Hình thức tín dụng ngân hàng - Lấy ví dụ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) VN cùng hoạt động tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn

Lời nói đầu Các hình thức tín dụng trên thế giới đã có một lịch sử phát triển lâu dài và hiện nay đã đạt tới một trình độ rất cao. Trong quá trình phát triển của mình, tín dụng đã tạo ra những cú ''huých'' mạnh mẽ để các nền kinh tế mau chóng cất cánh. Hoạt động tín dụng ở Việt Nam hiện nay đang ở trong giai đoạn xây dựng và củng cố, đang tiến những bước tiến quan trọng. Do đó cần phải nghiên cứu để thấy được tác dụng của tín dụng đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam, đồng thời cũng thấy đượ

doc55 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hình thức tín dụng ngân hàng - Lấy ví dụ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) VN cùng hoạt động tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c những hạn chế, vướng mắc nhằm đề ra được những chiến lược cho sự phát triển của tín dụng trong những thập niên đầu của thế kỷ 21, theo kịp với sự phát triển của thế giới, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế. Đối với Việt Nam, hình thức tín dụng phổ biến và mạnh mẽ nhất là tín dụng ngân hàng. Nhưng để cho tín dụng ngân hàng hoạt động một cách trôi chảy, có hiệu quả, thuận lợi cho cả hai phía: ngân hàng và khách hàng thì cần phải có một cơ chế thích hợp. Chính vì vậy, bài viết này tập trung vào hình thức tín dụng ngân hàng, xem xét cơ chế hoạt động của nó, từ đó nhấn mạnh đến hoạt động cho vay - là hoạt động cần được nghiên cứu để đáp ứng các yêu cầu thực tiễn kinh doanh ngân hàng và nhu cầu sử dụng vốn tín dụng của các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Trong quá trình phân tích xin lấy Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cùng hoạt động tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn làm ví dụ điển hình. Do còn nhiều hạn chế về trình độ và năng lực của bản thân, chắc chắn bài viết sẽ có nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự chỉ bảo, sửa chữa để khả năng viết của mình ngày một tiến bộ hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Hữu Tài đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Hà Nội, tháng 11 năm 2001 Sinh viên: Nguyễn Quý Dương Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tín dụng và tín dụng ngân hàng 1. Tín dụng. 1.1. Khái niệm. Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của lẫn nhau một cách tạm thời, dựa trên những nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng. Như vậy, tín dụng không phải là quan hệ mua bán, cho nhận. Nó chỉ xảy ra trong một thời gian nhất định, yêu cầu phải tin tưởng lẫn nhau và có sự hoàn trả. Khác với các quan hệ khác, quan hệ tín dụng không có sự vận động thay đổi về quyền sở hữu mà chỉ có sự vận động thay đổi về quyền sử dụng. Giá cả trong quan hệ tín dụng là một phạm trù đặc biệt. Giá cả không phải là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá mà là biểu hiện bằng tiền của giá trị sử dụng đối với một số vốn trong một thời kỳ nhất định và được gọi là lãi suất. 1.2. Bản chất. Tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp và phục vụ nhu cầu của các doanh nghiệp. Vì vậy để hiểu bản chất của tín dụng, phải xuất phát từ quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi loại hình doanh nghiệp khác nhau (khác nhau về đặc điểm sản xuất, khác nhau về quyền sở hữu) sẽ có quá trình luân chuyển vốn khác nhau. Hơn nữa ngay trong bản thân một doanh nghiệp quá trình luân chuyển các loại vốn (vốn cố định, vốn lưu động, vốn hàng hoá, vốn phi hàng hoá.....) cũng khác nhau. Nhu cầu vốn Vốn tự có và coi như tự có Thời gian Giả sử xem xét quá trình luân chuyển vốn của một doanh nghiệp. Đường cong biến thiên phản ánh nhu cầu vốn nhằm phục vụ cho một mục đích nào đó (doanh thu chẳng hạn) thích hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, bất cứ doanh nghiệp nào cũng có vốn tự có và coi như tự có. Ta giả sử số vốn này không thay đổi trong khoảng thời gian nào đó. Trên hình vẽ nó là một đường thẳng. Như vậy, đối với một doanh nghiệp thường xảy ra sự không trùng khớp giữa nhu cầu về vốn và vốn tự có, coi như tự có: hoặc là doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn (nhu cầu vốn> vốn tự có và coi như tự có), hoặc là đang tự thừa vốn (nhu cầu vốn <vốn tự có và coi như tự có). Số lượng vốn tạm thừa (thiếu), thời hạn tạm thừa (thiếu) hoàn toàn do đặc điểm luân chuyển vốn của doanh nghiệp tạo ra. Ví dụ: doanh nghiệp bán được hàng hoá (chưa bán được hàng hoá) nhưng chưa phải (đã phải) dự trữ hàng hoá cho chu kỳ sản xuất tiếp theo, nộp thuế, trả nợ và lãi... Nếu doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn thì doanh nghiệp sẽ có nhu cầu huy động thêm vốn để tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp đang tạm thời thừa vốn thì doanh nghiệp có nhu cầu cho vay lấy lãi. Như vậy, hai loại nhu cầu trên của một doanh nghiệp được phát sinh từ chính quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó và chịu sự tác động của hàng loạt yếu tố. Nếu chi phí để huy động thêm vốn lớn hơn lợi nhuận thu được từ việc sử dụng thêm vốn thì doanh nghiệp sẽ giảm qui mô sản xuất kinh doanh xuống để cho nhu cầu về vốn luôn có giới hạn tối đa bằng vốn tự có và coi như tự có. Mặc dù doanh nghiệp luôn tìm cách sử dụng tối đa vốn tự có và coi như tự có, song nếu khả năng thu hồi vốn thấp, hoặc lãi cho vay thấp không bù đắp nổi rủi ro có thể xảy ra thì doanh nghiệp cũng không cho vay. Nếu chúng ta xem xét nhiều doanh nghiệp trong cùng một thời gian sẽ thấy có doanh nghiệp đang tạm thời thừa vốn có nhu cầu cho vay và có doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn có nhu cầu đi vay. Hiện tượng kinh tế trên làm nảy sinh một mối quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển tạm thời từ nơi thừa sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay là lợi nhuận thu được việc cho người khác sử dụng vốn vay. Từ nội dung này ta thấy, thực chất của tín dụng là quan hệ kinh tế nhằm bổ sung vốn tạm thời thiếu hụt của các doanh nghiệp. Một nhu cầu vốn thường xuyên lớn hơn vốn tự có và coi như tự có không thể được hình thành thông qua quan hệ tín dụng. Mặc khác, tín dụng là quan hệ kinh tế hình thành nhằm giải quyết cả hai loại nhu cầu của các doanh nghiệp. Do đó về bản chất nó là quan hệ bình đẳng hai bên cùng có lợi, và mang tính thoả thuận rất lớn. 1.3. Chức năng. Tín dụng có 2 chức năng sau đây: 1.3.1. Huy động và tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cho vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Đây là chức năng chủ yếu của tín dụng phản ánh bản chất của tín dụng. Chức năng này được thể hiện thông qua các nghiệp vụ cơ bản sau: Một là, huy động và tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp,các tổ chức xã hội, dân cư thông qua các hình thức góp vốn, huy động tiết kiệm, phát hành trái phiếu. Hai là, cho vay đối với các doanh nghiệp, cá nhân nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc bằng hàng hoá. 1.3.2. Giám đốc và kiểm soát bằng đồng tiền đối với các hoạt động kinh tế quốc dân. Tín dụng là quan hệ kinh tế được hình thành trên cơ sở rất nhiều các quan hệ kinh tế khác. Bản thân quan hệ tín dụng cũng lại bao gồm nhiều mối quan hệ như: quan hệ vay, quan hệ về dư nợ. Do đó quan hệ tín dụng bao hàm cả khả năng kiểm soát các loại hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp. Để hình thành được quan hệ tín dụng, người cho vay phải biết và kiểm soát hoạt động của người đi vay như hình thành vốn liếng, mặt hàng sản xuất kinh doanh (chất lượng, số lượng) khả năng trả nợ nói riêng và tình hình tài chính