho dù khoa học công nghệ tốt mà trình độ quản lý tổ chức kém thì không có hiệu quả mà ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp. Trình độ quản lý, tổ chức sản xuất, thể hiện bộ máy linh hoạt có chuyên môn cao và có nghệ thuật kinh doanh sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển, sẽ giúp cho doanh ngiệp có được bước đi đúng đắn đem lại hiệu quả kinh doanh cao cho doanh nghiệp. Chương II Tình hình thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Dược Liệu TWI Qúa trình hình thành và phát triển của công ty: Công ty Dược Liệu TWI là một doanh nghiệp nhà nước được hình thành từ 01/04/1971 theo quyết định số 170/BYT QĐ của Bộ YTế. Công ty có tên giao dịch là MEDIPPLANTEX. Là một doanh ngiệp thực hiện chế độ hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng tại ngân hàng, được sử dụng theo thể thức riêng được nhà nước quy định, hoạt động theo pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trụ sở hoạt động: Km 6 Đường Giải Phóng - quận Thanh Xuân - HN. Phone : 8643367 - 8643368 - 8641551. Fax : (04) 8641584 Trước đây công ty có tên là Công ty Dược Liệu cấp 1 chuyên mua, bán thuốc nam, thuốc bắc, cao đơn hoàn tán thuộc các tỉnh phía Bắc và một số tỉnh phía Nam. Đối tượng chủ yếu là trao đổi mua bán với các công ty, xí nghiệp Dược cấp I và cấp II, các bệnh viện xuất nhập khẩu. Hàng năm công ty thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh cấp trên giao và được cụ thể hoá bằng các hợp đồng kinh tế mua bán, trao đổi hàng hoá hai chiều đảm bảo số lượng, chất lượng số hàng hoá đó được chia đều cho các quý, các năm. Ngoài ra còn phục vụ nhu cầu phòng bệnh, phục vụ sản xuất và hàng xuất khẩu, đồng thời còn đóng góp vào ngân sách Nhà nước và tích luỹ một phần để lại quỹ doanh nghiệp. Do cơ cấu hình thành và nhiệm vụ của Bộ giao cho công ty có những thay đổi. Đến năm 1985 công ty công ty được đổi tên thành Công ty Dược Liệu TWI ( nay có tên là tổng công ty Dược Việt Nam) Từ ngày 09/ 02/ 1993 do quá trình phát triển kinh tế ngày càng cao, Bộ Y Tế đã ra quyết định số 95( QĐ95/BYT) ngày 09/02/1993 về việc bổ sung ngành kinh doanhchủ yếu của công ty kinh doanh thành phẩm tân dược, dụng cụ y tế thông thường, bao bì và hương liệu, mỹ liệu để bổ trợ cho việc phát triển dược liệu. Ngày nay, trong cơ chế thay đổi của nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường công ty gặp rất nhiều khó khăn. Thị trường kinh doanh thuốc chữa bệnh mở rộng để hoà nhập vào nền kinh tế hàng hoá, công ty Dược Liệu TWI có những thay đôỉ trong hoạt động kinh doanh của mình chuyển dần cho cơ chế kinh doanh mới. Tuy gặp nhiều khó khăn, song công ty luôn là lá cờ đầu trong nghành dược của trung ương, làm ăn có hiệu quả. Tuy nhiên mức thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên nói chung chưa cao, nhưng cũng đã ổn định và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, cung cấp các loại thuốc chữa bệnh với chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Chức năng nhiệm vụ của công ty Dược Liệu TWI: Theo điều lệ quyết định thành lập doanh nghiệp, công ty có chức năng sau: - Kinh doanh xuất nhập khẩu các loại thuốc tân dược, dược liệu, tinh dầu, đông dược, hoá chất dược dụngvà đặc biệt là thuốc sốt rét. - Nhận xuất khẩu uỷ thác cho các doanh nghiệp khác. Là một công ty trực thuộc liên hiệp các xí nghiệp dược liệu Việt Nam ( nay là Tổng Công ty Dược Việt Nam ) - Bộ YTế, Công ty Dược Liệu TWI phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Xây dựng tổ chức bộ máy kinh doanh và phải báo cáo kế hoạch sản xuất kinh doanh lên tổng công ty. - Quản lý và sử dụng vốn kinh doanh theo đúng chế độ chính sách, đạt hiệu quả kinh tế, đảm bảo phát triển vốn và tự trang trải về tài chính. - Thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng mua bán, liên doanh hợp tác với các tổ chức kinh tế. - Quản lý đội ngũ cán bộ công nhân viên, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người lao động. Sơ đồ và cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty: Đặc điểm cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty: Cơ cấu tổ chức của công ty được chia thành 5 phòng ban, 3 phân xưởng và một hệ thống kho tàng cùng với nhiều của hàng phân bổ nhiều địa điểm khác nhau trong thành phố Hà Nội. Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy công ty dược liệu TWI: Giám đốc Phó Giám đốc Phụ trách KD-NK Phó Giám đốc Phụ trách KT Kế toán Xuất khẩu TC-Hc,XDCB KD nội địA & NHậP KHẩU Kho cửa hàng 3 phân xưởng Kỹ thuật Trên tổng thể, công ty được chia thành các bộ phận: Ban Giám đốc và các phòng ban tạo thành một hệ thống, cùng nhau phối hợp sản xuất để hoàn hoàn thàn kế hoạch chung của công ty. Song mỗi phòng ban, mỗi phân xưởng lại có chức năng, nhiệm vụ riêng của mình. - Giám đốc: là người chịu trách nhiệm điều hành chung toàn công ty và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về hoạt động kinh tế của công ty. Một phần giám đốc giao cho phó giám đốc, ngoài ra giám đốc còn điều hànhtrực tiếp đối với phòng xuất khẩu, phòng kế toán tài vụ và phòng tổ chức hành chính. - Phó giám đốc là người giúp việc cho giám đốc. - Phòng kế hoạch kinh doanh do giám đốc 1 trực tiếp làm trưởng phòng và điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty về hàng nhập ngoại, hàng mua và hàng bán. Ngoài ra còn có nhiệm vụ cung cấp nguyên vật liệu, bao bì cho xưởng sản xuất. - Kế toán: tài vụ đảm nhiệm chức năng hạch toán kế toán, tạo vốn trong sản xuất và kinh doanh. Từ đó giúp giám đốc thấy rõ mọi hoạt động kinh tế của công ty hạch toán từng loại mặt hàng, từng loại sản phẩm. - Phòng xuất khẩu: thăm dò, tìm kiếm thị trường nước ngoài xem họ cần mặt hàng gì và trong nước có mặt hang đó không. - Phòng tổ chức hành chính: có một cơ cấu tổ chức hợp lý, phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các phòng ban, hợp lý giữa các công việc hành nghề cấp bậc. Nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc về nhân sự. - Phòng kỹ thuật kiểm nghiệm về nhân sự chịu trách nhiệm đối với tất cả các loại hàng kể cả hàng nhập ngoại, hàng mua về, hàng tự sản xuất đảm bảo chất lượng đúng theo tiêu chuẩn dược liệu. Ngoài ra phòng còn việc nghiên cứu ra các loại hàng mới. - Tổng kho: nhiệm vụ quản lý kho hàng của công ty và cụ thể mỗi kho có trách nhiệm riêng, ngoài ra công ty còn có những cửa hàng bán thuốc và giới thiệu sản phẩm mở rộng về nhiều địa điểm. Các phân xưởng: - Phân xưởng sản xuất thuốc viên chuyên sản xuất theo nhiệm vụ của phòng kế hoạch giao cho đó là sản xuất các loại thuốc viên tân dược chuyên dùng và các loại thuốc kháng sinh. - Phân xưởng sản xuất Đông Dược chuyên sản xuất các loại thuốc ra lẻ các loại thuốc thông thường, thuốc thang theo đơn đặt hàng của phòng kế hoạch. - Phân xưởng hoá dược chiết xuất của loại thuốc chống sốt rét và sản phẩm là các nguyên liệu chính cho các loại thuốc đó. Một phần được cung cấp cho các nghành trong Bộ Y tế, một phần để cung cấp thuốc viên cho phòng kinh doanh. Nhìn chung bộ máy quản lý của công ty tương đối phù hợp với thực hình thực tế, được thể hiện là một tập thể đồng nhất và đội ngũ cán bộ có chuyên môn, kỹ thuật và nghiệp vụ cùng đội ngũ công nhân lành nghề luôn làm việc hang say và nhiệt tình. Các phòng ban phân xưởng, đội sản xuất đều có chức năng riêng song tất cả đều không ngoài mục đích giúp Ban Giám đốc quản lý điều hành tốt hoạt động sản xuất kinh doanh, đứng vững và phát triển mạnh trong cơ chế thị trường. Đặc điểm về tổ chức và nhiệm vụ của phòng tài chính: Công ty