Hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp công nghiệp sau cổ phần hóa của Đà Nẵng

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế thì việc nâng cao hiệu quả hoạt động của DN phải được coi là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược. CPH DNNN đến nay được coi là một giải pháp có nhiều ưu điểm nhất trong các giải pháp tái cơ cấu lại DNNN. Hội nghị trung ương 3 khóa IX (tháng 9/2001) đã ra nghị quyết “Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN”, coi đó là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược lâu dài với nh

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp công nghiệp sau cổ phần hóa của Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều khó khăn, phức tạp, mới mẻ. Đến Hội nghị trung ương 9 khóa IX (tháng 01/2004) Đảng ta quyết định “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực DNNN, trọng tâm là CPH mạnh hơn nữa” [17, tr.191]. Đại hội X Đảng ta tiếp tục khẳng định: “khuyến khích phát triển mạnh hình thức đa sở hữu mà chủ yếu là các DNCP thông qua việc đẩy mạnh CPH DNNN” [18, tr.231]. “Đẩy mạnh và mở rộng diện CPH DNNN, kể cả các tổng công ty, nhằm tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, để vốn Nhà nước sử dụng có hiệu quả và ngày càng tăng lên, đồng thời thu hút mạnh các nguồn lực trong nước, ngoài nước cho phát triển. Thực hiện nguyên tắc thị trường trong việc CPH DNNN”[18, tr.232]. Quá trình CPH DNNN thời gian qua là quá trình “vừa đi, vừa dò”, từ “khép kín” sang thực hiện đấu giá công khai theo nguyên tắc thị trường, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm với tinh thần chủ động, từng bước vững chắc [35, tr.18]. Thực tiễn sau 13 năm thực hiện CPH DNNN, kể từ năm 1992, nhất là sau Nghị quyết trung ương 3 và Nghị quyết trung ương 9 khóa IX trở lại đây cho thấy, chủ trương đó là hoàn toàn đúng đắn, ngày càng đi vào cuộc sống. Nếu 6 năm kể từ 1992 đến 1998, chúng ta chỉ CPH được 30 DN, và 5 năm sau đó, kể từ 1998 tới trước Hội nghị trung ương 3 khóa IX (tháng 8/2001), có 523 DNNN được CPH thì trong vòng hơn 4 năm trở lại đây, chúng ta đã hoàn thành CPH 2.347 DNNN, nâng số DNNN được CPH lên tới 2.890 đơn vị trong tổng số 5.655 DNNN cần phải CPH [35, tr.12-13]. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của thời kỳ hậu CPH là tổ chức tốt và nâng cao hiệu quả việc sử dụng vốn tại các DNCP. Hiệu quả sử dụng vốn tại các DNCP nói chung, DNCNCP nói riêng là vấn đề lớn và phức tạp đòi hỏi phải nghiên cứu một cách có hệ thống về lý luận và tổng kết, đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn trong nước và quốc tế. Đà Nẵng với vị thế là thành phố trực thuộc trung ương và là đô thị hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đã xuất hiện nhiều DNCP từ CPH DNNN. Vì thế, hiệu quả sử dụng vốn sau CPH tại các DNCP nói chung, DNCNCP nói riêng cũng là một yêu cầu bức thiết cần phải đặt ra và giải quyết; nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa và Việt Nam chuẩn bị là thành viên của WTO. Đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ về các DN của thành phố Đà Nẵng sau CPH và đặc biệt là vấn đề hiệu quả sử dụng vốn tại các DNCN sau CPH. Xuất phát từ thực trạng đó, việc nghiên cứu, đánh giá một cách có hệ thống tình hình sử dụng vốn tại một số DNCN sau CPH của thành phố Đà Nẵng để có cơ sở xây dựng những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNCN sau CPH; là vấn đề vừa cơ bản cấp bách, vừa có tính lâu dài, đồng thời đó cũng là vấn đề có tính thời sự xã hội. Chính vì vậy, việc triển khai nghiên cứu đề tài “Hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp công nghiệp sau cổ phần hóa của Đà Nẵng” là một trong những đòi hỏi bức thiết của thực tiễn ở thành phố Đà Nẵng hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu CPH DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, là một trong những giải pháp quan trọng nhằm sắp xếp đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN, xây dựng kinh tế nhà nước vững mạnh, đủ sức giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN [35, tr.12]. Thời gian qua đã có nhiều cấp, ngành từ trung ương đến địa phương, nhiều nhà quản lý, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Việc nghiên cứu về DNNN sau CPH nói chung, DNCNCP nói riêng đã có một số công trình khoa học, hội thảo, bài viết được công bố. Tuy nhiên, đi sâu nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn tại DNCN sau CPH mới chỉ được đề cập như một giải pháp hoặc nội dung riêng lẻ. Trong thời gian gần đây, trên cấp độ quốc gia đã có 2 cuộc hội thảo lớn về CPH và hậu CPH DNNN: - Tháng 9/2005, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và Ngân hàng thế giới(WB) đã kết hợp tổ chức hội thảo “Hậu CPH DNNN”. Hội thảo đã được các nhà khoa học, quản lý trong và ngoài nước trình bày nhiều tham luận nhằm làm sáng tỏ hơn nguyên nhân tạo ra sự khác biệt trước và sau CPH, ảnh hưởng của cơ cấu sở hữu đến DNCPH, đồng thời tập trung hơn vào những vấn đề phát sinh sau CPH DNNN, nhất là vấn đề quản trị doanh nghiệp để có cơ sở đề ra các giải pháp thiết thực cho quá trình đẩy mạnh CPH và quản trị DN sau CPH trong thời gian tới. - Tháng 3/2006, Tạp chí Cộng sản, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Báo Nhân dân và Đảng ủy khối các cơ quan kinh tế trung ương đã tổ chức hội thảo “Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tiến trình CPH DNNN”. Hội thảo đã làm rõ những vấn đề chính yếu sau: + CPH DNNN- thực tế và những vấn đề đặt ra đối với sự lãnh đạo của Đảng. + Thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong tiến trình thực hiện CPH DNNN. + Phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng trên lộ trình CPH và sau CPH DNNN. Ngoài hai cuộc hội thảo lớn đã nói trên còn có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề CPH và hậu CPH DNNN được các nhà khoa học xuất bản thành sách hoặc đăng tải trên các tạp chí uy tín của cả nước như Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Lý luận chính trị, diễn đàn “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước” trên Website Đảng cộng sản Việt Nam,... Ví dụ: - PGS,TS. Lê Hồng Hạnh (2004), CPH DNNN- những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - PGS,TS. Lê Văn Tâm (2004), CPH và quản lý DNNN sau CPH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - GS,TS. Lê Hữu Nghĩa (2004), CPH DNNN ở Việt Nam: mấy vấn đề về lý luận và thực tiễn, Tạp chí Cộng sản, số 22. - PGS,TS. Phạm Quang Huấn (2006), CPH DNNN : Mười lăm năm nhìn lại, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 333. - TS. Nguyễn Thị Thơm (2003), DNNN sau CPH: kết quả hoạt động, bất cập nảy sinh và hướng tháo gỡ, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7. - PGS, TS. Vũ Văn Phúc (2004), Giải pháp khắc phục những vấn đề đang đặt ra từ thực trạng CPH DNNN hiện nay, Diễn đàn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trên Website Đảng Cộng sản Việt Nam. Riêng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chưa có một công trình nào nghiên cứu về vấn đề này. Năm 2002 UBND thành phố đã lập đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN thuộc thành phố quản lý đến năm 2005. Như vậy, vấn đề hiệu quả sử dụng vốn tại các DNCN sau CPH vẫn đang trong quá trình nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn. Là người làm công tác giảng dạy và nghiên cứu, tác giả luận văn mạnh dạn nghiên cứu đề tài này với hy vọng góp phần nhỏ bé vào quá trình tìm lời giải hoàn thiện cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại các DNCN sau CPH ở nước ta. Trong quá trình nghiên cứu tác giả luận văn đã kế thừa và chọn lọc những ý tưởng của các công trình đã công bố nhằm góp phần phân tích, luận giải, hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn tại DNCN sau CPH; tiến tới đề xuất, kiến nghị và đưa ra một số giải pháp về hiệu quả sử dụng vốn tại DNCN sau CPH của thành phố Đà Nẵng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ tính chất vấn đề cần nghiên cứu và khả năng của bản thân, đề tài đặt ra các mục đích và nhiệm vụ giải quyết các vấn đề sau * Mục đích của đề tài: + Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn trong các DNCN sau CPH của thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua. + Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại các DNCN sau CPH của Đà Nẵng. * Nhiệm vụ đề tài: + Khảo sát và kế thừa, nghiên cứu các công trình, các tài liệu có liên quan đến hướng nghiên cứu đề tài. + Làm rõ ý nghĩa lý luận và thực tiễn hiệu quả sử dụng vốn và các vấn đề liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn trong các DNCN sau CPH. + Nghiên cứu và phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn trong các DNCN sau CPH của thành phố Đà Nẵng. + Rút ra một số nhận xét về tình hình sử dụng vốn trong các DNCN sau CPH của Đà Nẵng. + Xây dựng một số giải pháp, kiến nghị chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNCN sau CPH nhằm quản trị DNCN sau CPH từng bước được tối ưu. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: hiệu quả sử dụng vốn trong DNCN sau CPH. - Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu một số DNCNCP được hình thành từ CPH các DNNN thuộc sự quản lý của thành phố Đà Nẵng từ năm 2000 đến 2005. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ đề tài đặt ra, ngoài phương pháp luận khoa học Mác – Lênnin, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác, cụ thể như: khảo sát, điều tra nghiên cứu thực tế, tổng hợp, phân tích thống kê, so sánh và một số phương pháp có liên quan. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn - Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về vốn, hiệu quả sử dụng vốn, đưa ra hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong các DNCN sau CPH. - Góp phần luận chứng được những vấn đề cần giải quyết và xác định các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn sau CPH của DNCN. - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho DNCN sau CPH. 7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn Kết quả của luận văn có thể giúp cho các cấp chính quyền, các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn của DNCN sau CPH tham khảo trong nghiên cứu cũng như ứng dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu nội dung luận văn gồm 3 chương, 10 tiết. Chương 1 Một số vấn đề lý luận về hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp công nghiệp sau cổ phần hóa 1.1. một số đặc trưng về vốn của doanh nghiệp cổ phần 1.1.1. Khái niệm về vốn Vốn là một phạm trù kinh tế, tuy nhiên quan niệm về vốn hiện nay còn có nhiều điểm chưa thống nhất. Theo Từ điển tiếng Việt, vốn là những tài sản bỏ ra lúc đầu, thường biểu hiện bằng tiền, dùng trong sản xuất, kinh doanh, nói chung trong hoạt động sinh lợi [47, tr.1104]. Trong dân gian, lâu nay vẫn tồn tại quan niệm “có vốn, có lời” – nghĩa là, vốn phải sinh ra lãi. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ phát triển của nền kinh tế nên quan niệm về vốn vẫn còn hạn hẹp, chẳng hạn - chỉ dừng lại ở nhận thức về vốn và lãi dưới hình thái tiền (tiền vốn, tiền lãi) mà chưa biết đến các hình thái khác của vốn như tài nguyên, nguồn lao động, cơ chế hay các hình thái tài chính khác; còn phổ biến nhận thức có thể có vốn – hòa (hòa vốn), vốn – lỗ (lỗ vốn) – nghĩa là chưa quán triệt tuyệt đối quan niệm đã là vốn thì phải sinh lãi, còn không sinh lãi thì không phải là vốn. Quan niệm trên về vốn khá tương đồng với quan niệm về tư bản trong các tài liệu kinh tế của phương Tây – là tư bản thì phải sinh ra lợi nhuận. Tuy nhiên, khi sử dụng phạm trù tư bản ở phương diện này thì phải tạm thời trừu tượng hóa về phương diện nó (tư bản) là một quan hệ bóc lột – tư bản sinh ra giá trị thặng dư (theo kinh tế chính trị Mác - Lênin). Tóm lại, vốn là phạm trù kinh tế khá tổng hợp và được đề cập đến trên nhiều phương diện khác nhau, chẳng hạn: - Vốn phản ánh quan hệ kinh tế. - Vốn là một phạm trù hạch toán phản ánh quan hệ so sánh. - Vốn là phạm trù của cơ chế và vốn có nhiều hình thái biểu hiện khác nhau. 1.1.2. Đặc trưng của vốn 1.1.2.1. Phân loại vốn Để tìm hiểu rõ hơn về vốn cũng như vai trò của vốn đối với sản xuất kinh doanh của DNCNCP, cần phân chia vốn thành các cấu phần khác nhau dựa trên một số tiêu thức cơ bản. Có rất nhiều cách phân loại nhưng trong phạm vi luận văn này tác giả đề cập đến một số cách phân loại chủ yếu sau: - Căn cứ theo đặc điểm luân chuyển vốn để phân thành: + Vốn cố định: Là giá trị của toàn bộ máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ, mặt bằng sản xuất. ở hình thức này, vốn tham gia vào nhiều chu kỳ sản phẩm và từng phần giá trị của vốn chuyển dần vào sản phẩm mà vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Do vậy, việc xác định giá trị hao mòn hay khấu hao TSCĐ (cả hữu hình và vô hình) sẽ quyết định đến việc bù đắp, sửa chữa và đổi mới TSCĐ cũng như quá trình đầu tư, nâng cao năng suất lao động và hiện đại hóa DN [39, tr.25-79]. Vốn cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn của DN. Để quản lý, sử dụng hiệu quả vốn cố định cần nghiên cứu những tính chất và đặc điểm của TSCĐ. + Vốn lưu động: “là giá trị bằng tiền của toàn bộ TSLĐ và tài sản lưu thông để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của DN được tiến hành bình thường” [5]. Trong thực tế, sự vận động của VLĐ không diễn ra một cách tuần tự như lý thuyết nêu trên mà các giai đoạn vận động của vốn đan xen vào nhau, các chu kỳ sản xuất được lặp đi lặp lại, vì vậy vốn chu chuyển tuần hoàn liên tục. VLĐ rất quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh, nó quyết định sự tăng trưởng và phát triển của sản xuất kinh doanh của DNCNCP. DNCNCP nào sử dụng nhiều VLĐ thì sẽ sản xuất ra được nhiều sản phẩm. Từ ý nghĩa đó gắn với việc sử dụng VLĐ phải tiết kiệm bởi vì với một lượng VLĐ nhất định nếu quản lý tốt, phân bổ hợp lý việc sử dụng vốn trên các giai đoạn lưu chuyển vốn sẽ mang lại hiệu quả sản xuất mà không cần phải tăng vốn và ngược lại. Việc phân chia vốn thành VCĐ và VLĐ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quản lý và sử dụng đối với mỗi loại. Hơn nữa, cách phân chia này cho phép nghiên cứu vai trò của mỗi loại vốn. Nếu như VCĐ phản ánh trình độ năng lực sản xuất của DNCNCP, thì VLĐ là điều kiện để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách liên tục và ổn định. Do đó, DNCNCP cần phải xác định cơ cấu và quy mô của mỗi loại một cách chính xác và khoa học dựa trên những định mức kinh tế kỹ thuật tiên tiến mới có thể chủ động bảo toàn và phát triển vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. - Ngoài ra còn căn cứ vào quyền sở hữu để phân thành: nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Căn cứ theo thời gian huy động, sử dụng phân thành: nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời. Căn cứ theo phạm vi hoạt động chia ra: nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài. Các cách phân loại này cho phép DNCNCP đề ra các khả năng huy động vốn và các hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện của DN trong phạm vi khuôn khổ luật pháp cho phép, tạo cho DN môi trường hoạt động và khả năng chủ động trong hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo đủ vốn hoạt động nhưng tiết kiệm, từ đó phát huy được hiệu quả sử dụng vốn. 1.1.2.2 Đặc trưng của vốn nói chung Từ quan niệm trên về vốn và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường có thể khái quát vốn có một số đặc trưng cơ bản sau: - Vốn là một hình thái đặc biệt của tài sản - đó là bộ phận tài sản phải đem lại thu nhập, làm tăng tiêu dùng trong tương lai. - Vốn phải tồn tại phổ biến dưới dạng các hình thái giá trị - bộ phận giá trị đem lại giá trị tăng thêm. - Vốn phải không ngừng vận động biến đổi và phát triển – nghĩa là: nó phải đồng thời xuất hiện ở tất cả các hình thái khác nhau; nó phải liên tục vận động biến đổi từ hình thái này sang hình thái khác; các hình thái của vốn trong một quá trình hay trong toàn bộ nền kinh tế phải luôn tồn tại trong quan hệ cân đối, tỷ lệ với nhau. - Vốn phải được tham gia vào các hoạt động, các quá trình đầu tư; do vậy nó phải đủ lớn, có hình thái phù hợp. - Phương thức huy động và sử dụng vốn phải hiệu quả - vì vậy, nó phải cụ thể, phù hợp với từng qui trình cụ thể, với trình độ phát triển cụ thể của nền kinh tế. - Vốn phải được xem xét trên phương diện thời gian . - Vấn đề sở hữu vốn về mặt kinh tế.v.v.. 1.1.2.3. Đặc trưng của vốn trong các doanh nghiệp công nghiệp cổ phần Một là, vốn được biểu hiện bằng những lượng giá trị của những tài sản. Điều này có nghĩa là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản hữu hình và vô hình như: nhà xưởng, đất đai, thiết bị, nguyên liệu, chất xám, thông tin,... Như vậy, một lượng tiền thoát ly giá trị thực của hàng hóa để đưa vào đầu tư thì không gọi là vốn đầu tư; những khoản nợ không có khả năng thanh toán đi đến vỡ nợ cũng không đúng nghĩa của vốn. Do vậy, không phải tất cả tài sản đều là vốn mà chỉ có tài sản hoạt động mới được gọi là vốn, còn tài sản ở trạng thái tĩnh chỉ là vốn tiềm năng. Nhận thức được đặc trưng này DNCNCP phải tìm mọi cách để huy động được nhiều tài sản vào quá trình sản xuất kinh doanh, biến vốn tiềm năng thành vốn hoạt động. Hai là, vốn phải vận động sinh lời. Vốn biểu hiện là tiền nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để tiền biến thành vốn thì đồng tiền đó phải vận động với mục đích sinh lời. Trong quá trình vận động tiền có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng kết thúc vòng tuần hoàn nó phải trở về hình thái ban đầu của nó là tiền với giá trị lớn hơn. Nhận thức được đặc trưng này thì DNCNCP phải tìm mọi cách làm cho đồng vốn sinh lời, không ứ đọng, phải tìm mọi biện pháp để huy động mọi nguồn lực vào phát triển sản xuất kinh doanh. Ba là, tiền vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng đủ lớn mới có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Một lượng vốn chưa đủ lớn để trang trải những chi phí đầu tư ban đầu thì không thể tiến hành sản xuất kinh doanh được. Do đó, các DNCNCP không chỉ khai thác các tiềm năng về vốn của DN mà phải tìm cách thu hút nguồn vốn như góp vốn, hùn vốn, phát hành cổ phiếu, nhận vốn liên doanh,... Bốn là, vốn có giá trị về mặt thời gian, điều này có nghĩa là phải xem xét yếu tố thời gian của đồng vốn. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, đặc trưng này không được xem xét kỹ lưỡng vì nhà nước tạo ra sự ổn định của đồng tiền một cách giả tạo trong nền kinh tế lúc đó. Nhưng trong nền kinh tế thị trường phải xem xét giá trị thời gian bởi sức mua của đồng tiền ở các thời điểm khác nhau là khác nhau do ảnh hưởng của giá cả, lạm phát. Nhận thức được đặc trưng này của vốn để tránh được việc so sánh đơn thuần là thu nhập bù đắp chi phí có lãi, một việc làm khá phổ biến diễn ra lâu nay tạo ra hiện tượng “lãi giả, lỗ thật” trong các DNNN trước CPH. Đặc trưng này phục vụ cho việc tính toán các phương pháp bảo toàn vốn là phải đưa vốn về cùng một thời điểm để so sánh Năm là, vốn bao giờ cũng gắn với chủ sở hữu nhất định. Rõ ràng là không thể có những đồng vốn vô chủ; ở đâu có những đồng vốn vô chủ thì ở đó sẽ chi tiêu lãng phí, kém hiệu quả. Chỉ khi nào xác định rõ đích thực chủ sở hữu thì đồng vốn mới nhận thức được đầy đủ, chi tiêu mới tiết kiệm và có hiệu quả. Nhưng cũng có thể người sử dụng vốn để thực hiện kinh doanh không phải là người chủ sở hữu đồng vốn đó, nhưng nó vẫn có chủ sở hữu nhất định, người chủ sở hữu này đuợc ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn trọng quyền sở hữu của mình. Đặc trưng này có ý nghĩa rất lớn đối với DNCNCP vì người lao động là chủ sở hữu vốn và tài sản tại DN, đồng thời là chủ sử dụng vì vậy xử lý tốt mối quan hệ này tạo ra động lực thúc đẩy quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả. Sáu là, vốn là một loại hàng hóa đặc biệt và cũng như mọi hàng hóa khác nó có giá trị và giá trị sử dụng. Đã là hàng hóa thì nó cũng phải có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của “hàng hóa vốn” là ở chỗ khi sử dụng hàng hóa đó sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn. Như mọi hàng hóa khác, “hàng hóa vốn” được mua bán trên thị trường dưới hình thức mua bán quyền sử dụng vốn. Giá mua chính là lãi suất mà người vay vốn phải trả cho người cho vay vốn (chủ sở hữu) để có được quyền sử dụng lượng vốn đó. Giá cả này tăng, giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là quan hệ cung cầu trên thị trường. Người vay vốn có quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Việc mua bán được diễn ra trên thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, giá mua bán vốn cũng tuân theo quy luật cung cầu trên thị trường vốn. Đối với DNCNCP thì giá vốn phải trả cho các cổ đông là cổ tức. Bảy là, vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản hữu hình mà nó còn là biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản vô hình như vị trí địa lý, lợi thế thương mại, nhãn mác sản phẩm, bằng phát minh sáng chế,… Chính vì lẽ đó cần phân biệt vốn và tài sản của DNCNCP. Vốn là một lượng tiền tệ mà các chủ DN đầu tư vào các hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, còn tài sản là biểu hiện hình thái vật chất của vốn như TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, hàng hóa, vật tư, nợ phải thu, các khoản đầu tư khác của DN. Đặc trưng này có ý nghĩa rất quan trọng vì nó cho thấy công dụng và đa dạng của các loại vốn trong DNCNCP, buộc các nhà quản lý phải xem xét đến quá trình sử dụng vốn như thế nào sao cho hiệu quả. Ngoài ra, DNCNCP còn có những đặc trưng về vốn rất riêng chẳng hạn như: - Vốn thuộc nhiều chủ sở hữu ( cổ đông ). - Vốn do Chủ tịch và HĐQT quản lý, điều hành. - Lợi nhuận phải phân chia thành nhiều bộ phận khác nhau, theo nhiều cấp độ khác nhau. Qua phân tích đặc trưng của vốn trong nền kinh tế thị trường, nhận thấy rằng, đây là những vấn đề có tính chất nguyên lý, là cơ sở cho việc hoạch định các chính sách quản lý, nâng cao quản lý và hiệu quả sử dụng vốn của các DNCN sau CPH đạt hiệu quả cao. 1.2. Hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp công nghiệp cổ phần 1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp công nghiệp cổ phần 1.2.1.1.Quan điểm chung về hiệu quả sử dụng vốn Tùy theo cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau mà có những cách hiểu khác nhau về hiệu quả sử dụng vốn. Trên quan điểm hạch toán, hiệu quả sử dụng vốn là một bộ phận của hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn góp phần tạo nên hiệu quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, là một mặt của hiệu quả kinh doanh do vốn chỉ là một yếu tố của quá trình kinh doanh. Về mặt lượng, hiệu quả kinh doanh biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Về mặt chất, việc đạt được hiệu quả kinh doanh cao phản ánh năng lực và trình độ quản lý, đồng thời cũng đòi hỏi sự gắn bó giữa việc đạt được những mục tiêu kinh tế với việc đạt được những mục tiêu xã hội. Để hiểu rõ phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai khái niệm: hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả kinh doanh là những gì mà DN đã đạt được sau một quá trình kinh doanh hay một thời gian kinh doanh nhất định. Kết quả bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của DN; kết quả kinh doanh có thể là những đại lượng