Hoạt động xuất khẩu hàng song, mây, tre tại Công ty TNHH Đông Nam Á

Lời mở đầu Xuất khẩu là “một trong ba chương trình lớn, trọng điểm” được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng, đã, đang và sẽ là mũi nhọn trong chiến lược hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của Việt Nam. Chiến lược công nghiệp hóa hướng mạnh về xuất khẩu để được triển khai thực hiện thành công tại nhiều nước, những kinh nghiệm quý của họ đã từng bước được áp dụng ở Việt Nam. Như vậy, không chỉ riêng Việt Nam mà bất cứ nước nào cũng phải đặt xất khẩu vào vị trí xứng đáng và có vai trò đặc

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động xuất khẩu hàng song, mây, tre tại Công ty TNHH Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biệt quan trọng nhằm tăng trưởng kinh tế. Hoạt động xuất khẩu của một quốc gia phải gắn chặt với thị trường quốc tế, chiến lược quốc tế phải dựa trên sự lựa chọn khoa học thị trường xuất khẩu, phù hợp với đặc điểm và khả năng của từng nền kinh tế. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa dịch vụ thời kỳ 2001- 2010 đã nêu rõ: “Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001- 2010, nhất là xuất khẩu phải là chiến lược tăng tốc tòan diện trên nhiều lĩnh vực, phải có những khâu đột phá với những bước đi vững chắc. Mục tiêu hành động của thời kỳ này là tiếp tục chủ trương dành ưu tiên cao cho xuất khẩu, tạo nguồn hàng có chất lượng ... có sức cạnh tranh cao để xuất khẩu... đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước”. Để đạt được mục tiêu chiến lược đó trong xu thế tòan cầu hóa, Việt Nam không thể không đẩy mạnh xuất khẩu. Với lợi thế là có nguồn nguyên liệu và lao động dồi dào, rẻ, lại thêm truyền thống sản xuất lâu đời, nên hàng song, mây, tre được coi là một trong những mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả của Việt Nam. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng song, mây, tre không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội to lớn như làm tạo việc làm cho một số lượng lớn lao động, nâng cao thu nhập của người dân, duy trì bản sắc văn hóa dân tộc... Công ty TNHH Đông Nam á là một công ty tư nhân hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng song, mây, tre sang thị trường các nước trên thế giới. Công ty đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Tuy nhiên việc sản xuất và xuất khẩu hàng song, mây, tre vẫn chưa phát huy được hết tiềm năng, nhất là hiện nay Việt Nam đã vào WTO. Chính vì những lý do trên đây nên em đã chọn đề tài: “ Hoạt động xuất khẩu hàng song, mây, tre công ty TNHH Đông Nam á” làm cho khóa luận tốt nghiệp của mình. Mục đích của đề tài: Khoá luận tập trung nghiên cứu về tình hình xuất khẩu công tyĐông Nam á và qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hàng song, mây, tre của công ty sang thị trường các nước trên thế giới. Nhiệm vụ của đề tài: Hệ thống lại một số vấn đề lý luận về xuất khẩu và các yếu tố có ảnh hưởng đến xuất khẩu. Phân tích, đánh giá về thực trạng xuất khẩu song, mây, tre ở Việt Nam nói chung và ở công ty Đông Nam á nói riêng. Dựa vào những kết quả thu được, khóa luận sẽ đề ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hàng song, mây, tre của công ty khi xuất khẩu sang thị trường các nước trên thế giới. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: hoạt động xuất khẩu hàng song, mây, tre của công ty Đông Nam á từ năm 2000 đến năm 2005. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận áp dụng phương pháp cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu kinh tế (phân tích, so sánh, tổng hợp …) Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận tốt nghiệp của em gồm có 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận chung Chương II: Tình hình xuất khẩu hàng song, mây, tre tại công ty Đông Nam á Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng song, mây, tre tại công ty Đông Nam á CHƯƠNG 1 Một số vấn đề lý luận chung 1.1. KháI niệm và vai trò xuất khẩu 1.1.1 Khái niệm và sự cần thiết của xuất khẩu Xuất khẩu là một mặt quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Nó là quá trình bán hàng của quốc gia đó cho một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới, tiền thu được thường là ngoại tệ. Như vậy, về bản chất hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán trong nước đều là quá trình trao đổi hàng hóa (bán hàng). Sự khác biệt giữa hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán ở trong nước được thể hiện dưới các yếu tố sau: Thứ nhất: Khách hàng trong hoạt động xuất khẩu là người nước ngoài. Thứ hai: Thị trường trong hoạt động xuất khẩu thường là thị trường nước ngoài nên phức tạp và khó tiếp cận hơn thị trường trong nước. Thứ ba: Hình thức mua bán trong hoạt động xuất khẩu là mua bán qua hợp đồng xuất khẩu. Thứ tư: Các nghiệp vụ liên quan tới xuất khẩu như: thanh tóan, vận chuyển, ký kết hợp đồng ... đều phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro hơn hoạt động buôn bán trong nước. Nói tóm lại, hoạt động xuất khẩu là sự mở rộng quan hệ buôn bán trong nước sang thị trường nước ngoài có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao. Hoạt động xuất khẩu là cần thiết vì những lý do cơ bản sau: Nó khai thác được lợi thế so sánh của nước xuất khẩu. Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia cũng như mỗi cá nhân không thể sống riêng rẽ, biệt lập với bên ngoài mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng với số lượng nhiều hơn, chất lượng cao hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới khả năng sản xuất trong nước (nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán với nước ngoài). Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của con người ngày một dồi dào, đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng tăng lên. Nói cách khác, chuyên môn hoá thúc đẩy nhu cầu sản xuất hàng hoá, dịch vụ và ngược lại, một quốc gia không thể chuyên môn hoá sản xuất nếu không có hoạt động trao đổi mua bán với nước khác. Chính chuyên môn hoá quốc tế là biểu hiện sinh động của lý thuyết lợi thế so sánh, lý thuyết này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết cũng khẳng định rằng nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào sản xuất sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh, thì thương mại quốc tế có lợi cho cả hai bên. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng được giải thích phần nào về việc buôn bán giữa các nước, vì điều kiện sản xuất có thể khác nhau giữa các nước, nên sẽ có lợi hơn nhiều khi mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu những hàng hoá cần thiết từ nước khác. Mặt khác, chuyên môn hoá quy mô lớn sẽ làm cho chi phí sản xuất giảm, tăng cường hiệu quả tuyệt đối từ qui mô, ngay cả khi hai nước giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau về nhu cầu và sở thích. Chính vì lẽ đó, cần phải “nâng cao hiệu quả xuất khẩu, mở rộng ngoại thương trên cơ sở hợp tác bình đẳng, không phân biệt chế độ chính trị và đôi bên cùng có lợi” như nghị quyết đại hội Đảng lần thứ 7 đã khẳng định. 1.1.2 Vai trò của xuất khẩu Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động cơ bản của thương mại quốc tế, là phương tiện thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế, mở rộng xuất khẩu giúp tăng thu ngoại tệ và nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển cơ sở hạ tầng là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vẫn đề ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện như sau: Thứ nhất: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hóa đất nước và xuất khẩu cũng tạo nguồn vốn ngoại tệ góp phần cải thiện cán cân thương mại. Để công nghiệp hóa trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn rất lớn nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn sau: đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ.... Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ…tuy quan trọng nhưng vẫn phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất nước vẫn phải là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định tốc độ, quy mô tăng trưởng của nhập khẩu. Phát triển xuất khẩu hàng hóa và thể hiện tiềm lực của một quốc gia. Xuất khẩu càng tăng sẽ tạo ra những thặng dư trong cán cân thanh toán quốc tế, tạo điều kiện tăng tích trữ ngoại tệ, góp phần ổn định đồng tiền trong nước, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội, đảm bảo sự phồn vinh cho đất nước. Thứ hai: Xuất khẩu phát huy lợi thế so sánh của nước xuất khẩu với các nước trên thế giới. Việt Nam có nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú, lực lượng lao động đông đảo và có trình độ khá cao. Hơn nữa, từ năm 1986 với chính sách đổi mới và mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, những thành tựu này cũng là những lợi thế giúp cho hoạt động thương mại quốc tế phát triển. Thứ ba: Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiện nay cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của một quốc gia và là giải pháp được xây dựng ở tầm vĩ mô mà công cụ chủ yếu là những chủ trương chính sách và pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó muốn cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thành công thì các yếu tố như: Vốn đầu tư, máy móc kỹ thuật và nhân tố con người ... cần được quan tâm và phát triển. Ngoài ra, còn cần đến các yếu tố giúp cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công là phải dựa vào nội lực của đất nước là chính, mặt khác cũng cần phải tranh thủ những điều kiện thuận lợi bên ngoài. Do vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với phân công lao động quốc tế, chuyên môn hóa. Thứ tư: Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Việc phát triển hoạt động xuất khẩu có vai trò đào tạo một đội ngũ cán bộ phục vụ cho quá trình xuất khẩu có trình độ kinh doanh thương mại quốc tế tốt, nâng cao tay nghề của người lao động. Thứ năm: Xuất khẩu là cơ sở để mở rộngvà thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển và ngược lại. Chẳng hạn như xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của tín dụng quốc tế, đầu tư quốc tế, vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại vừa nêu trên đã tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vẫn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hóa đất nước. 1.2 Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại 1.2.1 Đặc điểm của doanh nghiệp thương mại Doanh nghiệp thương mại là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại nhằm mua bán, trao đổi hàng hóa, cung ứng dịch vụ để thu lợi