nói chung, quan hệ với các chủ nợ khác... Các trục trặc trong quan hệ tín dụng như vay không trả được hoặc trả không đúng hạn phản ánh những trục trặc trong quá trình sản xuất kinh doanh như không tiêu thụ được hàng hoá, không có lãi, bị phá sản... 1.4. Vai trò. Là một mối quan hệ kinh tế, tín dụng có những tác động nhất định đối với các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức và vận dụng quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý kinh tế của con người. Ta có thể thấy: - Tín dụng là điều kiện để bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách thường xuyên liên tục. Như phần 1.2 đã phân tích, nếu không có tín dụng thì doanh nghiệp thừa vốn không để làm gì và doanh nghiệp thiếu vốn không sản xuất kinh doanh được. Sự vận động của vốn trên thực tế sẽ là những khoảng đứt nhưng nhờ có tín dụng các doanh nghiệp sử dụng được vốn có hiệu quả và quá trình sản xuất được liên tục, góp phần ổn định nền kinh tế, tránh việc rơi vào những cú xốc về cung và cầu của vốn. - Tín dụng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng. Thông qua tín dụng: các doanh nghiệp nhận khối lượng vốn bổ sung rất lớn từ đó tăng qui mô sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Tín dụng tập trung các khoản tín dụng nhỏ, lẻ tẻ thành các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn hiệu quả cao. Tóm lại thông qua tích tụ và tập trung vốn, tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. - Tín dụng là công cụ bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận, đóng góp một ý nghĩa quan trọng vào nâng cao mức sống của dân chúng. Tín dụng giúp các nhà doanh nghiệp đầu tư vào các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, kích thích khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Từ đó, tín dụng làm cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động, mềm dẻo, linh hoạt. - Tín dụng là công cụ tăng vòng quay của vốn và tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông. Do đó nó cũng là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, là cơ hội để Nhà nước thực hiện các chiến lược kinh tế xã hội. 2. Tín dụng ngân hàng. 2.1. Khái niệm. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng và các chủ thể khác ở trong nền kinh tế, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Các chủ thể khác ở đây bao gồm: Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác. 2.2. Bản chất. Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng. Đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Điều cần chú ý ở đây là mối quan hệ tín dụng này không phải là quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang thiếu mà thông qua cơ quan trung gian là các ngân hàng. 2.3. Chức năng. Cũng như phạm trù tín dụng nói chung, tín dụng ngân hàng có hai chức năng: 2.3.1. Huy động và tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cho vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Đối với tín dụng ngân hàng, chức năng này bao gồm hai loại nghiệp vụ được tách hẳn ra: Một là: huy động và tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi; Hai là: cho vay đối với những nhu cầu đang thiếu tạm thời. Đó là điểm mà nhiều loại hình tín dụng khác không có. Ví dụ đối với hình thức tín dụng thương mại chẳng hạn, các doanh nghiệp chỉ cho nhau vay vốn hàng hoá mà mình đang tạm thời thừa. Nghiệp vụ cho vay này có thể không liên quan gì đến nghiệp vụ đi vay của chính doanh nghiệp đó; hoặc đối với một số doanh nghiệp đi vay bằng cách phát hành trái phiếu công ty thì chỉ là để nhằm thoả mãn nhu cầu đang tạm thiếu của mình chứ không phải để cho người khác vay. 2.3.2. Giám đốc và kiểm soát bằng đồng tiền đối với các hoạt động kinh tế. Khả năng kiểm soát các hoạt động kinh tế của tín dụng ngân hàng là rộng lớn hơn các hình thức tín dụng khác. Bởi vì bên cạnh quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, ngân hàng còn có quan hệ về tiền tệ, thanh toán…. với họ. Các mối quan hệ này bổ sung cho nhau, tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quan hệ tín dụng so với các doanh nghiệp khác cũng thực hiện quan hệ tín dụng. Ví dụ: Trước khi một doanh nghiệp vay, ngân hàng có thể biết tương đối chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp đó (qua các quan hệ thanh toán, số dư tiền gửi, tình hình nợ nần…). 2.4. Vai trò. Tín dụng ngân hàng đóng một vai trò rất lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta đều biết rằng muốn phát triển kinh tế thì điều trước hết là phải có vốn (vốn bằng tiền) mà để có vốn bằng tiền thì phải có những tổ chức có đủ thẩm quyền và chức năng để huy động và tập trung vốn đó trước khi đem sử dụng. ở bất kỳ quốc gia nào thì công việc này do hai tổ chức thực hiện: tổ chức tài chính (cơ quan tài chính) và các tổ chức tín dụng. Song chủ yếu vẫn là các tổ chức tín dụng vì rằng trước đây Mác đã viết: "Một mặt ngân hàng là sự tập trung tư bản tiền tệ của những người có tiền cho vay, mặt khác nó là sự tập trung các người đi vay". Vậy là tín dụng ngân hàng đã đóng vai trò quan trọng từ buổi sơ khai đến mô hình hiện đại ngày nay. Với khái niệm ấy, đối với riêng trong lĩnh vực tín dụng đã là một vấn đề vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội, có thể khái quát qua thực tiễn cho thấy hiệu quả mang lại của tín dụng ngân hàng: tín dụng ngân hàng đã góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế, có tác động tích cực đến nhịp độ phát triển và thúc đẩy sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, nó cũng góp phần lớn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, chống lạm phát tiền tệ và góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo… Ta có thể thấy rằng quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp là quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp. Với công nghệ ngân hàng hiện nay, tín dụng ngân hàng càng trở thành một hình thức tín dụng chủ yếu không những ở trong nước mà còn trên trường quốc tế. 3. Những nguyên tắc quản lý tiền cho vay. Quản lý tiền cho vay đóng vai trò quan trọng nhất đối với việc tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Do vậy, ngân hàng cần phải có những nguyên tắc để quản lý tốt tiền cho vay. Những nguyên tắc quản lý tiền cho vay trở thành vấn đề đáng lưu tâm, đứng về phía người đi vay, bởi việc quyết định cho vay hay không cho vay cũng phụ thuộc vào những nguyên tắc này. Cụ thể có 5 nguyên tắc sau: 3.1. Sàng lọc và giám sát. - Sàng lọc các đối tượng vay: tức là phải nắm được tình hình hoạt động của người cần vay, từ đó lọc những người mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng tốt ra khỏi những người mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu. - Bằng cách chuyên môn hoá trong việc cho vay vào những hãng địa phương vay hay những hãng thuộc ngành công nghiệp riêng biệt nào đó, ngân hàng dễ tập trung thông tin, dễ nắm vững hơn những hãng, ngành này, do đó có khả năng dự báo tốt hơn về việc trả nợ của khách hàng. - Tăng cường giám sát để hạn chế tính rủi ro đạo đức, ngăn chặn hoạt động rủi ro mà dẫn đến sự vỡ nợ của người vay, điều này được thực hiện bằng việc qui định hạn chế, buộc người vay không được thực hiện những hoạt động rủi ro. 3.2. Quan hệ khách hàng lâu dài. Duy trì quan hệ khách hàng lâu dài làm lợi cho các khách hàng cũng như cho ngân hàng. Một khách hàng đã có một mối quan hệ cũ sẽ dễ được vay ở một lãi suất thấp, vì ngân hàng này tốn ít thời gian hơn để xác định xem liệu người vay tiền này có phải là một người mạo hiểm có triển vọng tốt hay không nên tốn ít tiền hơn cho việc giám sát. 3.3. Vật thế chấp và số dư bù. Vật thế chấp là vật sở hữu của người vay được hứa cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ. Một dạng riêng của vật thế chấp bắt buộc khi một ngân hàng cho vay thương mại gọi là số dư bù. Số dư bù là số vốn tối thiểu bắt buộc khách hàng phải để lại trong tài khoản séc của mình ở ngân hàng mà họ vay tiền. Vật thế chấp sẽ được bán để bù lại các tổn thất của ngân hàng trong trường hợp người vay vỡ nợ đối với món tiền vay; còn số dư bù giúp tăng khả năng món tiền vay sẽ được hoàn trả. 3.4. Hạn chế tín dụng. Hạn chế tín dụng bao gồm: hạn chế đối tượng cho vay và hạn chế lượng tiền vay. Loại thứ nhất là ngân hàng từ chối một món cho vay với số lượng bất kỳ nào đối với người vay, ngay cả khi người vay này sẵn lòng thanh toán một lãi suất cao hơn. Loại thứ hai là ngân hàng trao tiền cho người vay nhưng không phải là những món cho vay lớn như họ muốn. Bằng cách này ngân hàng sẽ giảm bớt được rủi ro khi cho vay. 3.5. Tính tương hợp ý muốn. Với một số lượng vốn đầu tư cổ phần đủ lớn, ngân hàng có nhiều để mất nếu xảy ra phá sản. Như thế, ngân hàng có ý muốn thực hiện những hoạt động thích hợp để bảo đảm rằng nó làm ăn có lợi nhuận và thanh toán đủ cho những ai cung cấp vốn cho nó. Vốn đầu tư cổ phần của ngân hàng này khiến cho quan hệ của ngân hàng với những người gửi tiền ở đó trở thành tương hợp ý muốn; tức là, những người gửi tiền này và ngân hàng đó có ý muốn cư xử theo một cách đáng mong muốn cho cả hai bên. Ngân hàng này thực hiện những hoạt động sản xuất thông tin như những người gửi tiền trông đợi và mong muốn; kết cục, những người có tiền để gửi sẵn lòng cung cấp vốn cho ngân hàng như ngân hàng này mong muốn. 4. Chính sách tín dụng của Việt Nam. Nhà nước có chính sách động viên các nguồn lực trong nước là chính và tranh thủ tối đa nguồn lực ngoài nước; mở rộng đầu tư tín dụng, góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, bảo đảm cho doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia; bảo đảm an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia, mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Chương II: Hoạt động tín dụng ngân hàng ở Việt Nam 1. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/10/1998, thay thế hai pháp lệnh ngân hàng ban hành từ năm 1990. Đến nay đã có hàng chục văn bản dưới luật: nghị định, quyết định, thông tư… hướng dẫn thi hành hai luật về ngân hàng đã được ban hành. Song một loạt cơ chế về cho vay, thế chấp, bảo lãnh, ngoại tệ… vẫn còn những vướng mắc, bất cập, cản trở việc đáp ứng yêu cầu cả vốn nội tệ và vốn ngoại tệ cho các thành phần kinh tế. Những văn bản pháp lý quan trọng được tập trung ban hành trong thời gian qua, tập trung là 6 tháng cuối năm 2000 bao gồm: - Quyết định số 266/2000, ngày 18/8/2000, về việc cho vay không có đảm bảo bằng tài sản đối với ngân hàng thương mại cổ phần, Công ty tài chính cổ phần và ngân hàng liên doanh. Các TCTD này nếu có tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% trên tổng dư nợ, có đủ vốn điều lệ theo qui định, thì được cho vay vốn không có tài sản thế chấp đối với khách hàng. - Quyết định số 283/2000, ngày 25/8/2000, ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng; thay thế cho 6 quyết định có liên quan ban hành trong 2 năm 1994-1995. - Quyết định số 284/2000, ngày 25/8/2000, ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng; thay thế cho Quyết định 324 ban hành năm1998. - Thông tư số 06/2000, ngày 4/4/2000 và thông tư số 10/2000 ngày 31/8/2000, hướng dẫn thực hiện phải đảm bảo tiền vay của TCTD; thay thế cho 4 văn bản có liên quan ban hành trong hai năm 1996-1997. - Quyết định số 418/2000, ngày 21/9/2000 về đối tượng cho vay bằng ngoại tệ, mở rộng thêm 6 đối tượng được các TCTD cho vay bằng ngoại tệ. - Quyết định số 428/2000, ngày 22/9/2000 về chính sách tín dụng ngân hàng đối với kinh tế trang trại. Các chủ trang trại vay đến 20 triệu đồng; hoặc vay dưới 50 triệu đồng đối với chủ trang trại vay vốn sản xuất giống thuỷ sản, không phải thế chấp tài sản. Quy định trước đó đã cho phép hộ nông dân vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp. Các quyết định, thông tư nói trên cùng hàng loạt văn bản pháp lý khác, đã tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về hoạt động tín dụng kể cả nội tệ và ngoại tệ, đảm bảo tiền vay và thanh toán. Các ngân hàng thương mại (NHTM) chủ động cạnh tranh với nhau tìm kiếm khách hàng có tín nhiệm, tìm kiếm dự án có hiệu quả để đầu tư , cho vay; tham gia cho vay vốn các dự án kích cầu, xây dựng cơ sở hạ tầng của các tỉnh, thành phố. Đặc biệt là các NHTM đã chuyển hướng sang mở rộng cho vay tiêu dùng. Các gia đình cán bộ, công nhân, viên chức, giáo viên, bộ đội, công an, người về hưu… được vay tiền cho các nhu cầu: sửa chữa nhà ở, mua sắm phương tiện sinh hoạt… đây thực sự là một hướng kích cầu có hiệu quả. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng chính sách như: cho người nghèo vay vốn, cho vay giảm 30% và 20% lãi suất ở vùng 3 và vùng 2, cho sinh viên vay vốn học tập… vẫn được đẩy mạnh. ở mức độ khái quát các văn bản pháp lý nói trên đã phát huy tác dụng tích cực trong nền kinh tế chuyển đổi, tạo hành lang pháp lý trong hoạt động tài chính tiền tệ, góp phần lành mạnh hoá các quan hệ xã hội và thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, bảo vệ được quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia. 2. Các quy định cơ bản về cho vay trong cơ chế tín dụng ngân hàng hiện nay và thực tiễn áp dụng. 2.1. Khái niệm về cho vay. Cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó TCTD giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. 2.2. Mục đích cho vay. Quy chế 284 (quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN 1) quy định: TCTD cho vay bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống. Khách hàng ở đây bao gồm: - Các pháp nhân là: Doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác có đủ các điều kiện quy định tại điều 94 của Bộ luật Dân sự; - Cá nhân; - Hộ gia đình; - Tổ hợp tác; - Doanh nghiệp tư nhân; - Công ty hợp danh. Quy định này đã phản ánh đầy đủ các trường hợp cần vốn và các loại khách hàng hiện có trong nền kinh tế nước ta, nên sự vận dụng của các TCTD là thuận lợi không có vướng mắc. Cụ thể, như trong quy định cho vay đối với khách hàng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam vẫn giữ nguyên như trong quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), có thể nói, không một tổ chức hay cá nhân nào trên địa bàn mà ngân hàng này không tham gia đầu tư vốn, nếu họ có nhu cầu vay, đủ điều kiện theo quy định và biết làm ăn có hiệu quả, trả được nợ gốc và lãi cho ngân hàng. 2.3. Đối tượng cho vay. Đối chiếu với Quy chế 324 (Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN 1) ta thấy Quy chế 284 mở rộng thêm 3 đối tượng cho vay mới: Một là, cho vay số tiền thuế giá trị gia tăng (GTGT): Điểm a khoản 1 Điều 9 Quy chế 284 qui định TCTD cho vay bao gồm cả thuế GTGT nằm trong tổng giá trị lô hàng. Trước đây, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 9 Quy chế 324 quy định TCTD không được cho vay số tiền thuế phải nộp trừ số tiền thuế xuất khẩu, nhiều TCTD đã không thực hiện cho vay phần thuế GTGT. Tuy nhiên, có TCTD hiểu khác và vận dụng linh động vẫn thực hiện cho vay phần thuế GTGT. Điều này gây thắc mắc cho khách hàng có quan hệ với nhiều TCTD và tất nhiên khách hàng sẽ vay vốn tại TCTD nào đồng ý cho vay bao gồm cả thuế GTGT, việc quy định cho vay bao gồm cả thuế GTGT nằm trong tổng giá trị lô hàng của Quy chế 284 mang lại hai ý nghĩa tích cực: giải quyết khó khăn về nguồn vốn vay cho khách hàng và tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các TCTD khi Quy chế đã quy định rõ ràng hơn. Hai là, cho vay số tiền thuế nhập khẩu: Điểm b khoản 1 Điều 9 Quy chế 284 quy định TCTD cho vay số tiền thuế nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục nhập khẩu mà giá trị lô hàng đó TCTD có tham gia cho vay. Trước đây, cũng căn cứ điểm a khoản 2 Điều 9 Quy chế 324, TCTD đã không cho vay số tiền thuế nhập khẩu và cũng từ chối phát hành bảo lãnh thanh toán thuế nhập khẩu theo yêu cầu của khách hàng vì ngại vi phạm quy chế. Nhưng bản thân Quy chế 324 đã tạo ra mâu thuẫn. Khi TCTD cho khách hàng vay để thanh toán cho khách hàng trong nước 100% giá trị lô hàng có nguồn gốc nhập khẩu thì thực tế TCTD đó đã cho vay cả thuế nhập khẩu mà việc cho vay này thì không vi phạm quy chế 324. Cho vay nộp thuế hàng nhập khẩu đối với những lô hàng do TCTD đầu tư là cần thiết vì trong nhiều trường hợp đó là chi phí không nhỏ cấu thành nên giá trị hàng nhập. Quy chế 284 quy định TCTD cho vay số tiền thuế nhập khẩu sẽ góp phần xoá đi sự bất hợp lý và mâu thuẫn trên, tạo điều kiện cho TCTD tăng dư nợ cho vay và giải quyết bức xúc về vốn cho khách hàng nhập khẩu. Ba là, cho vay để trả các khoản vay tài chính cho nước ngoài: xuất phát từ tình hình thực tế trong nước, nguồn vốn huy động trong hai năm gần đây dồi dào và lãi suất cho vay trong nước có khuynh hướng giảm dần và hoàn toàn có thể cạnh tranh với lãi suất cho vay của TCTD nước ngoài, Điểm b khoản 1 Điều 9 Quy chế 284 cho phép TCTD cho vay số tiền khách hàng vay để trả các khoản vay tài chính cho nước ngoài mà các khoản vay đó đã được TCTD trong nước bảo lãnh… Trước đây, do nguồn vốn huy động trong nước không lớn, nhiều dự án đầu tư tìm nguồn vay tài chính từ nước ngoài với sự bảo lãnh của các TCTD trong nước. Khách hàng vay phải trả lãi suất được tính bằng lãi suất SIBOR, LIBOR hoặc EURIBOR thả nổi cộng thêm tỷ lệ phần trăm từ 1 đến 2%; ngoài ra còn phải trả phí quản lý, phí bảo hiểm tín dụng…, tất cả các loại phí gộp lại cấu thành giá tín dụng rất cao. Hơn nữa, thời hạn cho vay của nước ngoài thường ngắn hơn thời gian hiệu quả thực tế của dự án khiến khách hàng vay vốn luôn bị áp lực trả nợ đè nặng. Bằng cách chuyển nợ nước ngoài thành nợ trong nước đối với các dự án hiệu quả theo tinh thần quy định đã nêu ở trên trong Qui chế 284, TCTD có điều kiện khơi thông đầu ra tín dụng, tăng dư nợ cho vay, đặc biệt là dư nợ cho vay trung, dài hạn vốn chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn trong cơ cấu dư nợ cho vay. Mặt khác khách hàng vay vốn cũng được hưởng lợi từ quy định mới này: việc vay vốn trong nước với lãi suất thấp để trả nợ nước ngoài sẽ giúp khách hàng giảm bớt được chi phí lãi vay, phí bảo lãnh và các khoản chi phí khác. Ngoài ra, trong trường hợp xấu nhất có thể được gia hạn nợ theo quy chế cho vay trong nước mà không phải chịu thêm các chi phí khác như chi phí quản lý vốn, phí bảo hiểm tín dụng, phí thanh toán và các khoản chi phí khác. 2.4. Điều kiện vay vốn. Quy chế 284 quy định: TCTD xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau: (1) Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo qui định của pháp luật, cụ thể là: (a) Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự; (b) Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; (c) Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; (d) Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; (đ) Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; (2) Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; (3) Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp; (4) Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi, có hiệu quả hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi kèm theo phương án trả nợ khả thi; (5) Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Thống đốc NHNN. Trong thực tế các điều kiện này đã được các NHTM vận dụng như sau: - Điều kiện về năng lực pháp lý: đối với khách hàng sống và làm việc theo pháp luật, về cơ bản điều kiện này không có trở ngại. - Điều kiện về khả năng tài chính: khả năng tài chính của khách hàng vay đã được quy định rõ trong Nghị định số 178 của chính phủ về bảo đảm tiền vay của các TCTD, đó là: khả năng về vốn, tài sản của khách hàng vay để đảm bảo hoạt động thường xuyên và phục vụ các nghĩa vụ thanh toán. Như vậy, đối với mỗi dự án hay phương án vay vốn, tuỳ theo tính chất, quy mô của khoản vay và mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng sẽ đặt ra các yêu cầu về khả năng tài chính khác nhau nhưng phải bảo đảm được với khả năng tài chính đó, dự án hay phương án vay vốn được thực hiện có hiệu quả (hiệu quả kinh tế và hiệu quả cho các nhu cầu phục vụ đời sống, và có khả năng trả nợ. Với quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của mình, các ngân hàng sẽ tuỳ theo loại cho vay, khách hàng vay để có các quy định cụ thể khi xem xét khả năng tài chính của khách hàng và trên thực tế các TCTD đều có các hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Thông thường các ngân hàng đòi hỏi khách hàng vay phải chứng minh kinh doanh có lãi và không có nợ quá hạn trong một khoản thời gian nhất định (thường là 2-3 năm). Tuy nhiên, trong một số trường hợp, ngân hàng có thể chấp nhận cho vay nếu khách hàng đệ trình được phương án cải thiện tình hình kinh doanh thua lỗ hiện tại nhờ vào vốn vay của ngân hàng. Tuy vậy, các dự án vay vốn phải được bảo đảm bằng một tỷ lệ vốn đối ứng nhất định (thông thường khoảng 20-30%). Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT Việt Nam) quy định điều này như sau: a) Có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống theo tỷ lệ: + Đối với cho vay ngắn hạn, khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 20% trong tổng nhu cầu vốn. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước phải có vốn tự có tối thiểu 10% trong tổng nhu cầu vốn. + Đối với cho vay trung, dài hạn, khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 30% trong tổng nhu cầu vốn. + Riêng cho vay đời sống, khách hàng phải có vốn tự có tối thiểu 40% trong tổng nhu cầu vốn. b) Kinh doanh có hiệu quả, không có nợ quá hạn trên 6 tháng với NHNo; c) Đối với pháp nhân và doanh nghiệp tư nhân phải có công nợ lành mạnh và phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNo nơi cho vay; d) Đối với khách hàng vay vốn phục vụ nhu cầu đời sống phải có nguồn thu nhập ổn định để trả nợ ngân hàng. - Điều kiện về mục đích sử dụng vốn: khách hàng phải cho thấy mục đích sử dụng là phù hợp với mặt hàng, ngành nghề đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh, không vi phạm pháp luật, phù hợp với một số tiêu chí của ngành, lĩnh vực mà ngân hàng đó phục vụ. Điều này được NHNo &PTNT Việt Nam qui định như sau: không vi phạm pháp luật; phù hợp với chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; phù hợp với điều lệ, kế hoạch kinh doanh, giấy phép kinh doanh; phù hợp với mục đích được giao, thuê, khoán quyền sử dụng đất, mặt nước. - Điều kiện về phương án, dự án kinh doanh: Đây là điều kiện mà khách hàng có thể khó đáp ứng không phải vì không tính toán được tính hiệu quả của phương án đầu tư kinh doanh, mà vì không chứng minh được, hoặc không đủ sức thuyết phục đối với ngân hàng về tính khả thi của phương án lập ra. - Điều kiện về đảm bảo vốn vay: Thông thường khách hàng muốn vay vốn cần có tài sản thế chấp hoặc được bảo lãnh bằng tài sản. Tuy nhiên theo quyết định gần đây nhất của NHNN, nếu doanh nghiệp có đủ độ tin cậy đối với ngân hàng thì ngân hàng có thể cho vay không nhất thiết phải đủ tài sản thế chấp. 2.5. Mức và thời hạn cho vay. Qui chế 284 qui định tại điều 12 về mức cho vay: (1) TCTD căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, qui định của Chính phủ tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về mức cho vay so với giá trị tài sản làm bảo ._.