Hoàn thiện việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay

LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm gần đây, Việt Nam đang đẩy nhanh quá trình giao lưu và hội nhập với các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Sự hội nhập này, một mặt thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhưng mặt khác lại đặt các doanh nghiệp, nhất là các DNNN phải có sự đổi mới để đáp ứng được nhu cầu đổi mới của đất nước. Trước đây, các doanh nghiệp được Nhà nước cấp phát vốn, lãi Nhà nước thu, lỗ Nhà nước bù. Do đó, các doanh nghiệp không có tính tự chủ, không quan tâm đến hiệu quả sản

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1247 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất kinh doanh. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, muốn tồn tại và đảm bảo quá trình hoạt động kinh doanh được diễn ra một cách liên tục, nhịp nhàng, các doanh nghiệp cần phải có một tiềm lực mạnh mẽ về mặt tài chính, tức là phải có được một lượng vốn dồi dào. Để khẳng định vai trò của vốn, Mark đã nói “tư bản đứng vị trí hàng đầu vì tư bản là tương lai”. Tích tụ và tập trung vốn trong nước- NXB Thống kê,1997 Các DNNN hiện nay đang có những vị thế tương đối bất lợi, phải đối đầu với nhiều vấn đề nan giải, trong đó vốn và hiệu quả sử dụng vốn luôn là một bài toán hóc búa đối với nhiều doanh nghiệp. Sử dụng vốn có hiệu quả thực sự là một cuộc đấu trí giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, do đó việc đi tìm lời giải cho bài toán nâng cao hiệu quả sử dụng vốn luôn là một vấn đề mang tính cần thiết và cấp bách. Qua quá trình nghiên cứu và được sự hướng dẫn nhiệt tình của thày giáo, PGS.TS Mai Văn Bưu, em quyết định chọn đề tài: “Hoàn thiện việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay”. Do kiến thức còn hạn chế và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên việc nghiên cứu không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến quý báu của thày giáo để việc nghiên cứu ngày càng hoàn thiện hơn. I. VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP. 1. Vốn và vai trò của vốn trong doanh nghiệp. 1.1. Khái quát về vốn. Từ trước tới nay đã có rất nhiều quan điểm về vốn, mỗi cách tiếp cận khác nhau sẽ có một quan điểm khác nhau. Nhưng theo nghĩa rộng thì: vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được sử dụng để sản xuất hàng hóa, dịch vụ như: tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các kiến thức kinh tế, kỹ thuật của doanh nghiệp được tích lũy, sự khéo léo về trình độ quản lý và tác nghiệp của các cán bộ điều hành cùng đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp. Khái niệm này không những chỉ ra vai trò là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất mà còn đề cập tới sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong một quá trình sản xuất. Vốn tồn tại trong suốt thời gian hoạt động của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản xuất đầu tiên cho tới kỳ sản xuất cuối cùng. Như vậy, muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định. Để nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh là điều kiện để duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho người lao động. Ta cũng cần phân biệt giữa tiền và vốn. Muốn có vốn thì phải có tiền, nhưng có tiền thì chưa hằn được gọi là vốn. Vốn được hiểu theo nghĩa rộng và khái quát hơn. Tiền được coi là vốn phải thoả mãn những điều kiện sau: - Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, nghĩa là phải được đảm bảo bằng một lượng hàng hóa có thực. - Tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập trung của tiền phải đạt một mức độ tối thiểu nào đó để có thể đầu tư cho một dự án kinh doanh nào đó dù là nhỏ nhất. - Khi đã đủ về lượng, tiền phải được vận động với mục đích tạo ra lợi nhuận. Cách vận động và phương thức vận động của tiền tuỳ thuộc vào từng phương thức đầu tư sinh lợi. 1.2. Phân loại vốn. Vốn trong doanh nghiệp được phân chia thành nhiều loại riêng biệt, tuỳ theo từng căn cứ phân loại. 1.2.1. Căn cứ vào nguồn hình thành. 