nhuận. Hoạt động của doanh nghiệp thương mại bao gồm những đặc điểm sau: * Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Nhà nước không trực tiếp quyết định chủ thể kinh doanh ngoại thương, không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp mà chỉ qui định những điều kiện để doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Những điều kiện đó là: Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thì không kể mức vốn lưu động, không kể kim ngạch nhiều hay ít, không phân biệt thành phần kinh tế đều có thể được xuất khẩu hàng hoá do mình sản xuất ra, nhập khẩu vật tư, nguyên liệu cần thiết cho sản xuất của mình. Chính vì lẽ đó, cần phải “nâng cao hiệu quả xuất khẩu, mở rộng ngoại thương trên cơ sở hợp tác bình đẳng, không phân biệt chế độ chính trị và đôi bên cùng có lợi” như nghị quyết đại hội Đảng lần thứ 7 đã khẳng định * Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường: Trong cơ chế thị trường, hầu hết các doanh nghiệp thương mại quốc doanh không còn được độc quyền như trước với các chủ thể khác, phải cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Doanh nghiệp không chỉ tiếp xúc với thị trường hàng hoá mà cả thị trường vốn và thị trường lao động. Đối với thị trường hàng hoá: Doanh nghiệp phải thường xuyên nâng cao trình độ marketing, nắm vững thông tin về khách hàng, diễn biến quan hệ cung cầu, giá cả của những mặt hàng mà mình kinh doanh, dự báo và đón trước nhu cầu của người tiêu dùng, kịp thời thay đổi mẫu mã và qui cách phẩm chất hàng hoá để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng. Từ đó quyết định số lượng, thời điểm mua bán, lựa chọn phương thức kinh doanh, duy trì và mở rộng quan hệ với bạn hàng trong và ngoài nước. Doanh nghiệp phải gắn lưu thông với sản xuất, tự tổ chức sản xuất hàng hoá và dịch vụ, giúp đỡ các cơ sở sản xuất tạo ra nguồn hàng xuất khẩu phong phú, đáp ứng được yêu cầu người mua. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải tìm hiểu tập quán kinh doanh của các nước hữu quan, nắm bắt kịp thời những thay đổi về pháp luật trong và ngoài nước có liên quan đến những mặt hàng mà mình kinh doanh. Đối với thị trường vốn: Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp do chủ doanh nghiệp tự khai. Chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ khai báo chính xác tổng số vốn đầu tư, trong đó nêu rõ số vốn bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng và các loại tài sản khác đối với vốn bằng tài sản khác còn phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá trị còn lại của mỗi loại tài sản. Toàn bộ vốn và tài sản kể cả vốn vay và tài sản thuê được sử dụng vào vốn kinh doanh của doanh nghiệp đều được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tăng hay giảm vốn đầu tư của doanh nghiệp phải được ghi chép đẩy đủ vào sổ kế toán. Trường hợp giảm vốn đầu tư thấp hơn với số vốn đã đăng ký, thì chủ doanh nghiệp chỉ được giảm vốn sau khi đã khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh. Đối với thị trường lao động: Doanh nghiệp trực tiếp tuyển dụng cán bộ, công nhân viên, lựa chọn những người có năng lực phù hợp với từng cương vị công tác và trả lương theo kết quả và hiệu quả kinh doanh. * Quan hệ nội bộ doanh nghiệp: Cơ chế thị trường đòi hỏi công việc kinh doanh phải năng động và linh hoạt. Do đó, việc sắp xếp tổ chức phải bố trí cán bộ công nhân viên cũng phải thích ứng với những yêu cầu đó sao cho biên chế gọn nhẹ, tinh giản mà vẫn đạt hiệu quả kinh doanh cao. Muốn vậy trong nội bộ doanh nghiệp phải có những qui chế cụ thể xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn, lợi ích của từng người nhằm phát huy tính sáng tạo, ý thức tự giác hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao của mỗi người trong đơn vị. Phải thực hiện hạch toán kinh tế, áp dụng các hình thức khoán trả lương và thưởng theo hiệu quả kinh doanh. Ký kết và chấp hành nghiêm chỉnh thoả ước lao động tập thể giữa giám đốc và tập thể cán bộ công nhân trong công ty, đồng thời nâng cao tinh thần làm chủ doanh nghiệp trong mỗi cán bộ công nhân. 1.2.2 Các loại hình kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại Trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp có nhiều loại hình xuất khẩu khác nhau như: Xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu ủy thác, xuất khẩu theo hình thức đối lưu, xuất khẩu theo nghị định thư… Các doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức xuất khẩu khác nhau sao cho phù hợp với doanh nghiệp, với chủ trương và tận dụng tối đa khả năng có sẵn trên cơ sở đó đa dạng hoá các loại hình xuất khẩu của doanh nghiệp. 1.2.3. Tiến trình của hoạt động xuất khẩu 1.2.3.1. Chuẩn bị giao dịch Hoạt động kinh doanh xuất khẩu phức tạp hơn hoạt động kinh doanh nội địa bởi nhiều lẽ: bạn hàng ở cách xa, chịu sự điều chỉnh của hệ thống luật pháp, vì vậy khi bước vào giao dịch cần có sự chuẩn bị chu đáo, sự chuẩn bị này ảnh hưởng lớn đến kết quả thương vụ. Công việc chuẩn bị bao gồm có 2 phần: Nghiên cứu tiếp cận thị trường và lập phương án kinh doanh. 1.2.3.2. Đàm phán ký kết hợp đồng Đàm phán: là một quá trình trong đó diễn ra sự trao đổi giữa doanh nghiệp với khách hàng nước ngoài về điều kiện mua bán một loại hàng hóa nào đó để đi tới sự thỏa thuận nhất trí giữa hai bên. Ký kết hợp đồng xuất khẩu: Về mặt pháp lý hợp đồng xuất khẩu là căn cứ pháp lý rằng buộc các bên phải thực hiện những nghĩa vụ cũng như những quyền được hưởng lợi. 1.2.2.3. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu Quá trình này bao gồm các bước sau: Xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng xuất khẩu, kiểm tra hàng hóa xuất khẩu, thuê phương tiện vận tải , mua bảo hiểm cho hàng hóa, làm thủ tục hải quan, giao hàng cho phương tiện vận tải, làm thủ tục thanh tóan, khiếu nại và giải quyết khiếu nại. 1.2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Như đã trình bày, quá trình thực hiện hợp đồng là một chuỗi công việc được sắp xếp theo một trình tự logic. Khi một công việc thực hiện tốt sẽ là cơ sở để thực hiện tốt các công việc tiếp theo. Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến. Các yếu tố này được khái quát thành hai nhóm yếu tố chính là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và nhóm yếu tố ảnh hưởng gián tiếp. 1.2.4.1. Các yếu tố chủ quan Cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ: là một trong số các quyết định đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nó là yếu tố cơ bản đảm bảo về chất lượng sản phẩm để giữ uy tín cho doanh nghiệp để thâm nhập vào những thị trường ngày càng khắt khe hơn. Từ đó không ngừng mở rộng và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Trình độ quản lý: là yếu tố quan trọng giúp cho doanh nghiệp khai thác tiềm năng sẵn có của mình cho xuất khẩu đồng thời khai thác những cơ hội từ thị trường, từ đó mở rộng quy mô xuất khẩu cả về doanh số và lợi nhuận. Mặt khác trình độ quản lý yếu còn là yếu tố quyết định tới chất lượng sản phẩm năng suất lao động và hiệu quả thực hiện các hợp đồng xuất khẩu có chất lượng cao không chỉ cần có công nghệ tốt, vấn đề là phải biết khai thác sử dụng nó như thế nào. Sự bố trí hợp lý, giám sát kiểm tra chặt chẽ khâu sản xuất tăng cường tính chuyên môn có thể đem lại hiệu quả cao nhất. Trên cơ sở đảm bảo chất lượng sản phẩm, giảm thiểu chi phí, tăng năng suất lao động từ đó tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường cũng như tăng hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Trình độ nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu: Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả của quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Thông qua đó nó có tính quyết định đem lại cho công ty những lợi thế doanh nghiệp được hưởng ghi nhận trong hợp đồng xuất khẩu. Vì vậy, yếu tố này góp phần quyết định hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Hoạt động nghiên cứu thị trường: Thị trường là yếu tố đầu ra ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu. Từ kết quả của nghiên cứu thị trường có thể đưa ra được những quyết định đúng đắn mới có thể định hướng cho hoạt động của xuất khẩu về đầu tư công nghệ, chiến lược sản phẩm, những chuyển đổi nhanh nhạy kịp thời trong hoạt động xuất khẩu. Thị trường đầu vào là yếu tố quyết định trong hoạt động xuất khẩu cua doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì đó là nguyên- nhiên vật liệu... đối với doanh nghiệp thương mại thì đó là các nguồn hàng. Kết quả nghiên cứu thị trường đầu vào sẽ giúp doanh nghiệp chủ động và có những chiến lược đúng đắn. Từ đó vận dụng được những thuận lợi, đảm bảo cho nguồn hàng đầy đủ kịp thời. Mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra là mối quan hệ biện chứng, phụ thuộc và thúc đẩy lẫn nhau. Do đó, phải tiến hành nghiên cứu thị trường đầy đủ, chi tiết mới có thể giải quyết tốt mối quan hệ này, có thể thu được những thành công trong xuất khẩu. Kết quả đàm phán: Sau khi xác định được đối tác, nhà xuất khẩu tiến hành gặp gỡ để đàm phán ký kết hợp đồng nhằm xác định một thỏa thuận chung. Trong quá trình mua bán, người mua và người bán đều muốn có các điều kiện thuận lợi cho mình. Do đó sẽ xảy ra mâu thuẫn về quyền lợi giữa hai bên. Đàm phán chính là cách giải quyết mâu thuẫn này. Kết qủa đàm phán có thể dẫn đến việc ký kết hợp đồng khi hai bên đã thống nhất được điều kiện mua bán. Nhưng nó cũng có thể thất bại do hai bên không thảo mãn được yêu cầu của mình. Điều kiện này có thể dẫn đến việc đàm phán lại hoặc chấm dứt không ký kết hợp đồng. Như vậy, có thể thấy quá trình thực hiện hợp đồng chịu ảnh hưởng lớn bởi yếu tố kết quả đàm phán, ngay cả khi ký kết hợp đồng thì kết qủa đàm phán chính là cơ sở cho quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Các điều khoản hợp đồng: ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, vì hầu hết mọi công việc trong quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu đều được thể hiện trong các điều khoản tương ứng trong hợp đồng. Chỉ cần thay đổi trong hợp đồng thì việc tổ chức thực hiện cũng thay đổi theo. Trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu, các điều khoản phải được quy định chặt chẽ. Có như vậy mới tránh được tranh chấp trong qúa trình thực hiện hợp đồng. Xu thế mốt: Yếu tố này có tác động trực tiếp đến quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Xu thế mốt có ảnh hưởng đến nhu cầu của thị trường đồng thời ảnh hưởng đến cung cấp hàng hóa của người xuất khẩu. Nếu xu thế mốt đang diễn ra ở trong nước của các nhà xuất khẩu thì nó lại đòi hỏi quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng phải được tổ chức nhanh chóng nhằm đáp ứng nhu cầu. Xu thế mốt khiến cho các mặt hàng có nhu cầu khác nhau và do đó việc thu gom các mặt hàng cũng khác nhau. Mặt khác, yếu tố về mẫu mốt thúc đẩy việc đổi mới công nghệ nhằm đổi mới mẫu mốt, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Nhất là trong xu thế tòan cầu hóa nền kinh tế như hiện nay thì yếu tố mốt ngày càng trở nên quan trọng hơn. Nó tạo sự đa dạng hóa về sản phẩm, sự phong phú về mặt hàng, kích thích sự tìm tòi sáng tạo của các nhà thiết kế mẫu mốt. 1.2.4.2. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. * Các chính sách của Nhà nước: Mọi hoạt động kinh doanh đều chịu sự điều chỉnh hệ thống các chính sách của Nhà nước. Nhà nước đề ra chính sách như vậy nhằm quản lý, định hướng các hoạt động kinh doanh theo chương trình lớn của Nhà nước, không những thế còn tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp. Do đó khi nhà xuất khẩu tổ chức thực hiện một hợp đồng xuất khẩu thì các công việc tiến hành theo quy định của Nhà nước, có như vậy mới đảm bảo tính pháp lý. Ngoài ra để thực hiện chương trình sản xuất hàng xuất khẩu, Nhà nước cũng đề ra các chính sách nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu. Các chính sách có tác động mạnh đến hoạt động xuất khẩu là chính sách thuế xuất khẩu, chính sách trợ vốn, chính sách về xúc tiến thương mại, chính sách về phát triển nguồn hàng xuất khẩu... Chính sách thuế xuất khẩu: gần đây Nhà nước đã có những sửa đổi quan trọng có tác động tới hoạt động xuất khẩu như: giảm thuế, miễn thuế cho một số mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Thực hiện thuế VAT để khắc phục tình trạng hàng hóa bị đánh thuế nhiều lần. Tuy các chính sách đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn còn có nhiều hạn chế ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu như các quy định về thuế còn rườm rà, có nhiều mức khác nhau trong khi thiếu các tiêu chuẩn phân loại nhóm sản phẩm theo mức thuế. Mặc dù có chính sách miễn giảm thuế nhưng thủ tục xin hoãn thuế hoặc miễn giảm thuế còn phức tạp.. Chính sách ngoại giao: Các chính sách ngoại giao có ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Những cuộc đàm phán ký kết về thương mại giữa Việt Nam với các nước khác có thể mở ra các cơ hội mới cho doanh nghiệp song cũng có thể làm cho doanh nghiệp mất đi thị trường hoặc các điều kiện ưu đãi ... Các chính sách về tỷ giá: Đây là nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu tới hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Vì vậy, các doanh nghiệp cần quan tâm đến cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái hiện hành của Nhà nước và theo dõi liên tục sự biến động của nó. Chính sách hỗ trợ khác: Các doanh nghiệp Việt Nam có trình độ, khả năng về tài chính chưa cao nên việc tổ chức tìm hiểu thị trường rất hạn chế, tiếp cận với khách hàng hiệu quả chưa cao. Mặt khác khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, nhà xuất khẩu cần nhiều thông tin về khách hàng để thực hiện tốt công việc của mình, thỏa mãn yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Do vậy, nếu được sự hỗ trợ của Nhà nước cung cấp, phát triển các kênh thông tin về thị thì chắc chắn việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu sẽ có hiệu quả hơn. * Các thủ tục của Nhà nước: Trong quy trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, nhà xuất khẩu phải thực hiện nhiều thủ tục. Trong đó nổi lên hai loại thủ tục chính là thủ tục hải quan và thủ tục hành chính. Thủ tục hải quan: là một bước trong quy trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu và là một trong những khâu còn nhiều vướng mắc, ảnh hưởng không nhỏ tới doanh nghiệp. Những tồn tại về hải quan chủ yếu xoay quanh việc áp giá, áp mã để tính thuế và thủ tục thông quan giải phóng hàng hóa. Từ sau cuộc tiếp xúc của Thủ Tướng chính phủ với các doanh nghiệp đầu năm 1998, những vướng mắc này đang được tháo gỡ dần và bước đầu có hiệu quả tốt trong việc làm thủ tục thông quan hàng hóa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giao hàng xuất khẩu nhanh chóng và đúng thời hạn - một trong những yêu cầu chặt chẽ của các đối tác nước ngoài khi ký kết hợp đồng xuất khẩu. Thủ tục hành chính: Hiện nay, Nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp được quyền xuất khẩu các mặt hàng theo giấy phép kinh doanh được Nhà nước cấp phép. Nhà nước cũng không quản lý hoạt động xuất khẩu chặt chẽ như trước đây mà cho doanh nghiệp được tự chủ. Các cấp chủ quản của doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý chính được đơn giản hóa đi rất nhiều, tránh được tình trạng chồng chéo như trước đây. Do có sự cải cách hành chính như vậy mà việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu được tạo điều kiện hơn rất nhiều. * Mức độ cạnh tranh: Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước biểu hiện ở số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cùng ngành hàng hoặc cùng mặt hàng, hoặc các mặt hàng có thể thay thế lẫn nhau. Một mặt nó thúc đẩy sự vươn lên của doanh nghiệp song cũng gây ra thách thức không nhỏ cho doanh nghiệp. Những thách thức này đã gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thâm nhập, duy trì, mở rộng thị trường xuất khẩu của mình. Trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, các mối quan hệ quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đối với hoạt động xuất khẩu. Khi xuất khẩu nhà xuất khẩu phải đối mặt với hàng rào thuế quan và phi thuế quan mà các hàng rào này chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ song phương giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu. Với xu thế tòan cầu hóa hiện nay nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành, nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương giữa các quốc gia, các tổ chức kinh tế cũng được ký kết với mục tiêu thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và tòan thế giới. Nếu một quốc gia tham gia vào các liên minh kinh tế và các hiệp định thương mại ấy sẽ là một tác nhân tích cực đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. Nếu không chính nó lại trở thành vật cản đối với việc thâm nhập vào thị trường trong khu vực đó. * Tình hình thị trường xuất khẩu Thứ nhất là tình hình phát triển kinh tế của thị trường xuất khẩu, biểu hiện qua: Mức phát triển tổng sản phẩm quốc nội GNP, thu nhập dân cư, tình hình lạm phát, tình hình lãi suất...ảnh hưởng tới nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng. Thứ hai là những đặc điểm về văn hóa xã hội của thị trường xuất khẩu, nó sẽ ảnh hưởng tới tâm lý tiêu dùng và nhu cầu tiêu dùng đối với các sản phẩm trong đó có sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp. Thứ ba là tình hình chính trị, thái độ của nhà nước tại thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. * Môi trường pháp lý: Trong điều kiện luôn có sự cạnh tranh quốc tế và khu vực về thị trường xuất khẩu thì cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với Việt Nam. Chúng ta không phủ nhận những thành công trong công tác xây dựng và ban hành pháp luật có liên quan đến hoạt động xuất khẩu trong thời gian qua. Tuy nhiên, qua thử nghiệm thực tiễn đã bộc lộ không ít những sai sót và hạn chế như: Hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ và cụ thể, thực hiện pháp luật cũng còn tùy tiện, gây khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu. Nhiều văn bản pháp lý ban hành còn chậm, một số nội dung điều khoản trong văn bản pháp lý còn chồng chéo chưa thống nhất. Ngoài ra, vấn đề khủng hoảng kinh tế cũng có tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất khẩu. Đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ làm giá thành sản phẩm tăng, lợi nhuận xuất khẩu giảm. * Môi trường khoa học công nghệ: Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nhiều công nghệ tiên tiến ra đời tạo ra những cơ hội, nhưng cũng gây nên những nguy cơ đối với các nghề nói chung và các đơn vị sản xuất kinh doanh mặt hàng xuất khẩu nói riêng. Đối với lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng các công nghệ mới của khoa học kỹ thuật sẽ giúp cho các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm mới với chất lượng cao và mẫu mã đa dạng hơn. Nhờ đó chu kỳ sống của sản phẩm được kéo dài và có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ còn có tác động vào các lĩnh vực như vận tải hàng hóa, bảo quản hàng hóa, kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng... Đó cũng là những nhân tố ảnh hưởng tích cực đến hoạt động. 1.3 Tổng quan hoạt động xuất khẩu song, mây, tre của Việt Nam 1.3.1 Đặc điểm sản xuất và chế biến Để thấy được tình hình xuất khẩu hàng song, mây, tre trong những năm qua và triển vọng xuất khẩu trong những năm tới cần phải đi sâu tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong sản xuất hàng song, mây, tre. Để tạo ra hàng hoá xuất khẩu phải trải qua quá trình sản xuất hàng hoá. Đây là quá trình quan trọng trong hoạt động xuất khẩu vì giá cả và chất lượng hàng hoá do sản xuất và chế biến quyết định. Sản xuất và chế biến hàng song, mây, tre ở Việt Nam từ trước đến nay vẫn mang tính chất thủ công, làm bằng tay là chính. Do vậy, nói đến sản xuất và chế biến hàng song, mây, tre chúng ta phải quan tâm đến các yếu tố chính tác động đến chất lượng và giá cả của sản phẩm đó là: lao động, nguyên liệu, công cụ, khí hậu. 1.3.2 Những thuận lợi và khó khăn 1.3.2.1 Thuận lợi Khi Việt Nam trở thàng thành viên của WTO, các doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung và công ty Đông Nam nói riêng cũng có những thuận lợi như sau: Thứ nhất: Được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ của tất cả các nước thành viên, không bị phân biệt đối xử, tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Việc ra nhập._. WTO làm cho xu hướng tiêu dùng của Việt Nam thay đổi và phát triển theo hướng tích cực hơn. Trong những năm gần đây, Việt Nam có những thay đổi nhanh chóng cả trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Ví dụ như máy vi tính và Internet ngày càng phổ biến (45% dân số biết lướt web), ngày càng nhiều người Việt Nam chọn loại hình đi du lịch nước ngoài để thư giãn, nhiều dự án xây dựng quy mô lớn đã được triển khai và số người gửi tiết kiệm ngân hàng ngày càng tăng... Điều đó cho thấy để hội nhập doanh nghiệp cần phải đủ sức đáp ứng yêu cầu mới của thị trường, đủ lớn để tận dụng được những cơ hội mà thị trường đem lại. Thứ hai: Với việc hòan thành hệ thống luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện. Thứ ba: Vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự thế giới mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước của doanh nghiệp. Thứ tư: Mặc dầu chủ trương của Việt Nam là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh tế trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính việc ra nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình của Việt Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn. Thứ năm: Việc ra nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Ngoài những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ưu tiên khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu (nhất là những ngành hàng sản xuất từ nguyên liệu trong nước như song mây tre, nứa lá ... ) như trên thì trong sản xuất hàng song, mây, tre các doanh nghiệp còn có những thuận lợi như sau: * Về lao động Lao động là một trong những yếu tố quan trọng có tính quyết định tới khả năng sản xuất hàng song, mây, tre - một sản phẩm yêu cầu kỹ thuật, sự tỉ mỉ, khéo léo của từng người lao động. Nguồn nhân lực tạo ra các sản phẩm bao gồm các nghệ nhân, những người thợ thủ công và chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Nghệ nhân là người có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy nghề đồng thời là những người sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo mang đậm nét truyền thống. Hiện nay, ở nhiều làng nghề truyền thống vẫn còn những nghệ nhân tâm huyết với nghề, muốn giữ nghề và phát triển nghề. Đây là một lợi thế rất lớn trong việc phát triển nghề thủ công truyền thống này. Bên cạnh đó, một lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu lao động trẻ, có khả năng thích ứng với những điều kiện mới của nền kinh tế thị trường là những nhân tố cốt yếu quyết định toàn bộ kinh doanh xuất khẩu. * Về nguyên liệu Đây là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất các mặt hàng thủ công truyền thống. Nguyên liệu để sản xuất chế biến hàng song mây tre có hầu hết ở các địa phương trong cả nước. Từ Bắc đến Nam, từ Đông sang Tây, từ miền xuôi đến miền ngược. Đây là một điều kiện thuận lợi để phát triển hàng song mây tre ở khắp mọi miền đất nước. * Về công cụ sản xuất Công cụ dùng trong sản xuất chế biến hàng song mây tre hiện nay ở Việt Nam hầu hết là dụng cụ cầm tay, đơn giản dễ chế tạo, rẻ tiền. ở đâu cũng có thể tự sản xuất, chế tạo lấy được. Ngoài ra, còn có những loại máy mài, chẻ song, mây, tre cũng giúp nâng cao năng suất lao động. * Về khí hậu Việt Nam ở vào vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mùa hè có nắng nhiều, mùa rét khí hậu khô hanh nên cũng là một thuận lợi trong khai thác và chế biến hàng song, mây, tre. Ngoài những thuận lợi chính đã nêu ở trên, trong sản xuất và chế biến hàng song, mây, tre không cần vốn đầu tư lớn, diện tích dùng để sản xuất chế biến không cần rộng, không cần nhà xưởng lớn. Có thể sản xuất chế biến song mây tre ngay trong từng gia đình và có thể tận dụng cả thời gian nhàn rỗi, nghỉ ngơi giải trí để sản xuất ra sản phẩm. 1.3.2.2 Khó khăn Ngoài những thuận lợi nêu trên, trong sản xuất chế biến hàng song, mây, tre các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO. Thứ nhất: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn và sâu hơn. Thứ hai: Ngay sau khi Việt Nam ra nhập WTO, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa đạt được tiêu chuẩn tổ chức hoạt động kinh doanh trong thị trường và môi trường pháp lý toàn cầu, có nghĩa rằng doanh nghiệp phải được tổ chức và hoạt động theo thông lệ quốc tế. Hệ qủa của việc đó là có ít doanh nghiệp đạt được sự tin cậy đối với nước ngoài, các tập đoàn lớn ngại đặt quan hệ … muốn giải quyết được tình trạng này, việc xây dựng hệ thống pháp luật minh bạch phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ phát huy tốt khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thứ ba: Sự phân phối lợi ích của tòan cầu hóa (giữa các nước và trong một nước) là không đồng đều, do đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần quan tâm đến thị hiếu, mức sống của người dân từng nước, từng khu vực mà các doanh nghiệp Việt Nam muốn thâm nhập. Thứ tư: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới tòan cầu hóa, tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên, đòi hỏi Việt Nam phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Thứ năm: Hội nhập kinh tế thế giới đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền.. Ngoài ra Việt Nam còn chưa có chiến lược lâu dài cho việc phát triển ngành hàng song mây tre xuất khẩu, chưa thấy hết được ý nghĩa xã hội trong việc phát triển ngành hàng sẽ tạo ra công ăn việc làm cho hàng triệu lao động và thu về cho Nhà nước một lượng ngoại tệ đáng kể. Bên cạnh những khó khăn kể trên, trong sản xuất hàng song, mây, tre xuất khẩu các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn như: * Về lao động Đội ngũ lao động của Việt Nam ở các vùng nghề có nhiều song chất lượng nguồn lao động chưa cao (chưa được đào tạo cơ bản, chưa được đầu tư thích đáng về khoa học kỹ thuật), trình độ văn hóa thấp nên năng lực sáng tạo còn hạn chế. Đây là một lực cản lớn trong việc phát triển sản xuất đặc biệt là trong thời đại hội nhập toàn cầu. * Về nguồn nguyên liệu Chính vì nguồn nguyên liệu rải khắp trong cả nước nên Việt Nam đã khai thác không khoa học, không có kế hoạch trồng bù nên diện tích rừng mây tre ngày càng thu hẹp. Trong quá trình khai thác và chế biến còn sử dụng những công cụ thô sơ, đơn giản, dễ làm nên chỉ tạo ra được những sản phẩm có chất lượng thấp, năng suất không cao, về lâu dài thì đây là một khó khăn của ngành sản xuất hàng song, mây, tre xuất khẩu vì không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. * Về khí hậu Khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam ngòai những điểm thuận lợi như trên còn gây ra một số những khó khăn cho việc sản xuất chế biến hàng song, mây, tre nhất là vào mùa xuân khi độ ẩm trong không khí cao làm cho công tác bảo quản nguyên liệu rất khó khăn, sản phẩm dễ bị mốc ải biến mầu nếu như không có phương pháp và hình thức bảo quản thích hợp. 1.3.3 Tiềm năng nguyên liệu và tình hình sản xuất hàng song, mây, tre 1.3.3.1 Tiềm năng nguyên liệu và tình hình sản xuất hàng song, mây, tre trên thế giới * Tiềm năng nguyên liệu Một điều dễ nhận thấy là không phải nước nào, lãnh thổ nào trên thế giới cũng có thể trồng được cây song, mây, tre và cũng không phải bất cứ nước nào, lãnh thổ nào có loại cây này đều phát triển đựợc ngành song, mây, tre. Song mây là loại cây leo chủ yếu thuộc loại nhóm lepidocaryvid (là loại cây có áo tơi, mo mang, bẹ, tầu) của dòng họ cọ palmac có đặc tính chỉ phát triển tự nhiên ở những nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều đặc biệt là các nước ở vùng đông Nam á. Theo tài liệu của trung tâm thông tin về song mây có trụ sở đặt tại Malaysia (viết tắt là RIC) cho thấy: kim ngạch trao đổi hàng song, mây, tre hàng năm trên thế giới ước tính hơn chục tỷ USD. Điều đó chứng tỏ thị trường hàng song, mây, tre trên thế giới ngày càng trở nên nhộn nhịp. Các nước cung cấp mặt hàng này hầu hết ở khu vực Đông Nam á. Còn các nước nhập khẩu trước kia phần lớn tập trung ở Châu Âu, thì hiện nay đã mở rộng ra các nước Châu á, Mỹ, Phi và úc. Có thể nói ngày nay hàng song, mây, tre đã trở nên quen thuộc và thông dụng trên thế giới. * Tình hình sản xuất hàng song, mây, tre trên thế giới Cung về hàng song,mây, tre: Trong nửa đầu thập niên 90, tình hình cung hàng mây tre trên thế giới hầu như không có biến động gì đáng kể. So với những năm 80, lượng cung trung bình những năm gần đây tăng lên rất chậm, hàng năm chỉ tăng trung bình vào khoảng 0,23%/ năm, trong khi đó chỉ tiêu này của những năm 80 là 3%/năm (bảng 1). Song điều chú ý về cung hàng mây tre trên thế giới là cơ cấu của các nước xuất khẩu mây tre nguyên liệu so với các nước xuất khẩu mây tre thành phẩm hoặc bán thành phẩm đang có thay đổi. Inđônêxia trước kia phần lớn là xuất khẩu song mây nguyên liệu cho Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc ... Các nước này nhập khẩu nguyên liệu rồi tổ chức sản xuất ra thành phẩm như chiếu mây, bàn ghế ... và xuất khẩu sang các nước khác. Nhưng hiện nay Iđônêxia và một số nước khác đang có chính sách cấm xuất khẩu song, mây, tre dưới dạng nguyên liệu. Dự đoán trong tương lai, các nước trước kia xuất khẩu nguyên liệu sẽ chuyển sang xuất khẩu thành phẩm và bán thành phẩm để cung cấp cho thị trường thế giới. Một đặc điểm nữa là cung hàng mây tre ra thị trường luôn phụ thuộc vào thời tiết, khí hậu của các nước xuất khẩu (chủ yếu là các nước Châu á) vì đặc điểm lý hoá của các loại sản phẩm này là rất kị thời tiết ẩm, nên về mùa xuân lượng cung thường giảm xuống rất nhiều, khoảng 3 đến 4 lần so với mùa hanh khô. Bảng 1 Kim ngạch hàng song, mây, tre trao đổi hàng năm trên thế giới giai đoạn 1995 - 2000 Năm Tổng kim ngạch trao đổi của thế giới (1.000 USD) Tỷ lệ tăng so với năm trước đó (%) 1995 32.874.258 0,2 1996 32.920.006 0,2 1997 32.965.846 0,2 1998 33.020.964 0,24 1999 33.087.724 0,29 2000 33.173.148 0,37 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000) Trên thế giới, xuất khẩu đồ dùng gia đình bằng song, mây, tre tăng từ 13,58 tỷ USD (năm 1995) lên 15,2 tỷ USD (năm 2000). Các nước và vùng lãnh thổ cung cấp khối lượng đồ dùng gia đình bằng song, mây, tre lớn trên thế giới hiện nay là Inđônêxia, Philippin, Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông. Nhìn chung trong những năm tới, cung sẽ tăng mạnh vì các nước có nguồn nguyên liệu song, mây, tre đang có chính sách khuyến khích sản xuất, mở rộng đầu tư ngành hàng này do lợi nhuận mà ngành hàng này đem lại không nhỏ. Mặt khác, cung tăng cũng là để đáp ứn nhu cầu ngày càng cao về mặt hàng này.. Cầu về hàng song, mây, tre: Có thể nói, các sản phẩm bằng song, mây, tre đang dần trở thành “mốt” trên thế giới. Người tiêu dùng đã quá nhàm chán với những bộ bàn ghế bằng kim loại, gỗ... có kích thước lớn và thô, trong khi đó họ lại tìm thấy sự mảnh mai, thanh thoát và cũng rất sang trọng ở những bộ bàn ghế tạo ra từ song, mây, rồi còn rất nhiều sản phẩm khác lấy nguyên liệu từ song, mây, tre đang chiếm một vị trí nhất định trong nhu cầu của người tiêu dùng. Thực tế cho thấy khi mức sống ngày càng tăng lên, nhu cầu về mặt vật chất được đáp ứng tương đối đầy đủ thì nhu cầu về tinh thần cũng tăng lên và đòi hỏi được đáp ứng. Đó là dấu hiệu lạc quan cho thị trường hàng song, mây, tre xuất khẩu. ở những nước công nghiệp phát triển, ngoài thời gian làm việc công sở, người dân có xu hướng dành nhiều thời gian để tìm hiểu nền văn hóa các