đảm, khả năng hoàn trả nợ của khách hàng vay và khả năng nguồn vốn của mình để quyết định mức cho vay. (2) Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD, trừ trường hợp đối với những khoản vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ và các tổ chức cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là TCTD… Điều 10 qui định về thời hạn cho vay: TCTD và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo hai loại: (1) Cho vay ngắn hạn: tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. (2) Cho vay trung hạn và dài hạn: thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của TCTD. a) Thời hạn cho vay trung hạn: từ trên 12 tháng đến 60 tháng; b) Thời hạn cho vay dài hạn: từ trên 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo Quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án đầu tư phục vụ đời sống. Như vậy trong cơ chế chính sách đã có qui định rõ là cố gắng cho người dân được vay đủ mức cần thiết và với thời gian hợp lý. Vấn đề là các TCTD đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng đến mức nào và điều đó còn phụ thuộc vào khả năng nguồn vốn của các ngân hàng. Hiện nay, 20% số vốn huy động của ngân hàng là vốn dài hạn từ một năm trở lên (phần lớn là 1 năm); trong khi qui định cho vay trung hạn tối đa là 5 năm và dài hạn là trên 5 năm. Nhiều bà con mong muốn được vay dài hạn từ 3 - 5 năm; có những công trình, dự án muốn vay thời hạn 10 - 15 năm…, nhưng vốn ngân hàng chỉ huy động được có 20% lại xoay quanh thời hạn 1 năm. NHNN có qui định cho phép các TCTD dành khoảng 20% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Tổng số vốn cho vay trung và dài hạn đến nay đã chiếm 36% tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng. Đây là tỷ lệ đã đến mức tới hạn; nếu không có những giải pháp đặc biệt để huy động vốn dài hạn thì không có cách gì để cho dân vay dài hạn được nhiều hơn. Dựa trên những qui định của NHNN, NHNo & PTNT Việt Nam cũng qui định rõ: NHNo & PTNT nơi cho vay và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo từng loại: ngắn hạn và trung hạn, dài hạn. Đây là một sự bình đẳng (2 bên thoả thuận) là thuận lợi cho khách hàng chứ không gò ép bắt buộc khách hàng phải vay theo thời hạn này, thời hạn kia mà tuỳ thuộc vào đối tượng vay cụ thể mà thoả thuận cho phù hợp. Về mức cho vay NHNo & PTNT Việt Nam cũng qui định rõ mức vốn khách hàng phải có tham gia dự án và mức vốn ngân hàng cho vay. Đây là một nguyên tắc của tín dụng là chỉ bổ sung vốn chứ không phải đầu tư 100% vốn của dự án nhưng lại có điểm nới rộng đối với những khách hàng có tín nhiệm bằng qui định: "khách hàng có uy tín trong quan hệ vay vốn với NHNo, nếu vốn tự có thấp hơn qui định thì thông qua hội đồng tín dụng NHNo nơi cho vay xem xét, quyết định cho phù hợp". 2.6. Lãi suất cho vay. Điều 11 qui chế 284 qui định: (1) Mức lãi suất cho vay do TCTD và khách hàng thoả thuận phù hợp với qui định của NHNN về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. TCTD có trách nhiệm công bố công khai các mức lãi suất cho vay cho khách hàng biết. (2) Lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các khách hàng được ưu đãi về lãi suất theo qui định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN. (3) Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn, phải áp dụng lãi suất nợ quá hạn theo mức qui định của Thống đốc NHNN tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Các ngân hàng trong qui định cho vay của mình đối với khách hàng đều giữ nguyên những nội dung trên. Chúng ta thấy rằng lãi suất cho vay ưu đãi được qui định để thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế và chính sách xã hội, do đó các ngân hàng luôn áp dụng đúng mức lãi suất ưu đãi được qui định. ở đây, xin chú trọng vào lãi suất thông thường. Cơ chế lãi suất thông thường hiện nay là theo cơ chế thị trường, do đó NHNN không ấn định theo lãi suất chủ quan. Theo Luật NHNN là phải áp dụng lãi suất cơ bản; theo đó NHNN đã lấy lãi suất cho vay khách hàng tốt nhất của một số TCTD hàng đầu làm lãi suất cơ bản. Thực tế khách hàng tốt nhất vay theo mức lãi suất bao nhiêu, thì lấy đó làm mức chuẩn, sau đó NHNN định ra biên độ tối đa: đối với cho vay ngắn hạn là 0,3% và cho vay dài hạn là 0,5%, áp dụng thống nhất cho mọi khách hàng trên mọi địa bàn và trong mọi lĩnh vực, không phân biệt thành thị, nông thôn, công nghiệp hay nông nghiệp. Như vậy các TCTD sẽ phải tự quyết định mức lãi suất cho vay theo từng khách hàng cụ thể. Từ đó xảy ra tình trạng trên cùng một địa bàn, không riêng gì khác biệt giữa thành thị và nông thôn, vẫn có những khách hàng vay được rất rẻ và có những khách hàng phải vay theo giá đắt. Ví như Tổng Công ty Bưu chính - Viễn thông được vay lãi suất có khi còn thấp hơn lãi suất cơ bản được công bố (theo Quyết định số1247/2001/Qđ - NHNN thì từ ngày 01/10/2001 lãi suất cơ bản là 0,60%/tháng) vì Tổng Công ty hoạt động đảm bảo an toàn, có hiệu quả, có khả năng vay vốn lớn tới mức hàng nghìn tỷ đồng và trả nợ ngân hàng sòng phẳng, nên chi phí vốn của ngân hàng rất thấp. Do vậy, rất nhiều ngân hàng cạnh tranh nhau để cho các tổ chức này vay với lãi suất rất thấp. Trong khi đó, các doanh nghiệp khác có thể phải vay theo mức lãi suất kịch trần vì bị phụ thuộc vào những điều kiện hoặc là hiệu quả vốn vay, độ uy tín trong kinh doanh, lượng vốn vay và những chi phí cần thiết khác… Cho nên NHNN không thể ấn định lãi suất một cách chủ quan, mà phải theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. NHNN chỉ đưa ra một biên độ tối đa là 0,3 để cộng với lãi suất cơ bản, mà không khống chế biên độ tối thiểu. Các ngân hàng có thể cho vay, thậm chí thấp hơn mức lãi suất cơ bản. ở đây xuất hiện một câu hỏi: Tại sao lại không đưa ra một biên độ tối đa, hẹp hơn; ví như chỉ 0,1% để cộng với lãi suất cơ bản. Với một biên độ hẹp thì khó có sự chọn lựa đánh giá đúng với chi phí vốn, đúng với độ rủi ro và độ tín nhiệm của từng khách hàng vay vốn và khả năng thu nợ. Như vậy là trở về lại với cơ chế hành chính. Thực ra, đến một lúc nào đó, nếu đúng theo cơ chế kinh doanh, thì NHNN cũng phải bỏ qui định biên độ trong điều hành lãi suất. Nhà nước không phải thả nổi hoàn toàn lãi suất để thị trường quyết định, mà phải can thiệp gián tiếp bằng những công cụ của NHNN, chứ không phải ấn định một cách trực tiếp mức lãi suất. Chúng ta không thể tuỳ tiện bỏ những khống chế, nhưng phải có bước đi nới lỏng phù hợp dần với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. 2.7. Thủ tục vay vốn. Dựa trên Điều 14 và Điều 18 của Quy chế 284 thì thủ tục vay vốn tín dụng ngân hàng gồm có: - Khách hàng gửi hồ sơ vay vốn cho TCTD, hồ sơ vay vốn phải đầy đủ các nội dung và các giấy tờ theo qui định của TCTD. - TCTD và khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng. Các ngân hàng đều có những qui định, hướng dẫn cụ thể và ban hành hệ thống mẫu biểu để sử dụng trong quá trình thực hiện cho vay. Tuỳ theo địa bàn và lĩnh vực phục vụ mà các ngân hàng qui định khác nhau về nội dung và số lượng các giấy tờ. Trong thực tế, các ngân hàng đều tuân thủ nghiêm túc qui định của NHNN. Chúng ta xét một ví dụ: Giấy đề nghị vay vốn dùng cho hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác thực hiện thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của NHNo & PTNT Việt Nam. Mẫu số: 01B/NHNo - 06 (1 bản lưu KT, 1 bản lưu HSVV) cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc -------***------- Giấy đề nghị vay vốn (Dùng cho hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác thực hiện thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) Kính gửi: Chi nhánh NHNo. Họ và tên chủ hộ (hoặc tổ trưởng): Sinh ngày………. tháng ……….. năm Số CMT:…………….. Ngày cấp:………… Nơi cấp: Hiện cư trú tại: Thôn (ấp)………………… xã (phường) Huyện (thị xã):………………… Tỉnh (thành phố): Họ và tên người được uỷ quyền (nếu có):……………. Tuổi Số CMT: …………. Ngày cấp:…………… Nơi cấp: Thành viên đồng sở hữu tài sản:………………. người (trên 18 tuổi) STT Họ và tên Quan hệ với chủ hộ (hoặc tổ HT) Chữ ký Chúng tôi làm giấy này đề nghị Ngân hàng xem xét cho vay số tiền: - Bằng số: - Bằng chữ: - Để dùng vào mục đích: Đối tượng mua sắm STT Đối tượng mua sắm Số lượng Đơn giá Thành tiền - Lãi suất vay:………….. %/tháng; thời hạn vay: ……………. tháng - Trả nợ: + Trả gốc:…………………….. kỳ Kỳ 1:……………. … Kỳ 2:…………………. Kỳ 3: Ngày trả nợ cuối cùng:……………. tháng……… năm + Trả lãi theo: tháng, quí,…………………………….. - Chúng tôi thế chấp, cầm cố tài sản trị giá……………. đồng (có hợp đồng bảo đảm tiền vay kèm theo). Chúng tôi cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích, trả nợ gốc và lãi đúng hạn, nếu sai phạm chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Xác nhận của UBND xã (phường) Hộ: Hiện đang cư trú tại địa phương Xin vay vốn để:…………………… Tài sản liệt kê trên là đúng sự thật ………ngày……tháng… năm….. T/M UBND xã (phường)…… (Ký tên, đóng dấu) ……. ngày ….. tháng ….. năm…… Chủ hộ (tổ trưởng) hoặc người đại diện (Ký hoặc điểm chỉ, ghi rõ họ tên) …….. ngày …… tháng…… năm…. Phê duyệt cho vay (không cho vay) Số tiền:……………………… đ Lãi suất:……………… ..%/tháng Thời hạn: ………………… tháng Giám đốc ngân hàng (Ký tên, đóng dấu) Như vậy, ta thấy giấy đề nghị vay vốn này đã đáp ứng đầy đủ các nội dung cần có theo qui định của NHNN: Giấy đề nghị vay vốn phải có các nội dung cơ bản như: tên, địa chỉ khách hàng vay; số tiền cần vay; mục đích vay vốn, các cam kết về sử dụng tiền vay, trả nợ, trả lãi và các cam kết khác; ……… (Điều 14 Qui chế 284). 2.8. Phương thức cho vay. Trong Quy chế 248 có qui định về một số phương thức cho vay của các TCTD. Tuy nhiên, ở đây chỉ xin bàn tới 2 phương thức cho vay chủ yếu hiện nay: phương thức cho vay từng lần và phương thức cho vay theo hạn mức. Hai phương thức này được qui định như sau: (1) Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và TCTD làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. (2) Cho vay theo hạn mức tín dụng: TCTD và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh. Ta thấy qui định về phương thức cho vay theo hạn mức rất chung chung. Như vậy , việc cho vay theo hạn mức cụ thể như thế nào thuộc quyền hướng dẫn của từng TCTD; và tất nhiên có bao nhiêu TCTD sẽ có bấy nhiêu văn bản pháp lý khác nhau về các phương thức cho vay. Chẳng hạn như Ngân hàng Công thương Việt Nam và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã có văn bản hướng dẫn thi hành đều qui định chỉ dùng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp có tín nhiệm cao và có vòng quay vốn nhanh. Đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, thì phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa được xác định trong quí hay mùa vụ và áp dụng cho các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình hoạt động thường xuyên, ổn định. Trên thực tế khi hướng dẫn thực hiện, hầu hết các ngân hàng đều qui định phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng chỉ áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay, trả thường xuyên và có tín nhiệm cao đối với ngân hàng. Có rất nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vay trả thường xuyên, hoạt động ổn định, tuần hoàn vốn liên tục nhưng họ chưa có uy tín với ngân hàng, do vậy các đơn vị này không được vay theo phương thức hạn mức tín dụng mà chỉ được áp dụng theo phương thức từng lần. Việc NHNN sửa đổi qui định về phương thức cho vay trên theo hướng cụ thể hoá để thống nhất phương thức cho vay trong các TCTD là một vấn đề cấp bách, cần thiết hiện nay. Cần phải qui định rõ phương thức cho vay từng lần chỉ được áp dụng khi khách hàng thực hiện từng mùa vụ, từng thương vụ, khi hết vụ sẽ trả dốc nợ. Còn phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng được áp dụng cho những khách hàng kinh doanh không mang tính chất thời vụ, thương vụ. Bên cạnh 2 phương thức này, những phương thức cho vay khác (cho vay hợp vốn, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng…) cũng cần được qui định cụ thể về phạm vi áp dụng, tài khoản áp dụng, phương thức cho vay và thu nợ… có như vậy mới tạo hành lang pháp lý an toàn và thuận lợi cho hoạt động tín dụng hiện nay. 2.9. Giới hạn cho vay. Điều 19 Quy chế 284 qui định. Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của TCTD hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các TCTD cho vay hợp vốn theo qui định của Thống đốc NHNN… Qui định này xuất phát từ một nguyên tắc đơn giản để phòng ngừa rủi ro trong đầu tư tín dụng là không tập trung vốn vay vào một hoặc một số khách hàng và được tất cả các ngân hàng trên thế giới coi trọng. Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong Luật các TCTD Quy chế 284 đưa ra con số giới hạn 15% vốn tự có của các TCTD, qui định như vậy vì trong một thời gian dài thực hiện theo Pháp lệnh ngân hàng và các TCTD mức giới hạn này là 10%, khi được luật hoá đã nâng giới hạn này lên mức 15% - mức giới hạn vẫn đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng, vừa mở rộng năng lực cung ứng tín dụng cho các TCTD, lại phù hợp với thực tế là nguồn vốn tự có của các TCTD ở Việt Nam hiện nay còn thấp. Nhìn chung giới hạn này được các TCTD chấp hành nghiêm túc vì nó đảm bảo cho sự an toàn trong kinh doanh của chính các TCTD. NHNN Việt Nam đã ra qui định về cho vay hợp vốn để các TCTD phối hợp cho vay hợp vốn đối với những khách hàng có nhu cầu vay vốn lớn hơn 15% vốn tự có của một TCTD, vừa san sẻ rủi ro giữa các TCTD, vừa có một cơ chế thích hợp đầu tư cho những dự án lớn, phù hợp với nhu cầu phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay và trên thực tế nhiều khoản vay đã được các TCTD thực hiện theo hình thức này. 3. Kết quả của hoạt động tín dụng ngân hàng. - Đánh giá chung về cơ chế tín dụng ngân hàng hiện nay hầu hết các tổ chức và cá nhân đều cho rằng cơ chế tín dụng ngân hàng là rõ ràng và thuận tiện cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Tuy còn có một số vướng mắc nhưng xu hướng phát triển của nó là luôn được cải tiến khẩn trương, chỉnh sửa kịp thời cho phù hợp với hoạt động trong thực tiễn, đem lại môi trường tín dụng thông thoáng hơn cho cả TCTD lẫn khách hàng. Qua điều tra của VCCI, 55% ý kiến doanh nghiệp cho rằng cơ chế tín dụng ngân hàng đã thuận lợi hơn nhiều, ngân hàng đứng thứ 4/9 cơ quan Nhà nước về mức thuận tiện cho doanh nghiệp. Thông qua tín dụng ngân hàng vốn cho phát triển kinh tế được gia tăng, kinh tế được phát triển toàn diện, theo hướng CNH, HĐH mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng mở rộng tín dụng không có nghĩa là làm một cách ào ạt bỏ qua một số qui định để rồi đem lại những hậu quả chưa tốt không đáng có và không lường trước được cho ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. - Ước tính đến hết tháng 12/2000, dư nợ cho vay tăng 21% và vốn huy động tăng 25% so với 31/12/1999. Nếu so sánh với mức tăng của các chỉ tiêu tương tự trong 3 năm gần đây có thể thấy, năm 1999: dư nợ tín dụng tăng 19,2%, vốn huy động tăng 34,0%; năm 1998: dư nợ tăng 16,4%, vốn huy động tăng 34%; năm 1997: dư nợ tăng 22% vốn huy động tăng 25,7%. Như vậy nhìn lại cả năm 2000 có thể thấy tín dụng tăng trưởng cả về qui mô và tốc độ, trong khi đó nợ quá hạn được kiềm chế. Đến hết năm 2000, tỷ lệ nợ quá hạn của toàn bộ hệ thống ngân hàng giảm gần 2% so với năm 1999, còn 11,7% so với tổng dư nợ. Hoạt động của các NHTM chủ yếu là hoạt