Dược Liệu TWI là một đơn vị có quy mô lớn, địa bàn hoạt động tập trung, trang bị và ứng dụng phương tiện kỹ thuật ghi chép, tính toán, thông tin hiện đại, tổ chức quản lý tập trung. Như vậy, bộ máy kế toán của công ty được tổ chức theo mô hình kế toán tập trung của đơn vị bao gồm các bộ phận cơ cấu phù hợp với các khâu công việc, các phân hành kế toán, thực hiện công tác kế toán ở các bộ phận phụ thuộc đơn vị làm nhiệm vụ hướng dẫnvà thực hiện hạch toán ban đầu, thu nhận và kiểm tra sơ bộ chứng từ phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến hoạt động của bộ phận đó và giữ những chứng từ kế toán đó về phòng kế toán trung tâm của đơn vị. Kế toán trưởng Bộ máy kế toán của công ty tổ chức theo mô hình tập trung của đơn vị được thực hiện theo mô hình sau: Phó phòng KT ngân hàng Tiền lương BHXH, TSCĐ KT thanh toán KT các kho hàng Thủ quỹ KT các cửa hàng Máy tính KT tiêu thụ SP và công nợ KT phân xưởng và tính giá thành công xưởng Hiện nay, phòng kế toán của công ty có 17 nhân viên kế toán được phân chia thành các nhóm, các tổ. Mỗi tổ, mỗi bộ phận đều có chức năng nhiệm vụ riêng nhưng giữa các bộ phận có mối quan hệ khăng khít với nhau, bổ trợ cho nhau giúp cho cả bộ máy kế toánhoạt động đều đặn, phục vụ kịp thời cho công tác quản lý của công ty. Cụ thể nhiệm vụ của các kế toán như sau: - Kế toán trưởng( trưởng phòng): phụ trách công việc chung của cả phòng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc. Trưởng phòng bao quát công việc chung của phòng và kỹ thuật tính toán để hạch toán, dần đưa hệ thống máy mới vào công việc hạch toán. - Phó phòng: làm nhiệm vụ tổng hợp từ các bảng kê, nhật ký, lên sổ cái hàng tháng, hàng năm lên báo biểu quyết toán. Ngoài ra còn thay nhiệm vụ trưởng phòng khi trưởng phòng đi vắng. - Kế toán các kho hàng: vì nhiệm vụ công ty buôn bán là chủ yếudo vậy mà nguyên vật liệu chính khi tiêu thụ, khi dùng vào sản xuất tuỳ từng đối tượng sử dụngmà hạch toán cụ thể vào các bảng kê, nhật ký chứng từ, sổ cái. Kế toán các cửa hàng: làm nhiệm vụ tổng hợp trên các hoá đơn nhập và xuất bán hàng, mỗi tháng kiểm kê cửa hàng một lần vào cuối tháng, lên bảng kê, nhật ký chứng từ, sổ cái. - Kế toán TSCĐ, tiền lương, BHXH: Hàng tháng có nhiệm vụ phân bổ cho các đối tượng sử dụng, lên bảng kê số 4 vào nhật ký sổ cái cho phù hợp. - Kế toán thanh toán ngân hàng: hàng tháng có nhiệm vụ giao dịch với các ngân hàng cụ thể là các ngân hàng Công Thương, Ngoại Thương. Căn cứ vào các uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, séc chuyển khoản, séc lĩnh tiền mặt kế toán lên bảng kê số 2, lên nhật ký chứng từ số 2,3,4. - Kế toán thanh toán: hàng ngày căn cứ vào các chứng từ gốc các hoá đơn nhập hàng để viết phiếu thu, phiếu thu cuối tháng cộng sổ lên bảng kê số 1 và nhật ký chứng từ số 1. - Thủ quỹ: làm nhiệm vụ thu, chi tiền khi có phiếu thu, phiếu chi. Ngoài ra còn phải đi ngân hàng để nộp tiền hoặc rút tiền. - Kế toán tiêu thụ sản phẩm và theo dõi công nợ: căn cứ vào các chứng từ gốc và các hoá đơn nhập, xuất bán, kế toán có nhiệm vụ theo dõi các chi tiết công nợ đối với từng khách hàng tránh sự nhầm lẫn. - Ngoài các nhân viên của các bộ phận ra, còn có các nhân viên kế toán phụ trách các phân xưởng, trực thuộc phòng tài vụ. Các nhân viên kế toán này có nhiệm vụ trực tiếp tập hợp mọi chi phí phát sinh của phân xưởng, đồng thời chịu trách nhiệm tính giá thành công xưởng đối với từng loại sản phẩm, phân tích hoạt động kinh tế của phân xưởng. 4. Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Mỗi doanh nghiệp đều có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật khác nhau và nó có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. ở công ty Dược Liệu TWI thì những đặc điểm như: vốn kinh doanh, nguồn nhân lực, máy móc thiết bị thì lại đóng vai trò là các nguồn nhân lực thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh nhằm nâng caođược hiệu quả sản xuất kinh doanh. 