nước, họ muốn thỏa mãn nhu cầu được thưởng thức những nét văn hóa truyền thống của các dân tộc khác, quốc gia khác. Mặt khác, ngành sản xuất hàng song, mây, tre đang dần thoát khỏi trình độ sản xuất thủ công, chuyển sang sản xuất bằng máy móc đã tạo ra nhiều sản phẩm song, mây, tre bền đẹp, tinh xảo, mẫu mã phong phú ngày càng hấp dẫn người tiêu dùng. Chính vì thế, nhu cầu về hàng song, mây, tre đang tăng lên nhanh chóng, không chỉ ở các nước có tập quán sử dụng đồ dùng song, mây, tre truyền thống mà cả ở những nước mới biết đến mặt hàng này. Điều đó cho thấy nhu cầu về sử dụng mặt hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng. Điểm qua kim ngạch trao đổi hàng song, mây, tre trên thị trường thế giới những năm gần đây (Bảng 1) đã cho thấy rõ điều đó. Ngoài mức tăng về số lượng, nhu cầu về hàng song, mây, tre cũng rất đa dạng, các sản phẩm có kiểu dáng đơn điệu ở dạng thô như hiện nay đã không được người tiêu dùng ưa chuộng. Dự báo trong thời gian tới, những sản phẩm bền, đẹp, gọn nhẹ, và tiện lợi trong sử dụng sẽ có nhu cầu cao nhất. Đó là những sản phẩm như: Đồ nội thất (giường, tủ, bàn ghế, v.v ...), đồ dùng gia đình (giỏ, mành...) và đặc biệt là các sản phẩm mang tính trang trí như: tranh nghệ thuật, bình hoa mây... Ngoài ra, những chuyển biến về tiêu dùng hàng mây tre còn phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau như dân số, giá cả thế giới và thu nhập quốc dân ở từng quốc gia. Do đó cơ cấu tiêu dùng mặt hàng này còn chưa đồng đều nếu như không nói rằng vẫn còn khoảng chênh lệch đáng kể giữa các nước, các châu lục với nhau. Tuy nhiên những khoảng cách này đang được thu hẹp dần, kéo theo sự tăng lớn về nhu cầu. Trong khi đó, cung (như đã trình bày ở trên) lại tăng rất chậm. Theo các chuyên gia trong ngành dự báo cung cầu trong 10 năm tới có thể sẽ mất cân đối gay gắt hơn, mức giá của phần lớn sản phẩm song, mây, tre sẽ cao hơn hiện nay. Điều đó sẽ kích thích các nước xuất khẩu gia tăng sản lượng nhằm đáp ứng nhu cầu của các nước nhập khẩu mặt hàng này. * Các nước và lãnh thổ xuất khẩu hàng song, mây, tre chính trên thế giới Trên thế giới các nước và lãnh thổ xuất khẩu hàng song, mây, tre tập trung hầu hết ở Châu á, trong đó có một số các quốc gia đáng chú ý như: Inđônêxia, Malayxia, Singapo, Philippin, ấn Độ, Trung Quốc ... Giữa các nước này tỷ lệ thị trường chiếm giữ là khá đồng đều. Dưới đây là kim ngạch xuất khẩu hàng song, mây, tre ở một số nước trên thế giới, xếp theo thứ tự từ các nước xuất khẩu nhiều đến các nước xuất khẩu ít. Bảng 2: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng song, mây, tre trên thế giới ( Đơn vị: 1.000 USD) TT Nước và lãnh thổ xuất khẩu 1995 1996 1997 1999 Kim ngạch Tỷ trọng(%) 1 Inđônêxia 3.890.543 3.901.825 3.916.263 3.928.216 16,09 2 Malaysia 3.568.254 3.578.597 3.591.838 3.601.574 15,48 3 Thái Lan 2.923.662 2.932.140 2.942.989 2.954.232 12,70 4 Philippin 2.647.410 2.655.093 2.664.911 2.676.942 11,51 5 ấn Độ 2.371.159 2.378.035 2.386.833 2.390.756 10,28 6 Trung Quốc 2.302.096 2.308.772 2.317.318 2.326.536 10,00 7 Đài Loan 1.657.509 1.662.315 1.668.467 1.672.861 7,19 8 Singapo 1.473.341 1.477.614 1.493.080 1.488.282 6,40 9 Hồng Kông 1.289.173 1.292.912 1.297.695 1.301.216 5,59 10 Việt Nam 22.497 25.163 33.722 39.876 0,17 11 Các nước khác 897.817 900.421 903.754 873.760 3,75 12 Tổng 23.020.964 23.087.724 23.173.148 23.254.253 100 (Nguồn: Niên giám thống kê 2000 - Bộ Thương Mại) Từ bảng trên có thể rút ra hai nhận xét: Thứ nhất : Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu song, mây, tre của từng nước và từng trong tổng kim ngạch xuất khẩu tòan thế giới trong 5 năm qua gần như không đổi. Nước và lãnh thổ xuất khẩu Tỷ trọng (%) Nước và lãnh thổ xuất khẩu Tỷ trọng (%) Inđônêsia 16,9 Trung Quốc 10 Malaysia 15,5 Đài Loan 7,2 Thái Lan 12,7 Singapore 6,4 Philippin 11,5 Hồng Kông 5,6 ấn Độ 10,3 Các nước khác 3,9 Khoảng cách giữa các nước đứng đầu là rất xít xao, chắc chắn trong những năm tới sẽ có cạnh tranh gay gắt để tìm và chiếm lĩnh thị trường. Thứ hai: Kim ngạch xuất khẩu của mỗi nước tăng lên rất đều đặn, không hề có sự tăng giảm đột biến nào. Điều này chứng tỏ là cung mặt hàng này trên thế giới là rất ổn định. Tuy khá đồng đều về lượng kim ngạch, nhưng mỗi nước lại có đặc điểm riêng về nhóm hàng xuất khẩu của mình. Inđônêxia là nước có nguồn nguyên liệu rất dồi dào nên mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu, trong đó xuất khẩu song, mây, tre chiếm phần lớn. Inđônêxia xuất khẩu song, mây, tre sơ chế và bán thành phẩm nhiều nhất là sang Hồng Kông sau đó là Đài Loan, Singapore và xuất khẩu thành phẩm sang Nhật Bản. Từ năm 1990 đến nay Inđônêxia xuất khẩu sang Hồng Kông từ 30 - 40% nguyên liệu sơ chế, từ 80- 85% thành phẩm sang Nhật Bản. Tuy có trữ lượng song mây chiếm khoảng 75% toàn thế giới nhưng trong xuất khẩu ở dạng thành phẩm thì Indônêxia lại kém hơn các nước và lãnh thổ khác như: Singapore, Đài Loan, Hồng Kông là những nước có nguồn nguyên liệu song mây ít hơn (chủ yếu là nhập khẩu nguồn nguyên liệu từ Indônêxia). Mấy năm gần đây, khi Inđônêxia có chủ trương cấm xuất khẩu song mây từ nguyên liệu thì ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm song mây tre xuất khẩu mới có điều kiện phát triển. Malaysia là nước có giai đoạn phát triển ngành công nghiệp chế biến song, mây, tre cũng tương tự như Inđônêxia (chủ yếu đi lên từ xuất khẩu nguyên liệu và bán thành phẩm). Thái Lan là nước xuất khẩu hàng mây tre dưới dạng đồ dùng gia đình. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Thái Lan tăng rất nhanh, từ 1,103 tỷ USD năm 1991 lên đến 1,573 tỷ USD năm 1995 (tức là tăng 42,6%). Có thể nói ngành xuất khẩu sản phẩm bằng mây tre của Thái Lan đầy triển vọng. Philippin: Theo trung tâm thông tin về song mây (RIC) đặt tại Malaysia thì hàng năm Philippin có thể khai thác được khoảng 40 - 57 triệu mét song mây, với khối lượng từ 7.000 đến 10 nghìn tấn. Tuy trữ lượng này không nhiều lắm nhưng nước này lại có công nghệ chế biến tiến bộ. Xuất khẩu đồ dùng gia đình của Philippine tăng từ 925 triệu USD năm 1991 lên 1,25 tỷ USD năm 1995 (tức là tăng 32,4%). ấn Độ và Trung Quốc là hai quốc gia chủ yếu xuất khẩu bán thành phẩm và thành phẩm. Còn Đài Loan và Hồng Kông là lãnh thổ chuyên nhập khẩu nguyên liệu (thường nhập của Inđônêxia) về nước mình để sản xuất ra sản phẩm rồi xuất khẩu đi các nước trên thế giới. Về chính sách đối với ngành song, mây, tre hầu như tất cả các nước trên đều đã có luật cấm xuất khẩu nguyên liệu, một số nước hiện nay còn cấm xuất khẩu và bán thành phẩm (như Inđônêxia, Malaysia) việc quản lý khai thác nguyên liệu cũng rất chặt chẽ, ví dụ như ở Philippin giấy phép khai thác do cục tài nguyên và môi trường cấp, còn ở Hồng Kông thì do cục Lâm Nghiệp Hoàng Gia cấp v.v ... Ngoài ra các nước này còn tổ chức điều tra, kiểm kê tài nguyên mây tre trên qui mô toàn quốc để đánh giá trữ lượng và hoạch định kế hoạch khai thác hàng năm. Bên cạnh đó, các nước đều có kế hoạch đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu song, mây, tre sản xuất chế biến nội địa cũng được Chính Phủ Inđônêxia, Malaysia, Philippin ... khuyến khích, trong những năm tới các nước này ra sức phấn đấu đạt 100% xuất khẩu thành phẩm. 1.3.3.2 Tiềm năng nguyên liệu và tình hình sản xuất hàng song, mây, tre ở Việt Nam * Tiềm năng nguyên liệu Như đã biết: Cây song, mây là loại cây leo được phát triển tự nhiên ở những khu rừng nhiệt đới có mưa nhiều. Do đó với ưu thế về rừng chiếm 40% diện tích toàn lãnh thổ, đã tạo cho Việt Nam có một trữ lượng đáng kể về các loại cây. Song, mây, tre, nứa, mai, v.v... Được bắt đầu từ các tỉnh phía Bắc trải dài dọc Trường Sơn, chạy vào phía nam, đâu đâu cũng có thể tìm thấy cây song, mây, tre. ở Việt Nam có đủ 5 dòng họ song mây, trong đó có tới 145 loại, chủ yếu là giống song mây calamus, hasces ... mà đã quen gọi là song hèo, song bột, song đá, song cát, mây nước, mây rút... Nguồn nguyên liệu này được tập trung nhiều ở các tỉnh Lai Châu, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Nghệ An, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam- Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hoà, Tây Nguyên... ngoài ra còn một số khu vực trồng vườn như Hưng Yên, Thái Bình. Đến nay, tuy chưa có tài liệu công bố chính thức về trữ lượng song, mây, tre ở Việt Nam nhưng theo số liệu của Bộ Thương mại thì tình hình xuất khẩu song mây sơ chế của Việt Nam riêng năm 1991 là 50.542 tấn trị giá khoảng 20 triệu USD tuy số liệu này chưa nói lên được tình hình thực (vì còn rất nhiều tổ chức, cá nhân xuất khẩu tiểu ngạch mà Việt Nam chưa kiểm soát được) nhưng đã phần nào nói lên được tiềm năng về nguyên liệu song, mây, tre của Việt Nam là rất lớn. * Tình hình sản xuất và chế biến hàng song, mây, tre xuất khẩu Việt Nam là nước nông nghiệp nhiệt đới có hơn 70% lao động là nông dân. Ngay từ xưa người dân Việt Nam đã biết sử dụng các nguyên liệu từ song, mây, tre để làm ra các đồ vật như rổ, rá, bàn, ghế,v.v... Ngày nay, qua nhiều thế hệ những người lao động Việt Nam đã tạo ra được nhiều sản phẩm tinh xảo có thẩm mỹ cao từ vật dụng thông thường trong đời sống sinh hoạt hàng ngày như: túi xách, giỏ, làn, bàn, ghế, giường, tủ... đến các tác phẩm nghệ thuật được mô phỏng theo các danh họa nổi tiếng trên thế giới như các bức tranh bằng mành, các loại mành tre treo tường, ảnh chân dung v.v... Cùng với khả năng lao động dồi dào, nhàn rỗi (vì sản xuất chế biến hàng mây tre đan cho đến nay vẫn là nghề phụ của nhà nông) ngoài ra Việt Nam còn có nguồn nguyên liệu dồi dào rất đa dạng như song, mây, tre, nứa, lá cọ ... ở khắp mọi nơi mà hầu như không cần chuyên canh chăm bón. Việc tổ chức sản xuất hàng song mây tre đan để xuất khẩu được phát huy cao độ trong những năm gần đây (nhất là từ sau đại hội lần thứ 7 của Đảng). Do đặc thù là một nước có nền sản xuất nhỏ, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, nên mạng lưới sản xuất hàng mây tre xuất khẩu ở Việt Nam được phân bổ rộng khắp các địa phương trong cả nước. Mạng lưới sản xuất này được tập trung vào hai loại hình sản xuất cơ bản đó là cơ sở sản xuất chuyên nghiệp thường tập trung ở các thành phố, thị xã, thứ hai là các cơ sở sản xuất dưới dạng hợp tác xã nông nghiệp (sản xuất theo bộ phận, lấy hộ gia đình làm cơ sở) hoặc ở từng vùng, từng làng xã có nghề truyền thống. Cũng do tính chất về nguyên liệu và điều kiện về khí hậu của Việt Nam, cùng với yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng hàng hoá của thị trường thế giới, nên việc sản xuất công nghiệp mặt hàng này phải được thực hiện theo một qui