động tín dụng mang tính cạnh tranh rõ rệt hơn, hướng tới nâng cao năng lực kinh doanh, nâng cao trình độ công nghệ, hoạt động tín dụng thận trọng, hướng tới an toàn và hiệu quả; có nhiệm vụ cơ bản là thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, kinh doanh có lãi, thu nhập và tích luỹ ngày càng tăng. - Ước tính 6 tháng đầu năm 2001, các chỉ tiêu chủ yếu về hoạt động tín dụng trong toàn ngành đều đạt thấp so với mức dự kiến của cả năm và còn ở mức khiêm tốn so với cùng kỳ năm 2000. Theo báo cáo của Ngân hàng Công thương Việt Nam, tổng số vốn huy động ước đến hết tháng 6/2001 đạt 49.500 tỷ đồng, chỉ tăng 5,5% so với đầu năm; trong đó vốn huy động nội tệ chỉ tăng có 3,5%; tổng dư nợ cho vay ước đạt 39.900 tỷ đồng, tăng 14%. Đối với hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, ước tính cũng đến thời điểm tương tự huy động vốn đạt 33.000 tỷ đồng, tăng 9%; dư nợ đạt 40.000 tỷ đồng, tăng 10%. Trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, có 82 đơn vị trong tổng số 100 đơn vị thành viên có tốc độ tăng trưởng khá, còn lại hầu như không tăng. Hệ thống ngân hàng phục vụ người nghèo trong 6 tháng đã huy động thêm được 400 tỷ đồng và cho vay thêm được 350 tỷ đồng… - Tóm lại, trong những năm gần đây, hoạt động tín dụng ngân hàng đều có sự tăng trưởng, ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng cung cấp vốn, một yếu tố đầu vào thiết yếu cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, là chỗ dựa tin cậy và là người bạn đồng hành của các khách hàng. Tuy nhiên trong 6 tháng đầu năm 2001, kết quả hoạt động tín dụng có mức tăng trưởng chậm so với dự kiến. Thêm vào đó bản thân sự tăng trưởng trước đó cũng chưa phản ánh được những vướng mắc trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Vấn đề đặt ra là cần phải xác định những vướng mắc và có biện pháp tháo gỡ. 4. Thuận lợi và một số thách thức trong hoạt động tín dụng ngân hàng - biện pháp khắc phục. 4.1. Thuận lợi. - Ngành ngân hàng Việt Nam chuyển nhanh từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung với hệ thống ngân hàng một cấp sang cơ chế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp - theo đó một hệ thống các TCTD mới đã hình thành với sự có mặt của bốn hình thức sở hữu ngân hàng cùng hoạt động và phát triển (quốc doanh, cổ phần (gồm cả ngân hàng hợp tác), liên doanh và 100% vốn nước ngoài) tạo thành một mạng lưới đủ rộng, thực hiện ngày càng có hiệu quả các dịch vụ tín dụng, thanh toán và đầu tư trong toàn bộ nền kinh tế. - Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng được hoàn thiện, đầy đủ, rõ ràng chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế hơn. NHNN đã chỉnh sửa, bổ sung, ban hành mới một loạt quyết định, thông tư phù hợp với cơ chế hiện nay; những vướng mắc sơ hở, chồng chéo của cơ chế cũ đã được tháo gỡ, bãi bỏ làm cho hoạt động tín dụng được thuận lợi hơn, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức tín dụng. - Với cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản từ đầu tháng 8/2000 của NHNN đã thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động cạnh tranh về lãi suất, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong lĩnh vực tín dụng giữa các NHTM. Những NHTM lớn, địa bàn hoạt động chủ yếu ở đô thị, thuận lợi về huy động vốn, nhất là thu hút tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán, có lợi thế rõ rệt. Bởi thế mạnh đó cũng đi kèm với thu hút các khách hàng vay vốn là các doanh nghiệp Nhà nước, Tổng Công ty 90-91, các dự án lớn. Khách hàng có quyền lựa chọn ngân hàng để giao dịch. Trước thì doanh nghiệp cầu cạnh ngân hàng. Nay không ít Giám đốc, Tổng Giám đốc ngân hàng đến gõ cửa doanh nghiệp, đến từng công ty, Tổng Công ty mời vay vốn. - Môi trường vĩ mô cho hoạt động tín dụng ngân hàng dần dần đi vào ổn định, rõ ràng và an toàn hơn; thể hiện các đối tượng khách hàng sau: + Các doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại. Một số doanh nghiệp đã được cổ phần hoá; nhiều doanh nghiệp đã khẳng định được hiệu quả của mình, nhất là các Tổng Công ty 90-91. - Luật Doanh nghiệp mới ban hành có hiệu lực thi hành từ 1/1/2000 theo số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư, tính đến hết tháng 11/2000, trong cả nước đã có trên 12.000 doanh nghiệp được thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký trên 10.000 tỷ đồng. Trong đó, hình thức Công ty TNHH chiếm 49%, doanh nghiệp tư nhân 45%, Công ty cổ phần chiếm 4,5%, số còn lại là doanh nghiệp Nhà nước. Phần lớn các doanh nghiệp mới thành lập tập trung ở các trung tâm lớn như thành phố Hồ Chí Minh: 4.431 doanh nghiệp, Hà Nội: 1.845 doanh nghiệp. Do đó, tư cách pháp lý mới, số vốn tự có thực sự, ….của doanh nghiệp được khẳng định. + Các hộ gia đình ở nông thôn đang định hình rõ nét: hộ làm ngành nghề, hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ, hộ có trang trại, hộ nuôi trồng thuỷ sản, … ngành chức năng đã ban hành tiêu chí cụ thể xếp loại trang trại, từ đó có các qui chế cụ thể về hoạt động tín dụng thực hiện đối với họ. - Tín dụng ngân hàng luôn gắn liền với môi trường của nền kinh tế với các lĩnh vực kinh tế. Năm 2000 nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá, tiêu biểu là hoạt động xuất nhập khẩu, có nguyên nhân quan trọng từ các giải pháp tiền tệ- tín dụng; đồng thời đó cũng là tiền đề cho tăng trưởng tín dụng an toàn. Đặc biệt tăng trưởng cao về kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng rau quả, thuỷ sản, hạt điều, cao su…. Riêng mặt hàng thuỷ sản đạt mức kỷ lục: 1,45 tỷ USD. Đây là một thuận lợi cho vốn tín dụng của các NHTM đầu tư trong các khâu sản xuất, thu mua, chế biến, xuất khẩu…. các ngành trước đây có sản phẩm bị tồn đọng, khó tiêu thụ, giá bán thấp, hoạt động thua lỗ, nợ đọng vốn ngân hàng với khối lượng lớn, phải giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ,…. như: xi măng lò đứng, mía đường, gạch tuy nen, cao su… thì nay giá bán đã được cải thiện, tình hình tiêu thụ khả quan. Tiền vốn vay và lãi treo đã thu hồi được. Đó là một điều kiện tạo ra sự tăng trưởng của hoạt động tín dụng ngân hàng trong năm 2000. 4.2. Một số thách thức. - Việc điều hành theo lãi suất cơ bản bên cạnh những mặt thuận lợi của nó đã xuất hiện mặt hạn chế: cuộc cạnh tranh về lãi suất tiếp tục đẩy các NHTM cổ phần qui mô nhỏ càng đến chỗ khó khăn hơn. Trong khi một số NHTM quốc doanh cho các khách hàng lớn, có tín nhiệm vay với lãi suất chỉ có 0,62% - 0,65%/tháng thậm chí có lúc dưới 0,60%/tháng thì lãi suất huy động vốn của một số NHTM cổ phần kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng lên tới 0,60% - 0,62%/tháng (số liệu năm 2000). Đồng thời mức độ chênh lệch lãi suất cho vay giữa đối tượng này chỉ bằng 50% lãi suất cho vay của đối tượng khác. Nếu các Tổng Công ty lớn của Nhà nước chỉ phải vay với lãi suất 0,62% - 0,65%/tháng tại các NHTM quốc doanh thì hộ nông dân là thành viên phải vay vốn của quĩ tín dụng nhân dân với lãi suất 1,2% - 1,25%/tháng (số liệu năm 2000). Đây chính là những hộ gia đình có khó khăn chưa có điều kiện vay vốn của NHTM quốc doanh, họ phải chịu thiệt thòi trước cơ chế lãi suất mới. Trước đây khoảng cách chênh lệch này chỉ khoảng 30%-35%. - Tình hình tăng trưởng chậm vốn huy động cần phải có biện pháp để khắc phục. Riêng trong thời gian 6 tháng đầu năm 2001, vấn đề này đã được đánh giá có nguyên nhân trực tiếp là mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố từ đầu năm đến hết tháng 8/2001 đã giảm 3 lần, từ 0,75%/tháng xuống 0,65%/tháng, do đó lãi suất cho vay của các TCTD cũng giảm xuống từ 0,05 - 0,1%/tháng mỗi kỳ hạn đối với nội tệ; lãi suất tiền gửi ngoại tệ (USD) cũng giảm thấp. Tỷ giá