Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Tổng Công ty Hàng không Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Những thành tựu đổi mới của đất nước trong những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 đã mang lại cho nền kinh tế nước ta sự phát triển vững chắc và có tiếng nói đáng kể trong nền kinh tế khu vực Đông Nam Á cũng như thế giới. Chính nhờ vậy, đời sống kinh tế của nhân dân ngày càng được nâng cao. Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: môi trường kinh doanh, trình độ quản lý và đặc biệt là hiệu

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Tổng Công ty Hàng không Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quả công tác quản lý tài chính. Trong xu thế hội nhập và phát triển, trong điều kiện cạnh tranh đang diễn ra khốc liệt trên thì công tác quản lý tài chính luôn giữ vị trí trọng yếu trong hoạt động của doanh nghiệp, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Và một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý tài chính là công tác phân tích tài chính. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng và thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và vô cùng cần thiết. Trong thời gian thực tập tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam em thấy một số vấn đề nổi bật trong công tác quản lý tài chính đòi hỏi cần phải được giải quyết: Công tác phân tích tài chính tại Tổng công ty chưa hoàn thiện, nội dung phân tích còn thiếu nhiều và chưa thực sụ hữu ích đối với hoạt động quản lý tài chính tại Tổng công ty. Xuất phát từ thực tế trên em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam” với mong muốn làm rõ cơ sỏ lý luận về nội dung phân tích tài chính, đánh giá thực trạng công tác phân tích tài chính tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Nội dung bao gồm 3 chương: Chương I: Lý luận về phân tích tài chính Tổng công ty Nhà nước Chương II: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC 1.1.Khái quát một số đặc điểm cơ bản của Tổng công ty Nhà nước. 1.1.1.Khái quát đặc điểm của Tổng công ty Nhà nước Tổng công ty Nhà nước là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự đầu tư, góp vốn giữa các công ty nhà nước, giữa công ty nhà nước với các doanh nghiệp khác hoặc được hình thành trên cơ sở tổ chức và liên kết các đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh tế khác, hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh và thực hiện lợi ích của các đơn vị thành viên. Sự ra đời của các tổng công ty (TCT) ở Việt Nam từ giữa những năm 90 theo Quyết định 90,91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng chính phủ là một nội dung quan trọng, một yêu cầu khách quan trong việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), phù hợp với quy luật của sự phát triển sản xuất xã hội và yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý đối với các DNNN trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường (KTTT). Trong luật DNNN năm 1995 khái niệm TCT được dùng để chỉ các DNNN có quy mô lớn, có hội đồng quản trị, được thành lập và hoạt động trên cơ sở liên kết của nhiều đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ, dịch vụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kĩ thuật chính, nhằm tăng cường khả năng kinh doanh của các đơn vị thành viên và thực hiện các nhiệm vụ của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kì. Tổng công ty Nhà nước hay tập đoàn kinh doanh do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập là hình thức liên kết và tập hợp các công ty thành viên hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân, hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế, kĩ thuật chính, nhằm tăng cường tích tụ , tập trung vốn và chuyên môn hoá kinh doanh của các đơn vị thành viên và toàn tổng công ty. Tập đoàn có thể tổ chức theo 3 loại: tập đoàn toàn quốc, tập đoàn khu vực, tập đoàn vùng. Tập đoàn phải có ít nhất 7 doanh nghiệp thành viên trở lên và có số vốn pháp định ít nhất là 1000 tỷ đồng. Về nguyên tắc, tập đoàn có thể hoạt động đa ngành song nhất thiết phải có định hướng ngành chủ đạo. Tổng công ty Nhà nước là tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài sản và có các quỹ tập trung theo quy định của Chính phủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp Nhà nước như quy định tại Luật doanh nghiệp Nhà nước. Tổng công ty Nhà nước có thể có các loại đơn vị thành viên sau: đơn vị hạch toàn độc lập, đơn vị hạch toán độc lập, đơn vị sự nghiệp. Đơn vị thành viên của TCT Nhà nước có con dấu, được mở tài khoản tại ngân hàng phù hợp với phương thức hạch toán của TCT Nhà nước. Đơn vị thành viên hạch toán độc lập có điều lệ riêng do Hội đồng quản trị TCT phê chuẩn phù hợp với các quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước và điều lệ của TCT Nhà nước. Tổng công ty có cơ cấu tổ chức quản lý gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, các Phó giám đốc, kế toán trưởng và bộ máy giúp việc. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc, kế toán trưởng, bộ máy giúp việc trong tổng công ty và quản lý nội bộ của tổng công ty. Tổng công ty Nhà nước có nghĩa vụ quản lý vồn và tài sản. Sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, sử dụng vốn để thực hiện mục tiêu kinh doanh và nhiệm vụ đặc biệt do Nhà nước giao. TCT Nhà nước có quyền quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác do Nhà nước giao, theo quy định của luật pháp, TCT Nhà nước có quyền quản lý và tổ chức kinh doanh: tự chọn cách thức tổ chức bộ máy quản lý, chủ động đổi mới thiết bị công nghệ, đặt chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở trong và ngoài nước theo quy định của Chính phủ, kinh doanh ngành nghề phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ Nhà nước giao…TCT công ty chịu sự kiểm tra, giám sát về mặt tài chính của Bộ Tài Chính với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước và đại diện chủ sở hữu về vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp theo uỷ quyền của Chính phủ. Đơn vị thành viên chịu sự kiểm tra, giám sát của TCT theo nội dung đã quy định tại Điều lệ của TCT và của cơ quan tài chính về các hoạt động tài chính, quản lý vốn và tài sản Nhà nước. Nhìn chung, cơ chế tài chính của TCT mặc dù đã có nhiều đổi mới và tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều tồn tại: Tình trạng thất thoát vốn, tài sản còn rất lớn và nghiêm trọng, quản lý tài chính lỏng lẻo dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp trốn doanh thu, lậu thuế, tăng chi phí, bóp méo kết quả kinh doanh. Tài sản, vốn giao cho doanh nghiệp được doanh nghiệp sử dụng tạo nguồn thu nhập nhưng không được hạch toán, dẫn đến thất thu cho Nhà nước như tiền thuê đất, mặt bằng của doanh nghiệp đem cho thuê nhưng không phản ánh hoặc phản ánh không chính xác trong hạch toán, tình trạng lãng phí, hư hỏng, mất mát, gây thiệt hại không quy được trách nhiệm, hoặc xác định được nhưng chưa có chế tài thích hợp để xử lý, tình trạng tham ô, tham nhũng kể cả cá nhân và tập thể, nhưng ít được phát hiện… 1.1.2.Vai trò của Tổng công ty Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp Nhà nước nói chung, TCT Nhà nước nói riêng có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Ở nước ta cũng như các nước trên thế giới, các doanh nghiệp Nhà nước là một công cụ cần thiết để Nhà nước thực hiện vai trò của mình trong quản lý vĩ mô và giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội. Từ mấy chục năm qua, các doanh nghiệp Nhà nước đã trở thành một bộ phận cốt lõi của nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo, có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế then chốt trong nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong sản xuất và cung ứng, hầu hết các sản phẩm thiết yếu cho nền kinh tế. Các TCT thu hút khoảng 30% tổng số doanh nghiệp hiện nay và chiếm khoảng 80% sảng lượng và vốn của khu vực doanh nghiệp Nhà nước, có khả năng chi phối không chỉ trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước mà cả nền kinh tế. Có thể thấy rằng việc thành lập các Tổng công ty đã tạo ra những thuận lợi đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng đồng thời cũng nảy sinh nhiều nhân tố hạn chế cạnh tranh và độc quyền đang là thách thức đối với chính sách thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào quá trình công nghiệp hoá. Các TCT với sự tập trung khoảng 80% vốn và giá trị sản lượng là lực lượng quan trọng để thực hiện các chương trình kinh tế, chương trình công nghiệp hoá. Những TCT này trở thành những doanh nghiệp đầu ngành trong các ngành công nghiệp then chốt, với sự tập trung vốn và các nguồn lực một cách nhanh chóng thông qua các quyết định hành chính. Mặt khác sự tập trung này có thể hạn chế sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp có thành viên của TCT, tạo ra sự dựa dẫm “bao cấp” ngay trong nội bộ TCT đối với các doanh nghiệp yếu kém. Đồng thời sự tích tụ tập trung cao ở các TCT hạch toán tập trung mang tính quy mô ngành có thể tạo ra nguy cơ độc quyền, khó đánh giá hiệu quả hoạt động của nó, và có thể làm hạn chế sự cạnh tranh của các doanh nghiệp. Để phát huy được vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường, các TCT cần phải có một cơ chế tài chính phù hợp với yêu cầu bức xúc của sản xuất kinh doanh nhằm tận dụng tối đa nguồn lực trong nội bộ TCT và các điều kiện từ bên ngoài hướng tới mục tiêu cơ bản của các TCT là: phát triển sản xuất kinh doanh ổn định, bền vững. 1.2.Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính. 1.2.1.Khái niệm. Phân tích tài chính được các nhà quản lý bắt đầu chú ý từ cuối thế kỉ XIX. Từ đầu thế kỉ XX đến nay, phân tích tài chính thực sự được phát triển và chú trọng hơn bao giờ hết bởi nhu cầu quản lý doanh nghiệp có hiệu quả ngày càng tăng, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống tài chính, sự phát triển của các tập đoàn kinh doanh và khả năng sử dụng rộng rãi công nghệ thông tin. Nghiên cứu phân tích tài chính là khâu quan trọng trong quản lý doanh nghiệp. Vậy phân tích tài chính là gì? Nội dung phân tích và sử dụng phương pháp phân tích như thế nào? “Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập và xử lý thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, các quyết định quản lý phù hợp.” Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có dự quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau, đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng… kế cả các cơ quan Nhà nước và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là khả năng phát triển, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp, do đó họ quan tâm trước hết đến lĩnh vực đầu tư và tài trợ. Đối với chủ ngân hàng và chủ nợ khác, mối quan tâm chủ yếu của họ là đánh giá khả năng thanh toán, khả năng trả nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. Đối với các nhà đầu tư khác, họ quan tâm đến các yếu tố rủi ro, lãi suất, khả năng thanh toán… Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính thông qua một hệ thống các phương pháp, công cụ và kĩ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra các quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp. 1.2.2. Vai trò của phân tích tài chính. Phân tích tài chính đối với nhà quản trị. Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để định hướng các quyết định của Ban Tổng giám đốc. Giám đốc tài chính, dự báo tài chính, kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các hoạt động quản lý. Phân tích tài chính đối với nhà đầu tư. Nhà đầu tư cần biết tình hình thu nhập của chủ sở hữu - lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp họ ra quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không? Phân tích tài chính đối với người cho vay. Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà người cho vay cần xem xét là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu cho vay hay không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào? Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng lương trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư… Dù họ công tác ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng họ đều muốn hiểu biết về hoạt động của doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ 1.2.3.Nội dung và phương pháp phân tích. 1.2.3.1.Nội dung. a.Thu nhập thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Việc thu nhập và sử dụng cá nguồn thông tin là vấn đề quan trọng hàng đầu cho quá trình phân tích. Thông tin mà các doanh nghiệp sử dụng là: Các thông tin bên ngoài doanh nghiệp và các thông tin nội bộ doanh nghiệp Các thông tin bên ngoài doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế ngày càng có quan hệ kinh tế mật thiết với nhau, ảnh hưởng lớn tới nhau, doanh nghiệp nào nắm được càng nhiều các thông tin kinh tế và xử lý các thông tin bên ngoài doanh nghiệp hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra những lý do dự báo tài chính giúp cho việc ra quyết định về mặt tài chính và giúp cho việc dự kiến kết quả tương lai của doanh nghiệp nên không thể chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu các báo cáo tài chính mà còn phải mở rộng sang các lĩnh vực khác như: các thông tin chung về kinh tế; thuế, tiền tệ; các thông tin về ngành kinh doanh của doanh nghiệp; các thông tin về pháp lý, về chính sách tài chính của Nhà nước đối với các doanh nghiệp, thông tin về thị trường, tiến bộ khoa học kĩ thuật… Mỗi một doanh nghiệp là một tế bào cấu tạo nên hệ thống doanh nghiệp của một đất nước. Do vậy bất kỳ một sự suy thoái hay tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh mẽ tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi có cơ hội thuận lợi, các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận của doanh nghiệp cũng như giá trị của các cổ phiếu (nếu là công ty cổ phần) sẽ biến động cùng chiều với các hoạt động. Do vậy, trong quá trình phân tích tài chính thì điều quan trọng là phải nhận thấy sự xuất hiện của những cơ hội mang tính chu kì, qua thời kỳ tăng trưởng thì sẽ đến giai đoạn suy thoái và ngược lại. Đồng thời, cần phải đặt sự phát triển của doanh nghiệp trong mối liên hệ với các hoạt động chung của ngành kinh doanh. Bởi vì trong cùng ngành sẽ có những tính chất và đặc điểm giống nhau. Những nghiên cứu theo ngành sẽ chỉ rõ tầm quan trọng của ngành nghiên cứu trong nền kinh tế, các sản phẩm và hoạt động khác nhau của ngành, quy trình công nghệ, các khoản đầu tư, cơ cấu ngành, độ lớn của thị trường và triển vọng phát triển… Các thông tin nội bộ doanh nghiệp. Đây là nguồn thông tin đặc biệt cần thiết, mang tính chất bắt buộc. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đáng giá cho phân tích tài chính. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có nhiệm vụ phải cung cấp những thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh đầy đủ trong các báo cáo tài chính: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Bảng cân đối kế toán. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp. Kết cấu của bảng cân đối kế toán được chia thành hai phần: tài sản và nguồn vốn được trình bày dưới dạng một phía hoặc hai phía. Cả hai phần tài sản và nguồn vốn đều bao gồm các chỉ tiêu tài chính phát sinh, phản ánh từng nội dung tài sản và nguồn vốn. Phần tài sản phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo, thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Về mặt kinh tế, các số liệu ở phần tài sản phản ánh được quy mô và kết cấu tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo. Thông qua đó có thể đánh giá một cách tổng quát về quy mô, tính chất hoạt động và năng lực, trình độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý, số liệu ở phần tài sản thể hiện tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng lâu dài, gắn với mục đích thu được các khoản lợi nhuận. Bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu vốn được huy động vào sản xuất kinh doanh tức là nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo. Về mặt kinh tế, qua việc xem xét nguồn vốn, người sử dụng thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý, nguồn vốn cho thấy trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã kinh doanh với Nhà nước, số tài sản đã hình thành bằng nguồn vốn vay ngân hàng, vốn vay đối tượng khác cũng như trách nhiệm phải thanh toán đối với người lao động, cổ đông, nhà cung cấp, ngân sách… Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính hoặc khả năng thanh toán và cơ cấu của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh. Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với Bảng cân đối kế toán, báo cáo Kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo Kết quả kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ, so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực nhập quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất – kinh doanh: lỗ lãi trong năm. Như vậy, báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh bao gồm 3 phần: Phần 1: Báo cáo lỗ lãi Phần này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh, kết quả hoạt động tài chính và kết quả hoạt động bất thường của kỳ trước, số phát sinh trong kỳ và số luỹ kế từ đầu năm theo từng cột tương ứng. Phần 2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước Phần này gồm các chỉ tiêu phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với Nhà nước theo từng chỉ tiêu như nộp thuế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn… Các chỉ tiêu được phản ánh trong phần này theo dõi số còn phải nộp kỳ trước chuyển sang, số phải nộp phát sinh trong kỳ, số còn phải nộp chuyển sang kỳ sau theo từng cột tương ứng. Phần 3:Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời những câu hỏi liên quan đền luồng tiền vào ra trong doanh nghiệp, tình hình trả nợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp những thông tin về các dòng tiền lưu chuyển và các khoản coi như tiền - những khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh chóng và sẵn sàng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước, ít chịu rủi ro về giá trị do những thay đổi về lãi suất. Những luồng vào ra của tiền và những khoản coi như tiền được tổng hợp thành ba nhóm: lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và được lập theo phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp. Các báo cáo tài chính trong doanh nghiệp có mối liên hệ mật thiết với nhau, mỗi sự thay đổi chỉ tiêu trong báo cáo này hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp làm ảnh hưởng đến báo cáo kia, trình tự đọc hiểu và kiểm tra các báo cáo tài chính phải được bắt đầu từ báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ kết hợp bảng cân đồi kế toán kỳ trước để đọc và kiểm tra bảng cân đối kỳ này. Do đó, để phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp, các nhà phân tích cần đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó họ nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích của họ. b.Phân tích các tỷ số tài chính. Trong phân tích tài chính, các tỷ số tài chính chủ yếu được phân thành 4 nhóm chính: Tỷ số về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng của các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ câú vốn: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. Tỷ số về khả năng hoạt động: Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp. Tỷ số về khả năng sinh lãi: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất - kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp. Tuỳ theo mục tiêu phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn tới nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm tới tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ số về cơ cấu vốn vì sự thay đổi tỷ số này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ. Các tỷ số về khả năng thanh toán. Tình hình tài chính doanh nghiệp được thể hiện rõ nét qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bởi vì một doanh nghiệp được đánh giá là có tình hình tài chính lành mạnh trước hết phải được thể hiện ở khả năng chi trả, khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Nhóm chỉ tiêu này bao gốm các chỉ tiêu : Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành: Khả năng thanh toán hiện hành = Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn Tài sản lưu động thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ ( tồn kho). Còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp và các khoản phải trả, phải nộp khác…Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định - tới một năm. Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn, các nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng (net working capital) hay vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cũng là một yếu tố quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp. Nó được xác định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn, hoặc là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với tài sản cố định ròng. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào vốn lưu động ròng. Do vậy, sự phát triển của không ít doanh nghiệp còn được thể hiện ở sự tăng trưởng vốn lưu động ròng. Tỷ số khả năng thanh toán nhanh Là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ ( tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ ( tồn kho) và xác định bằng cách lấy tài sản lưu động trừ phần dự trữ ( tồn kho) chia cho nợ ngắn hạn. Khả năng thanh toán nhanh = Tài sản lưu động - Dự trữ Nợ ngắn hạn Tỷ số dự trữ (tồn kho) trên vốn lưu động ròng Tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng. Nó được tính bằng cách chia dự trữ (tồn kho) cho vốn lưu động ròng. Các tỷ số về khả năng cân đối vốn Tỷ số này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn của chủ sở hữu công ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro xảy ra trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể. Tỷ số nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ): Tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ nợ thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song, nếu tỷ số nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi: Thể hiện ở tỷ số lợi nhuận trước thuế và lãi trên lãi vay. Nó cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản. Các tỷ số về khả năng hoạt động. Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các tỷ số này để xem khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Vòng quay tiền Tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng); nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm. Vòng quay dự trữ. Là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm) bình quân. Số vòng quay dự trữ năm nay thấp hơn năm trước và thấp hơn nhiều so với mức trung bình của ngành. Điều này chứng tỏ bất hợp lý và kém hiệu quả trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, khâu sản xuất và khâu tiêu thụ sản phẩm cũng cần được xem xét nhằm đưa ra giải pháp xử lý đúng đắn và kịp thời Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Doanh thu Tài sản cố định Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu Tài sản Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu doanh thu. Các tỷ số về khả năng sinh lãi Nếu như các nhóm tỷ số trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp thì tỷ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Thu nhập sau thuế Doanh thu Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu ( Doanh lợi vốn chủ sở hữu) : ROE ROE = Thu nhập sau thuế Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu được xácđịnh cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Doanh lợi tài sản: ROA ROA = Thu nhập sau thuế Tài sản Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi hoặc thu nhập sau thuế để so sánh với tổng tài sản. 1.2.3.2.Phương pháp phân tích. Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng và các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Về lý thuyết, có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp, nhưng trên thực tế người ta sử dụng 3 phương pháp chủ yếu là phương pháp so sánh, phương pháp tỷ lệ và phương pháp Dupont. a.Phương pháp so sánh. Để áp dụng phương pháp so sánh cần đảm bảo các điều kiện có thể so sánh được các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung và tính chất và đơn vị tính toán…) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh.Gốc so sánh được chọn là gốc về mặt thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có th._.ể được lựa chọn bằng số tuyệt đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh bao gồm: So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành, của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình tốt hay xấu, được hay chưa được. So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chi tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số lượng tương đối và tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp. b.Phương pháp phân tích tỷ lệ. Phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính là phương pháp tỷ số.Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số được dùng để phân tích. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bằng cách so sánh chi tiêu này với chỉ tiêu khác. Tất nhiên ta chỉ có thể so sánh các chỉ tiêu có mối liên hệ với nhau thu được các tỷ số có ý nghĩa. Với nguyên tắc đó, các nhà phân tích có thể xây dựng các tỷ số phân tích phù hợp với đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. Phương pháp phân tích tỷ số được dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ số của các đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ số, cố nhiên là sự biến đổi của các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ số yêu cầu phải xác định được ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với giá trị các tỷ số tham chiếu bởi vì một đặc tính dễ nhận thấy của các tỷ số đơn là khi đứng độc lập chúng trở thành vô nghĩa. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn, nhóm tỷ số về khả năng hoạt động , nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, bộ phận của hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích của mình. c.Phương pháp phân tích tài chính Dupont. Phương pháp phân tích tài chính Dupont cho thấy mối quan hệ tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính chủ yếu. Công ty Dupont là công ty đầu tiên ở Mỹ sử dụng các mối quan hệ chủ yếu này để phân tích các tỷ số tài chính. Vì vậy nó được gọi là phương pháp Dupont. Hiện nay, phương pháp này được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia. Phương pháp Dupont là phương pháp tài chính quan trọng, với phương pháp này các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp mức sinh lời của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu thành tích số của các chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó với tỷ số tổng hợp. Ưu điểm của phương pháp này là tìm ra được nguyên nhân của vấn đề từ đó có thể đưa ra các giải pháp để giải quyết vấn đề đó. Nhưng hạn chế của phương pháp này là nó khá phức tạp và nhiều khi nguyên nhân chưa hẳn là đúng. Có thể có trường hợp một số nhân tố tác động tới nhiều chỉ tiêu được gọi là nguyên nhân gây ra sự thay đổi của chỉ tiêu cần phân tích tuy nhiên những tác động này là ngược nhau vì vậy rất khó có thể nói chính xác rằng nhân tố đó có tác động như thế nào đến kết quả phân tích cuối cùng. 1.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.3.1.Nhân tố chủ quan. 1.3.1.1.Nhận thức của lãnh đạo về tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Công tác phân tích tài chính đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Ngày nay, hoạt động phân tích tài chính ngày càng được quan tâm phát triển. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có nhận thức đúng đắn về hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp này. Nếu ở một doanh nghiệp mà các lãnh đạo có nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp thì ở đó công tác tổ chức phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ được thực hiện một cách triệt để và hoạt động phân tích tài chính sẽ thực sự hiệu quả. Ở đó, ban lãnh đạo sẽ chỉ đạo sát sao về công tác phân tích tài chính, sẽ thực sự coi trọng kết quả của phân tích tài chính chứ không phải là hình thức. Ngược lại ở doanh nghiệp mà ban lãnh đạo không hề coi trọng công tác phân tích tài chính thì ở đó sẽ thiếu sự chỉ đạo và phân tích tài chính không được thực hiện hoặc nếu có thực hiện được cũng chỉ là qua loa đại khái. Như thế công tác phân tích tài chính sẽ không phát huy hết hiệu quả. 1.3.1.2.Chất lượng nguồn thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Thông tin là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng phân tích tài chính, vì vậy nếu thiếu thông tin sử dụng không chính xác thì kết quả phân tích chỉ là hình thức mà không có ý nghĩa gì.Do đó, thông tin sử dụng trong phân tích tài chính là nền tảng của phân tích tài chính. Từ các thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, người phân tích không chỉ thấy được tình hình tài chính doanh nghiệp mà còn thấy được vị trí của doanh nghiệp mình trong nền kinh tế, từ đó dự đoán xu hướng biến động và đưa ra phương hướng phát triển phù hợp với doanh nghiệp. 1.3.1.3.Nhân sự thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính là quá trình nhà phân tích sử dụng các công cụ, phương pháp để xử lý, phân tích, đánh giá các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Nên các kết quả phân tích tài chính là những nhận xét, đánh giá của người phân tích. Vì vậy, trình độ của người phân tích sẽ tác động trực tiếp đến kết quả phân tích. Người thực hiện công tác phân tích tài chính nếu có trình độ chuyên môn vững vàng, nắm vững quy trình phân tích và có khả năng đánh giá tinh tế thì sẽ có tác động tích cực tới công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Họ sẽ đưa ra được kết quả phân tích chính xác và đưa ra những nhận xét, giải pháp phù hợp và thích đáng, giúp công tác phân tích tài chính đạt hiệu quả. Ngược lại, nếu trình độ của người phân tích bị hạn chế thì sẽ có tác động tiêu cực đến công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Khi đó thông tin không được sử dụng có hiệu quả, không được phân tích triệt để; phương pháp sử dụng không hợp lý, gây tốn kém về thời gian và nguồn lực; dẫn đến kết quả phân tích thiếu chính xác, các đánh giá không đáng tin cậy và việc đề ra các giải pháp tài chính bị hạn chế. 1.3.1.4.Tổ chức hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. Tổ chức công tác phân tích là yếu tố có tác động tổng hợp, nó liên kết các yếu tố con người, thông tin, phương pháp, cơ sở vật chất với nhau, liên quan đến việc huy động, phối hợp các nguồn lực thực hiện phân tích tài chính. Hiệu quả phát triển tài chính sẽ được nâng cao nếu cách thức tổ chức công tác phân tích khoa học, chu kỳ phân tích đều đặn, thường xuyên, quy trình phân tích chặt chẽ, phân công, phối hợp các yếu tố, nguồn lực hợp lý. Khi đó các yếu tố, nguồn lực được huy động và phối hợp với nhau một cách chặt chẽ, ăn khớp, đồng bộ với nhau. Do đó hiệu quả công tác phân tích tài chính được nâng cao. Ngược lại, nếu cách thức tổ chức công tác phân tích tài chính không khoa học, hợp lý sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả phân tích. Việc phân tích không được tiến hành theo chu kỳ đều đặn, thường xuyên dẫn tới khó khăn trong sắp xếp thông tin. Quy trình phân tích không chặt chẽ dẫn tới khác nhau, các bước không được phối hợp đồng bộ, một bước nào đó trong quy trình phân tích không hiệu quả, không ăn khớp với các bước khác sẽ làm giảm hiệu quả chung của công tác phân tích tài chính. 1.3.1.5.Lựa chọn phương pháp phân tích. Phương pháp phân tích là công cụ hữu hiệu giúp đạt được mục tiêu phân tích. Nếu áp dụng linh hoạt và hợp lý các phương pháp phân tích thì sẽ kết hợp được các ưu điểm, làm giảm nhược điểm của phương pháp, mang lại kết quả phân tích chính xác và toàn diện. Ngược lại, nếu chỉ sử dụng một phương pháp phân tích thì chỉ thấy được một mặt của vấn đề nào đó cần phân tích, không phản ánh hết nội dung cần phân tích. Mỗi phương pháp phân tích đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Do vậy, mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn được phương pháp phân tích thích hợp cho mình để có thể hỗ trợ được tốt nhất cho công tác phân tích, góp phần mang lại kết quả phân tích sâu sắc, triệt để. 1.3.2.Nhân tố khách quan. 1.3.2.1.Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Mỗi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên một hoặc một số lĩnh vực nhất định. Doanh nghiệp hoạt động trong môi trường bao gồm nhiều doanh nghiệp với nhiều đặc điểm chung đặc trưng của ngành bên cạnh những đặc điểm vốn có của mình. Một hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành hoàn thiện, chính xác và cập nhật sẽ có tác dụng tích cực đến công tác phân tích tài chính tại doanh nghiệp. Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành giúp các nhà phân tích có được cái nhìn khách quan và toàn diện về ngành và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, từ đó giúp cho việc phân tích tài chính doanh nghiệp đươc hoàn thiện hơn. Hệ thống trung bình ngành được xây dựng chính xác là cơ sở tham chiếu quan trọng cho các doanh nghiệp khi tiến hành phân tích tài chính. Chúng ta chỉ có thể khẳng định các tỷ lệ tài chính của một doanh nghiệp là thấp hay cao khi đem chúng so sánh với các tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp khác có đặc điểm và điều kiện sản xuất kinh doanh tương tự mà đại diện là chỉ tiêu trung bình ngành. Thông qua đối chiếu chỉ tiêu trung bình ngành, nhà quản trị biết được vị thế của doanh nghiệp mình trên thị trường, sức mạnh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh; từ đó đánh giá một cách chính xác thực trạng doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những hạn chế của hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành dẫn đến khó khăn cho công tác phân tích tài chính. Thiếu một hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, nhà phân tích khó có thể khẳng định một cách chính xác một chỉ tiêu tài chính là tốt hay xấu, do đó việc đưa ra nhận định về tình hình tài chính bị hạn chế, thiếu chính xác. 1.3.2.2.Hệ thống pháp lý. Hệ thống pháp lý có tác động đến nhiều khía cạnh trong hoạt động phân tích tài chính tại doanh nghiệp. Mọi hoạt động của doanh nghiệp gắn kết với môi trường xung quanh, đặc biệt gắn kết chặt chẽ với môi trường pháp lý. Doanh nghiệp được hình thành và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, tuân thủ các quy định và chính sách của nhà nước. Qua hệ thống pháp lý, Nhà nước có thể điều chỉnh các hành vi của doanh nghiệp.Vì vậy hệ thống pháp lý có ảnh hưởng đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp, trong đó có công tác phân tích tài chính. Hệ thống pháp lý có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến công tác phân tích tài chính, khuyến khích hay hạn chế tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống pháp lý ổn định sẽ tạo điều kiện cho các nhà phân tích có thể lựa chọn phương pháp tài chính phù hợp sẽ tạo điều kiện thống nhất các chỉ tiêu trong toàn ngành, giúp các nhà phân tích dễ dàng tìm kiếm thông tin và ngược lại. Hệ thống pháp lý mà thiếu chặt chẽ, không thống nhất có tác động tiêu cực đến công tác phân tích tài chính tại doanh nghiệp. Chế độ kế toán lỏng lẻo, không rõ ràng, tiếp cận thông tin bị hạn chế gây khó khăn cho doanh nghiệp khi thu thập thông tin, thông tin không đầy đủ, không phản ánh đúng bản chất thực trạng tài chính. Nếu các quy định về quản lý tài chính không hợp lý sẽ dẫn đến việc thực hiện phân tích tài chính không được thực hiện nghiêm túc, công tác phân tích kém hiệu quả. 1.3.2.3.Nhân tố công nghệ. Với sự trợ giúp của công nghệ hiện đại như máy tính, các phần mềm chuyên dụng thì các phương pháp phân tích tài chính dù phức tạp đến đâu cũng có thể đưa vào áp dụng một cách dễ dàng. Đấy chính là tác động trực tiếp của nhân tố công nghệ đến khả năng áp dụng các phương pháp phân tích tài chính trong doanh nghiệp. Với một công nghệ phân tích tài chính hoàn chỉnh thì việc đạt được các kết quả như mong muốn trong phân tích là việc dễ dàng. Một công nghệ phân tích tài chính hoàn chỉnh phải được thiết lập từ trên xuống và thực hiện một cách có hệ thống từ việc thu nhận các số liệu cho đến việc xử lý các số liệu. Do vậy, nếu doanh nghiệp thiếu sự đầu tư, trang bị các công nghệ tin học hiện đại khiến cho mọi quá trình từ thu nhập đến phân tích, xử lý số liệu đều phải tiến hành thủ công thì hoạt động phân tích tài chính nói chung và việc áp dụng các phương pháp phân tích nói riêng sẽ kém hiệu quả. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI TỔNG CÔNG TY HÀNG KHÔNG VIỆT NAM. 2.1.Khái quát đặc điểm kinh tế, kĩ thuật của ngành Hàng không Việt Nam. 2.1.1.Lịch sử ra đời, phát triển của Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Ngành Hàng không dân dụng Việt Nam chính thức ra đời 15 tháng 1 năm 1956 – ngày Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định thành lập Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Tuy vậy trên thực tế, hoạt động Hàng không đã diễn ra trước đó khá lâu ở Việt Nam.Trong giai đoạn đổi mới, mọi hoạt động vận chuyển của Hàng không đều do Cục Hàng không dân dụng trực tiếp quản lý. Ngày 27/01/1996 Tổng công ty Hàng không Việt Nam chính thức được thành lập theo chủ trương chung của Nhà nước về thành lập tổng công ty Nhà nước trên một số lĩnh vực quan trọng nhằm tăng cường, tích tụ, tập trung, phân công, chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất đảm bảo cho các Tổng công ty này thực hiện được các nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của từng đơn vị thành viên và của toàn Tổng công ty, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Tổng công ty có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam làm nòng cốt. Tên giao dịch Quốc tế là Vietnam Airlines Corporation, có trụ sở chính tại số 200 đường Nguyễn Sơn – Gia Lâm – Hà nội với số vốn pháp định là 1.301 tỷ VND. Ra đời trong điều kiện đất nước vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Ngành hàng không tiếp thu những cơ sở vật chất kỹ thuật chỉ huy điều hành bay, sân bay, nhà ga, hết sức thô sơ tại sân bay Gia Lâm và một số sân bay ở phía Bắc. Cho đến nay Hàng không Việt Nam đã chuẩn bị hành trang tương đối đầy đủ và vững chắc để tiến vào thế kỷ XXI. Ngành đã đầu tư, nâng cấp, xây dựng các sân bay quốc tế Nội Bài, Đà Nẵng, Tây Sơn Nhất và các sân bay địa phương từ Điện Biên, Nà Sản, Buôn Mê Thuột, Plei Ku của Tây Nguyên đến Phú Quốc, Côn Sơn, Cà Mau của cực Nam tổ quốc. Hệ thống trang thiết bị kỹ thuật phục vụ chỉ huy điều hành các chuyến bay đi và đến, các chuyến bay qua vùng trời thuộc phạm vi ngành được giao quản lý, điều hành đã được đầu tư lớn theo hướng đi tắt đón đầu, tiến thẳng vào công nghệ hiện đại. Tổng công ty Hàng không Vịêt nam đã đầu tư mua sắm nhiều loại máy bay thế hệ mới như A.320, A321, B.777 và sắp tới là B.787. Hình ảnh Hàng không Việt Nam hiện nay đã đổi mới toàn diện, trước sự tin tưởng và khâm phục của bạn bè quốc tế. 2.1.2. Vai trò của ngành Hàng không Vịêt Nam trong nền kinh tế quốc dân. Giao thông vận tải hiện nay là một ngành có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân đặc biệt là ngành vận tải Hàng không. Mặc dù vận tải Hàng không là một ngành non trẻ nhưng lại có tốc độ phát triển như vũ bão và vai trò của nó càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết đối với các quốc gia trên thế giới. Ngày nay thật khó có thể tưởng tượng được rằng một xã hội văn minh hiện đại lại thiếu những phương tiện chuyên trở công cộng nhanh chóng, thuận tiện, kinh tế và an toàn. Hàng không Việt Nam là một mắt xích quan trọng trong sợi dây xích nối kết các phương tiện vận tải khác nhau nhằm khai thác các lợi thế của chúng đồng thời góp phần cho sự phát triển của mô hình vận tải đa phương thức giúp chi phí vận chuyển ngày một thấp hơn, thời gian vận chuyển ngày càng nhanh hơn, chất lượng hàng hoá vận chuyển ngày càng được đảm bảo. Ngành vận tải hàng không dân dụng Việt Nam là ngành có nguồn thu rất lớn, trong đó chủ yếu là thu ngoại tệ và có những đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Năm 1990 tổng doanh thu toàn ngành đạt trên 200 tỷ, nộp ngân sách Nhà nước trên 80 tỷ. Năm 1995 con số này đã tăng lên đáng kể: tổng doanh thu toàn ngành đạt 5260 tỷ đống vượt kế hoạch Nhà nước giao 20%, nộp ngân sách 739 tỷ đồng. Đến năm 2000, tổng doanh thu của TCT đạt 9000 tỷ nộp ngân sách 1071 tỷ… Như vậy hàng năm ngành Hàng không Việt Nam đã đóng góp một con số đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Chính sách mở cửa hội nhập với quốc tế của Việt Nam đang thực hiện thành công với sự đóng góp của ngành hàng không nói chung và Tổng công ty hàng không nói riêng. Bên cạnh những chuyến bay thương mại, ngày càng có nhiều chuyến bay đi và đến của các nước trên thế giới với mục đích chính trị ngoại giao. Hàng năm, tổng công ty Hàng không Việt Nam thực hiện thành công hàng trăm chuyến bay chuyên cơ phục vụ các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cũng như thực hiện đón tiếp hàng trăm đoàn ngoại giao các nước đến thăm Việt Nam. Với những đóng góp của ngành vận tải hàng không trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có thể khẳng định rằng phát triển ngành vận tải hàng không là yếu tố hàng đầu trong chuyển giao công nghệ và đào tạo tay nghề. Điều đó được thể hiện trong đường lối phát triển của Việt Nam theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ổn định kinh tế có thể thực hiện thành công trên cơ sở củng cố và phát triển lưu thông hàng hoá và dịch vụ, trong đó có sự đóng góp quan trọng của ngành hàng không. 2.1.3.Khái quát tổ chức bộ máy, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Tổng công ty Hàng không Việt Nam. 2.1.3.1.Tổ chức bộ máy. chức năng nhiệm vụ của Tổng công ty Hàng không. Tổng công ty hàng không Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước theo mô hình tập đoàn kinh doanh, với chức năng chủ đạo cho mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh trong ngành hàng không dân dụng, trong đó vận tải hàng không là nòng cốt. Tổng công ty có nhiệm vụ thực hiện kinh doanh, dịch vụ vận tải, hàng không đối với hành khách và hàng hoá ở trong nước và nước ngoài theo quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển ngành hàng không dân dụng của Nhà nước, cung ứng các dịch vụ thương mại kỹ thuật hàng không và các ngành có mối quan hệ gắn bó với nhau trong dây chuyền kinh doanh vận tải hàng không, xây dựng kế hoạch phát triển, đầu tư, xây dựng, tạo nguốn vốn, thuê và cho thuê, mua sắm tàu bay bảo dưỡng và sửa chữa thiết bị, xuất khẩu vật tư thiết bị, phụ tùng , nguyên liệu, nhiên liệu cho ngành hàng không; liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài, kinh doanh các ngành nghề khác theo quy định của pháp luật. Tổng công ty chịu sự quản lý của Nhà nước của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan Chính phủ, uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương với tư cách là các cơ quan quản lý Nhà nước; chịu sự quản lý của cơ quan thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước theo quy định tại luật doanh nghiệp Nhà nước và các quy định khác của pháp luật. Về tổ chức bộ máy của Tổng công ty, các đơn vị thành viên của Tổng công ty hàng không Việt Nam bao gồm: Các đơn vị hạch toán độc lập, đơn vị hạch toán phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp, và các đơn vị liên doanh mà TCT tham gia góp vốn. Tổ chức của TCT gồm một hội đồng quản trị 7 thành viên do thủ tướng chính phủ trực tiếp chỉ định, trong đó có một uỷ viên kiêm chức vụ tổng giám đốc. Giúp việc cho Tổng giám đốc trong điều hành quản lý chung là các cơ quan tham mưu tổng hợp. Tổng công ty có 24 doanh nghiệp thành viên được chia làm hai khối là khối hạch toán phụ thuộc gồm 13 thành viên và khối hạch toán độc lập gồm 11 đơn vị thành viên và 6 đơn vị liên doanh. Tổ chức của TCT có thể được minh hoạ theo sơ đồ: 2.1.3.2. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của tổng công ty Hàng không Việt Nam. a.Thị trường vận tải hàng không: Người ta căn cứ vào các điểm xuất phát đi và đến của máy bay để phân chia thị trường hàng không thành hai loại lớn là: thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Trên mỗi thị trường lớn người ta lại phân theo từng cấp bậc bao gồm: Thị trường nội địa bao gồm: - Thị trường cặp thành phố, ví dụ: thị trường cặp Hà Nội - Huế, hay Hà Nội – thành phố Hồ Chí Minh,… - Thị trường liên vùng bao gồm tất cả các đường bay nối liền hai vùng, ví dụ: thị trường Nam Bắc và cuối cùng là thị trường toàn quốc. Thị trường quốc tế bao gồm: - Thị trường cặp thành phố của hai quốc gia: Hà Nội – Singapo… - Thị trường cặp quốc gia: Việt Nam – CH Pháp.. - Thị trường liên vùng: Việt Nam và Tây Âu - Thị trường toàn cầu. b.Sản phẩm hàng không Sản phẩm vận chuyển hàng không là dịch vụ vận chuyển hàng không. Với người bán các dịch vụ đó là các nhà vận chuyển, người mua là hành khách và chủ các lô hàng cần vận chuyển bằng hàng không. c.Nhà chức trách hàng không. Nhà chức trách hàng không dân dụng là cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành hàng không (cục hàng không dân dụng Việt Nam), nhà chức trách hàng không quy định cơ chế hoạt động của thị trường hàng không như cho phép nhà vận chuyển hàng không nào đó được phép khai thác thị trường hàng không xác định, quy định đường bay, khối lượng vận chuyển, tần suất bay, kiểm tra an ninh an toàn…, giá cước, chất lượng vận chuyển, những quy định khác có liên quan. d.Kinh doanh vận tải hàng không và dich vụ đồng bộ. Để cung ứng một sản phẩm hàng không, ngoài các nguồn lực về kinh tế, các nhà vận chuyển hàng không còn phải sử dụng các dịch vụ hàng không đồng bộ, bao gồm dịch vụ tại sân bay, dịch vụ kiểm soát không lưu, dịch vụ cung ứng nhiên liệu hàng không, dịch vụ thương mại, dịch vụ kĩ thuật thương mại mặt đất, bảo dưỡng sửa chữa máy bay… Tổng công ty hàng không với tư cách là nhà vận chuyển, đồng thời tham gia vào cung cấp các dịch vụ đồng bộ như: Phục vụ kỹ thuật thương mại, dịch vụ kỹ thuật, sửa chữa bảo dưỡng máy bay,…ngoại trừ kiểm soát không lưu, khai thác cảng, an ninh hàng không, hải quan, cửa khẩu. Phần lớn các sản phẩm dịch vụ trên được tạo ra để cung ứng cho các nhà vận chuyển hàng không - người ta mua các sản phẩm dịch vụ đó. Tuy nhiên, xét dưới góc độ Tập đoàn kinh doanh thì các dịch vụ đồng bộ chính là sản phẩm tiêu thụ nội bộ. Vì sản phẩm dịch vụ đồng bộ hàng không rất đa dạng, phức tạp nên xác định sản phẩm chính vẫn là hành khách, hàng hoá, bưu điện. e.Cạnh tranh. Thị trường cung ứng dịch vụ Cơ cấu thị trường ngàng hàng không là không đồng nhất, thị trường kiểm soát không lưu là thị trường độc quyền tuyệt đối vì mỗi nước chỉ có một nhà nước cung cấp dịch vụ không lưu cho riêng bản thân chính nước đó và các hãng quốc tế. Với lý do an ninh và chủ quyền quốc gia, mỗi một hãng hàng không muốn được bay qua lãnh thổ Việt Nam hoặc hạ, cất cánh tại các sân bay trên lãnh thổ Việt Nam đều phải được nhà chức trách hàng không cấp phép. Thị trường cung ứng xăng dầu hàng không Việt Nam cũng rất khác biệt, hiện nay chỉ có một công ty duy nhất là Công ty cung ứng xăng dầu hàng không đảm trách, mặc dù phải cạnh tranh lại rất khốc liệt với các công ty xăng dầu của các nước khác trong việc cung ứng xăng dầu quốc tế, nhưng thị trường trong nước thì gần như độc quyền. Thị trường dịch vụ kỹ thuật thương mại tuy không chính thức tuyên bố là độc quyền nhưng thật chất mỗi dịch vụ tại sân bay cũng chỉ có một nhà nước cung ứng duy nhất. Thị trường vận tải hàng không. Thị trường vận tải hàng không là thị trường vận tải hành khách, hàng hoá, bưu điện… và mang đặc tính của một thị trường đặc thù, đối với thị trường trong nước mặc dù chỉ có hai hãng hàng không khai thác trên các tuyến bay trong nước nhưng trên thực tế họ phải cạnh tranh gay gắt với các hình thức vận tải khác như ô tô, đường sắt, đường biển và các phương tiện khác. Đối với thị trường ngoài nước, thì điều đó càng rõ nét, tính cạnh tranh khốc liệt hơn bởi các đối thủ cạnh tranh có tiềm năng quá to lớn so với hàng không Việt Nam. Tuy nhiên, vận tải hàng không quốc tế chịu sự điều tiết quốc gia lẫn song phương. Điều kiện để một hãng hàng không mới tham gia vào thị trường hàng không rất chặt chẽ. Theo Tổ chức hàng không dân dụng thế giới (ICAO) trên mỗi đường bay quốc tế có đến 10 hãng cùng khai thác thương mại, nhưng thậm chí có đường bay chỉ có 2 hãng khai thác. Do vậy có thể nhận xét rằng thị trường vận tải hàng không quốc tế là thị trường gần như độc quyền. f.Thị trường máy bay Đối với thị trường cung cấp máy bay, tuy trên thế giới có rất nhiều công ty sản xuất máy bay, nhưng cũng chỉ có một vài công ty có khả năng cung ứng cho thị trường thế giới như các công ty của Hoa Kỳ, cộng đồng Châu Âu, Nga. Do kĩ thuật sản xuất máy bay dựa trên nền tảng khoa học kĩ thuật tiên tiến nhất và là lợi ích của quốc gia nên rất ít nước có thể sản xuất được. Mặt khác, ICAO chỉ cấp chứng chỉ khai thác thương mại cho máy bay dựa trên tiêu chí kỹ thuật rất nghiêm ngặt và việc mua, bán máy bay cho nước thứ ba phải được phép của nhà sản xuất. g.Dây chuyền vận chuyển hàng không và dịch vụ đồng bộ. Thị trường vận tải hàng không và dịch vụ đồng bộ là thị trường rộng lớn về không gian, thời gian. Sản phẩm cung ứng cho thị trường vận tải hàng không mang tính đặc thù cao vì nó được thực hiện bởi nhiều khâu, dây chuyền vận tải hàng không và dịch vụ là toàn bộ quá trình thực hiện những cam kết giữa nhà vận chuyển với khách hàng, bao gồm xuất bán chứng từ (ký kết hợp đồng cam kết với khách hàng) thực hiện cam kết với khách hàng, cung ứng các dịch vụ kỹ thuật liên quan đến chuyến bay và các dịch vụ khác. Sản phẩm lao vụ đã hoàn thành không đồng hành với quá trình tiêu thụ sản phẩm. Để tạo ra một sản phẩm hàng không là cả quá trình thực hiện thông qua khâu bán sản phẩm trước tiên rồi mới thực hiện cung ứng các dịch vụ. Dây chuyền vận tải hàng không và dịch vụ đồng bộ là cả quá trình cung ứng các dịch vụ vận chuyển từ khi bán hàng cho đến khi thực hiện xong lao vụ. 2.2.Thực trạng công tác phân tích tài chính của Tổng công ty Hàng không Việt Nam. 2.2.1.Thực trạng tình hình tài chính của Tổng công ty Hàng không. Trong những năm gần đây, nên kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển mới cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế trong khu vực. Trong đó ngành du lịch đã góp phấn không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế cả nước. Được sự quan tâm đặc biệt của chính phủ và sự đầu tư thoả đáng, Du lịch Việt Nam trong những năm qua đã có những bước tiến đáng kể. Bằng các chương trình cụ thể về trước mắt và lâu dài được xây dựng, tổ chức rộng khắp như Seagame 22, diễn đàn quốc tế ASEM 5 năm 2004, hội nghị thượng đỉnh APEC diễn ra ở Hà Nội vào năm 2006, các lễ hội lớn ở các địa phương, các chương trình du lịch sinh thái, các tour du lịch theo mùa, du lịch làng nghề… đã thu hút một lượng du khách nước ngoài không nhỏ đến Việt Nam. Mặt khác thu nhập bình quân đầu người của người dân Việt Nam đã được cải thiện, giá trị tinh thần được quan tâm hơn nhu cầu du lịch của một bộ phận không nhỏ dân cư ngày càng tăng. Bên cạnh đó, Nhà nước còn chú trọng các chính sách thu hút đầu tư thông qua việc sửa đổi luật đầu tư nước ngoài, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào mọi lĩnh vực kinh tế. Hiện nay Việt Nam đang được các nhà đầu tư nước ngoài coi là thị trường tiềm năng … các tổ chức, các cá nhân đã biết đến Việt Nam ngày một nhiều hơn. Năm 2001 là năm khởi đầu của nhiều dự án đầu tư nằm trong chiến lược phát triển của Tổng công ty Hàng không Việt Nam như: phát triển đội bay, mở thêm một số đường bay mới, mở lại các đường bay off- line, mở lại các đường bay chính trị trong nước, đẩy nhanh quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ, bảo dưỡng máy bay A320 va Boeing 767, xây mới nhà ga T1 sân bay Nội Bài… Từ năm 2002 đến nay, các dự án đã chính thức đưa vào khai thác: Nhà ga T1 Nội Bài đã được sử dụng với lượng khách đi - đến khoảng 2 triệu khách một năm; Hệ thống C-check đã hoàn thiện, có thể thực hiện mọi phần việc về sửa chữa máy bay cho đội bay của Tổng công ty (trước đây phải đi thuê các nhà máy sản xuất máy bay làm với chi phí rất lớn) và bước đầu đã nhận bảo dưỡng máy bay cho một số hãng hàng không khác, mở đường bay thẳng Hà Nội – Tokyo, đường bay thẳng đến Mỹ, ký hợp đồng mua mới 5 chiếc máy bay AIRBUS A321 và 2 chiếc BOEING B777 với số tiền đầu tư nhiều triệu USD. Bên cạnh đó, Tổng công ty đã liên tục đổi mới các chiến lược xúc tiến thương mại: Kết hợp với Tổng cục du lịch mở các tour với nhiều mức giá khác nhau phù hợp với thu nhập và yêu cầu của khách hàng, tổ chức bán vé giảm giá theo mùa nhằm tận dụng công suất tải của máy bay trong những thời gian vắng khách (mùa thấp điểm), chương trình khách hàng thường xuyên (FFP) hoạt động hiệu quả và thu hút được một lượng không nhỏ khách hàng thân thuộc với Tổng công ty, nâng cao chất lượng dịch vụ (thái độ phục vụ, chất lượng suất ăn, hạn chế đến mức thấp nhất việc chậm lỡ chuyến…), đảm bảo uy tín của Tổng công ty thông qua các chuyến bay an toàn… Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong các năm 2002, 2003, 2004 đã chứng minh tính đúng đắn của chính sách và các chiến lược kinh tế của Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Bảng 1: BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN Đơn vị tính: VND STT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 TÀI SẢN A. TÀI SẢN LƯU ĐỘNG VÀ ĐẦU TƯ NGẮN HẠN 3.794.232.780.747 3.979.690.808.467 4.545.994.124.605 I TIỀN 1.072.499.334.370 772.570.056.658 1.013.702.179.008 1 Tiền mặt 67.374.569.770 248.075.495.658 224.568.156.008 2 Tiền gửi ngân hàng 1.005.124.765.000 524.494.561.000 789.134.023.000 3 Tiền đang chuyển - - - II CÁC KHOẢN ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH NGẮN HẠN 165.689.000.000 124.683.726.223 163.055.390.784 1 Đầu tư chứng khoán ngắn hạn - - - 2 Đâù tư ngắn hạn khác 165.689.000.000 124.683.726.223 163.055.390.784 3 Dự phòng giảm giá - - - III CÁC KHOẢN PHẢI THU 1.612.531.755.282 1.688.315.898.604 2.012.141.591.244 1 Phải thu của khách hàng 1.612.005.630.517 1.687.469.698.672 2.010.626.578.458 2 Trả trước cho người bán - 212.124.._.