1.2.1.1. Vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, DNNN thì có chủ sở hữu là Nhà nuớc. Doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, chi phối, định đoạt. Khi doanh nghiệp mới được thành lập, vốn chủ sở hữu do các thành viên đóng góp và hình thành nên vốn điều lệ. Khi doanh nghiệp đang hoạt động, ngoài vốn điều lệ còn có một số nguồn vốn khác cùng thuộc nguồn vốn chủ sở hữu như: lợi nhuận không chia, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính... 1.2.1.2. Các khoản nợ phải trả. Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân kinh tế. Đó là số tiền vốn mà doanh nghiệp đi vay ( ngắn hạn và dài hạn), vốn liên doanh, tín dụng thương mại, tín dụng thuê mua, các khoản phải thanh toán cho cán bộ công nhân viên, phải nộp ngân sách... 1.2.2. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn. 1.2.2.1. Nguồn vốn thường xuyên Đây là nguồn vốn từ một năm trở lên, bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. Nguồn vốn này có tính chất ổn định, doanh nghiệp thường sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.2.2. Nguồn vốn tạm thời. Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà doanh nghiệp thường sử dụng để đáp ứng tạm thời, bồi thường những phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn, vốn liên doanh, tín dụng thương mại. Với cách phân loại này, doanh nghiệp có thể lập các kế hoạch tài chính, xây dựng một cơ cấu nguồn vốn hợp lý. 1.2.3. Căn cứ vào hình thức chu chuyển. 1.2.3.1. Vốn cố định. 1.2.3.1.1. Khái niệm. Trong nền kinh tế thị trường, việc mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định hữu hình hay vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Đó là số vốn đầu tư ứng trước vì số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ của mình. Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các tài sản cố định nên quy mô của VCĐ nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại, những đặc điểm kinh tế của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. Ta có định nghĩa về VCĐ như sau: Vốn cố định của doanh nghiệp là bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. 1.2.3.1.2. Đặc điểm của VCĐ. Một là: VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh sản phẩm, điều này do đặc điểm của tài sản cố định là sử dụng lâu dài. Hai là: VCĐ luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất kinh doanh. Ba là: Sau nhiều chu kỳ sản xuất, VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. 1.2.3.1.3. Cơ cấu vốn cố định. Việc nghiên cứu cơ cấu VCĐ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý và sử dụng VCĐ. Khi nghiên cứu cơ cấu VCĐ phải nghiên cứu trên hai góc độ là nội dung kế hoạch và tỷ trọng từng loại. Quan trọng nhất là phải xây dựng được một cơ cấu hợp lý phù hợp với tình hình cụ thể của doanh nghiệp. Cơ cấu VCĐ của doanh nghiệp là một yếu tố động và thay đổi theo không gian và thời gian. Hiện nay, VCĐ trong doanh nghiệp được biểu hiện bằng hình thái giá trị của các loại tài sản cố định huy động trong sản xuất. - Nhà xưởng, vật kiến trúc - Máy móc, thiết bị. - Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn. - Thiết bị, dụng cụ quản lý. - Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm. - Các loại tài sản cố định khác. Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của tài sản cố định trong doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng tài sản cố định và tính toán khấu hao tài sản cố định chính xác. 1.2.3.2. Vốn lưu động. 1.2.3.2.1. Khái niệm. Bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có đối tượng lao động. Lượng tiền ứng trước để thỏa mãn nhu cầu về các đối tượng lao động gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Biểu hiện dưới hình thái vật chất của VLĐ là tài sản lưu động. Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh. VLĐ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, qua mỗi chu kỳ, VLĐ chuyển qua nhiều hình thái khác nhau như tiền tệ, nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và trở lại hình thái tiền tệ sau khi sản phẩm được tiêu thụ. 1.2.3.2.2. Đặc điểm của vốn lưu động. Một là: VLĐ chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Hai là: Khác với VCĐ, VLĐ chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất. Ba là: Trong quá trình vận động, VLĐ biến đổi từ hình thái này sang hình thái khác và sau đó trở về hình thái ban đầu. Một vòng khép kín là một chu kỳ vận động của VLĐ do đó để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn, cần phải xem xét đến độ dài vận động của VLĐ. Nếu độ dài vận động của VLĐ ngắn thì hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ cao hơn. 1.2.3.2.3. Cơ cấu vốn của vốn lưu động. Cơ cấu vốn lưu động phản ánh các thành phần và mối quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần trong tổng số VLĐ của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khác nhau thì có cơ cấu VLĐ khác nhau. Việc phân tích cơ cấu VLĐ theo các cách thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn về những đặc điểm riêng của VLĐ, từ đó tìm ra các biện pháp quản lý thích hợp. * Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu VLĐ, có thể chia làm ba nhóm chính: - Các nhân tố về mặt dự trữ vật tư như khoảng cách giữa doanh nghiệp với nơi cung cấp, khả năng cung cấp của thị trường, đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư... - Các nhân tố về mặt sản xuất như đặc điểm kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp; mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo, độ dài của chu kỳ sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý... - Các nhân tố về mặt thanh toán như phương thức thanh toán, thủ tục thanh toán, việc chấp nhận kỷ luật thanh toán... * Căn cứ vào quá trình tuần hoàn lưu chuyển, VLĐ chia làm ba loại: - Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: bao gồm giá trị của vật tư, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ lao động. - Vốn lưu động trong khâu sản xuất: bao gồm giá trị của sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, chi phí chờ kết chuyển. - Vốn lưu động trong khâu lưu thông: bao gồm giá trị của thành phẩm, vốn bằng tiền (kể cả vàng, bạc, đá, quý..), các khoản đầu tư ngắn hạn và các khoản ký cược, ký quỹ ngắn hạn, các khoản vốn trong thanh toán. 1.3. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dù ở quy mô nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định, nó là tiền đề có sự ra đời, tồn tại và phát triển của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong các yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc trang thiết bị, dây truyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên, liên tục. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hóa công nghệ... để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của mình. Muốn như vậy, doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn. Vốn còn là yếu tố quyết định đến viêc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn đầu tư mở rộng sản xuất, tham gia vào thị trường mới, mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường thì trước hết phải có một lượng vốn dồi dào. Do vốn có vai trò quan trọng của vốn như vậy, các doanh nghiệp cần phải có những biện pháp hữu hiệu sao cho có thể sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất. 2. Hiệu quả sử dụng vốn. 2.1. Quan điểm về hiệu quả và hiệu quả sử dụng vốn. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản là sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? Các tài nguyên như khoáng sản, đất đai, rừng, biển... lại là một phạm trù hữu hạn và ngày càng suy giảm về số lượng cũng như chất lượng. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có kế hoạch sử dụng tài nguyên một cách hợp lý để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được với chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp, những nhà đầu tư. Trong hoạt động của mình, chủ doanh nghiệp thường đặt ra rất nhiều mục tiêu, nhưng mục tiêu cơ bản quyết định hoạt động của doanh nghiệp là lợi nhuận và sự ổn định. Muốn đạt được mục tiêu của mình, các doanh nghiệp cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của mình. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh kết quả tổng hợp của quá trình sử dụng các loại vốn. Đó là sự tối thiểu hoá số vốn cần sử dụng và tối đa hoá số lợi nhuận thu được trong một giới hạn các nguồn lực khác: nhân lực, vật lực, công nghệ...Hiệu quả sử dụng vốn phải được lượng hóa thông qua các hệ thống chỉ tiêu về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển. Nó phản ánh mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất thông qua mối quan hệ tiền tệ Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau: - Sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm. - Khai thác nguồn lực một cách triệt để. - Quản lý vốn một cách chặt chẽ, không để vốn bị sử dụng sai mục đích, không để vốn bi thất thoát. 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chịu tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau. Để có cái nhìn tổng quát ta xem xét lần lượt các yếu tố của môi trường bên ngoài và môi trường bên trong doanh nghiệp. 2.2.1.Các nhân tố chủ quan. 2.2.1.1.Các nhân tố về quản lý. Một là : Trình độ quản lý của doanh nghiệp. Đây là yếu tố tác động mạnh nhất đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trong một môi trường ổn định thì có lẽ đây là yếu tố quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Một bộ máy quản lý tốt với trình độ cao sẽ giúp cho hoạt động doanh nghiệp đạt kết quả cao và ngược lại. Do đó doanh nghiệp cần nâng cao trình độ quản lý, đặc biệt là đối với cán bộ quản lý tài chính. Hai là : Lựa chọn chiến lược kinh doanh thích hợp. Trong nền kinh tế thị trường, quy mô và tính chất sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp là do thị trường quyết định. Khả năng nhận biết, dự đoán thị trường và nắm bắt thời cơ là những nhân tố quyết định đến thành công hay thất bại trong kinh doanh. Vì vậy, việc lựa chọn một chiến lược kinh doanh hợp lý, đúng đắn có ảnh hưởng lớn hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Các chiến lược kinh doanh phải được xây dựng trên cơ sở tiếp cận thị trường, có như vậy, sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra mới có khả năng tiêu thụ được, vốn sẽ được luân chuyển một cách đều đặn, tài sản cố định mới có khả năng phát huy được hết công suất, hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao. Ba là : Lựa chọn ngành nghề kinh doanh. Một doanh nghiệp khi thành lập phải xác định trước cho mình một loại ngành nghề kinh doanh nhất định. Những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Để lựa chọn được loại hình kinh doanh thích hợp đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu phân tích môi trường, phân tích điểm mạnh, điểm yếu của mình, đánh giá các đối thủ cạnh tranh cùng ngành... Với những lĩnh vực kinh doanh rủi ro thấp, lợi nhuận cao, ít có doanh nghiệp có khả năng tham gia hoặc lĩnh vực đó được sự bảo hộ của nhà nước, thì hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đó có khả năng cao hơn.Trong quá trình hoạt động, sự năng động sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc lựa chọn sản phẩm, chuyển hướng sản xuất, đổi mới cải tiến sản phẩm cũng có thể làm tăng hiệu quả sử dụng vốn. Nếu doanh nghiệp biết đầu tư vốn vào việc nghiên cứu thiết kế sản phảm mới phù hợp với thị hiếu hoặc là đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh béo bở thì sẽ có khả năng thu lãi lớn. Bốn là: Bố trí cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp thưòng biến động trong các chu kỳ kinh doanh. Việc bố trí cơ cấu vốn càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn càng được nâng cao bấy nhiêu. Bố trí vốn không phù hợp làm mất cân đối giữa tài sản lưu động và tài sản cố định dẫn đến việc thừa hoặc thiếu một tài sản nào đó và làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. 2.2.1.2.. Trình độ khoa học công nghệ và đội ngũ lao động trong doanh nghiệp. Khoa học công nghệ và đội ngũ lao động là những yếu tố quyết định đến sản phẩm của doanh nghiệp nó tạo ra sản phẩm và những tính năng, đặc điểm của sản phẩm. Có thể nói những yếu tố này quyết định kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Công nghệ hiện đại đội ngũ lao động có tay nghề cao thì sẽ làm việc với năng suất cao chất lượng sản phẩm tốt, giá thành hạ và doanh nghiệp có khả năng thu lợi nhuận cao. Tuy nhiên để có được dây chuyền thết bị hiện đại thì doanh nghiệp phải đầu tư vốn lớn. Do đó doanh nghiệp phải tính toán lựa chọn công nghệ phù hợp với chi phí hợp lý để làm tăng hiệu quả sử dụng vốn. Trong điều kiện cạnh tranh, doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ để tạo sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình. 2.2.2.Các nhân tố khách quan. 2.2.2.1.Cơ chế quản lý và các chính sách của Nhà nước. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và khả năng của mình. Nhà nước tạo hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh theo những ngành nghề mà doanh nghiệp đã lựa chọn và hướng các hoạt động đó theo chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Vì vậy, chỉ một thay đổi nhỏ trong cơ chế quản lý và chính sách của Nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, ví dụ như: việc quy định trích khấu hao, tỷ lệ trích lập các quỹ, các văn bản chính sách về thuế suất...Nói chung, việc thay đổi cơ chế và chính sách của Nhà nước có thể gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Song, nếu doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt được những thay đổi và thích nghi thì sẽ đứng vững trên thị trường. 2.2.2.2.Các yếu tố của thị trường. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng những cơ hội thách thức trên thị trường sẽ tác động lớn đến sự thành bại của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ít có đối thủ cạnh tranh hoặc có ưu thế vượt trội so với đối thủ cạnh tranh thì khả năng thu lợi nhuận lớn của doanh nghiệp đó là lớn. Điều này thể hiện rất rõ trong các doanh nghiệp hoạt động trong ngành độc quyền của Nhà nước. Ngược lại với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ít có cơ hội phát triển và gặp sự cạnh tranh gay gắt của đối thủ cạnh tranh thì hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đó sẽ thấp. Môi trường cạnh tranh không chỉ tác động đến hiệu quả của doanh nghiệp trong hiện tại mà còn trong tương lai. Bởi vì nếu doanh nghiệp có được thắng lợi ban đầu trong cuộc cạnh tranh thì sẽ tạo được ưu thế về vốn, về uy tín, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh trong tương lai. 2.3. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. 2.3.1. Nhóm các chỉ tiêu phán ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp. 2.3.1.1.Hệ số sinh lời tài sản (ROA). Hệ số sinh lời tài sản. (ROA) = Lợi nhuận sau thuế. Tổng tài sản. Hệ số này cho biết một đồng tài sản doanh nghiệp sử dụng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số này càng cao thì việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp càng hiệu quả. hợp lý. 2.3.1.2.Hệ số sinh lời vồn cổ phần (ROE). Hệ số sinh lợi vốn cổ phần. (ROE) = Lợi nhuận sau thuế. Vốn chủ sở hữu. ROE là thước đo tốt nhất về năng lực của một công ty trong việc tối đa hóa lợi nhuận từ mỗi đồng vốn đầu tư. Công ty đạt được ROE càng cao thì khả năng cạnh tranh càng mạnh, do đó, ROE sẽ giúp nhà đầu tư đánh giá các công ty trong cùng ngành nghề để ra quyết định lựa chọn đầu tư. Có thể nói, bên cạnh các chỉ số tài chính khác thì ROE là thước đo chính xác nhất để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy được tạo ra bao nhiêu đồng lời. Đây cũng là chỉ số đáng tin cậy về khả năng sinh lời của công ty trong tương lai. 2.3.2. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động của doanh nghiệp. 2.3.2.1.Vòng quay hàng tồn kho. Vòng quay hàng tồn kho. = Giá vốn hàng bán. Hàng tồn kho bình quân. Số vòng quay hàng tồn kho càng lớn thì tốc độ luân chuyển hàng tồn kho càng nhanh. Sự luân chuyển hàng tồn kho càng nhanh sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể giảm bớt vốn dự trữ nhưng vẫn đảm bảo vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tốt hơn và ngược lại sự luân chuyển vốn chậm thì doanh nghiệp sẽ mất nhiều vốn dự trữ hơn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. 2.3.2.2.Số vòng quay của vốn lưu động. Số vòng quay của VLĐ = Tổng doanh thu thuần Vốn lưu động bình quân Chỉ số này cho biết số vòng quay của VLĐ trong một kỳ sản xuất kinh doanh. Số vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ tăng và ngược lại. 2.3.3. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 2.3.3.1.Hệ số thanh toán ngắn hạn. Hệ số thanh toán ngắn hạn. = Tài sản lưu động. Nợ ngắn hạn. Hệ số thanh toán ngắn hạn cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản lưu động để đảm bảo cho một đồng nợ ngắn hạn. Tỷ lệ thanh toán ngắn hạn càng cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng được tin tưởng và ngược lại tỷ lệ thanh toán càng thấp thì khả năng thanh toán khó mà tin tưởng được. Hệ số này thông thường được chấp nhận ở mức xấp xỉ là 2.0 2.3.3.2.Hệ số thanh toán nhanh. Hệ số thanh toán nhanh. = Tiền mặt + khoản phải thu. Nợ ngắn hạn. Hệ số này cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng vốn bằng tiền và các khoản phải thu để thanh toán ngay cho một đồng nợ ngắn hạn. Tỷ lệ thanh toán nhanh càng cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Thông thường, hệ số thanh toán nhanh được chấp nhận ở mức xấp xỉ là 1.0 2.4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều mục tiêu và tuỳ thuộc vào giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có mục tiêu ưu tiên thực hiện, nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Trong đó yếu tố tác động có tính quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần phải có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt trong điều kiện hiện nay. Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, DNNN coi nguồn vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với “cho không”, nên khi sử dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có nhà nước bù đắp. Điều đó gây ra tình trạng vô chủ trong quản trị và sử dụng vốn dẫn đến lãng phí vốn và hiệu quả kinh doanh thấp. Khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp buộc phải chuyển mình theo cơ chế mới, mới có thể tồn tại và phát triển. Cạnh tranh giữa các DNNN với các thành phần kinh tế khác ngày càng trở nên gay gắt. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có vị trí quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp . Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu qủa giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng huy động vốn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo … Nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Để đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm … doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn, vì vậy nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn là cần thiết. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, nâng cao đời sống của người lao động. Vì khi hoạt động kinh doanh có hiệu qủa thì doanh nghiệp có thể mở rộng qui mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động ngày càng được cải thiện. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách nhà nước. Như vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế và toàn xã hội. Do đó, các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. II. THỰC TRẠNG VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DNNN Ở NƯỚC TA. 1.Thực trạng về vốn trong các DNNN ở nước ta hiện nay. Trong đường lối cải cách và phát triển của nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước đã khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, và do đó các DNNN là lực lượng kinh tế chủ lực, là xương sống cho nền kinh tế quốc dân. DNNN là bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đóng góp nguồn lực tài chính cho Nhà nước. Trong những năm gần đây, quy mô vốn ở các DNNN đang ngày càng được mở rộng. Bảng 1: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các DNNN. Đơn vị: tỷ đồng. 2002 2003 2004 2005 2006 DNNN 858.560 932.942 1.128.831 1.333.935 1.575.959 TW 734.004 798.163 968.795 1.161.581 1.388.768 ĐP 124.556 134.779 160.036 172.354 187.190 ( trích biểu 69: vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp. trang 146, niên giám thống kê 2007) Có thể thấy rằng, vốn sản xuất kinh doanh bình quân của các DNNN tăng lên qua từng năm. Năm 2002, vốn bình quân là 858.560 tỷ đồng, đến năm 2006, số vốn bình quân đã đạt tới 1.575.959 tỷ đồng. Trong đó, vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các