biến động tăng ở mức cao hơn tạo tâm lý găm giữ ngoại tệ. Bộ Tài chính vẫn duy trì hình thức bán lẻ trái phiếu kho bạc Nhà nước với lãi suất cao hơn lãi suất huy động của các TCTD, nên đã tạo sự dịch chuyển vốn từ TCTD sang trái phiếu kho bạc. Bên cạnh đó, trong những tháng đầu năm, thị trường bất động sản sôi động, giá đất ở, nhà ở tăng cao, nhu cầu xây dựng mới phát triển; người Việt Nam đi du lịch nước ngoài và đi học tập tự túc ở nước ngoài tăng; thị trường tiêu dùng xe gắn máy, nhất là xe Trung Quốc mở rộng;…. Tình hình đó tác động rất lớn đến nguồn tiền gửi vào hệ thống ngân hàng. - Tình hình vốn tín dụng tăng chậm trong 6 tháng đầu năm 2001 cũng có nhiều nguyên nhân. Lúa gạo, cà phê và một số mặt hàng nông sản khác tiêu thụ chậm, làm đọng một khoản vốn vay ngân hàng khá lớn và ảnh hưởng đến nhu cầu vay mới. Một số vướng mắc trong thực hiện qui định về bảo đảm tiền vay; qui định về thế chấp; cho vay nông nghiệp, nông thôn. Mạng lưới cho vay của ngân hàng phục vụ người nghèo cho một số vùng sâu, vùng xa chưa được phủ kín; thủ tục vay vốn chưa thực sự đơn giản. Các chương trình kinh tế lớn, chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế như: nuôi tôm, xi măng, xuất khẩu gạo trả chậm. … Nhà nước chưa có qui hoạch và dự báo rõ ràng, chắc chắn, để tạo điều kiện cho các TCTD an tâm đầu tư vốn. - Tính rủi ro đối với hoạt động tín dụng có xu hướng tăng lên. Các TCTD phải tự chịu trách nhiệm về những rủi ro trong cho vay. Đặc biệt có thể gia tăng rủi ro về đạo đức, do chính cán bộ tín dụng trong việc thực hiện các thể lệ chế độ gây ra. Số lượng cán bộ tín dụng hầu như không tăng, điều kiện giao thông ở nông thôn không được cải thiện, đã làm tăng áp lực quá tải của cán bộ tín dụng, nhất là hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam. Đến lượt nó lại làm tăng lên tính rủi ro. Đồng thời trách nhiệm và khối lượng công việc của cán bộ tín dụng gia tăng, nhưng cơ chế tiền lương chậm được cải thiện, cũng làm tăng lên tính rủi ro của lĩnh vực tín dụng. - Chất lượng hoạt động của các NHTM nhìn chung còn thấp, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao. 4.3. Giải pháp khắc phục đối với những thách thức nói trên. - Từng TCTD, mỗi chi nhánh và đơn vị cơ sở cần có những đánh giá, phân tích chi tiết và dự báo cụ thể về diễn biến môi trường tín dụng của riêng TCTD mình, riêng địa bàn và lĩnh vực chủ yếu của mình. Trên cơ sở đó có biện pháp thích hợp cho mở rộng tín dụng an toàn trong thời gian tới, cũng như chủ động đối phó với tình huống xảy ra. Có lẽ bài học luôn luôn đúng đó là cần phải đa dạng khách hàng, phân tán rủi ro, không nên quá tập trung vào một số đối tượng khách hàng, một số ngành nghề. - Các TCTD cần thường xuyên nghiên cứu thị trường, tâm lý khách hàng để có chính sách sản phẩm và lãi suất phù hợp, đổi mới và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, từng bước thực hiện chính sách khách hàng, công tác tiếp thị từ đó khai thác được nguồn vốn từ nội lực nền kinh tế, nhất là nguồn vốn nhỏ lẻ trong dân song rất ổn định. - NHNN nên sớm sơ kết sau một thời gian điều hành theo lãi suất cơ bản, nên xem xét điều chỉnh biên độ cho vay, không nên để quá rộng, không lợi cho người vay vốn, nhất là ở địa bàn ít có môi trường cạnh tranh. - Khẩn trương mở rộng mạng lưới hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo, NHNo & PTNT, thành lập các chi nhánh, điểm giao dịch, tổ vay vốn, … để xoá những xã trắng về tín dụng, đảm bảo 100% số xã, bản, làng trong toàn quốc các hộ nghèo được vay vốn; trọng điểm là khu vực Tây Nguyên, Lai Châu, Tây Nam Bộ,…. Nếu chưa thành lập được chi nhánh thì thành lập tổ cho vay. - Các TCTD và đơn vị cơ sở chấn chỉnh lại công tác quản trị điều hành cơ chế tài chính, cơ chế khoán và tiền lương. Rà soát lại thủ tục hồ sơ vay vốn, tiếp thu và chỉnh sửa những góp ý của dư luận về thái độ và phong cách phục vụ của cán bộ ngân hàng, nhất là những người trực tiếp tiếp xúc với dân. Thủ tục cho vay hộ nghèo cần đảm bảo đơn giản hơn và phù hợp với thực tế. Đơn xin vay có thể in sẵn và đọc cho người vay nghe. Nghiên cứu giao cho Ban xoá đói giảm nghèo của các xã xác nhận, chuyển cho ngân hàng phục vụ người nghèo giải ngân, không cần qua Ban đại diện HĐQT cấp huyện . Mức vốn và thời hạn vay cần nghiên cứu để có giải pháp xử lý để phù hợp với nhu cầu của khách hàng. - Tăng số lượng cán bộ của hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam cho trực tiếp hoạt động tín dụng. Cần thiết phải tăng thêm biên chế. Nêu cao vai trò thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngân hàng này trước yêu cầu đáp ứng vốn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn. - Mở rộng và đa dạng hoá các loại hình tín dụng nhằm đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu vốn của nền kinh tế trên cơ sở đảm bảo an toàn, hiệu quả. Đổi mới hoạt động của các TCTD theo hướng giảm thiểu các thủ tục cho vay, tạo điều kiện cho người có nhu cầu vay vốn và có khả năng sử dụng vốn có hiệu quả, trả được nợ được tiếp cận vốn tín dụng thuận lợi, dễ dàng; tích cực tìm kiếm khách hàng, cùng với doanh nghiệp nghiên cứu, tìm kiếm, lựa chọn và quản lý dự án đầu tư, xây dựng và thực hiện có hiệu quả chương trình tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ đó nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức an toàn cho phép, tích cực xử lý các khoản nợ tồn đọng, nhất là việc khai thác, xử lý các tài sản thế chấp để giải phóng vốn đưa vào hoạt động. - Các TCTD cần thường xuyên chỉ đạo và thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, nhận thức đúng và thấm nhuần nguyên tắc: mở rộng kinh doanh luôn gắn liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả, chống rủi ro đảm bảo an toàn vốn và tài sản. Từ đó, khắc phục sửa chữa kịp thời những sai sót, ngăn chặn sai sót mới phát sinh. - Cơ chế về cung cấp và truyền thông tín dụng cùng các văn bản pháp lý cho hoạt động này đã thực hiện được một thời gian, cần được sơ kết, chỉnh sửa những điều bất hợp lý hoặc không còn thích hợp. Trong khi thực hiện, cần phát huy vai trò đầu mối thu thập và cung cấp thông tin của chi nhánh NHNN trên địa bàn, vừa sát các TCTD và chi nhánh TCTD, lại sát các đối tượng khách hàng. Chương ba - Tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn Những năm qua, cùng với sự chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế từ bao cấp sang hạch toán kinh doanh, kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nói chung và NHNo & PTNT Việt Nam nói riêng cũng thay đổi và phát triển. Riêng đầu tư vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp và nông thôn đã chuyển từ đầu tư qua tổ chức trung gian là hợp tác xã sang đầu tư trực tiếp cho từng hộ gia đình sản xuất kinh doanh. Sự chuyển đổi của cơ chế tín dụng này đã có tác dụng giảm bớt tầng nấc trung gian, đưa vốn tới người sản xuất nhanh nhạy hơn, giảm phiền hà, tạo thế chủ động cho người sản xuất, góp phần đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế. Cũng chính từ sự chuyển đổi này không những đáp ứng vốn cho nền kinh tế nhanh nhạy hơn mà bản thân ngân hàng cũng mở rộng tín dụng có hiệu quả hơn, nâng cao uy tín của ngành trên thương trường và đảm bảo thu nhập cho người lao động. 1. Hoạt động tín dụng ngân hàng trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. 1.1. Một số văn bản quan trọng thúc đẩy tiến trình hoạt động tín dụng ngân hàng trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. 1.1.1. Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. a. Nội dung cơ bản. Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg đã thể chế 5 vấn đề lớn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35164.doc