trình chặt chẽ kể từ khi khai thác, chế biến đến khâu sản xuất hoàn chỉnh để đóng gói bao bì... Để hạn chế sự thay đổi màu sắc, sự phá hoại của côn trùng đối với sản phẩm hàng hoá. Thí dụ: Đối với tre, nứa, song mây các loại không thể tuỳ tiện khai thác lúc nào cũng được vì vào những tháng đầu xuân, lượng glucô trong cây rất lớn, độ ẩm lại cao, khó phơi khô nên dễ bị côn trùng và mốc phát triển làm cho nguyên liệu, hàng hoá hay bị hỏng. Hay đối với cây Đót làm chổi lại chỉ thu hoạch vào những tháng giáp tết Nguyên Đán, vì nếu khai thác sớm hơn Đót sẽ bị non không thể làm chổi được, ngược lại nếu để ra giêng mới khai thác Đót sẽ bị già làm chổi sẽ bị giòn, dễ gẫy. Sau khi khai thác xong, nguyên liệu phải được phơi khô, sơ chế và xử lý chống mối mọt, chống mốc ngay, nếu không nguyên liệu sẽ hỏng hoặc kém phẩm chất sẽ không thể dùng vào làm hàng xuất khẩu được. Tiếp đó được các nghệ nhân và các thợ thủ công làm thành các sản phẩm. Sau khi tổ chức sản xuất lại giao sản phẩm làm ra cho các đơn vị, tổ chức có thẩm quyền xuất. Cách làm này đã hạn chế phần nào năng lực sản xuất của Việt Nam, làm xuất hiện tình trạng ỷ lại (vì sẵn thị trường, sẵn mẫu mã) không chịu tư duy tìm kiếm thị trường mới, khai thác mẫu mã mới. Tuy Việt Nam cũng là nước xuất khẩu hàng song, mây, tre nhưng kim ngạch xuất khẩu còn quá nhỏ so với các nước khác, chỉ đạt khoảng 0,15% kim ngạch của thế giới. Việt Nam cũng có chính sách khuyến khích xuất khẩu mặt hàng này (Hỗ trợ cung cấp các kênh thông tin và thị trường cho các doanh nghiệp), nhưng lại chưa tạo điều kiện thuận lợi và đầu tư thích đáng để phát triển thành ngành công nghiệp sản xuất song, mây, tre. So với các nước trong khu vực tiềm năng của Việt Nam là không nhỏ nên cần phải áp dụng các biện pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng song, mây, tre tăng nhanh kim ngạch, để không dừng lại ở mức sau. Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng song, mây, tre của Việt Nam (Đơn vị tính: 1.000 USD) Năm 2000 2001 2002 2003 Tổng Tổng kim ngạch 38.82 40.497 43.163 46.72 297.4 (Nguồn: Niên giám thống kê 2004) Tóm lại, qua một số vấn đề lý luận chung trên đây cho ta thấy rõ hơn về xuất khẩu và những hoạt động của doanh nghiệp thương mại, cũng như những thuận lợi và khó khăn trong xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam khi ra nhập WTO. Chương một còn đề cập đến những thuậnlợi và khó khăn về đặc điểm sản xuất và chế biến hàng song, mây, tre của Việt Nam. Nước ta có nhiều thuận lợi như: có nguồn lao động dồi dào và rẻ, có nhiều đức tính tốt phù hợp với ngành nghề thủ công truyền thống này; có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm là môi trường thích hợp với sự phát triển của cây song, mây, tre vì vậy mà hầu hết các các địa phương trong cả nước đều có thể trồng được cây nguyên liệu này; công cụ sản xuất đơn giản dễ chế tạo nên ai cũng có thể sử dụng. Song song với những thuận lợi kể trên, ngành xuất khẩu hàng song, mây, tre cũng gặp phải những khó khăn như: Việt Nam chưa có chiến lược lâu dài cho việc phát triển ngành hàng song mây tre xuất khẩu, chưa thấy hết được ý nghĩa xã hội trong việc phát triển ngành hàng sẽ tạo ra công ăn việc làm cho hàng triệu lao động và thu về cho Nhà nước một lượng ngoại tệ đáng kể. Ngoài ra Việt Nam còn gặp những khó khăn về khí hậu, nguồn nguyên liệu, công cụ sản xuất , những khó khăn này cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu song, mây, tre của Việt Nam. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam nói trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu của công ty Đông Nam á, vấn đề này sẽ được trình bày cụ thể trong chương hai. Chương 2 Tình hình xuất khẩu hàng song, mây, tre tại công ty đông Nam á 2.1 Vài nét khái quát về công ty TNHH Đông Nam á 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty Công ty trách nhiệm hữu hạn Đông Nam á là công ty xuất khẩu hàng song, mây, tre có tên giao dịch quốc tế là: South East Asia company limited. Công ty được thành lập ngày 1/10/2000 theo quyết định của Bộ Thương Mại, có văn phòng đại diện tại Phòng 502-610, Toà nhà CFM, 23 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội. Năm 2000 công ty bắt đầu đi vào hoạt động với nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo của ban giám đốc, công ty đã có những bước phát triển đáng kể. Năm 2001 công ty có những khách hàng đầu tiên, năm 2002 đi dần vào ổn định. Đến năm 2003 kim ngạch xuất khẩu của công ty đã đạt xấp xỉ 400,000USD, xuất khẩu sang 11 thị trường với 8 quốc gia trên thế giới. Ban đầu công ty có khoảng 15 cán bộ công nhân viên với 3 cơ sở sản xuất, 1 văn phòng đại diện tại Phòng 502- 610, Toà nhà CFM, 23 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội và 1 văn phòng đại diện tại TP - Hồ Chí Minh. Công ty có vốn pháp định là 5tỷ VNĐ. Có tài khoản tiền Việt và ngoại tệ tại các ngân hàng khác nhau để đa dạng hóa các hoạt động giao dịch như: Vietcombank, Techcombank, ACB, Habubank. Đến nay, công ty đã có đội ngũ cán bộ công nhân viên đông đảo, có trình độ cao đẳng, đại học với các cơ sở sản xuất tại 3 làng nghề ở Hà Tây, Hưng Yên, Nam Định. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty và chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận. Sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty Đông Nam á P.Kinh Doanh 1 P.Kinh Danh 2 P. Tổ Chức P.Kế Hoạch Phó Giám Đốc Giám Đốc P. Giới thiệu sản phẩm P.Kế Tóan Tài Chính * Quyền hạn của công ty Được quyền ký kết hợp đồng kinh tế với tất cả các tổ chức và cá nhân trong nước và quốc tế, mở rộng văn phòng đại diện của mình ở tất cả các nước trên thế giới đã có thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, mở đại lý, cửa hàng bán buôn, bán lẻ các mặt hàng sản xuất trong nước và ngoài nước. Được quyền bổ nhiệm, điều động, khen thưởng, kỷ luật cán bộ công nhân viên trong công ty. Tổ chức doanh nghiệp theo hình thức công ty kinh doanh hạch toán độc lập, có con dấu công ty. * Ban giám đốc Xuất phát từ quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ và qui mô hoạt động của mình, công ty đã xây dựng bộ máy quản lý gồm: 1 giám đốc và 1 phó giám đốc. Giám đốc: là người quản lý điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm trước pháp luật, các cán bộ công nhân viên về mọi mặt hoạt động của công ty quản lý. Một phó giám đốc công ty là người giúp việc và tham mưu cho giám đốc trong lĩnh vực được phân công. * Các phòng ban và đơn vị trực thuộc. Phòng tổ chức: Xây dựng và lựa chọn mô hình tổ chức lao động sao cho phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh xuất khẩu của công ty với phương châm gọn nhẹ, hiệu quả và khoa học. Thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng cán bộ, sử dụng cán bộ đúng năng lực, đúng chuyên môn, xây dựng kế hoạch tiền lương, tiền thưởng, lựa chọn phương thức trả lương ngoài ra còn làm công tác chính sách xã hội. Có trách nhiệm tổ chức công tác hành chính quản trị, đối nội và đối ngoại, mua sắm các trang thiết bị văn phòng, tổ chức bố trí nơi làm việc, phòng họp, phòng hội thảo... Quản lý và điều hành đội xe phục vụ cho hoạt động của công ty. Bảo vệ, quản lý người ra vào công ty, quản lý vật tư tài sản của công ty trong và ngoài giờ làm việc. Phòng kế toán - tài chính: Có trách nhiệm quản lý tiền vốn, bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh, xây dựng kế hoạch tài chính, hạch toán giá thành, hàng tháng, hàng quí, hàng năm phải lập báo cáo định kỳ, lên bảng cân đối tài sản, lập kế hoạch thu chi trên cơ sở các hợp đồng kinh tế đã được thực hiện. Phòng kế hoạch: Đây là phòng trung tâm của công ty, quyết định sự tồn tại của công ty, có trách nhiệm tham mưu cho giám đốc trong công tác thị trường. Phát triển thị trường cũ xây dựng thị trường mới, giúp giám đốc tiếp đón, đàm phán, ký kết các hợp đồng kinh tế với các đoàn khách trong và ngoài nước. Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho toàn công ty, xây dựng chiến lược lâu dài, phát triển ngành hàng, mở rộng lĩnh vực kinh doanh, thu mua hàng từ nơi sản xuất. Phòng kinh doanh 1: Chuyên kinh doanh xuất khẩu hàng mây, tre đan.._.mây, tre công ty Đông Nam á chủ yếu xuất khẩu theo hình thức xuất khẩu trực tiếp. 3.2.2 Mục tiêu của công ty trong thời gian tới Căn cứ vào khả năng thực hiện kế hoặch năm 2005, căn cứ vào tình hình thị trường hiện nay, công ty có dự kiến chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu giai đoạn tới như sau: trong thời gian tới mục tiêu chính của công ty là đảm bảo doanh thu phát triển bình quân hàng năm là 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng ổn định ở mức 15%/năm. Mặt khác, giảm tỷ suất chi phí xuống còn từ 1,0- 1,2% nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn. Bên cạnh đó, một mục tiêu khác mà công ty coi trọng đó là nâng cao đời sống cho công nhân viên, dự kiến thu nhập bình quân của công nhân viên trong những năm tới là 1,4triệuđ - 1,5triệuđ/tháng. Để thực hiện mục tiêu trên, biện pháp cụ thể của công ty trong giai đoạn tới là: Duy trì và ngăn chặn không để bất kỳ một trường hợp nào bị thua lỗ. Duy trì và phát triển nội lực của công ty, sử dụng hợp lý, hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Tìm kiếm, mở rộng thị trường mới trên cơ sở duy trì và phát triển thị trường cũ. Đảm bảo và từng bước nâng cao đời sống cho người lao động. Một mục tiêu không kém phần quan trọng của công ty trong giai đoạn tới là thúc đẩy và hoàn thiện tiến trình cổ phần hóa thành công ty cổ phần. 3.2.3 Các giải pháp về phía công ty 3.2.3.1 Các giải pháp thuộc về sản xuất, gia công chế biến Để tăng sức cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu hàng song, mây, tre, công ty Đông Nam á cần tổ chức các mặt hàng phong phú về mẫu mã, chủng loại cũng như chất liệu, cần đưa nhiều hàm lượng chất xám vào trong sản phẩm để tăng tính hấp dẫn, đáp ứng được thị hiếu khách hàng và nhu cầu thị trường. Qua đó làm cho các sản phẩm xuất khẩu của công ty mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo của Việt Nam. Đây là yếu tố cần thiết để các sản phẩm của công ty Đông Nam á có tính khác biệt, tạo ra lợi thế so sánh với các sản phẩm từ những nước khác. Bên cạnh đó, công ty cũng cần chú ý đến độ chau chuốt, đồng đều, vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như khả năng chống mối mọt, cong vênh... của sản phẩm. Công ty cũng rất chú trọng tới vấn đề an toàn cho những mặt hàng sử dụng để đựng thực phẩm như: giỏ, làn đựng hoa quả.. Muốn làm được điều đó, doanh nghiệp cần thường xuyên tổ chức đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động, tiếp thu các công nghệ, kỹ thuật mới. Mặt khác, công ty cũng cần tăng cường hợp tác với các làng nghề, liên kết, ký kết các hợp đồng mua nguyên liệu với các cơ sở cung cấp nguyên liệu. Tổ chức quản lý sản xuất tốt kết hợp tiết kiệm chi phí sản xuất sẽ giúp cho công ty hạ giá thành sản phẩm để từ đó, hàng song, mây, tre của công ty Đông Nam á mới có giá cả cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. Có như vậy, công ty mới đẩy mạnh xuất khẩu, tiết kiệm được chi phí đồng thời nâng cao được hiệu quả xuất khẩu hàng song, mây, tre. Khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, doanh nghiệp cần năng động tìm kiếm các nguồn đầu tư mới, mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường cũng như xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn. Việc đầu tư máy móc, thiết bị sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động cần được cân nhắc kỹ để tránh mất đi tính hấp dẫn tự nhiên của sản phẩm. Các doanh nghiệp sản xuất cũng cần phải tạo ra sự liên kết chặt chẽ tạo ra quy mô sản xuất lớn hơn. Nó sẽ ảnh hưởng đến việc sản xuất gia công hàng song, mây, tre. Ngoài ra, việc sản xuất gia công hàng song, mây, tre luôn gắn với nguồn nguyên liệu để sản xuất ra chúng. Việc khai thác các nguồn tài nguyên một cách ồ ạt dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn nguyên liệu như song, mây, lá buông...