cân, đong, đo, đếm được như số lượng sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận, thị phần,… hoặc có thể là đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín, chất lượng sản phẩm, danh tiếng của sản phẩm trên thị trường. Trong khi đó, hiệu quả kinh doanh được xác định trên cơ sở so sánh giữa đầu ra và đầu vào thông qua các chỉ tiêu: lợi ích và chi phí là kết quả (đầu ra) và chí phí (các nguồn lực đầu vào) hay phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực. Cần chú ý rằng, trình độ sử dụng các nguồn lực không thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị mà chỉ là một phạm trù tương đối, được phản ánh bằng số tương đối là tỷ số giữa kết quả và hao phí nguồn lực. Người ta thường nhầm lẫn giữa phạm trù hiệu quả kinh doanh với phạm trù mô tả sự chênh lệch giữa kết quả và hao phí nguồn lực, bởi vì chênh lệch giữa kết quả và chi phí luôn là số tuyệt đối và chỉ phản ánh mức độ đạt được về một mặt nào đó chứ không cho thấy trình độ sử dụng các nguồn lực. Nếu kết quả là mục tiêu của quá trình kinh doanh thì hiệu quả là phương tiện để có thể đạt được các mục tiêu đó. Trên phương diện này, hiệu quả sử dụng vốn lại là một khái niệm rộng, bao hàm hiệu quả kinh doanh cả mặt kinh tế, chính trị, xã hội, là thước đo tăng trưởng của mỗi DN, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội xác định. Hiệu quả sử dụng vốn thường được thể hiện thông qua quan hệ so sánh giữa các lợi ích trực tiếp và gián tiếp thu được với các chi phí trực tiếp và gián tiếp phải bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu coi hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu thì hiệu quả sử dụng vốn là phương tiện hữu hiệu để đạt được mục tiêu đó. Nói đến sử dụng vốn có hiệu quả có nghĩa là trong quá trình hoạt động kinh doanh phải thu được những lợi ích cao nhất đồng thời với chi phí thấp nhất. Như vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn là hai phạm trù khác nhau, giải quyết ở hai góc độ khác nhau, song có quan hệ biện chứng với nhau. Sản xuất kinh doanh chỉ đạt hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố sản xuất (trong đó có vốn) đạt hiệu quả cao. Nếu coi hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu thì hiệu quả sử dụng vốn là phương tiện hữu hiệu để đạt được mục tiêu đó. Tóm lại, có thể phát biểu rằng: Hiệu quả sử dụng vốn phản ánh một mặt của hiệu quả sản xuất kinh doanh, là thước đo trình độ quản lý và sử dụng vốn của DN trong việc tối đa hóa lợi ích thu được với tối thiểu hóa chi phí nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. 1.2.1.2. Hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp công nghiệp cổ phần - Hiệu quả sử dụng vốn phải dựa trên cơ sở mức sản xuất vượt quá điểm hòa vốn để xác định: Quan điểm này cho rằng, kết quả hữu ích thực sự được xác định khi thu nhập bù đắp hoàn toàn số vốn bỏ ra, phần vượt trên điểm hòa vốn mới là thu nhập để làm cơ sở xác định hiệu quả sử dụng vốn. Quan điểm này có tác dụng chỉ ra ngưỡng DN không bị lỗ, để xác định quy mô đầu tư, quy mô sản xuất nhằm đạt được lợi nhuận mong muốn. - Quan điểm của các nhà đầu tư: Các nhà đầu tư trực tiếp (những người mua cổ phiếu, góp vốn) thì hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá thông qua tỷ suất sinh lời trên một đồng vốn cổ đông và chỉ số tăng giá cổ phiếu mà họ nắm giữ hay nói cách khác đi là tỷ lệ sinh lời trên một đồng vốn đầu tư. Các nhà đầu tư gián tiếp (các tổ chức, cá nhân cho vay vốn), việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn không chỉ ở lợi tức thu được từ việc cho vay vốn mà cả trong vấn đề bảo toàn giá trị thực tế của đồng vốn cho vay qua thời gian. Nhà nước (chủ sở hữu về kết cấu hạ tầng, đất đai, tài nguyên,…): DN sử dụng vốn có hiệu quả thực hiện tốt các sắc thuế của Nhà nước sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách, góp phần tạo thêm sức mạnh cho nền kinh tế quốc dân, Nhà nước thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội. Nhà nước coi sử dụng vốn đồng nghĩa với hiệu quả kinh doanh trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả được xác định thông qua tỷ trọng về thu nhập mới sáng tạo ra, tỷ trọng thu qua ngân sách,… - Dựa trên lợi nhuận kinh tế: Lợi nhuận kinh tế = Tổng doanh thu – Tổng chi phí theo số liệu kế toán - (Chi phí ngầm + chí phí cơ hội) Chí phí ngầm là những chi phí không được hạch toán vào giá thành sản phẩm nhưng có liên quan đến giá thành sản phẩm như lợi thế công ty, uy tín của DN,… Chi phí cơ hội là chi phí của việc ra quyết định - đó là giá trị của cơ hội tốt nhất trong số các cơ hội còn lại không được lựa chọn. Đây là quan điểm xác định hiệu quả sử dụng vốn mang tính chất toàn diện, nhưng nó chỉ có ý nghĩa về mặt nghiên cứu hoặc quản lý, còn về hạch toán cụ thể thì không thể xác định được chi phí ngầm và chí phí cơ hội. - Dựa trên cơ sở thu nhập thực tế: Quan điểm này xuất phát từ điều kiện nền kinh tế có lạm phát, do vậy vấn đề nhà đầu tư quan tâm là lợi nhuận ròng thực tế chứ không phải lợi nhuận ròng. Lợi nhuận ròng thực tế được đo bằng khối lượng giá trị hàng hóa có thể mua được từ lợi nhuận ròng để thỏa mãn được nhu cầu tiêu dùng của các nhà đầu tư. Quan điểm này đã phản ánh được tiêu chuẩn đích thực cuối cùng về kết quả lợi ích tạo ra đồng vốn. - Dựa trên doanh thu: Quan điểm này cho rằng, sản lượng sản phẩm sản xuất ra nhiều, doanh thu cao tức là DN có hiệu quả kinh tế cao và sử dụng vốn có hiệu quả. Xét trên một khía cạnh nào đó, sản lượng và doanh thu cũng phần nào phản ánh những kết quả và sự cố gắng nhất định của nhà DN. DN tiêu thụ được nhiều sản phẩm tức là thực hiện được giá trị sản lượng cao, có khả năng thích ứng với thị trường. Sản phẩm của DN và giá cả là phù hợp và được người mua chấp nhận, song sản lượng hay doanh thu vốn dĩ mới chỉ là các chỉ tiêu tổng hợp về quy mô mà chưa phải các chỉ tiêu chất lượng. Sự gia tăng của doanh thu có thể là do DN mở rộng quy mô, sử dụng thêm vốn, lao động và các yếu tố đầu vào hoặc dơn giản chỉ là sự gia tăng của giá cả do các nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, không thể chỉ căn cứ vào các chỉ tiêu đó mà kết luận đánh giá về hiệu quả của DNCNCP. - Dựa trên tốc độ quay vòng vốn: Nếu vốn quay vòng càng nhanh thì DN có thể coi như đạt được hiệu quả sử dụng vốn cao. Tuy vậy, cũng phải thấy rằng tốc độ vòng quay của vốn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: cơ cấu vốn hay cấu tạo hữu cơ của DN, giá bán hàng liên quan đến tốc độ tiêu thụ sản phẩm, phương thức bán hàng, phương thức thanh toán,… trong đó có các yếu tố phụ thuộc vào thể chế, hệ thống thanh toán và những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của DN. - Dựa trên tỷ suất lợi nhuận: Quan điểm này cho rằng, hiệu quả sử dụng vốn được coi là cao khi DN đạt được tỷ suất lợi nhuận cao. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp quan trọng số một đối với các DN. Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất quyết định đến sự sống còn và phát triển của DN. Như vậy, quan điểm cho rằng một DN đạt được tỷ suất lợi nhuận cao có thể được xem như có hiệu quả sử dụng vốn cao là hoàn toàn có cơ sở. Song trên thực tế để có tỷ suất lợi nhuận cao DN phải đạt được hiệu quả cao trong hàng loạt các hoạt động của quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Hơn thế nữa, tùy theo các loại hình sản xuất kinh doanh cũng như ở các giai đoạn cụ thể ngoài lợi nhuận, DN còn phải quan tâm đến các mục tiêu khác về xã hội không kém phần quan trọng. - Thông qua đánh giá các lọi ích kinh tế – xã hội: Việc đánh giá về chất lượng hoạt động của DN không thể chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn phải chú trọng đến các vấn đề lợi ích kinh tế - xã hội khác. Đối với một số loại hình DN, đặc biệt là DN sản xuất và cung ứng hàng hóa công cộng, sự tồn tại và phát triển của các DN này không thể trông vào lợi nhuận mà là các lợi ích kinh tế – xã hội do họ cung cấp, vì vậy các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội phải đặt lên hàng đầu. Ngoài ra, hiệu quả sử dụng vốn còn phải tính đến các chi phí phát sinh để ngăn ngừa và giải quyết các hậu quả về môi trường sinh thái cũng như các ảnh hưởng ngoại sinh không mong muốn xảy ra cùng với quá trình sản xuất và kinh doanh của DNCNCP. Tóm lại, tùy theo cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau mà chúng ta có các quan điểm khác nhau về hiệu quả sử dụng vốn, nhưng cần thấy rõ rằng, hiệu quả sử dụng vốn góp phần tạo nên hiệu quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh d._.oanh, là một mặt của hiệu quả kinh doanh do vốn chỉ là một yếu tố của quá trình kinh doanh. Khi nói đến hiệu quả kinh doanh thì có thể có một trong các yếu tố của nó không đạt hiệu quả. Còn nói đến hiệu quả sử dụng vốn, không thể nói đã sử dụng có hiệu quả nhưng lại bị lỗ vốn, có nghĩa là hiệu quả sử dụng vốn phải thể hiện trên hai mặt: bảo toàn được vốn và tạo ra các kết quả theo mục tiêu kinh doanh. Kết quả lợi ích tạo ra do sử dụng vốn phải đáp ứng được lợi ích của DN, các nhà đầu tư, cổ đông và xã hội. 1.2.2. Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp công nghiệp cổ phần Hiệu quả sử dụng vốn là biểu hiện một mặt của hiệu quả kinh doanh, nó phản ánh trình độ quản lý và sử dụng vốn của DNCNCP. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể xác định được rằng số vốn mà DN đã và đang sử dụng thực sự có hiệu quả hay không? Thực tế đã chứng minh rằng, có thể đưa ra nhiều tiêu thức để xác định mức độ hiệu quả của số vốn đang được sử dụng tuỳ theo từng mục đích giá trị và mục đích kinh doanh của DN. 1.2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN là lợi nhuận, hay nói rõ hơn đó là lợi nhuận còn lại của DN sau khi đã trừ thuế (còn gọi là lợi nhuận ròng). Lợi nhuận phản ánh kết quả tổng hợp của hàng loạt kết quả tổng hợp của hàng loạt các biện pháp quản lý và quyết định của DNCNCP. Vì vậy, nó cũng phản ánh kết quả của quá trình quản lý, sử dụng vốn của DNCNCP. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của DNCNCP người ta thường sử dụng các hệ số khả năng sinh lời để so sánh. Các hệ số sinh lời là thước đo quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Tuy nhiên, từ cách tiếp cận khác nhau cho phép đánh giá khả năng sinh lời ở các phương diện khác nhau từ các tiêu thức khác nhau như so sánh lợi nhuận với doanh thu, vốn chủ sở hữu, vốn đầu tư... Nếu xét khả năng sinh lời từ hoạt động kinh doanh của DNCNCP, ta có các chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn, tỷ suất lợi nhuận gộp kinh doanh trên doanh thu và tỷ suất lợi nhuận ròng kinh doanh trên doanh thu: Doanh thu (thuần) trong kỳ Hiệu suất sử dụng vốn = Vốn bình quân trong kỳ Lợi nhuận gộp từ kinh doanh Tỷ suất lợi nhuận gộp k.doanh/d.thu = Doanh thu thuần Lợi nhuận gộp từ kinh doanh = Doanh thu thuần - giá vốn (hoặc giá thành sản phẩm tiêu thụ) Hệ số này cho biết sự hoàn thiện của một DNCNCP về mặt sản xuất kinh doanh cũng như khả năng tạo vốn bằng tiền. Nó là thước đo khả năng sinh lợi, thông qua chỉ tiêu này cho biết chiến lược kinh doanh của DNCNCP. Đối với ngành công nghiệp, DN nào đầu tư vào TSCĐ càng lớn thì tỷ suất lợi nhuận gộp càng cao và DN đầu tư vào TSCĐ càng thấp thì tỷ suất lợi nhuận gộp thấp. Lợi nhuận ròng Tỷ suất lợi nhuận ròng / d.thu = Doanh thu thuần Hệ số này chỉ ra tỷ trọng kết quả chiếm trong các hoạt động của DNCNCP. Tỷ suất lợi nhuận ròng là thước đo chỉ rõ năng lực của DNCNCP trong việc tạo ra lợi nhuận và năng lực cạnh tranh trên thị trường, nó cho biết 1 đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Chỉ tiêu này có tầm quan trọng đặc biệt bởi vì nó chỉ ra rằng, nếu chi phí tăng thì DNCNCP không thể tăng giá bán do cạnh tranh hoặc giá có giới hạn của thị trường, khi đó lợi nhuận giảm. Khi giá bán giảm, doanh thu giảm, muốn tỷ suất lợi nhuận không đổi thì phải giảm chi phí. Tỷ suất lợi nhuận cho phép so sánh hoạt động giữa các DNCNCP với nhau. Trên thực tế, do chính sách khấu hao không đồng nhất ảnh hưởng tới lợi nhuận, vì vậy để so sánh giữa các DNCNCP với nhau khi sử dụng hệ số này cần loại trừ ảnh hưởng của khấu hao. Hệ số được xác định bằng công thức: Lợi nhuận ròng + khấu hao Tỷ suất lợi nhuận và khấu hao/d.thu = Doanh thu thuần Nếu xét khả năng sinh lời kinh tế, nghĩa là so sánh lợi nhuận với vốn đầu tư để đánh giá kết quả hoạt động của DNCNCP, khi đó sử dụng chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi vốn hay còn gọi là chỉ tiêu hiệu quả toàn bộ vốn. Lợi nhuận ròng Tỷ suất doanh thu vốn = (hiệu quả toàn bộ vốn) Toàn bộ vốn bình quân sử dụng trong kỳ Tài sản có đầu kỳ + tài sản có cuối kỳ Toàn bộ vốn b.quân sử dụng trong kỳ = 2 Chỉ tiêu này rất quan trọng, nó là thước đo hiệu quả của việc quản lý và sử dụng vốn của DNCNCP, nó cho biết mức thực lãi do một đồng vốn mang lại. Hệ số phản ánh khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh của DNCNCP. Nếu xét khả năng sinh lời tài chính, nghĩa là so sánh lợi nhuận ròng với vốn chủ sở hữu và vốn thường xuyên của DNCNCP ta có tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu và tỷ suất lợi nhuận vốn thường xuyên. Lợi nhuận ròng Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu = (hiệu quả) Vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ Chỉ tiêu này đo lường mức sinh lời của mỗi đồng vốn chủ sở hữu, nó phản ánh trình độ sử dụng vốn của những người quản lý DNCNCP, nó cho biết một đồng vốn mà các cổ đông bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lãi. Người đầu tư quan tâm nhất chỉ tiêu này, vì vậy, nếu tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu cao giúp DNCNCP có thể tìm được nguồn vốn mới trên thị trường tài chính để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển, làm cho DNCNCP phát triển không ngừng. Ngược lại, nếu tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu thấp và thấp dưới mức của hệ số sinh lời cần thiết trên thị trường thì DNCNCP gặp khó khăn trong việc huy động vốn nói chung và đặc biệt vốn chủ sở hữu nói riêng (như trái phiếu, cổ phiếu). Khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn dựa theo chỉ tiêu này chúng ta cần lưu ý đến khấu hao ảnh hưởng tới lợi nhuận, nếu DNCNCP áp dụng chế độ khấu hao cao thì tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu thấp, khi đó chưa thể đánh giá chính xác hiệu quả sử dụng vốn của DNCNCP được, và ngược lại, tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu cao cũng chưa thể phản ánh đầy đủ mức độ thuận lợi của DNCNCP do vốn chủ sở hữu nhỏ, khi vốn chủ sở hữu nhỏ thì mức độ rủi ro cao. Vì vậy, tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu phụ thuộc vào ngành nghề, quy mô, sự biến dạng của số liệu... ở các ngành khác nhau, thì trị số của chỉ tiêu này khác nhau, nên khi dùng chỉ tiêu này so sánh các DNCNCP cùng ngành, cùng quy mô thì kết quả phản ánh mới chính xác. Lợi nhuận ròng + Tiền lãi phải trả vốn vay trung và dài hạn Tỷ suất sinh lợi = vốn thường xuyên Vốn thường xuyên Vốn thường xuyên = Vốn chủ sở hữu + Vốn vay trung và dài hạn Hệ số này phản ánh khả năng sinh lời của vốn sử dụng lâu dài trong DNCNCP, nó cho biết DN có nên đi vay hay không? Trên đây là các chỉ tiêu chủ yếu được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung, ngoài ra để thấy được sự tác động của vòng quay toàn bộ vốn và tỷ suất doanh lợi ảnh hưởng tới hiệu quả của toàn bộ vốn của DNCNCP người ta còn sử dụng chỉ tiêu kép để phân tích. Tỷ suất doanh lợi vốn = Tỷ suất lợi nhuận ròng x Số vòng quay toàn bộ vốn Hay: Lợi nhuận ròng Toàn bộ vốn = Lợi nhuận ròng Doanh thu thuần x Doanh thu thuần Tổng số vốn b. quân s.dụng Để thấy ảnh hưởng của tỷ suất doanh lợi vốn và hệ số nợ đến tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu người ta sử dụng hệ số kép sau: Tỷ suất doanh lợi vốn Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu = Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong nguồn vốn Lợi nhuận ròng Doanh thu thuần = x Doanh thu thuần Vốn chủ sở hữu Tỷ suất doanh lợi vốn = 1 - Hệ số nợ 1.2.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Doanh thu Hiệu suất sử dụng TSCĐ = TSCĐ sử dụng bình quân trong kỳ Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ + Nguyên giá TSCĐ cuối kỳ TSCĐ sử dụng = bquân trong kỳ 2 Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị trung bình TSCĐ sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ việc sử dụng TSCĐ càng có hiệu quả. Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ Hiệu suất sử dụng VCĐ = VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ VCĐ đầu kỳ + VCĐ cuối kỳ VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ = 2 VCĐ đầu kỳ (hoặc cuối kỳ) = Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ (hoặc cuối kỳ) - Khấu hao luỹ kế đầu kỳ (hoặc cuối kỳ) Khấu hao luỹ kế ở cuối kỳ = Khấu hao đầu kỳ + Khấu hao tăng trong kỳ - Khấu hao giảm cuối kỳ Chỉ tiêu này phản ánh một đồng VCĐ tham gia vào sản xuất kinh doanh sẽ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Hiệu suất sử dụng TSCĐ càng cao thì chỉ tiêu này càng lớn. VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ Hàm lượng VCĐ = Doanh thu thuần trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết lượng vốn cố định cần thiết phải sử dụng để tạo ra một đồng doanh số doanh thu, nên chỉ số càng nhỏ càng đạt hiệu quả cao. Lợi nhuận ròng (lợi nhuận sau thuế) Hiệu quả sử dụng VCĐ = VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ Lợi nhuận ròng ở đây là lợi nhuận được tạo ra từ sự tham gia trực tiếp của TSCĐ, không tính các khoản lãi do các hoạt động khác như hoạt động tài chính, góp vốn liên doanh,... đem lại. Chỉ tiêu này phản ánh số lợi nhuận được tạo ra khi bỏ ra một đồng VCĐ vào sản xuất kinh doanh, chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao. 1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động Doanh thu thuần Vòng quay vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân Vốn lưu động đầu kỳ + Vốn lưu động cuối kỳ Vốn lưu động bình quân = 2 360 Kỳ luân chuyển vốn lưu động bình quân = Vòng quay vốn lưu động Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển của VLĐ trong năm. Số vòng quay càng lớn chứng tỏ vốn lưu động luân chuyển càng nhanh, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Để đánh giá hiệu suất VLĐ người ta sử dụng vòng quay hàng tồn kho và kỳ thu tiền bình quân.  Giá vốn hàng bán Vòng quay hàng tồn kho = Dự trữ tồn kho bình quân Vòng quay hàng tồn kho thể hiện số lần luân chuyển hàng tồn kho trong một thời kỳ nhất định. Số lần luân chuyển càng cao càng cho thấy tính hiệu quả trong việc quản lý vật tư, hàng hoá dự trữ cho DNCNCP. Dự trữ tồn kho bình quân Kỳ luân chuyển vốn dự trữ = x 360 ngày Giá vốn hàng bán Kỳ luân chuyển vốn dự trữ cho biết số ngày vốn dự trữ chuyển hoá thành tiền. Dự trữ đầu kỳ + Dự trữ cuối kỳ Dự trữ bình quân năm = 2 - Đối với DNCNCP: NVL sử dụng trong năm Vòng quay NVL = x 360 ngày Dự trữ nguyên vật liệu bình quân trong năm Dự trữ NVL bình quân trong năm Kỳ luân chuyển vốn NVL = x 360 NVL sử dụng trong năm Tổng giá thành sản phẩm tiêu thụ trong năm Vòng quay thành phẩm = Dự trữ bquân thành phẩm hoàn thành trong năm Dự trữ bquân thành phẩm hoàn thành trong năm Kỳ luân chuyển = x 360 vốn thành phẩm Tổng giá thành sản phẩm tiêu thụ trong năm - Chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân: Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu bình quân 1 ngày Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu (số ngày của 1 vòng quay các khoản phải thu), chỉ tiêu này càng nhỏ thì càng tốt. - Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ: Lợi nhuận ròng trong kỳ Hiệu quả sử dụng VLĐ = VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của VLĐ. Nó cho thấy một đồng VLĐ bỏ ra trong kỳ sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Vì thế, chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao. - Chỉ tiêu mức đảm nhiệm VLĐ: VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ Mức đảm nhiệm VLĐ = Tổng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này cho biết để đạt được một đồng doanh thu thì DNCNCP phải bỏ ra bao nhiêu đồng VLĐ. Vì thế, chỉ tiêu này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp công nghiệp cổ phần Việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không tác động trực tiếp đến tình hình tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNCNCP. Do đó, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cần phải xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới nó. Nghiên cứu các nhân tố này không những cho ta biết đó là những nhân tố nào, mà còn giúp dự đoán được sự biến động và ảnh hưởng của các yếu tố đến việc sử dụng vốn trong tương lai. ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố khác nhau. 1.3.1. Cơ chế huy động vốn của doanh nghiệp công nghiệp cổ phần Việc huy động vốn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc sử dụng vốn của DN, bởi vì, nếu hoạt động huy động vốn và cơ chế tạo vốn không đáp ứng được nhu cầu kinh doanh thì ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của DN. Đối với các DNCNCP, cơ chế huy động vốn đã có những thay đổi nhất định và được điều chỉnh phù hợp với cơ chế kinh tế. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, các chính sách, chế độ, quy định,… của Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước về huy động vốn, về tạo vốn cho DN nói chung, DNCN sau CPH nói riêng đã từng bước được điều chỉnh. - Trong cơ chế bao cấp, với đặc trưng là Nhà nước kiểm soát hoàn toàn vốn của DN, DN phụ thuộc vào vốn cấp phát của ngân sách Nhà nước và không phát huy được tính chủ động sáng tạo. - Cơ chế huy động vốn trong môi trường có điều tiết của Chính phủ: Đặc trưng của kiểu cơ chế này là sự mở rộng hơn các kênh thu hút vốn cho DN và đa dạng hóa các hình thức huy động với các công cụ tài chính khác nhau. Tuy nhiên, các DN phải tuân thủ các quy đinh chặt chẽ của Chính phủ và bị kiểm soát tương đối nghiêm ngặt của các cơ quan chức năng của Chính phủ như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, ủy ban chứng khoán Nhà nước,... hoạt động huy động vốn của DN bị kiểm soát về một số mặt như: phương thức huy động vốn, công cụ tài chính sử dụng, hạn mức vốn vay, cơ chế báo cáo. - Cơ chế huy động vốn của DNCNCP trong cơ chế thị trường: Đây là kiểu cơ chế hoàn toàn dựa vào các động lực kinh tế và cung cầu vốn trên thị trường để định hướng cho DN trong quá trình thu hút các nguồn tài chính nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Một xu thế đang nổi lên là quá trình phi điều tiết hóa đối với hoạt động thu hút các nguồn tài chính của DN. Hiện nay, hầu hết các nước công nghiệp phát triển đang áp dụng phổ biến mô hình này. Tuy nhiên, mức độ tự do hóa và kiểm soát của chính phủ ở các quốc gia có những sắc thái khác nhau. Các phương thức và công cụ tài chính để huy động vốn của DNCP ở nước ta hiện nay được quy định trong chương IV về công ty cổ phần của Luật Doanh nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006. 