4.1 Vốn kinh doanh: Vốn kinh doanh là yếu tố hết sức quan trọng trong tổ chức sản xuất kinh doanh nên giải quyết vấn đề về vốn mới đảm bảo được ổn định và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, công ty đã chủ động huy động từ các nguồn như: vay cán bộ công nhân, vốn do ngân sách cấp, vốn tự bổ sung... Vốn kinh doanh bao gồm: nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu, ta có bảng như sau: Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn của công ty Dược Liệu TWI: Đơn vị tính: tỷ đồng Nguồn vốn Số tiền Tỷ trọng nguồn vốn (%) A. Nợ phải trả 141,006 88,56 1. Nợ ngắn hạn 138,792 87,13 2. Nợ dài hạn 2,201 1,382 3. Nợ khác 0,11 0,07 B. Nguồn vốn chủ sở hữu 18,225 11,44 1. Nguồn vốn quỹ 17,597 11,047 2. Nguồn kinh phí 0,627 0,39 Tổng nguồn vốn 159,291 100.0 Nhìn vào bảng ta thấy tỷ số nợ phải trả năm 2002 chiếm 88,6% tổng nguồn vốn, còn nguồn vốn chủ sở hữu chiếm 11,4% năm 2002. Theo tỷ lệ trên ta có thể thấy nợ phải trả chiếm tỷ lệ quá lớn trong khi nguồn vốn chủ sở hữu lại quá ít. Công ty cần phải có biện pháp khắc phục về tình hình tài chính của mình. 4.2 Máy móc thiết bị: Trong quá trình hình thành và phát triển cùng với sự đòi hỏi của bản thân công tylà nâng cao năng suất, tạo thu nhập cao cho người lao động và đòi hỏi khắt khe của thị trường về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng... Máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ dùng cho sản xuất sản phẩm tại công ty là những tư liệu có giá tri lớn, thời gian sử dụng lâu dài (Gọi là TSCĐ) , công ty đã không ngừng đầu tư nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị đặc biệt là đầu tư vào tài sản cố định thể hiện: năm 2001 giá trị tài sản cố định của công ty vào khoảng 10,713 tỷ đồng nhưng đến năm 2002 công ty đã tăng 11,360 tỷ đồng. Hiện nay công ty có hệ thống máy móc thiết bị và công nghệ hiện đáp ứng tốt cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ tốt dây chuyền thiết bị và công nghệ sản xuất: thuốc viên, thuốc tân dược, dược liệu, tinh dầu, đông dược, hoá chất dược dụng và thuốc sốt rét...Công ty không chỉ tập chung đầu tư vào lĩnh vực sản xuất trực tiếp mà còn đầu tư vào mua sắm những thiết bị quản lý hiện đại, nâng cao hiệu quả hoạt động và tiết kiệm thời giancho cán bộ công nhân viên văn phòng như: máy vi tính, máy in, máy đếm tiền, máy photocopy... 4.3 Nguồn nhân lực: Trong suốt quá trình hoạt động vừa tròn 32 năm, đội ngũ công nhân viên không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Công ty luôn chú trọng việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn hàng năm cho công nhân viên nhất là lực lượng cán bộ trẻ được đào tạođưa vào hàng ngũ lãnh đạo của công ty. Hiện nay, toàn công ty có 350 người lao động dài hạn và 37 người lao động thử việc, thời vụ, ngắn hạn. Trong đó trình độ trên đại học là 135 người, trình độ trung cấp là 43 người và công nhân các loại là 127 người. Nói chung tình hình phân bổ nhân lực của công ty hoàn toàn hợp lý, phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và đặc thù của công ty. 4.4 Đặc điểm về quy trình công nghệ, sản phẩm và nguyên vật liệu: Do mặt hàng thuốc là mặt hàng đặc biệt , nó liên quan đến sức khoẻ và sinh mạng của con người nên quy trình sản xuất có đoạn phải đảm bảo khép kín và vô trùng. Đặc biệt đối sản phẩm thuốc viên, đơn vị của nó phải chính xác đến miligam, mililít nhưng lại có giá trị rất lớn, phải đảm bảo theo tiêu chuẩn dược điển Việt Nam. Hiện nay công ty Dược Liệu TWI có 3 phâ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9482.doc
Tài liệu liên quan