ác loại máy bay. Về đào tạo và nghiên cứu khoa học. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, khai thác phương tiện, quản lý hoạt động thì công tác đào tạo nghiên cứu khoa học được đặt lên hàng đầu và tập trung trong chiến lược phát triển. Nhu cầu đào tạo trong thời gian sắp tới chủ yếu là đào tạo lực lượng phi công, thương mại, cơ giới, trên không và kỹ sư bảo dưỡng kỹ thuật các loại…Nhằm xây dựng một đội ngũ những cán bộ khoa học đủ trình độ và khả năng để tiếp cận với các phương tiện, công nghệ hiện đại, tạo cơ sở để xây dựng các chuyên ngành mũi nhọn, phù hợp với khả năng phát triển cao hơn trong các thập niên tiếp theo. Chiến lược phát triển kinh doanh vận tải hàng không. Tổng công ty hàng không Việt Nam hoạt động kinh doanh trong phạm vi rộng, được chia làm hai ngành chính là kinh doanh vận tải hàng không và kinh doanh ngoài vận tải hàng không. Trên cơ sở đó Tổng công ty hàng không Việt Nam đã xây dựng chiến lược phát triển cụ thể cho từng ngành. - Chiến lược phát triển vận tải hàng không. + Về vận chuyển hành khách đạt mức tăng trưởng bình quân 10 - 12% /năm và sản lượng khách-kmtừ 12-14% /năm, cho giai đoạn từ nay đến 2006. Tương ứng 7-8.5% /năm và 11-13% /năm cho giai đoạn 2005-2010, trong đó thực hiên khai thác đến Bắc Mỹ từ năm 2006. + Về vận chuyển hàng hoá, đạt mức tăng trưởng 8-10% /năm cho giai đoạn 2000-2005 và 7-8% /năm cho giai đoạn 2005-2010. + Tổng doanh thu tăng bình quân 12-13% /năm đến năm 2005 và 10-11% cho giai đoạn tiếp theo đến năm 2010. Kết quả dự báo đươc thể hiện trong bảng sau: Bảng 8: Dự báo doanh thu đến năm 2010 Năm Doanh thu vận tải hành khách Doanh thu vận tải hàng hoá Doanh thu phụ trợ Tổng cộng Đơn vị 1000USD Tốc độ tăng (%) Đơn vị 1000USD Tốc độ tăng (%) Đơn vị 1000USD Đơn vị 1000USD Tốc độ tăng (%) 2000 289.314 - 34.235 - 17.935 34.511 - 2001 328.428 14 38.289 12 20.727 387.444 13 2002 380.430 16 42.530 11 24.366 447.326 15 2003 430.961 13 47.482 12 27.955 506.399 13 2004 481.723 12 52.599 9 37.583 565.892 12 2005 529.167 10 57.187 9 31.937 618.299 9 2006 615.383 16 62.407 9 37.583 715.643 16 2007 671.593 9 68.147 9 41.670 781.770 9 2008 784.056 11 73.303 8 46.928 868.287 11 2009 829.815 11 79.154 8 52.577 961.248 11 2010 927.375 12 85.377 8 59.311 1072.062 12 (Nguồn: Chiến lược phát triển Tổng công ty hàng không Việt Nam đến năm 2010) Trong trường hợp không khai thác trực tiếp đến Bắc Mỹ 2006 mà sử dụng phương án mua chỗ trên các hãng hàng không liên minh chiến lược thì các chỉ tiêu năm 2010 sẽ được điều chỉnh ở mức 6,3 triệu hành khách, 11,5 tỷ hành khách, gần 100.000 tấn hàng hoá và 950 triệu USD doanh thu. - Chiến lược đầu tư phát triển. Từ nay đến năm 2010 mục tiêu chủ yếu, quan trọng được ưu tiên hàng đầu là: tập trung ưu tiên đội máy bay, nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ đồng bộ để phát triển vận tải hàng không. + Về đội máy bay: Phát triển đội máy bay theo hướng đơn giản về cấu trúc và chủng loại, sức tải trung bình và cân đối giữa tần suất bay và giá thành khai thác đảm bảo tần suất bay và khả năng điều tiết tái cung ứng phù hợp với chiến lược sản phẩm. + Về đầu tư xây dựng cơ sở khai thác mặt đất, cơ sở bảo dưỡng, sửa chữa máy bay. Tăng cường đầu tư trang thiết bị, đặc biệt là nâng cao chất lượng đội ngũ lao động 3 xí nghiệp thương mại mặt đất: Nội Bài, Đà Nẵng và Tân Sơn Nhất, để không chỉ cung ứng cho Vietnam Airlines mà còn cho những hãng hàng không khác. Thành lập công ty cung ứng dịch vụ hàng hoá Nội Bài, phát triển cơ sở hạ tầng kho bãi nhằm cung ứng dịch vụ hàng hoá cho các hãng hàng không Nội Bài quốc tế. Đồng thời tiếp tục nâng cao năng lực phục vụ của công ty liên doanh, phục vụ hàng hoá ở Tân Sơn Nhất. Thiết lập hệ thống điều hành bay hiện đại trên cơ sở tự động hoá nhằm nâng cao công tác điều hành bay, tổ lái, tiếp viên, đảm bảo tối ưu hoá và linh hoạt trong sử dụng đội máy bay, giảm thời gian chết của phương tiện… Củng cố hệ thống điều hành kỹ thuật bảo dưỡng, sửa chữa máy bay theo quy chế VAR – OPS nhằm đảm bảo kiểm soát các quy trình khai thác kỹ thuật và bảo dưỡng máy bay tuân theo đúng các yêu cầu chất lượng và an toàn của các nhà chức trách hàng không trong nước và Quốc tế. Thành lập công ty bảo dưỡng sửa chữa máy bay tên xơ sở sát nhập hai xí nghiệp A75, A76 phát triển xây dựng trung tâm bảo dưỡng máy bay, dưới hình thức công ty liên doanh kỹ thuật, kết hợp trình độ chuyển giao công nghệ từ các hãng hàng không lớn. - Chiến lược phát triển mạng đường bay. Trên cơ sở dự báo về thị trường hàng không đến năm 2010 và những đánh giá, mục tiêu chiến lược vận tải hàng không. Tổng công ty xác định: + Mạng đường bay trục xuyên lục địa đến các thị trường trọng điểm (Tây Âu, Bắc Mỹ) được phát triển một cách thận trọng với quy mô trung bình ngành, nhằm hỗ trợ cho mạng đường bay khu vực là chính. + Về các đường bay nội địa, Tổng công ty xác định mạng nội địa trục bao gồm các đường bay Hà Nội- Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Mạng nội địa tuyến lẻ có tiềm năng nhưng sức mua kém, cơ sở hạ tầng sân rất thiếu thốn, hướng khai thác là dựa trên đường bay hiện có với tần suất hoạt động cao dần lên. Chiến lược kinh doanh ngoài vận tải hàng không. Tổng công ty tập trung đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh như: Xăng dầu hàng không, nhựa cao cấp hàng không và các dịch vụ vận tải hàng không Quốc tế (Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng), mở rộng phát triển công ty in, nhựa cao cấp… Đối với ngành nghề kinh doanh ngoài vận tải hàng không, Tổng công ty phấn đấu đạt được nhịp tăng trưởng bình quân là 9,15%/ năm , trong giai đoạn 2001 – 2005 và 10,98%/ năm trong giai đoạn 2006 -2010. 3.2.Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam. 3.2.1.Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt quy trình phân tài chính tại Tổng công ty. Trong mấy năm qua Tổng công ty đã bước đầu thực hiện công tác phân tích tài chính thong qua thuyết minh báo cáo tài chính, Tổng công ty đã tính toán, so sánh, một số chỉ tiêu qua một số năm và rút ra những đánh giá, nhận xét tổng quát. Tuy nhiên, quá trình phân tích tài chính của Tổng công ty còn ở dạng đơn giản, chưa có một quy trình phân tích thực sự, vì thế Tổng công ty chưa đưa ra những biện pháp, quyết định hữu hiệu cho hoạt động kinh doanh. Để công tác phân tích tài chính có hiệu quả, đầy đủ và khoa học, đòi hỏi Tổng công ty phải tiến hành theo quy trình phân tích sau: Bước 1: Chuẩn bị cho công tác phân tích tài chính. Tổng công ty phải xác định mục tiêu và kế hoạch cho công tác phân tích tài chính, ví dụ như phân tích tài chính nhằm phục vụ cho các nhà quản lý Tổng công ty, Ngân hàng… Lựa chọn đội ngũ các cán bộ phân tích có đủ trình độ và chuyên môn để tiến hành phân tích. Phối hợp các bộ phận trong Tổng công ty để phục vụ cho công tác phân tích. Thu thập đầy đủ các thông tin bao gồm cả thông tin bên trong và bên ngoài để phục vụ cho công tác phân tích. Tổng công ty phải lập và thu thập đủ 4 báo cáo tài chính theo mẫu quy định, thu thập số trung bình ngành. Lựa chọn, kết hợp các phương pháp phân tích cho phù hợp. Bước 2: Tiến hành phân tích tài chính. Tiến hành phân tích tài chính là bước quan trọng nhất trong công tác phân tích tài chính, nó đòi hỏi các nhà quản lý tài chính phải tập trung mọi khả năng, sự hiểu biết để sắp xếp, phân loại các thông tin, từ đó tính toán, so sánh, đánh giá và xác định nguyên nhân của các kết quả đạt được. Tuỳ theo mục đích phân tích mà các nhà quản lý tài chính tiến hành ở các góc độ khác nhau. Bước 3: Dự đoán và quyết định. Sau khi thực hiện các bước chuẩn bị cho phân tích và tiến hành phân tích, nhà quản lý tài chính dựa trên những tiền đề đó để dự đoán nhu cầu và đưa ra quyết định tài chính cho Tổng công ty: quyết định nhằm tăng trưởng, phát triển tối đa các giá trị của Tổng công ty. Sau khi xây dựng quy trình phân tích tài chính tại Tổng công ty , nhà quản lý Tổng công ty sẽ tổ chức giao công việc và trách nhiệm cho từng cá nhân trong việc thực hiện quy trình đã đề ra. Có như vậy mới phát huy bầu không khí làm việc và tinh thần trách nhiệm của từng cá nhân trong công tác này. 3.2.2.Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để đẩy nhanh việc thu nhập và tổng hợp thông tin cho phân tích tài chính. Hiện nay việc tổng hợp các thông tin kế toán để phục vụ cho hoạt động phân tích tài chính còn chưa đáp ứng được kịp thời và vì vậy trong thời gian tới Tổng công ty nên sử dụng các phần mềm quản lý tài chính kế toán hiện đại để việc tổng hợp thông tin diễn ra nhanh hơn đông thời chính xác hơn giúp cho các kết quả của phân tích tài chính trở nên cập nhập hơn. Để hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính cần phải tăng cường thu nhập các thông tin bên ngoài. Tổng công ty đã chú ý đến việc thu nhập thông tin bên ngoài tuy nhiên trong phân tích tài chính thông tin trong phân tích càng phong phú càng tốt. Hơn nữa Tổng công ty chưa tận dụng được những điểm mạnh của công nghệ thông tin trong thời đại ngày nay cụ thể là chưa sử dụng phương pháp thu nhập thông tin rất nhanh mà chi phí không cao là sử dụng Internet. Qua mạng Internet, Tổng công ty có thể tìm hiểu được rất nhiều thông tin về tình hình kinh tế, chính trị cũng như tìm được những văn bản pháp luật cần thiết cho hoạt động kinh doanh và có được những thông tin cập nhập cả về giá cả, tỷ giá hối đoái… 3.2.3.Sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont vào phân tích tài chính tại Tổng công ty. Trong hoạt động phân tích tài chính, Tổng công ty đã kết hợp sử dụng hai phương pháp là phương pháp tỷ số và phương pháp so sánh. Sự kết hợp này đã giúp cho công tác phân tích tài chính ở Tổng công ty đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên trong phân tích chưa chỉ rõ nguyên nhân cụ thể của từng hiện tượng bất thường. Các chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu, doanh lợi tổng tài sản chưa được phân tích kỹ từng yếu tố ảnh hưởng. Theo quan điểm của riêng em, Tổng công ty nên sử dụng thêm phương pháp phân tích Dupont kết hợp với hai phương pháp mà Tổng công ty đã áp dụng để đem lại hiệu quả cho công tác phân tích. Phương pháp phân tích này thường được áp dụng để phân tích các tỷ số khả năng sinh lợi như ROA, ROE để tìm ra các nhân tố tác động đến các chỉ số này để từ đó có các giải pháp để giúp cho doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả hơn. 3.2.4.Nâng cao trình độ của cán bộ phân tích tài chính. Chính vì hoạt động phân tích tài chính có một tầm quan trọng đặc biệt nên để tiến hành phân tích tài chính được tốt đòi hỏi doanh nghiệp phải có một đội ngũ cán bộ phân tích tài chính có những kiến thức vững vàng và sâu sắc về phân tích, nắm chắc được tình hình kinh doanh của Tổng công ty, những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động của Tổng công ty đồng thời cũng phải am hiểu về nhiều lĩnh vực như nắm được xu hướng biến động của thị trường và những kiến thức kinh tế vĩ mô. Các cán bộ tiến hành hoạt động phân tích tài chính của Tổng công ty chủ yếu là làm về kế toán nên chưa phân tích được kỹ càng, bài bản. Chính vì vậy, trong thời gian tới Tổng công ty nên cử người đi học những khoá học về quản lý tài chính hoặc tuyển thêm cán bộ trẻ có nghiệp vụ về tài chính doanh nghiệp để tiến hành hoạt động phân tích. Ngoài ra cần quy định chặt chẽ thời gian tiến hành phân tích, đưa ra các quy định về kiểm tra, đánh giá chất lượng phân tích. 3.2.5.Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính. 3.2.5.l. Hoàn thiện việc phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn. Hiện nay Tổng công ty mới chỉ phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn ở mức độ sơ sài, chỉ đưa ra các bảng số liệu mà chưa tiến hành phân tích cụ thể, sâu sắc. Đây là nội dung quan trọng trong công tác phân tích tài chính tại Tổng công ty, các nhà quản lý tài chính của Tổng công ty nên tiến hành phân tích đầy đủ và hoàn thiện hơn trong thời gian tới. Vì chỉ có xem xét và đánh giá sự thay đổi của các chỉ tiêu cuối kỳ so với đầu kỳ trên Bảng cân đối kế toán, nhà quản lý tài chính mới thấy được khả năng tạo nguồn cũng như cách thức sử dụng vốn của Tổng công ty. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, cho các nhà quản lý thấy được trong năm qua nguồn vốn và sử dụng vốn của Tổng công ty tăng hay giảm? Tổng công ty khai thác nguồn vốn bằng cách nào là chủ yếu: tăng các khoản phải trả, vay ngắn hạn hay vay dài hạn…? Sau khi trả lời được các câu hỏi trên nhà quản lý tài chính sẽ rút ra các kết luận: Tổng công ty sử dụng vốn hợp lý hay chưa? Từ đó đưa ra các quyết định cho năm tới như: vay dài hạn hay vay ngắn hạn, đầu tư vào TSCĐ hay TSLĐ… Đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường quản lý tài sản và nguồn vốn của Tổng công ty như thế nào cho hợp lý. Để tiến hành phân tích nội dung này các nhà quản lý tài chính nên lập Bảng tài trợ. Lập bảng tài trợ sẽ giúp các nhà quản lý tài chính Tổng công ty thấy được rõ hơn diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của Tổng công ty, từ đó phân tích và đánh giá chính xác và khoa học hơn. Ngoài việc tiến hành phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, dựa vào bảng tài trợ và báo cáo lưu chuyển tiền tệ, các nhà quản lý tài chính có thể phân tích tình hình tài chính của Tổng công ty theo luồng tiền nhằm xác định sự tăng (giảm) tiền, xác định vào cuối năm tiền của Tổng công ty tăng hay giảm bao nhiêu so với đầu năm, và xác định nguyên nhân dẫn đến tăng hay giảm tiền. Từ đó đưa ra giải pháp tạo tiền cho Tổng công ty trong thời gian tới. 3.2.5.2. Hoàn thiện việc phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Để xem xét đánh giá khả năng đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét TSCĐ của Tổng công ty có được đảm bảo bằng nguồn vốn dài hạn hay không? Tổng công ty đã đầu tư vào TSCĐ bằng nguồn vốn nào? TSLĐ có đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn hay không? Nguốn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ cho việc sử dụng ngắn hạn của Tổng công ty hay chưa? Chỉ trả lời được câu hỏi trên nhà quản lý tài chính mới đưa ra được những nhận xét và đánh giá xác thực về tình hình tài chính của Tổng công ty cũng như khả năng đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh. Từ đó đưa ra các giải pháp tăng cường vay vốn dài hạn hoặc giải pháp giảm hàng tồn kho và tăng các khoản phải thu. Muốn làm được điều đó, đòi hỏi các nhà quản lý tài chính phải tiến hành phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của mình. Để phân tích nội dung này các nhà quản lý tài chính nên dựa vào chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và chỉ tiêu vốn bằng tiền. Chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên được tính như sau: Vốn lưu động thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn Chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên cho các nhà quản lý tài chính Tổng công ty biết được - Tổng công ty có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không? - TSCĐ của Tổng công ty có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không? - Ngoài chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên, các nhà quản lý tài chính phải sử dụng thêm chỉ tiêu Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên để phân tích. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên được tính theo công thức sau: Nhu cầu VLĐ = Tồn kho và các - Nợ ngắn hạn thường xuyên khoản phải thu Khi phân tích chỉ tiêu này, nhà tài chính sẽ đưa ra các giải pháp cho Tổng công ty như: nhanh chóng giảm hàng tồn kho và các khoản phải thu hoặc giải pháp huy động hay không huy động vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh. Mối quan hệ giữa hai chỉ tiêu này được thể hiện qua chỉ tiêu vốn bằng tiền: Vốn bằng tiền = VLĐ thường xuyên – Nhu cầu VLĐ thường xuyên Việc tính toán 3 chỉ tiêu trên sẽ cho các nhà quản lý tài chính thấy được khả năng cân đối vốn trong nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn. Để thấy rõ hơn sự biến động của các chỉ tiêu nêu trên trong một khoảng thời gian nhất định, nhà quản lý tài chính nên lập bảng để phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh. Dưới đây là mẫu bảng phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho HĐKD của Tổng công ty Mẫu bảng phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho HĐKD Đơn vị: tiền tệ Chỉ tiêu Năm N-2 Năm N-1 Năm N 1. TSCĐ và đầu tư dài hạn 2. Nguồn vốn dài hạn Vồn lưu động thường xuyên 1. Khoản phải thu 2. Hàng tồn kho 3.TSLĐ khác 4. Nguồn vốn ngắn hạn Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên Vốn bằng tiền 3.2.5.3.Hoàn thiện việc phân tích các nhóm tỷ số tài chính đặc trưng. Trong nội dung phân tích tài chính tại Tổng công ty hàng không Việt Nam chưa tính toán và phân tích đầy đủ các tỷ số tài chính đặc trưng. Trong khi các tỷ số này lại có vai trò hết sức quan trọng, nó giúp cho các nhà quản lý tài chính nắm bắt được tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các quyết định tài chính. Tổng công ty nên hoàn thiện nội dung phân tích tài chính của mình bằng việc tính đủ các chỉ tiêu trong mỗi nhóm tỷ số và các nhóm tỷ số còn thiếu a.Hoàn thiện việc phân tích nhóm tỷ số về khả năng thanh toán. Trong việc phân tích nhóm tỷ số này tài chính mới tính toán và đánh giá sơ qua 2 tỷ số đó là: Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành và tỷ số khả năng thanh toán tức thời. Còn tỷ số khả năng thành toán nhanh Tổng công ty chưa tính. Để hoàn thiện viêc phân tích nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, Tổng công ty cần bổ sung chỉ tiêu này và lập bảng phân tích nhóm tỷ số về khả năng thanh toán trong đó bao gồm các tỷ số về khả năng thanh toán và một số chỉ tiêu khác như: Tiền, các khoản phải thu, Tồn kho…Dựa vào bảng đó nhà quản lý tài chính có thế đánh giá khả năng thanh toán của Tổng công ty qua mấy năm như: khả năng thanh toán của Tổng công ty có tốt hay không? Nguyên nhân là do yếu tố nào? Từ đó nhà quản lý tài chính sẽ đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo khả năng thanh toán hợp lý. b.Hoàn thiện việc phân tích nhóm tỷ số về cơ cấu tài chính. Đối với nhóm tỷ số về cơ cấu tài chính, Tổng công ty đã tính được tỷ số về cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn, tỷ số nợ trên tổng tài sản. Để hoàn thiện việc phân tích nhóm tỷ số này trong nội dung phân tích tài chính Tổng công ty nên tính toán và đánh giá thêm tỷ số: khả năng thanh toán lãi vay. Khả năng thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay Lãi vay phải trả Khi tính toán được chỉ số này các nhà quản lý tài chính sé biết được mức độ đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm của Tổng công ty như thế nào? Một đồng lãi vay được bảo đảm bằng bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế và lãi? Cơ cấu hình thành nguồn vốn trong kỳ kinh doanh ra sao? Từ đó đánh giá được khả năng tự tài trợ, biết được đơn vị mình đang độc lập với chủ nợ hay bị ràng buộc hoặc chịu sức ép của các khoản nợ vay. Từ đó có thể dẫn đến các quyết định sai lầm trong bố trí cơ cấu nguốn vốn. c.Hoàn thiện việc phân tích nhóm tỷ số về năng lực hoạt động Trong nội dung phân tích tài chính Tổng công ty chưa tiến hành phân tích nhóm tỷ số này. Như ta đã biết các tỷ số hoạt động được dung để đo lường, đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của Tổng công ty. Do chưa tính toán và đánh giá các tỷ số này nên các nhà quản lý không thấy được hiệu quả sử dụng tài sản của Tổng công ty, chưa đưa ra được các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, dẫn tới trong 3 năm qua hiệu quả sử dụng tài sản của Tổng công ty còn thấp. Để hoàn thiện nội dung phân tích tài chính cũng như cải thiện tình hình tài chính của Tổng công ty, trong thời gian tới Tổng công ty nên tiến hành phân tích nhóm tỷ số về năng lực hoạt động. Các tỷ số thuộc nhóm tỷ số này bao gồm: vòng quay tiên, vòng quay dự trữ , kỳ thu tiền bìng quân, hiệu suất sử dụng TSCĐ, hiệu suất sử dụng TSLĐ và hiệu suất sử dụng tài sản. Vòng quay tiền được tính bằng cách chia doanh thu thuần trong năm cho tổng số tiền và các tài sản tương đương tiền bình quân. Tỷ số này cho các nhà quản lý tài chính biết được số vòng quay của tiền trong năm. Từ đó đưa ra giải pháp đảm bảo tốc độ vòng quay tiền hợp lý. Đối với chỉ tiêu vòng quay dự trữ, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu thuần trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, hàng tồn kho…) bình quân. Chỉ tiêu này cho biết số vòng quay của hàng dự trữ bình quân trong năm. Khi sử dụng chỉ tiêu này để phân tích, các nhà quản lý tài chính sẽ biết được hoạt động quản lý dự trữ của Tổng công ty là hợp lý hay bất hợp? Ngoài hai chỉ tiêu trên, để đánh giá hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty, các nhà quản lý tài chính nên dùng chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân. Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu x 360/Doanh thu Chỉ tiêu này cho các nhà quản lý tài chính biết được khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Từ đó, có giải pháp điều chỉnh chính sách tín dụng thương mại của Tổng công ty và các khoản trả trước. Để đánh giá hiệu quả sử dụng tổng tài sản, cũng như hiệu quả sử dụng TSCĐ và TSLĐ, Nhà quản lý tài chính nên sử dụng ba chỉ tiêu: Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Doanh thu thuần/TSCĐ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu thuần/Tài sản Hiệu suất sử dụng TSLĐ = Doanh thu thuần/TSLĐ Việc tính toán và đánh giá ba chỉ tiêu này cho phép các nhà quản lý tài chính biết được một đồng tài sản hay một đồng TSCĐ hoặc một đồng TSLĐ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Từ đó các nhà quản lý tài chính sẽ đánh giá được hiệu quả sử dụng tài sản của Tổng công ty là cao hay thấp và có thể đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. Sau khi tính toán đầy đủ chỉ tiêu trên, nhà quản lý tài chính nên lập bảng phân tích nhóm tỷ số về năng lực hoạt động Mẫu bảng phân tích nhóm tỷ số về năng lực hoạt động Đơn vị: Tiền tệ STT Chỉ tiêu Năm N-2 Năm N-1 Năm N 1 Doanh thu thuần 2 Dự trữ (tồn kho) 3 Các khoản phải thu 4 Tiền và các tài sản tương đương tiền 5 TSLĐ 6 TSCĐ 7 Tổng tài sản 8 Vòng quay tiền 9 Vòng quay dự trữ 10 Kỳ thu tiền bình quân 11 Hiệu suát sử dụng TSCĐ 12 Hiệu suất sử dụng TSLĐ 13 Hiệu suất sử dụng TSLĐ Nhìn vào bảng phân tích các nhà quản lý tài chính sẽ thấy được trong mấy năm qua Tổng công ty đã nắm giữ đủ tiền mặt hay chưa? Khả năng thu tiền trong thanh toán bình quân 1 ngày của Tổng công ty cao hay thấp? Hoạt động quản lý tiền mặt, quản lý phải thu, quản lý dự trữ của Tổng công ty có hiệu quả hay không? Đồng thời cũng thấy được hiệu quả sử dụng TSCĐ, TSLĐ và tổng tài sản của Tổng công ty trong những năm qua như thế nào. Sau khi phân tích và đánh giá đầy đủ các tỷ số trong bảng, nhà quản lý tài chính sẽ đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, nâng cao hiệu quả quản lý các khoản phải thu, tiền và dự trữ. d.Hoàn thiện việc phân tích nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi Các nhà quản lý Tổng công ty muốn biết được hiệu quả kinh doanh cũng như khả năng quản lý của đơn vị mình như thế nào, đòi hỏi phải dựa vào các tỷ số khả năng sinh lãi. Tổng công ty đã tiến hành phân tích các tỷ số về khả năng sinh lãi khá đầy đủ nhưng Tổng công ty nên đưa một số chỉ tiêu như doanh thu thuần, Lợi nhuận sau thuế, Tổng tài sản, Vốn chủ sở hữu vào bảng phân tích nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi để các nhà quản lý có thể đánh giá khả năng sinh lãi dễ dàng hơn. Tóm lại, Tổng công ty hàng không Việt Nam muốn phân tích và đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh cao hay thấp, tình hình tài chính của Tổng công ty có lành mạnh hay không? Năng lực hoạt động của Tổng công ty cũng như việc đảm bảo khả năng thanh toán và cơ cấu tài chính hợp lý hay bất hợp lý? Không có cách nào khác là Tổng công ty nên nhanh chóng hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Tổng công ty mình. Thực hiện phân tích đúng quy trình, sử dụng đầy đủ, chính xác các chỉ tiêu. Có như thế các nhà quản lý tài chính mới tìm ra được nguyên nhân và các giải pháp nhằm giúp tình hình tài chính của Tổng công ty được tốt hơn. Phân tích đúng và đầy đủ tình hình tài chính của Tổng công ty là cơ sở khoa học cho việc sự đoán và ra các quyết định tài chính tối ưu trong tương lai. 3.3.Một số kiến nghị 3.3.1.Hoàn thiện chế độ kế toán Mặc dù đã có nhiều sự đổi mới và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu kinh tế tuy nhiên chế kế toán của Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Hiện nay việc nộp báo cáo lưu chuyển tiền tệ không mang tính chất bắt buộc đối với các doanh nghiệp mà chỉ mang tính khuyến khích nên hầu hết các doanh nghiệp không lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ khiến công tác phân tích gặp nhiều khó khăn vì vậy trong thời gian tới Nhà nước nên bắt buộc các doanh nghiệp phải nộp báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện các biểu mẫu báo cáo tài chính. Ngoài ra chế độ kế toán của Việt Nam hiện nay chưa áp dụng toàn bộ các chuẩn mực kế toán quốc tế nên việc so sánh số liệu với các công ty nước ngoài là rất khó khăn. Trong xu thế hội nhâp, nước ta cần phải hoàn thiện chế độ kế toán dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế. Trong thời gian tới Nhà nước cần sớm đưa ra luật kế toán để thay cho pháp lệnh kế toán. Chính phủ cần ban hành các quy định mang tính bắt buộc đối với việc hoàn thiện công tác phân tích tài chính hàng năm tại các doanh nghiệp và xí nghiệp, cần quy định rõ về thời gian phân tích và việc báo cáo kết quả phân tích. Quy định công tác phân tích tài chính phải tách riêng ra khỏi công tác kế toán. Đồng thời Chính phủ cũng như Bộ Tài Chính phải có các quy định yêu cầu các doanh nghiệp và xí nghiệp thực hiện công tác kiểm toán thường xuyên kể cả kiểm toán Nhà nước, kiểm toán nội bộ hay kiểm toán độc lập. Có như vậy các thông tin phục vụ cho công tác phân tích tài chính của các doanh nghiệp, xí nghiệp mới lạnh mạnh. 3.3.2.Xây dựng hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Hiện nay, một trong những nhân tố khiến cho hoạt động phân tích tài chính của các doanh nghiệp nói chung và Tổng công ty Hàng không Việt Nam nói riêng chưa thực sự hiệu quả là do chưa có hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Về lý thuyết, nếu để các tỷ số riêng rẽ thì nó không có ý nghĩa gì và cũng chẳng chỉ ra được điều gì. Nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được so sánh về cả không gian và thời gian. So sánh về thời gian thì đã được thực hiện bởi đó chỉ là việc so sánh các tỷ số tài chính của Tổng công ty qua các năm còn so sánh với các tỷ số tài chính của Tổng công ty với mức trung bình của các doanh nghiệp cùng ngành để thấy được vị thế của Tổng công ty cũng như thấy được các kết quả đạt được có thực sự hiệu quả hay không thì chưa tiến hành được bởi hiện nay chưa có hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Chính vì vậy trong thời gian tới Nhà nước cần sớm cung cấp hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành để giúp cho công tác phân tích tài chính hiệu quả hơn. KẾT LUẬN Phân tích tài chính doanh nghiệp thực sự có vai trò quan trọng và thiết yếu. Thông qua công tác phân tích tài chính người lãnh đạo có thể thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp mình, thấy được những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp mình từ đó có những hướng giải quyết, những kế hoạch tài chính đúng đắn. Có thể nói nếu doanh nghiệp muốn quản lý tài chính tốt, đạt được hiệu quả kinh doanh cao cần phải tiến hành tốt hoạt động phân tích tài chính. Trong thời gian thực tập, với đề tài “Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam” em đã thấy được tình hình phân tích tài chính trên thực tế, thấy được những điểm Tổng công ty đã làm được, những hạn chế mà Tổng công ty cần khắc phục trong thời gian tới và em đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Tổng công ty. Vì thời gian nghiên cứu không nhiều và trình độ còn hạn chế nên chuyên đề thực tập này khó tránh khỏi thiếu sót. Vậy em kính mong sự thông cảm cũng như mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô và quý Tổng công ty để đề tài của em được đầy đủ hơn và có giá trị với thực tiễn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và sự đóng góp quý báu của PGS.TS Vũ Duy Hà - Người trực tiếp hướng dẫn em cùng các thầy cô trong khoa Ngân hàng – Tài chính, Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân và các cô chú, các anh chị trong phòng Tài chính - Kế toán Trung tâm thống kê tin học Hàng không, Ban Tài chính - Kế toán Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên: Phạm Hồng Nhung DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.TS Vũ Duy Hào - Quản trị Tài chính doanh nghiệp – Nhà xuất bản Tài chính – 1998. 2.PGS.TS Lưu Thị Hương - Giáo trình Tài chính doanh nghiệp – Nhà xuất bản Thống kê – 2005 3.Học viện Tài chính kế toán Hà Nội - Quản trị tài chính doanh nghiệp – Nhà xuất bản Tài chính – 2001. 4.Nguyễn Văn Công, Nguyễn Năng Phúc, Trần Quý Liêm - Lập, đọc, kiểm tra, phân tích báo cáo Tài chính, Nhà xuất bản Tài chính – 2002. 5.Luật doanh nghiệp - Quốc hội ngày 29/11/2005. 6.Lỉch sử Hàng không Dân dụng Việt Nam 50 năm chặng đường phát triển. 7.Các báo, tạp chí Tài chính – Ngân hàng năm 2002, 2003, 2004. 8.Các báo cáo tài chính của Tổng công ty Hàng không Việt Nam. DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐÒ Trang Sơ đồ 1: Bộ máy tổ chức Tổng công ty Hàng không......................................29 Bảng 1: Bảng cân đối kế toán..........................................................................35 Bảng 2: Kết quả kinh doanh............................................................................38 Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn Tổng công ty........................................................40 Bảng 4: Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn năm 2003..................................43 Bảng 5: Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn năm 2004..................................44 Bảng 6: Các chỉ tiêu phân tích tài chính của Tổng công ty Hàng không Việt Nam.................................................................................................................45 Bảng 7: Kế hoạch vận tải hàng không............................................................54 Bảng 8: Dự báo doanh thu đến năm 2010.......................................................56 Biểu đồ 1: Tổng doanh thu qua các năm.........................................................41 Biểu đồ 2: Lợi nhuận Tổng công ty.................................................................42 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TCT: Tổng công ty DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước BCĐKT: Bảng cân đối kế toán ICAO: Tổ chức Hàng không dân dụng thế giới. TSLĐ: Tài sản lưu động TSCĐ: Tài sản cố định. VLĐ: Vốn lưu động HĐKD: Hoạt động kinh doanh. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36456.doc
Tài liệu liên quan