để doanh nghiệp có thể chủ động nguồn nguyên liệu trong sản xuất, ngoài trách nhiệm của nhà nước ra, về phía doanh nghiệp, cần chủ động tìm kiếm nguồn nguyên liệu mới, góp phần đa dạng hóa các sản phẩm, đảm bảo cho việc sản xuất diễn ra liên tục và ổn định. Muốn nâng cao được hiệu quả xuất khẩu, ngoài những biện pháp trên doanh nghiệp cũng cần phải chú ý đến môi trường xung quanh. Vì trong quá trình sản xuất tạo những chất thải không tốt cho môi trường và dân cư sinh sống quanh đó, như các hóa chất chống mối mọt cho mây tre, chất tẩy trắng, chất nhuộm màu cho sản phẩm... nên phải có các biện pháp xử lý những chất độc hại trước khi thải ra môi trường. Có làm được điều này thì sản xuất mới lâu dài, khi đó mới có thể nâng cao hiệu quả xuất khẩu được. * Công nghiệp hóa, cơ giới hóa một số khâu để hạ giá thành Không giống như các ngành nghề khác, hàng song, mây, tre sử dụng hình thức lao động thủ công là chính, ít sử dụng máy móc thiết bị. Vì vậy mà giá thành hiện nay là chưa hợp lý đối với khách hàng. Các doanh nghiệp cần phối hợp giữa việc sử dụng lao động thủ công để hạ giá thành sản phẩm. Để đáp ứng yêu cầu này, vừa qua công ty cũng đã cho mua một số loại máy móc dùng trong sản xuất các sản phẩm song, mây, tre như: máy cưa, máy mài nhẵn, máy đánh bóng, máy sơn, máy hấp để chống mối mọt mây, tre... Các loại máy này đã thực sự giúp ích cho các công nhân trong quá trình sản xuất, từ đó đã tăng năng suất lao động lên nhiều lần đồng thời giảm giá thành sản phẩm. 3.2.3.2 Các giải pháp khác * Giải pháp về nguồn lực: Đây là một vấn đề được đặt lên hàng đầu. Giải pháp để công ty nâng cao năng lực chuyên môn của từng nhân viên là: mở các lớp, khóa đào tạo nghiệp vụ cho nhân viên các phòng ban, có chế độ bồi dưỡng để khuyến khích nhân viên theo học. Tổ chức các lớp bồi dưỡng về lý thuyết và kinh nghiệm hoạt động trong nền kinh tế thị trường: các hoạt động Marketing, những hoạt động xúc tiến thương mại, các chiến lược tiếp thị quảng bá, quảng cáo sản phẩm của mình ra thế giới. Mặt khác, công ty vẫn tiếp tục tuyển những người có năng lực làm việc thông qua việc thi tuyển khắt khe có thời gian thử việc để tìm hiểu năng lực. * Kết hợp sản xuất, xuất khẩu, thuê thiết kế mẫu. Công ty đã đầu tư cho sản xuất như: Đầu tư một số máy móc kết hợp sản xuất thủ công nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả, giảm giá thành. Đi sâu vào nghiên cứu chuẩn hóa quy trình sản xuất và kiểm tra chất lượng sản phẩm. Khôi phục và phát triển các làng nghề, phường thợ. Hỗ trợ các cơ sở sản xuất trong việc phát triển sản xuất, mặt bằng và xử lý bảo quản thành phẩm. Đầu tư cho xuất khẩu như: Để làm tốt vai trò của mình vừa là hỗ trợ sản xuất vừa tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu, công ty cần có sự kết hợp giữa sản xuất và xuất khẩu. Nếu làm được điều này thì doanh nghiệp chính là chiếc cầu nối giúp sản xuất và xuất khẩu hàng song, mây, tre phát triển. Qua việc tìm hiểu nhu cầu thị trường, thị hiếu và thói quen tiêu dùng của những nước nhập khẩu hàng song, mây, tre mà công ty có thể có những tác động trở lại người sản xuất, có cơ hội để tổ chức sản xuất trên nhiều phương diện. Ngoài ra, công ty còn tạo ra nguồn hàng có chất lượng ổn định đáp ứng những yêu cầu về mẫu mã và chủng loại. Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có hiệu qủa hay không phụ thuộc vào chỉ tiêu lợi nhuận trong kinh doanh xuất khẩu hàng song, mây, tre công ty thu lợi nhuận ở cả hai nguồn đó là sản xuất và xuất khẩu, thu được lợi nhuận cao tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và đóng vai góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng song, mây, tre của cả nước là nghĩa vụ của hầu hết các doanh nghiệp . Thiết kế mẫu mã: nghiên cứu đề ra những tiêu chuẩn kỹ thuật và biện pháp đối với việc xử lý các nguyên liệu sản xuất đảm bảo cho hàng hóa xuất khẩu đạt chất lượng cao. Thực hiện chế thử và lập quy trình sản xuất hàng loạt theo mẫu hoặc theo thiết kế của khách hàng. Sưu tầm nghiên cứu thị hiếu khách hàng để thiết kế mẫu sao cho phù hợp với điều kiện sản xuất theo nhu cầu của thị trường. Từ đó, công ty có thể định hướng tiêu dùng cho khách hàng, hướng khách hàng tới những sản phẩm thân thiện với môi trường (không độc hại). Giải quyết chế độ bản quyền cho các đơn vị sản xuất, đăng ký bản quyền đối với các mẫu mã do công ty đặt ra cho các cơ sở sản xuất thử thành công. Tổ chức trưng bày các sản phẩm mẫu mã hòan thiện, có hệ thống để giới thiệu, quảng cáo và ký kết, xuất khẩu tại chỗ. Tổ chức thu mua đóng gói bao bì và giao hàng: Tổ chức thu mua hàng hóa tại các cơ sở sản xuất để đóng gói và giao hàng đối với các hợp đồng yêu cầu chất lượng cao, giá trị hàng hóa lớn, đặc biệt giao hàng bằng container cho các thương nhân lớn như Nhật Bản, EU... Kết hợp hoạt động công tác kinh doanh của các đơn vị trong lĩnh vực xuất khẩu với việc tổ chức sản xuất, mở rộng quan hệ giao dịch, tăng thêm thu nhập cho các đơn vị kinh doanh. Tuân thủ mọi quy chế quản lý kinh tế của nhà nước và các quy định khác của công ty mình. Qua việc tìm hiểu về nhu cầu thị trường, thị hiếu và thói quen tiêu dùng của những nước nhập khẩu hàng song, mây, tre, công ty nên nghiên cứu việc thuê người nước ngoài, đặc biệt là Việt kiều thiết kế mẫu mã. Việc thuê người nước ngoài hay Việt kiều thiết kế mẫu mã giúp cho công ty rất lớn trong việc định hứơng mẫu mã sản phẩm. Vì những người thiết kế đó họ sống ở nước ngoài nên họ hiểu về con người và thị hiếu của nước họ hơn nhiều, họ có thể thiết kế ra những sản phẩm độc đáo phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng nơi đây hơn. Công ty có thể thương lượng tiền thiết kế được tính tiền vào bán sản phẩm theo tỷ lệ %. Nếu bán được nhà sản xuất sẽ trích tỷ lệ % trả cho nhà thiết kế. Do nắm bắt được thị hiếu hàng năm, từng quý của thị trường, nhà thiết kế sẽ giúp ích không nhỏ cho nhà sản xuất. Nhà sản xuất cũng không thiệt vì chỉ phải trả tiền hiết kế khi bán được sản phẩm. * Tổ chức công tác nghiên cứu thị trường Trong những năm gần đây, tình hình thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng song, mây, tre cũng có nhiều chuyển biến khả quan, sản phẩm của công ty đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên ở các thị trường này sản phẩm của công ty chỉ chiếm một phần rất nhỏ bé, những thị trường có triển vọng thị chưa được quan tâm khai thác đúng mực. Lượng hàng xuất khẩu vào từng khu vực cũng khá khiêm tốn so với lượng hàng xuất khẩu của các nước trong khu vực như Trung Quốc.Vậy nên công ty cần phải nghiên cứu một cách bài bản và kỹ lưỡng hơn, tạo mọi điều kiện cho các công ty nắm bắt được nhu cầu về mặt hàng của thị trường quốc tế, đặc điểm tiêu dùng của từng khu vực để có thế xác định đúng đắn chính sách sản phẩm, xu hướng giá cả xuất khẩu. Công tác nghiên cứu thị trường nói chung, đặc biệt là thị trường xuất khẩu hàng song, mây, tre có nhiều khó khăn phức tạp, đòi hỏi sự quan tâm thường xuyên. Bên cạnh đó công ty cần tập trung làm tốt những công việc sau: Tổ chức việc nghiên cứu, nắm bắt và cung cấp thông tin về thị trường (bao gồm cả thông tin về khách hàng, chất lượng, giá cả hàng hóa, điều kiện mua bán của khách hàng và phương thức mua bán, thị hiếu người tiêu dùng, các chính sách và quy định có liên quan của nước sở tại...). Công ty phải chủ động tổ chức công tác tiếp thị, nắm bắt thông tin theo cách riêng của mình, không thụ động ngồi chờ vào các kênh thông tin từ các cơ quan xúc tiến thương mại.. Tổ chức tham gia có hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại, từ việc chào đón bán hàng, quảng cáo giới thiệu sản phẩm, tham gia các hội chợ triển lãm hàng hóa... đến việc khảo sát thị trường, tìm hiểu nắm bắt được nhu cầu thị trường. Trong hoạt động này có vai trò tổ chức và hỗ trợ của các cơ quan xúc tiến thương mại của chính phủ và phi chính phủ, đồng thời công ty phải năng động tiến hành theo điều kiện và yêu cầu riêng của mình. Tùy theo từng đặc điểm thị trường cần vận dụng hoặc cải tiến phương thức xuất khẩu cho phù hợp để nâng cao hiệu quả xuất khẩu một cách cao nhất. Tăng cường hoạt động Marketing để hòan thiện công tác nghiên cứu mở rộng thị trường xuất khẩu... Ngoài ra, công ty còn sử dụng những công cụ sau để tìm kiếm thêm thị truờng xuất khẩu như: In catalog: có ý nghĩa rất quan trọng đối với khách hàng ở xa bằng việc cung cấp thông tin cần thiết, từ kích cỡ, màu sắc, số lượng, bao gói, giá cả đến hình thức thanh tóan... Catalog có thể gây sự chú ý quan tâm, có tính thuyết phục cao đối với khách hàng trong quá trình lựa chọn các sản phẩm của mình. Tuy nhiên phương thức này cũng nó những nhược điểm là catalog phải được trình bày bằng ngôn ngữ, thành ngữ thông dụng, sao cho các thuật ngữ thương mại quốc tế của thị trường đều phải được sử dụng một cách hợp lý, tránh những hiểu lầm về sản phẩm, về công ty. Hàng mẫu: Phương thức này cũng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của công ty, đặc biệt là đối với các khách hàng xa mà công ty khó có thể tiếp cận thì phương thức này tỏ ra vô cùng hiệu quả, nó cung cấp cho khách hàng sự nhận biết về hình dáng, chất lượng sản phẩm mà không một bức tranh sinh động nào có thể đạt được điều đó. Hàng mẫu giúp cho khách hàng tránh