1.3.2. Phương hướng và phương án kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp cổ phần Hiệu quả sử dụng vốn trước hết được quyết định bởi khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của DN. Bởi vậy, phương hướng và phương án kinh doanh của DN có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn. Phương hướng và phương án kinh doanh phải được xây dựng trên cơ sở nhận biết thị trường, dự đoán thị trường và nắm bắt những cơ hội trong kinh doanh để quyết định quy mô, chủng loại, mẫu mã, chất lượng, giá cả sản phẩm. Như vậy, sản phẩm mới có thể tiến hành bình thường, TSCĐ mới có điều kiện phát huy hết công suất, người lao động trong DN mới có thu nhập, VLĐ mới luân chuyển nhanh và khi đó hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao. Ngược lại, nếu không lựa chọn đúng đắn phương hướng và phương án kinh doanh sẽ dẫn đến tình trạng sản xuất sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu thị trường, hàng hóa không bán được hoặc bán chậm, vốn bị ứ đọng, hiệu quả sử dụng vốn sẽ thấp. Việc xác định đúng đắn phương hướng sản xuất kinh doanh sẽ quyết định phương hướng đầu tư của DN và việc phân bổ các nguồn vốn thích hợp. Việc đảm bảo vốn kịp thời, bố trí vốn hợp lý, sử dụng chúng một cách có hiệu quả là nhân tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn. Sự ổn định của doanh thu và lợi nhuận có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô của vốn huy động, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ trọng của vốn huy động trong tổng số vốn của DN. Từ phương hướng sản xuất kinh doanh của DN sẽ quyết định đến cơ cấu tài sản: tỷ trọng TSCĐ, TSLĐ trong tổng tài sản của DN, quyết định tỷ trọng vốn dài hạn, ngắn hạn trong tổng vốn của DN, quyết định mức huy động vốn cho mỗi kỳ sản xuất kinh doanh. Khi doanh lợi vốn cao hơn lãi suất vốn vay, tức là lợi nhuận của DN gia tăng, thì khi có nhu cầu về vốn DN thường chọn hình thức vay vốn và như vậy, tỷ trọng các khoản nợ sẽ gia tăng. Ngược lại, khi doanh lợi vốn thấp hơn lãi suất vay thì tỷ trọng vốn chủ sở hữu sẽ tăng. Như vậy, đòi hỏi một chính sách huy động vốn hợp lý luôn đảm bảo đáp ứng các nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của DN, không xảy ra tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh và với mức chi phí huy động hợp lý không những có tác dụng tiết kiệm vốn kinh doanh, hạn chế sự lãng phí trong sử dụng vốn, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNCNCP. 1.3.3. Nguồn lao động, nguyên vật liệu và công nghệ Nội dung cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình lao động. Quá trình lao động làm thay đổi hình dạng, kích thước, tính chất hóa lý của đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm công nghiệp với chất lượng ngày càng cao, thỏa mãn ngày càng đầy đủ nhu cầu đa dạng của thị trường. Lao động là yếu tố quan trọng nhất tác động đến hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Trước hết, mối quan tâm đầu tiên là HĐQT, giám đốc là những người chịu trách nhiệm, ra quyết định về toàn bộ hoạt động kinh doanh của DNCNCP. Chính vì vậy, nếu HĐQT, giám đốc thông tỏ việc quản lý và vốn kinh doanh được sử dụng một cách có hiệu quả thì công việc kinh doanh sẽ đem lại nhiều lợi nhuận và ngược lại, nếu HĐQT, giám đốc yếu kém về năng lực quản lý và sử dụng vốn thì vốn kinh doanh của DNCNCP sẽ không được sử dụng một cách có hiệu quả, dễ bị thất thoát, mất vốn và kinh doanh thua lỗ. Dưới giám đốc là đội ngũ những người thừa hành, đó là đội ngũ những cổ đông - người công nhân, họ phải được đào tạo có tay nghề cao, có tâm huyết với công việc. Đây là yếu tố quan trọng vì chính họ trực tiếp tạo ra năng suất, chất lượng sản phẩm, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Tiếp theo lao động là nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất trực tiếp cấu tạo nên sản phẩm. Mặt khác, nhân tố đầu vào đối với DNCN chính là nguyên vật liệu. Do đó, để quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách liên tục, không bị gián đoạn, tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì điều kiện về nguyên vật liệu cần đáp ứng là: - Nguyên vật liệu phải đầy đủ, vì thiếu nó dẫn đến quá trình sản xuất kinh doanh có thể bị ngưng trệ, gián đoạn, thậm chí không tiến hành được hoạt động sản xuất. - Việc cung cấp nguyên vật liệu phải kịp thời, đúng tiến độ, điều này sẽ cho phép quá trình sản xuất diễn ra một cách ổn định, liên tục, không gián đoạn. - Chất lượng của nguyên vật liệu phải đảm bảo, vì chất lượng của nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đến việc sử dụng một cách hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu, đến hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt là VLĐ. - Chi phí nguyên vật liệu chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong cơ cấu giá thành, do đó, giảm chi phí nguyên vật liệu tới mức thấp nhất đồng nghĩa với hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Nguyên vật liệu hay nói cách khác nhân tố đầu vào không những giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, mà việc tổ chức và quản lý sử dụng tốt nhân tố này là biện pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Cuối cùng là công nghệ. Nhân tố này ảnh hưởng đến chất lượng và giá thành sản phẩm. Nếu công nghệ sản xuất tiên tiến, thiết bị công nghệ có chất lượng kỹ thuật cao, giá cả hợp lý, phù hợp với trình độ quản lý và sử dụng sẽ cho phép sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, tiết kiệm được chi phí nhân công, nhiên liệu, năng lượng, giảm thiểu tác động đến môi trường, môi sinh,… Vì vậy, việc lựa chọn đúng đắn công nghệ sẽ có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn của DN. Với công nghệ phù hợp làm cho TSCĐ có thể phát huy hết công suất, công nhân có đầy đủ việc làm, vốn lưu động luân chuyển nhanh, hiệu quả sử dụng vốn cao. Ngược lại, nếu không lựa chọn đúng công nghệ thì dẫn đến tình trạng sản xuất sản phẩm không đáp ứng nhu cầu của khách hàng, không tiêu thụ được, vốn bị ứ đọng, hiệu quả sử dụng vốn thấp. 1.3.4. Thị trường tiêu thụ sản phẩm Thị trường có tác động lớn đến việc sử dụng vốn trong DN. Các biến động về thị trường đầu vào là biến động về tư liệu lao động, là những thay đổi về máy móc công nghệ,… ảnh hưởng tới các chi phí về nguyên liệu của DN; nó có thể giúp DN lựa chọn công nghệ phù hợp, học tập kinh nghiệm sản xuất nhưng ngược lại nó có thể đẩy công nghệ của DN đi đến lạc hậu so với các đối thủ cạnh tranh. Các DN có sản phẩm nhập ngoại thì phải chịu thêm ảnh hưởng của các biến động trên thị trường thế giới và thay đổi tỷ giá ngoại tệ. Những biến động về thị trường đầu ra cũng tác động trực tiếp đến DN. Vấn đề đặt ra là sản phẩm phải mang tính cạnh tranh cao, có nghĩa là sản phẩm phải có chất lượng cao, giá thành hạ. Điều này chỉ có thể đạt được khi DN có kế hoạch đầu tư, cải tiến công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân, vốn cố định và vốn lưu động được sử dụng hiệu quả. 1.3.5. Trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp công nghiệp cổ phần Trình độ tổ chức và quản lý của DN là yếu tố vô cùng quan trọng đối với kết quả kinh doanh của DN. Trình độ tổ chức và quản lý của DN được thể hiện ở các mặt sau: - Tổ chức quản lý sử dụng TSCĐ, bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý, khai thác hết công suất thiết kế, sử dụng triệt để diện tích sản xuất sẽ làm giảm chi phí khấu hao trong giá thành đơn vị sản phẩm, từ đó làm tăng doanh thu, lợi nhuận và tăng hiệu quả sử dụng vốn. Việc quản lý chặt chẽ TSCĐ không để hư hỏng, mất mát và điều chỉnh kịp thời giá trị TSCĐ khi có trượt giá để tính đúng, tính đủ khấu hao sẽ có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Tổ chức, quản lý, sử dụng TSLĐ, việc xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng giai đoạn sản xuất kinh doanh sẽ tạo cho DN khả năng huy động hợp lý các nguồn vốn bổ sung. Nếu không tính đúng nhu cầu vốn lưu động sẽ dẫn đến tình trạng thiếu vốn, DN sẽ gặp khó khăn về khả năng thanh toán, sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn. Nếu huy động vốn thừa sẽ dẫn đến lãng phí vốn làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư sẽ làm hạ giá thành vật tư, làm hạ giá thành sản phẩm. Quản lý chặt chẽ, chính xác tiêu dùng vật tư theo định mức sản phẩm giảm được chi phí vật tư trong giá thành sản phẩm. Ngược lại quản lý lỏng lẻo dẫn đến thất thoát vật tư, tăng chi phí vật tư làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Một bộ máy tổ chức tốt và trình độ quản lý cao sẽ giúp hoạt động của DN đạt kết quả cao và ngược lại. Một cơ cấu tổ chức tốt thể hiện ở sự cân đối giữa lao động trực tiếp và lao động gián tiếp, phân công đúng người, đúng việc không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn tay nghề cho công nhân sản xuất cũng như cán bộ quản lý điều hành. Trong bộ máy quản lý này đặc biệt đề cập vai trò của HĐQT, giám đốc DN. HĐQT, giám đốc DN là những người toàn quyền quản lý và sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn của DN và là người chịu trách nhiệm, quyết định mọi vấn đề về tài chính trong DN, quyết định sử dụng đồng vốn của HĐQT, giám đốc đúng đắn, phù hợp xu thế phát triển thì DN sẽ kinh doanh có lãi, đồng vốn được sử dụng một cách tiết kiệm mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, nếu quyết định đó là sai lầm, không phù hợp sẽ dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh, vốn sử dụng không có hiệu quả thậm chí mất vốn. Đội ngũ cán bộ quản lý của DN - đội ngũ tham mưu chính cho giám đốc DN trong việc ra các quyết định kinh doanh - cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn. Một đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn vững vàng, tinh thông nghiệp vụ, năng động sáng tạo, phản ánh trung thực, đầy đủ, chính xác, kịp thời tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình sử dụng vốn trong DN sẽ giúp cho giám đốc DN có những quyết định kịp thời đúng đắn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, lực lượng lao động trực tiếp trong dây chuyền sản xuất cũng là một nhân tố quan trọng bởi đây là nhân tố tạo ra năng suất, chất lượng sản phẩm, hạ chi phí sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN. Trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Do đó, không ngừng nâng cao trình độ quản lý, đặc biệt là cán bộ quản lý sẽ góp phần không nhỏ đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DN. 1.3.6. Các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ Trước hết, đó là cơ chế quản lý và các chính sách của nhà nước. Cơ chế chính sách của nhà nước có tác động rất quan trọng đến hiệu quả sử dụng vốn của DNCNCP. Các vấn đề như môi trường, luật pháp và hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô đều là những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Khi chính phủ có những thay đổi trong đường lối, chính sách kinh tế hoặc có sự mất ổn định trong đời sống chính trị, các DN sẽ gặp rất nhiều khó khăn đối với sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, mất sự ổn định về giá cả, nhân công và vì vậy, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng vốn. Ví dụ: khi thay đổi quy định chế độ thu sử dụng vốn, thuế thu nhập DN bổ sung, trích khấu hao, tỷ lệ trích lập các quỹ,… ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của DN. Ngoài ra, lạm phát tiền tệ và những thay đổi chính sách của ngân hàng trung ương như lãi suất, tỷ giá hối đoái,… cũng có ảnh hưởng tương tự. Đối với các nước có nền kinh tế mở thì sự biến động của thị trường thương mại và thị trường tài chính quốc tế sẽ có tác động mạnh mẽ, đặc biệt đối với các DN hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. 1.4. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp công nghiệp cổ phần Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là mối quan tâm hàng đầu không chỉ của bản thân DNCNCP mà còn là sự quan tâm của các nhà đầu tư, của các cấp, các ngành và của toàn xã hội, đó là vấn đề sống còn trong môi trường cạnh tranh ngày càng diễn ra gay gắt, là giải pháp tích cực nhất nhằm giải quyết sự đòi hỏi tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu khách quan trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Sử dụng vốn có hiệu quả sẽ góp phần làm tăng số lượng và giá trị TSCĐ, TSLĐ của DN và của xã hội, hình thành những tiềm lực sản xuất mới, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh tranh của DN và của cả nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một tất yếu khách quan trong các DNCNCP được biểu hiện trên các mặt sau: - Củng cố vai trò của các DNCNCP trong nền kinh tế. - Khắc phục thực trạng sử dụng vốn chưa hiệu quả trong các DNNN sau CPH. - Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhằm tạo thêm vốn đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH đất nước. Mỗi DN là một tế bào của nền kinh tế; vì vậy, đổi mới và phát triển DNCNCP là một nhiệm vụ có tính chất chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Việc sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn vốn tạo điều kiện đầu tư theo chiều sâu nhằm khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có, tập trung cho các chặng công nghệ có tính chất quyết định đến năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh trạnh của DNCNCP và của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Chính điều này quyết định thành công hay thất bại trong cạnh tranh của DNCNCP. Nếu các DNCN sau CPH chậm đổi mới quản lý và công nghệ thì không những bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và hội nhập mà còn không đủ sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường đối với các thành phần kinh tế khác. Hơn thế nữa, đến khi khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, nếu DNCN sau CPH không đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị thì sẽ không đủ điều kiện để ứng dụng công nghệ tiên tiến, đa dạng hóa sản phẩm và sẽ mất thời cơ kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đồng nghĩa với việc tạo thêm vốn, hình thành những tiềm lực sản xuất mới tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, tạo nhiều việc làm, dễ chuyển đổi phương án sản phẩm, hình thành những mũi nhọn trong từng bước phát triển kinh tế đất nước. Nhờ vậy, sẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xác lập một cơ cấu hợp lý đa ngành, trong đó hình thành các ngành trọng điểm và mũi nhọn có tính hướng ngoại, năng động, bền vững và hiệu quả, tạo sự kết hợp tối ưu giữa cơ cấu ngành với cơ cấu vùng, lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế, nâng cao tỷ trọng và tốc độ phát triển của khu vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ so với khu vực sản suất nông nghiệp. - Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế chiều sâu, kinh tế tri thức. Các DNCNCP đang đứng trước sự thách thức có tính chất quốc tế cạnh tranh kỹ thuật cao, cạnh tranh nhân tài, cạnh tranh chất lượng và chủng loại sản phẩm. Nếu cứ dựa vào phương thức kinh doanh cũ thì không thể thích ứng được yêu cầu cạnh tranh thế giới. Đứng trước thách thức lớn ấy, các DNCNCP phải chuyển sang kinh doanh theo chiều sâu, bắt nhịp với xu thế hình thành nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức, kinh tế chiều sâu là mô hình kinh tế mà sự vận hành và phát triển của nó sẽ được quyết định chủ yếu bởi nguồn năng lượng đặc biệt là tri thức, chất xám, cho nên trong sản phẩm hàng hóa và dịch vụ hàm lượng tri thức chiểm tỷ trọng ngày càng cao; giá trị của sản phẩm phụ thuộc vào giá trị của yếu tố công nghệ, tri thức, trí tuệ lớn hơn nhiều so với các yếu tố truyền thống như vốn, tài nguyên và nguyên, nhiên vật liệu. - Tăng khả năng hội nhập với cộng đồng thế giới. Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu của thời đại. Thách thức lớn nhất của Việt Nam khi hội nhập là phải chấp nhận luật chơi quốc tế. Các DN Việt Nam thì thách thức lớn là phải nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm, mà điều này liên quan trực tiếp đến việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của DN. Điều đó buộc các DN phải có những biện pháp khả thi để cắm rễ sâu ngay trong thị trường nội địa và vươn ra thị trường thế giới. Để đạt được điều đó, các DN nói chung DNCN sau CPH nói riêng phải thực hiện cải thiện chất lượng và chiến lược kinh doanh của mình. Biện pháp cải thiện chất lượng, hiệu quả hoạt động của DN cần tập trung vào một số vấn đề: cải tiến phương thức quản lý tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ gắn với năng lực quản lý và trình độ tay nghề của cán bộ công nhân viên trong DN, nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng, mở rộng mạng lưới tiếp t._. sát được tình hình thực tế của DN để từ đó đưa ra được các quyết sách đúng đắn, nhanh nhạy, nắm bắt được cơ hội kinh doanh làm cho việc sử dụng vốn kinh doanh đạt hiệu quả cao. 3.2.3. Giải pháp về huy động vốn Các DNCNCP của thành phố Đà Nẵng hầu hết đều có quy mô vốn nhỏ, vì thế, việc huy động vốn đối với các DN này là rất cần thiết. Trên cơ sở xác định nhu cầu vốn hợp lý với quy mô sản xuất kinh doanh của DNCNCP để huy động vốn thông qua các kênh như vay dài hạn ngân hàng, phát hành cổ phiếu, liên doanh liên kết,… Tuy nhiên, mỗi hình thức, công cụ huy động vốn đều có những ưu điểm, hạn chế nhất định và phải phù hợp trong từng điều kiện, thời kỳ nhất định của từng DN; vì vậy, HĐQT, giám đốc cần thiết phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ra quyết định sử dụng công cụ nào để huy động vốn. 3.2.3.1. Tận dụng triệt để nguồn vốn tự có và nguồn vốn nội bộ của doanh nghiệp công nghiệp cổ phần Tận dụng tối đa nguồn vốn tự có của DN, sử dụng các nguồn vốn nhỏ lẻ từ lợi nhuận trích lập các quỹ đầu tư phát triển, các quỹ tạm thời nhàn rỗi của DN như quỹ khen thưởng, phúc lợi; từ khấu hao, bán thanh lý tài sản; từ lợi tức, cổ tức chưa đến kỳ phải trả cho cổ đông và tăng cường liên doanh liên kết mở rộng ngành nghề. Tận dụng các ưu đãi về chính sách cho DNNN sau CPH như miễn giảm thuế thu nhập DN, chính sách đất đai, chính sách khuyến khích đầu tư, xử lý lao động dôi dư, xử lý tài sản, thanh toán nợ,… để huy động thêm nguồn vốn. 3.2.3.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng - kinh doanh nguồn vốn tín dụng ngân hàng Vay vốn tại các ngân hàng thương mại (tư nhân, nước ngoài, Nhà nước) là một hoạt động thiết yếu của các DNCNCP nhằm bù đắp lượng vốn kinh doanh bị thiếu hụt. Vay vốn tại các ngân hàng sẽ đáp ứng nhanh, đủ, kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DNCNCP. Tuy nhiên, vẫn còn những hiện tượng phân biệt đối xử trong quan hệ với các tổ chức tín dụng giữa DN trước và sau CPH, kể cả với các ngân hàng thương mại tư nhân, ngân hàng thương mại nước ngoài và đặc biệt là với ngân hàng thương mại Nhà nước và các chương trình cho vay của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là, đối với DNCN sau CPH sẽ gặp khó khăn hơn so với các DNNN trong tiếp cận các nguồn tín dụng chính thức. Vì vậy, cần tạo ra sân chơi bình đẳng trong nhận thức cũng như hành động cho DNCN sau CPH với việc vay vốn từ các tổ chức tín dụng. Đối với DNCNCP cần đặt ra cho mình một kế hoạch cụ thể đối với công tác tín dụng ngân hàng như: lập các kế hoạch vay vốn và sử dụng vốn chi tiết, đầy đủ. Cố gắng phát huy và cải thiện uy tín tín dụng (kinh doanh có lãi, vay và trả các khoản nợ lãi đầy đủ, đúng hạn,…) đối với các ngân hàng thương mại; xác định các dự án có sử dụng vốn vay ngắn, trung và dài hạn;… Ngoài ra, Nhà nước có thể nghiên cứu lập thêm các quỹ hỗ trợ đầu tư thích hợp để đa dạng hoá hình thức và kênh hỗ trợ về tài chính, tín dụng cho các DN sau CPH nói chung và DNCNCP nói riêng. Đối với DNCNCP còn phần vốn của Nhà nước, trong dài hạn nên thành lập ra các công ty tài chính nhà nước chuyên ngành (ví dụ: công ty đầu tư tài chính công nghiệp, công ty tài chính ngành nhựa, công ty tài chính dầu khí,…) để nắm toàn bộ cổ phần Nhà nước trong các DNCN. Các công ty này sẽ tổ chức đầu tư tài chính, tức mua vào bán ra các cổ phần Nhà nước tuỳ theo mục tiêu chung của quốc gia, địa phương, ngành và tham gia quản lý DN sau CPH như các cổ đông khác. 3.2.3.3. Từng bước hoàn thiện chính sách cổ tức của mỗi doanh nghiệp công nghiệp cổ phần Cổ tức và thu nhập giữ lại trên những khía cạnh khác nhau đều cho người đầu tư nhận biết về tình hình tài chính của DNCNCP, kế hoạch sử dụng các nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN và do đó đều tác động đến giá của cổ phiếu trên thị trường. Vấn đề đặt ra là duy trì một tỷ lệ giữa trả cổ tức và phần giữ lại để tái đầu tư như thế nào cho hợp lý, tạo được hiệu quả DNCNCP có tình hình tài chính lành mạnh, quản trị tài chính tốt. Đó chính là yếu tố tác động tích cực tới giá cổ phiếu trên thị trường, việc huy động các nguồn vốn. Ba dạng chính sách tài chính quan trọng quyết định sự tồn tại, phát triển và thịnh vượng của một DNCNCP là chính sách tài trợ (DN sẽ huy động vốn như thế nào để mua các tài sản cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh); chính sách đầu tư (DN đầu tư các nguồn vốn của mình như thế nào) và chính sách cổ tức. Chính sách cổ tức liên quan tới việc xác định lượng tiền mặt dùng để trả cổ tức cho các cổ động thường của DN. Chính sách cổ tức, chính sách tài trợ và đầu tư có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bởi vì việc trả cổ tức sẽ làm giảm khoản lợi nhuận DN giữ lại để tái đầu tư, vì thế ảnh hưởng đến nhu cầu huy động vốn bên ngoài của DN. Do vậy, cần thận trọng và có những xem xét đặc biệt khi lựa chọn chính sách cổ tức cho DN, vì hai lý do: Một là, chính sách phân chia cổ tức ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cổ đông, bởi lẽ, đại bộ phận cổ đông đầu tư vào DNCNCP đều mong đợi được trả cổ tức. Vì thế, việc tăng giảm hoặc cắt cổ tức của mỗi DN sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá cổ phiếu của DN trên thị trường. Hai là, chính sách phân chia cổ tức ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của DN. Bởi lẽ, lợi nhuận giữ lại chiếm tỷ lệ đáng kể nguồn vốn bên trong của DN (bao gồm tiền khấu hao và lợi nhuận giữ lại) dành cho sự đầu tư tăng trưởng. Trong khi đó, định hướng phân chia cổ tức ở mức nào sẽ quyết định số lợi nhuận giữ lại. Chính vì vậy, HĐQT và giám đốc DN cần cân nhắc, xem xét chính sách phân chia cổ tức sao cho hợp lý và phù hợp với tình hình và xu thế phát triển của DN. Do đặc điểm các DNCNCP của thành phố Đà Nẵng chủ yếu là các DN vừa và nhỏ, quy mô vốn thấp (chủ yếu là dưới 10 tỷ VNĐ, Công ty CP nhựa Đà Nẵng trên 10 tỷ được niêm yết trên thị trường chứng khoán), nên có sự hạn chế trong việc đầu tư công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh,… Vì thế, khả năng bị thâu tóm và chịu tác động từ các sức ép bên ngoài là có thể xảy ra. Chính sách cổ tức phải được tính toán sao cho phù hợp với xu thế chung của thị trường của quá trình hội nhập và tránh được các tác nhân từ bên ngoài, mặt khác, do sự hiểu biết chưa đầy đủ về lợi ích của việc đầu tư các cổ đông hiện nay chủ yếu thích thu nhập cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ chi trả cao. Sự hiểu biết về loại hình đầu tư vốn cổ phần cũng như lợi ích của nó trong công chúng còn chưa cao cho dù xu hướng hiểu biết này ngày càng tăng. Việc phân tích thông tin cũng như việc tiếp cận thông tin về các DNCNCP còn hạn chế nên chính sách cổ tức là biện pháp hiệu quả nhất để các DNCNCP thể hiện tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong nền kinh tế. Do vậy, nhìn chung, các DNCNCP hiện nay có xu hướng giữ mức chi trả cổ tức tiền mặt ổn định qua các năm, tạo lòng tin cho công chúng đầu tư, tạo thuận lợi cho hoạt động lâu dài của DN. DN nào quan tâm đến chính sách cổ tức, có chiến lược, cơ cấu vốn hợp lý, cân đối được mục tiêu phát triển và lợi ích của các cổ đông thì giá cổ phiếu của chúng luôn được giữ ở mức ổn định, nhu cầu giao dịch, chuyển nhượng cổ phần cũng cao hơn so với các DN khác. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho DN huy động vốn vào hoạt động và phát triển sản xuất kinh doanh của DN. Mỗi một DNCNCP khác nhau sẽ có những đặc điểm riêng, hoạt động trong những lĩnh vực sản xuất kinh doanh công nghiệp và chịu tác động bởi những nhân tố khác nhau. Trong từng hoàn cảnh, điều kiện sản xuất kinh doanh cụ thể, các DN có chiến lược và quan điểm sản xuất kinh doanh riêng của mình. Vì vậy, không thể xây dựng một chính sách cổ tức hay một công thức chuẩn mực chung cho tất cả các DNCNCP trong mọi thời điểm. Mà phải dựa trên cơ sở mục tiêu chính của DN là luôn có được những nguồn vốn đầu tư dồi dào, sử dụng nguồn vốn đó có hiệu quả mang lại lợi nhuận cho DN và thu nhập cho người lao động, các cổ đông. Hình ảnh của DN sẽ được thể hiện qua lợi nhuận, thu nhập bình quân cho người lao động và cổ tức mà DN phải trả cho cổ đông hàng năm. Vì vậy, chính sách cổ tức của các DNCNCP nên chú trọng đến hai vấn đề cơ bản là mức cổ tức hấp dẫn và khả năng đảm bảo tích luỹ tái đầu tư tạo sự tăng trưởng ổn định của DN trong tương lai. Ngoài ra, để thực hiện chính sách cổ tức được tối ưu có thể đa dạng hoá các hình thức chi trả cổ tức như trả bằng tiền mặt, bằng cổ phiếu, tài sản,… Mặt khác, để tạo điều kiện cho các DNCNCP đưa ra được chính sách cổ tức tối ưu, Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung và từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản luật cho các công ty CP, quản trị công ty CP. 3.3. Một số kiến nghị để doanh nghiệp công nghiệp cổ phần sử dụng vốn có hiệu quả 3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước 3.3.1.1. Về chính sách tài chính Để tạo điều kiện cho các DNNN sau CPH ổn định và phát triển, khuyến khích DN sau CPH tham gia thị trường vốn, huy động các nguồn lực trong xã hội để đầu tư nâng cao năng lực kinh doanh và khả năng cạnh tranh, Nhà nước tiếp tục duy trì một số chính sách ưu đãi và không ngừng hoàn thiện cơ chế tài chính cho các DN như: - Mở rộng quyền ưu đãi cho các DNCN CPH như DN thành lập mới (không chỉ thuế mà cả tiền thuê đất). - Duy trì quyền kế thừa các hợp đồng thuê nhà, thuê đất, ngành nghề kinh doanh, thương hiệu để ổn định điều kiện sản xuất. - Tiếp tục áp dụng cơ chế vay và lãi suất vay như DNNN. - Tiếp tục được hỗ trợ kinh phí để giải quyết lao động dôi dư nếu thực hiện cơ cấu lại DN. - Thực hiện các chính sách bán bớt phần vốn Nhà nước ở các công ty CP. - Thực hiện chính sách hưởng thêm ưu đãi nếu DN tham gia niêm yết hoặc đăng ký giao dịch qua thị trường chứng khoán,… - Bổ sung các hướng dẫn về quyền và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước và người đại diện trực tiếp phần vốn Nhà nước tại DN. - Bổ sung hướng dẫn về việc điều chỉnh tăng giảm vốn điều lệ và cổ phiếu quỹ trong công ty CP, trong đó cho phép các khoản chênh lệch, do phát hành thêm cổ phiếu và mua bán cổ phiếu quỹ được dùng để bổ sung vốn cho công ty CP, công ty CP không phải nộp thuế thu nhập khoản thu này. 3.3.1.2. Về chính sách cổ tức Nhà nước cần có và hoàn thiện những quy định pháp luật về chính sách chi trả cổ tức của các DN sau CPH nói chung và DNCNCP nói riêng dựa trên những quy định pháp lý như sau: - DNCN sau CPH chỉ được trả cổ tức cho cổ đông khi kinh doanh có lãi, đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. DN chỉ được phép chi trả cổ tức cho cổ đông từ phần lợi nhuận sau thuế. DN không được trả cổ tức vượt quá số lợi nhuận hiện có và lợi nhuận tích luỹ. DN không được dùng vốn góp và thặng dư vốn để trả cổ tức. - DN không được trả cổ tức trong trường hợp bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, hoặc số nợ hiện tại của DN đã lớn hơn số tài sản có. - Sau khi trả cổ tức cho cổ đông, DN phải bảo đảm có khả năng thực thiện đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết trong các hợp đồng tín dụng. DN phải thanh toán đầy đủ các khoản nợ đến hạn trước khi trả cổ tức. - Trong trường hợp DN có các cổ phiếu ưu đãi hay quyền ưu tiên về cổ tức, thì những cổ đông ưu tiên này phải được xem xét thực hiện quyền trước tiên và đảm bảo số cổ tức mà các cổ đông này được nhận không thấp hơn số cổ tức trả cho các cổ đông phổ thông. - Quyền hạn và trách nhiệm của HĐQT, giám đốc DN trong việc xây dựng, thực hiện việc chi trả cổ tức cho cổ đông phải tuân thủ các yêu cầu, nguyên tắc mà pháp luật quy định và chỉ được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật cho phép hoặc không cấm; đồng thời, phải tuân theo những quy định cụ thể tại điều lệ của công ty. 3.3.1.3. Đối với các cơ quan, đơn vị liên quan Cần tiếp tục cải thiện môi trường hoạt động cho các DNCN sau CPH như: - Xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong các chính sách và thực hiện các chính sách giữa DNNN và DN sau CPH về tín dụng, ngân hàng, đầu tư, đất đai, cán bộ, cấp phép xuất nhập khẩu. - Quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc tiếp tục cung cấp thông tin, phổ biến chế độ chính sách cho DN sau CPH (kể cả DN còn vốn Nhà nước và DN đã bán hết cổ phần Nhà nước). - Giao rõ trách nhiệm cho các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan đến quy trình CPH để giải đáp các vướng mắc của DN sau CPH. - Phát triển một số tổ chức chuyên môn thực hiện nghiệp vụ tư vấn, đầu tư cổ phần, ví như: tư vấn xây dựng phương án CPH, dịch vụ phát hành cổ phiếu mới chuyển nhượng cổ phần, niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, xây dựng điều lệ DNCP, môi giới vay vốn, tư vấn quản trị DN sau CPH, dịch vụ liên quan đến cổ đông như tổ chức đại hội cổ đông, tư vấn lập và hoạt động các ban chức năng của DN,… - Chuyển hẳn chức năng quản lý cổ phần Nhà nước của các DN trực thuộc địa phương đã CPH cho công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước. Đơn vị này sẽ thực hiện việc quản lý, đầu tư, kinh doanh cổ phần,.. 3.3.2. Kiến nghị với địa phương 3.3.2.1. Tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp sau cổ phần hoá - Cần nhanh chóng hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các DNCN sau CPH để giá trị của DN được nâng lên, thuận lợi trong bố trí kế hoạch sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng ổn định lâu dài, góp vốn liên doanh bằng tài sản có trên đất mà các DN đang sử dụng, quan hệ với ngân hàng (thế chấp sổ đỏ) khi cần vốn sản xuất kinh doanh. - Hoàn thiện hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh và thông tin DN thuộc các cơ quan kế hoạch và đầu tư để kết hợp đăng ký kinh doanh đối với DNCNCP và cung cấp thông tin cho DNCN sau CPH (Sở Kế hoạch - Đầu tư thành phố Đà Nẵng đã thực hiện việc cấp giấy phép kinh doanh qua mạng trực tuyến). 3.3.2.2. Tăng cường mối quan hệ giữa các tổ chức Đảng, chính trị- xã hội với doanh nghiệp công nghiệp cổ phần DNNN sau CPH sẽ chuyển thành công ty CP tham gia vào kinh tế thị trường, hoạt động theo cơ chế thị trường, cơ chế vận hành khách quan của nền kinh tế thị trường dựa trên các quan hệ, các quy luật cơ bản của thị trường như quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ cung - cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ,… Hay nói cách khác, là từ DN có một chủ sở hữu là Nhà nước, có một tổ chức Đảng lãnh đạo toàn diện, có sự tham gia hoạt động của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội (công đoàn, đoàn thanh niên,…) nay chuyển sang DN đa hình thức sở hữu, có các cơ quan lãnh đạo khác nhau quản lý DN sau CPH. Câu hỏi đặt ra là tại sao trong DNCP đã có các cơ quan lãnh đạo theo sự điều chỉnh của Luật DN đã được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 8, ngày 29/11/2005, có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 (luật này thay thế Luật DN năm 1999; Luật DNNN năm 2003, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều 166 của Luật này; các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động của DN tại Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000) lại cần phải có sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, có sự tham gia của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trong các DN còn cổ phẩn của Nhà nước cũng như trong DN không còn cổ phần của Nhà nước. Để trả lời câu hỏi này tác giả luận văn kiến nghị với địa phương như sau: - Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong các cấp uỷ, đội ngũ cán bộ, đảng viên và người lao động về chủ trương CPH; về vị trí, vai trò của tổ chức Đảng trong các DNCP; về quyền, trách nhiệm và lợi ích của người lao động mà các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội là người đại diện chân chính cho họ trong các DNCNCP. - Đổi mới chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của tổ chức Đảng, trước hết và tập trung là cấp uỷ với HĐQT, giám đốc trong các DNCNCP. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng, vai trò của các đoàn thể. Xây dựng, phát triển đội ngũ Đảng viên ngang tầm trong DNCNCP; tạo dựng mối quan hệ “keo sơn” của các tổ chức Đảng trong các DNCNCP với cấp uỷ cấp trên trực tiếp (Quận uỷ, Thành uỷ, Đảng uỷ khối DN của thành phố) để có nội dung và phương thức hoạt động phù hợp, hiệu quả. - Tạo cơ chế phối hợp thống nhất, chặt chẽ và hiệu quả giữa sự lãnh đạo của Đảng ở các cấp với tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, của chính quyền địa phương các cấp đối với các DNCNCP. Cấp uỷ, tổ chức Đảng chủ động giới thiệu những cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức, có năng lực và kinh nghiệm để bầu vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt trong bộ máy quản lý của DNCNCP. - Xác định rõ mối quan hệ giữa tổ chức Đảng, cấp uỷ, đoàn thể với HĐQT, giám đốc có trách nhiệm tạo điều kiện để HĐQT, giám đốc thực hiện trách nhiệm, quyền hạn được giao. Ngược lại, HĐQT, giám đốc có trách nhiệm bảo đảm và tạo điều kiện để tổ chức Đảng, đoàn thể hoạt động hiệu quả, đúng chức trách, quyền hạn của mình. 3.3.3. Kiến nghị với các doanh nghiệp công nghiệp cổ phần 3.3.3.1. Về các vấn đề liên quan đến cổ đông - Tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng cho cổ đông - người lao động, cổ đông - cán bộ quản lý DN về quyền của cổ đông, của các cơ quan quản lý trong công ty (HĐQT, Ban kiểm soát,…); trình tự, thủ tục thông qua các quyết định quan trọng của DN nhằm làm cho họ nắm được các quy định pháp lý, tránh tình trạng xung đột trong nội bộ DN hoặc làm chủ “hình thức” hoặc “sai lệch” vị trí của người lao động và các cổ đông thiểu số. - Tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định pháp lý có liên quan đến việc nâng cao hiệu quả cơ chế thực thi đảm bảo các quyền của các cổ đông trong DNCN sau CPH, nhất là cổ đông - người lao động, như: + Bảo đảm tối đa quyền được cung cấp thông tin của các cổ đông, bổ sung các quy định cụ thể bảo đảm cho các cổ đông được quyền tiếp cận tất cả các thông tin, hồ sơ, tài liệu của DNCN; được đảm bảo quyền xem xét sổ sách kế toán, biên bản họp Đại hội cổ đông, HĐQT. + Cụ thể hoá các quy định về quyền của các cổ đông thiểu số trong vấn đề đề cử vào HĐQT, Ban kiểm soát và quyền triệu tập Đại hội cổ đông; quy định về nguyên tắc xác định số lượng người mà họ được cử. + Bổ sung cơ chế quyền biểu quyết nhằm tạo điều kiện tập trung lượng phiếu nhất định cho những quyết định tại Đại hội cổ đông trước áp lực của các cổ đông đa số. Đồng thời, nâng cao tỷ lệ thông qua quyết định tại Đại hội cổ đông để giảm khả năng thao túng của các cổ đông lớn. + Cụ thể hoá hơn nữa các quy định về biểu quyết bằng văn bản nhằm giảm thiểu tình trạng tuỳ tiện lấy ý kiến ở một số