DNNN ở cấp Trung ương chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với cấp địa phương. Xét trong năm 2006, vốn ở các DNNN ở cấp Trung ương là 1.388.768 tỷ đồng, chiếm tới 45,75% tổng số vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong cả nước. DNNN có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, chính vì vậy, vốn sản xuất kinh doanh bình quân của các DNNN cũng giữ một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh bình quân của cả nước. Năm 2000, số vốn này chiếm 67,13%, nhưng đến năm 2006, số vốn này chỉ chiếm 51,92%. Tỷ trọng này tuy có xu hướng giảm qua từng năm, nhưng vẫn có thể thấy rằng, lượng vốn bình quân trong các DNNN vẫn giữ một vai trò quan trọng. Bảng 2: Số DNNN đang hoạt động tại thời điểm 31/12/2006 phân theo quy mô vốn. ( trích biểu 81: số doanh nghiệp đang hoạt động tại thời điểm 31/12/2006 phân theo quy mô vốn và loại hình doanh nghiệp, trang 185, niên giám thống kê 2007) Lượng vốn phân bổ cho các DNNN tương đối nhỏ bé và không đồng đều, có 31 doanh nghiệp mà quy mô vốn chưa đạt tới 0,5 tỷ đồng. Các DNNN ở Việt Nam hiện nay chủ yếu có quy mô vốn ở mức vừa, từ 10 tỷ đồng đến 200 tỷ đồng, chiếm khoảng 60,95% tổng số DNNN. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại khá nhiều doanh nghiệp có quy mô vốn tương đối nhỏ, số doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 5 tỷ đồng là 375 doanh nghiệp, chiếm khoảng 10% tổng số DNNN tại thời điểm cuối năm 2006. Tại thời điểm năm 1999, số lượng DNNN có số vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,45%. Như vậy, chỉ trong vòng 7 năm, quy mô vốn của các DNNN đã tăng lên nhanh chóng, số lượng doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ ngày càng giảm. Trong khi đó, số lượng DNNN có quy mô vốn lớn đang có xu hướng gia tăng. Tại thời điểm năm 1999, số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm tới 20,89%, nhưng đến năm 2006, con số này đã lên tới xấp xỉ 80%. Có thể đi đến kết luận rằng, quy mô vốn của các DNNN ở nước ta hiện nay có xu hướng gia tăng, nâng cao rõ rệt trình độ tích tụ và tập trung điều này là hoàn phù hợp với vai trò của DNNN trong quá trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hoá đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. 2.Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN ở nước ta hiện nay. Trước thời kỳ đổi mới, DNNN tồn tại dưới hình thức các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước đã hình thành một mạng lưới thống nhất trên khắp địa bàn cả nước. từ trung ương đến cơ sở. Trong thời kỳ này, vốn của các xí nghiệp đều do ngân sách nhà nước cấp. Thực hiện nguyên tắc cấp phát, giao nộp ngân sách, các xí nghiệp không tự khai thác và huy động vốn để đảm bảo vốn kinh doanh, dẫn đến tình trạng các xí nghiệp không quan tâm đến việc bảo toàn và phát triển vốn. Vốn của các xí nghiệp thất thoát nghiêm trọng, nhiều xí nghiệp lãi giả, lỗ thật và báo cáo sai lệch trong hạch toán kinh doanh. Từ năm 1986 đến nay, nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sụ điều tiết của Nhà nước, các DNNN được tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Từ đây, vốn trở thành vấn đề sống còn của các doanh nghiệp và việc sử dụng vốn có hiệu quả tất yếu sẽ làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả. Nhìn chung, từ sau khi đổi mới đến nay, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của các DNNN đã tăng lên. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN có xu hướng tăng lên, điều này còn có thể nhận thấy qua một số chỉ tiêu về doanh thu thuần, đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước, đóng góp vào ngân sách nhà nước. Bảng 3: Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế của các DNNN. Đơn vị: tỷ đồng. 2003 2004 2005 2006 2007 (sơ bộ). Tổng số 613.443 715.307 839.211 974.266 1.144.015 DNNN 239.736 279.704 322.241 364.250 416.794 (trích biểu 29: tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế, trang 74, niên giám thống kê 2007) Từ bảng số liệu có thể kết luận rằng, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21306.doc
Tài liệu liên quan