DNCN sau CPH có tỷ lệ cổ phần Nhà nước lớn, khiến DN và bên thứ ba có cảm giác rằng cơ quan hành chính bên ngoài can thiệp thô bạo vào các quyết định của Đại hội cổ đông… 3.3.3.2. Về sự vận hành có hiệu quả của bộ máy quản lý và điều hành của doanh nghiệp công nghiệp cổ phần - Phát triển nguồn nhân lực quản lý (đào tạo và đi thuê) có chất lượng tại các DNCNCP. - Nâng cao vai trò quản lý của HĐQT, cần tạo ra sự cân đối giữa quyền hạn và trách nhiệm của các thành viên HĐQT, phải có các quy định về tiêu chuẩn thành viên HĐQT. - Bổ sung các quy định về thành viên độc lập trong các HĐQT của DNCNCP, nhất là trong trường hợp kiêm nhiệm giữa chủ tịch HĐQT và giám đốc DN. - Quy định cụ thể về cơ chế triệu tập các cuộc họp của HĐQT, trong đó mở rộng đối tượng có thẩm quyền (ngoài Chủ tịch HĐQT) bởi vì trong thực tế ở những DN “lộn xộn”, hiện tượng phổ biến là Chủ tịch đã trì hoãn hoặc từ chối triệu tập họp HĐQT ngay cả khi có yêu cầu từ các thành viên khác. Hậu quả tiềm ẩn của vấn đề này là các thành viên không có cùng quan điểm với Chủ tịch HĐQT không thể hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm của mình theo luật định, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quản trị DN. Còn nếu chủ tịch HĐQT kiêm luôn vai trò của người đại diện pháp luật (giám đốc) thì chức năng HĐQT không được đảm bảo,… - Quy định cụ thể vấn đề uỷ quyền chủ sở hữu. Đối với DNCNCP có vốn đầu tư Nhà nước, tình trạng phổ biến là người trực tiếp thực hiện các quyền cổ đông không phải cổ đông thực sự, mà chỉ là người đại diện. Người đại diện có thể được chỉ đạo và giám sát chặt chẽ từ cổ đông thực sự, nhưng cũng có thể không, dẫn đến tình trạng người được uỷ quyền lạm dụng vì mục đích tư lợi. - Có các quy định cụ thể để hạn chế những bất ổn và vướng mắc do tình trạng can thiệp của các cơ quan hành chính Nhà nước bên ngoài vào DNCNCP có vốn chi phối của Nhà nước. 3.3.3.3. Mối quan hệ với các doanh nghiệp cùng ngành, doanh nghiệp có liên quan - Cần có sự hợp tác chặt chẽ về việc xác định giá thành sản phẩm với các DN sản xuất cùng loại sản phẩm tránh tình trạng bán phá giá. Khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, rất có khả năng nhiều công ty hay các hãng nước ngoài hoạt động trong cùng lĩnh vực (nhựa, ximăng, thuỷ sản) cũng sẽ tăng cường đầu tư vào Việt Nam. Khi đó, với công nghệ cao, tiền vốn dồi dào, thu hút thợ giỏi từ các DN khác sẽ là đối thủ cạnh tranh khốc liệt với các DNCNCP. Vì vậy, nên có mối quan hệ dọc: nhựa - nhựa, xi măng - xi măng, thuỷ sản - thuỷ sản và những mối quan hệ ngang khác để trao đổi thông tin mang tính chất đa chiều, tạo cơ sở học hỏi, nâng cao hiểu biết, rút kinh nghiệm và hỗ trợ nhau về vốn, công nghệ, nhân lực khi gặp khó khăn. - Hầu hết các DNCNCP đều là DN vừa và nhỏ nên việc mở rộng mối liên hệ, liên doanh liên kết là rất cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm để tìm kiếm, mở rộng và khai thác thị trường trong và ngoài nước; nghiên cứu sản phẩm mới thay thế. Kết luận chương 3 Trên cơ sở lý luận và phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của các DNCN sau CPH đã nêu ở các phần trên luận văn đề xuất một số biện pháp, kiến nghị chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, trước hết là giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động sau đó đưa ra giải pháp về huy động vốn và cuối cùng đề xuất một số kiến nghị để DNCNCP sử dụng vốn có hiệu quả. kết luận Hiệu quả và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề quan tâm đặc biệt trong mọi nền sản xuất xã hội, mọi DN. ở Đà Nẵng hiện nay, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và sức cạnh tranh của DNCN sau CPH là vấn đề vô cùng cấp thiết và quan trọng, nhằm đảm bảo cho DN có thể hòa vào dòng chảy hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO. Luận văn “Hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp công nghiệp sau cổ phần hóa của Đà Nẵng” đạt được một số kết quả chính là: - Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về vốn, hiệu quả sử dụng vốn, đưa ra hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong các DNCN sau CPH của Đà Nẵng. - Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn các DNCN sau CPH của Đà Nẵng trong giai đoạn 2000 - 2005 nhằm góp phần luận chứng được những vấn đề cần giải quyết và xác định các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn sau CPH của DNCN. - Sau khi tập trung phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn các DNCN sau CPH giai đoạn 2000 - 2005 luận văn đề xuất một số giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho DNCN sau CPH giai đoạn 2006 - 2010. Những thành công và hạn chế được luận văn rút ra tuy chưa phản ánh một cách đầy đủ nhất hiệu quả sử dụng vốn ở các DNCN sau CPH của Đà Nẵng, nhưng nó cũng đã khái quát được một cách tương đối toàn diện bức tranh về tình hình sử dụng vốn của các DNCN sau CPH. Do điều kiện nghiên cứu hạn hẹp, mặc dù có rất nhiều cố gắng nhưng những kết quả của luận văn cũng chỉ giới hạn ở những vấn đề cơ bản nhất, chưa đủ sức chi tiết hóa tất cả các vấn đề cần nêu. Hơn nữa, trong điều kiện thời gian thực hiện và tư liệu khai thác gặp nhiều khó khăn, những số liệu tập hợp của luận văn còn nhiều chỗ chưa bao quát hết được thực tế hiệu quả sử dụng vốn tất cả các DNCN sau CPH của Đà Nẵng, tác giả hy vọng rằng nếu có điều kiện sẽ tiếp tục hoàn thiện công trình này một cách tốt hơn. Với những gì luận văn đã thể hiện, mặc dù có nhiều cố gắng nhưng chắc rằng luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy rất mong nhận được sự góp ý của thầy hướng dẫn, của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, quý thầy cô giáo và đồng nghiệp để luận văn có thêm những giải pháp sát thực với thực tiễn hơn. danh mục tài liệu tham khảo Đinh Văn Ân (2004), Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, Website Đảng Cộng sản Việt Nam, Diễn đàn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Báo cáo tài chính từ 1997-2005 của công ty CP thủy sản Đà Nẵng. Báo cáo tài chính từ 1999-2005 của công ty CP xi măng Ngũ Hành Sơn. Báo cáo tài chính từ 1999-2005 của công ty CP nhựa Đà Nẵng. Nguyễn Thị Bằng (1994), "Một số nhận thức về vốn trong kinh tế thị trường", Tạp chí Tài chính, (1). Bộ Tài chính (2003), Hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện cổ phần háo doanh nghiệp nhà nước và đổi mới toàn diện doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Tài chính (2003), Các quy định pháp luật về sử dụng vốn của doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Băng Châu (2004), Hiệu quả cổ phần hoá ở thành phố Hồ Chí Minh, Website Đảng Cộng sản Việt Nam, Diễn đàn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Phí Văn Chỉ (2000), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ phần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Ngọc Côn (2001), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (nghiên cứu và vận dụng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. David Begg và Peter Smith (1995), Kinh tế học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Tấn Dũng (2004), Những giải pháp tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Website Đảng Cộng sản Việt Nam, Diễn đàn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (2006), Văn kiện đại hội lần thứ XIX, Đà Nẵng. Thế Đạt, Minh Anh (1993), Đầu tư và hiệu quả, Nxb Lao động, Hà Nội. Lê Hữu Đốc (2003), Công nghiệp thành phố Đà Nẵng thực trạng và giải pháp phát triển, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Hoàng Việt Hà (2005), "Cổ phần hoá và quản trị công ty", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (324), tr.35-43. Lê Hồng Hạnh (2004), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Hảo (1998), Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở miền Trung, Nxb Đà Nẵng. Lê Văn Hợi (2003), Cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước trong ngành giao thông vận tải thực trạng và giải pháp, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Phạm Quang Huấn (2003), "Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước công việc không đơn giản", Tạp chí Tài chính, (10), tr. 19-22. Phạm Quang Huấn (2006), "Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mười lăm năm nhìn lại", Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (333), tr.41- 45. Hồ Xuân Hùng (2004), "Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Kết quả, vướng mắc và giải pháp", Tạp chí Cộng sản, (18). Trần Xuân Kiên (1998), Chiến lược huy động và sử dụng vốn trong nước cho phát triển công nghiệp Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. C.Mác, Ph.ănggghen (1991), Tuyển tập, Bản dịch từ tiếng Đức, Tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội. Lễ Hữu Nghĩa (2004), "Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn", Tạp chí Cộng sản, (22), tr.8-13. Vũ Văn Phúc (2004), Giải pháp khắc phục những vấn đề đang đặt ra từ thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, Website Đảng Cộng sản Việt Nam, Diễn đàn cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. P.A Samuelson và W.D. Nordhaus (1989), Kinh tế học, Tập 2, Viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội. Đường Minh Sường (2003), "Những vấn đề phát sinh trong các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá và phương hướng khắc phục", Tạp chí Lý luận chính trị, (8), tr.10- 13. Tạp chí Cộng sản (2006), Hội thảo khoa học- thực tiễn: Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, (7), tr.12-23,29. Lê Văn Tâm (2004), Cổ phần hoá và quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thị Thơm (2003), "Doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá: Kết quả hoạt động, bất cập nảy sinh và hướng tháo gỡ", Tạp chí Lý luận chính trị, (7), tr.6- 10. Nguyễn Chơn Trung (2004), "Đẩy mạnh cổ phần hoá và xây dựng công ty cổ phần trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, (20) tr.55- 58, 79. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (1994), Những vấn đề cơ bản tài chính doanh nghiệp, Bộ môn tài chính, Hà Nội. Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Phạm Thị Gái (1997), Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh, Hà Nội. ủy ban chứng khoán nhà nước, Trung tâm Nghiên cứu và đào tạo chứng khoán, Đào Lê Minh (2004), Chính sách cổ tức và tác động của nó tới công ty - những gợi ý cho Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng (2006), Báo cáo tình hình thực hiện sắp xếp doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2001-2005 và kế hoạch năm 2006. ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng (1998), Đề án phát triển công nghiệp thành phố Đà Nẵng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng (2002), Đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước thuộc thành phố quản lý đến năm 2005. ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng (1997), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng đến 2010. Vũ Văn Viên (2005), "Cổ phần hoá - Một phương tiện quan trọng để thực hiện sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu", Tạp chí Cộng sản, (12), tr.29-33. Viện Khoa học xã hội Việt Nam,Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà Nội. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2002), Báo cáo về hội thảo cổ phần hoá và hậu cổ phần hoá: Thực trạng và giải pháp, Hà Nội. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2005), Hội thảo Hậu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, Hà Nội. Viện Nghiên cứu quản lý trung ương (2005), "Chuyên đề hậu cổ phần hoá", Tạp chí Quản lý kinh tế, (5). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2467.doc
Tài liệu liên quan