được sự nhầm lẫn về kiểu mẫu, kích cỡ, mẫu mốt và những khía cạnh khác khi đặt hàng. Tuy nhiên nó cũng có một số hạn chế nhỏ, đó là hàng mẫu của mặt hàng này cũng có rất nhiều chủng loại, đa dạng khi làm hàng mẫu gửi đi chào bán thì cũng đòi hỏi một lượng kinh phí lớn đáng kể. Bằng việc nghiên cứu các sản phẩm độc đáo mang những nét đặc trưng riêng có của công ty để giảm bớt chi phí. Công ty nên có ấn phẩm riêng của công ty mình: Phương thức này nhằm cung cấp cho khách hàng một số thông tin cơ bản về doanh nghiệp, nó có phần khác với catalog, nó không đi mô tả cụ thể về chi tiết sản phẩm của doanh nghiệp nhưng nó có thể chứa đựng toàn bộ ý định kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, nó có thể cung cấp cho khách hàng những thông tin cần thiết khi họ có ý định đặt quan hệ làm ăn với doanh nghiệp. Hiện nay, có một hình thức quảng cáo mới về sản phẩm của công ty, hình ảnh của công ty trên toàn thế giới, đó là sử dụng mạng thông tin toàn cầu INTERNET. Nếu công ty lập được trang web riêng thì đó thực sự là sự kết hợp của hai phương thức in catalog và xuất bản những ấn phẩm về công ty từ đó nếu khách hàng có nhu cầu về một loại sản phẩm nào đó thì có thể đặt hàng với công ty ngay trên trang web đó. Đây là một phương thức quảng cáo thực tế, cho biết một cách sinh động về hình ảnh, sản phẩm cũng như về công ty cho toàn thế giới biết, tất cả các thông tin về doanh nghiệp về sản phẩm mới được cập nhật thường xuyên. Phương thức này tỏ ra rất hữu hiệu, vừa tiết kiệm được chi phí đi lại giao dịch, nhanh chóng. Tham gia vào hội chợ triển lãm quốc tế và nước ngoài: Đây là một phương thức quan trọng, nó có thể là tổng hợp tất cả các phương thức trên, qua hội chợ triển lãm, khách hàng sẽ thấy được sản phẩm, tiềm năng của công ty, một khi đã trưng bày được những nét độc đáo của sản phẩm thì có thể thôi thúc được hành động mua hàng của khách hàng hoặc có thể ký kết được hợp đồng mua bán lâu dài với khách. Cũng thông qua các hội chợ triển lãm mà công ty có thế đánh giá được khả năng của mình từ đó rút kinh nghiệm rồi đi đến hình thành ý đồ chiến lược Marketing... * Xây dựng và bảo vệ thương hiệu cho sản phẩm của mình Công ty kinh doanh sản xuất hàng song, mây, tre sau một thời gian hoạt động đã có chỗ đứng trên thị trường thì nên đăng ký thương hiệu ngay để tránh tình trạng mất thương hiệu. Đồng thời các công ty cũng phải đăng ký độc quyền sản phẩm để các đối thủ cạnh tranh không có cơ hội bắt chước sản phẩm của công ty bán trên thị trường. 3.2.3.3 Các biện pháp nhằm thu hút khách hàng * Tạo uy tín với khách hàng Doanh nghiệp có uy tín là doanh nghiệp có vị trí cao và có ấn tượng tốt đối với khách hàng. Uy tín quyết định rất lớn đến sự thành công của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có uy tín lớn thì có nhiều bạn hàng hơn là các doanh nghiệp hàng khác. Tạo uy tín là tạo ra sự tin tưởng về chất lượng sản phẩm, nhiệt tình với mọi công việc của hai bên, đón tiếp khách hàng chu đáo và sẵn sàng chịu trách nhiệm nếu có sai phạm trong quá trình hợp tác. Các biện pháp duy trì và nâng cao uy tín của doanh nhiệp đối với khách hàng có thể nói là: Phát hiện những nhu cầu mới về sản xuất và sản xuất ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Thực hiện đúng các quy định hợp đồng. Liên tục cải tiến và nâng cao chất lượng, hình thức, màu sắc sản phẩm. Coi ý kiến của khách hàng là tiêu chuẩn của quản lý chất lượng sản phẩm. Đặt lợi ích của công ty trong lợi ích chung và lợi ích của khách hàng. Nếu có sai phạm gì trong quá trình thực hiện hợp đồng thì phải sửa chữa ngay để hai bên không ai bị thiệt hại. * Xác lập chính sách giá cả hợp lý Để có một chính sách giá cả hợp lý, cần phải căn cứ vào giá thành của sản xuất, các chi phí liên quan như bao bì, cước vận chuyển, thuế, bảo hiểm... Giá cả của đối thủ cạnh tranh và quan hệ cung - cầu trên thị trường. Tùy theo đặc điểm của từng mặt hàng và từng đối tượng khách hàng để có sự điều chỉnh sao cho hợp lý. * Hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng Để có thể tránh và hạn chế được những rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng công ty nên quản lý khâu thanh toán theo những hướng sau: Nghiên cứu sự biến động về tỷ giá của đồng tiền thanh toán để đảm bảo chắc chắn khi ký kết có thể thêm vào hợp đồng điều kiện thanh toán đảm bảo giá trị thanh toán đồng tiền ổn định, tức là đảm bảo tỷ giá giao ngay trong khi ký kết hợp đồng. Khi ký kết hợp đồng, ngoài việc tìm hiểu kỹ về bên đối tác, còn cần yêu cầu bên đối tác cho biết ngân hàng mở L/C là ngân hàng nào, liệu ngân hàng đó có khả năng thanh toán hay không, để doanh nghiệp có thể nắm chắc được quyền lợi của mình và những điều kiện ràng buộc khác... Cần coi trọng đúng mức công tác kiểm tra giám định hàng hóa xuất khẩu. Việc kiểm tra giám định hàng hóa trước khi xuất khẩu luôn phải được coi trọng, nó là điều kiện tiên quyết đối với hàng hóa trước khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Công việc này có thể do chính công ty đó tự kiểm tra dưới sự giám sát cả bên nhập khẩu. Hoặc có thể do bên nhập khẩu yêu cầu phải có sự giám sát của một số tổ chức trung gian, tổ chức trung gian đó phải có đủ điều kiện, uy tín, để kết quả của mình mang tính khách quan và chính xác... Cần kiểm tra trước khi giao hàng, trước khi xuống tàu để phát hiện ra sai sót không đúng với quy định thì phải bỏ ngay số hàng đó ra khỏi lô hàng. Đảm bảo lô hàng được xuất khẩu theo đúng quy định, giữ chữ tín đối với khách hàng. Mặt khác, đối với các sản phẩm sản xuất nhằm phục vụ cho nhu cầu đựng thức ăn thì công ty luôn chú trọngđến việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Đây là một trongnhững điểm mà khách hàng rất quan tâm. Ngoài những giải pháp trên thì các doanh nghiệp cũng cần phải bổ sung kịp thời và phê bình sửa chữa một cách nghiêm túc những sai sót mà công ty đã, đang và sẽ có thể mắc phải nhằm tránh được những hậu quả đáng tiếc, phải luôn tìm cho mình một hướng đi mới, phù hợp với xu hướng chung của thị trường, của các điều kiện, cơ sở vật chất kỹ thuật của chính công ty mình. 3.2.4 Một số kiến nghị với Nhà nước Để có thể đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu và nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng song, mây, tre theo phương hướng mục tiêu nêu ở trên, ngoài việc tổ chức thực hiện tốt các chính sách biện pháp đã có, đề nghị chính phủ cho sửa đổi bổ sung một số chính sách, biện pháp phù hợp với đặc điểm và ý nghĩa của việc phát triển ngành nghề thuộc nhóm hàng này. 3.2.4.1 Tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các đơn vị sản xuất, xuất khẩu hàng song, mây, tre để thúc đẩy nâng cao tính linh hoạt và khả năng thích ứng nhanh. Khi nói đến sự năng động và linh hoạt là nói đến khả năng thích nghi với sự thay đổi của môi trường ngoài để tự tồn tại và phát triển. Khả năng này sẽ được tăng cường trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh và năng động. Vì vậy, các chính sách giải pháp trong thời gian tới đây là cần tập trung vào việc tạo lập môi trường ấy. Qua đó buộc các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt hàng song, mây, tre phải chú ý đến các vấn đề như: giảm chi phí, tăng năng suất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tự tìm đến lợi thế so sánh trong môi trường lao động. Theo hướng đó cần có một chính sách khuyến khích sự hình thành và phát triển của chủ thể có tính linh hoạt cao, có hình thái tổ chức cho phép ra quyết định nhanh, đảm bảo tín hiệu thị trường không bị lệch lạc 3.2.4.2 Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và có chính sách phù hợp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tích cực. Cơ cấu xuất khẩu được coi là chuyển dịch theo hướng tích cực khi luôn có sự xuất hiện của chủng loại, mẫu mã hàng xuất khẩu mới và các thị trường cũng cần có sự đầu tư. Vì vậy, trong những năm qua, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để khuyến khích đầu tư bao gồm trong cả lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu. Kết hợp với sự thông thoáng của luật doanh nghiệp, những chế độ và chính sách đã phát huy rất tích cực trong việc tạo ra mặt hàng mới và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng dần tỷ trọng của hàng chế biến, chế tạo. Theo Bộ Thương mại những ưu đãi như hiện nay dành cho sản xuất hàng xuất khẩu là tương đối đầy đủ. Vấn đề chính hiện nay là làm sao tăng cường tính minh bạch và tính phổ cập của những ưu đãi này, đồng thời thi hành chúng một cách nhất quán trên thực tế, để không những khó khăn vướng mắc về thủ tục hành chính, về mặt bằng kìm hãm tác dụng tích cực của chúng. Nâng cao kỹ năng xuất khẩu và văn hóa, thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp sản xuất hàng song, mây, tre. Xuất khẩu sẽ không thể tăng trưởng bền vững nếu không lưu ý trau dồi kỹ năng xuất khẩu và văn hóa xuất khẩu. Kỹ năng xuất khẩu tiên tiến gồm có: sàn giao dịch, thương mại điện tử...trong khi văn hóa chứa đựng những nội dung như liên kết ngang, liên kết dọc, liên kết ngược, coi trọng người tiêu dùng và chữ tín trong kinh doanh... Hai mảng này đều là điểm yếu của cơ quan quản lý Nhà nước, thành lập các hiệp hội để liên kết chặt chẽ hơn các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu để các doanh nghiệp có cơ sở trong việc tạo lập các mối quan hệ thuận lợi cho việc phát triển kinh doanh. 3.2.4.3 Chính sách khuyến khích của chính phủ đối với xuất khẩu hàng song, mây, tre Một khu vực xuất khẩu năng động, linh hoạt và hoạt động theo định hướng thị trường rất cần các thể chế tương thích với nó để phát huy hết mặt tích cực và mặt hạn chế tiêu cực. Để hỗ trợ các doanh nghiệp chuẩn bị tốt hành trang, nâng cao năng lực cạnh tranh với các công ty nước ngoài, tạo điều kiện cho hàng song, mây, tre Việt Nam thâm nhập vào các thị trường trên thế giới, đề nghị Chính phủ và Bộ Thương mại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp những vấn đề sau: Cung cấp thông tin về thị trường như: mở webside và tiếp cận các nguồn thông tin có giá trị thương mại ở nước ngoài. Đề nghị Bộ Thương mại cho mở webside riêng của thương vụ để giúp các công ty tiếp cận thị trường và quảng cáo cho hàng song, mây, tre Việt Nam. Thành lập các trung tâm triển lãm, trưng bày sản phẩm ở các trung tâm kinh tế lớn của các nước cho các doanh nghiệp tham gia. Phát triển mạnh các loại hình hỗ trợ cho xuất khẩu: hiện nay các doanh nghiệp đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp thông tin về mọi mặt liên quan đến xuất khẩu cho họ. Thực ra cái mà doanh nghiệp cần không phải là thông tin mà là kết quả của việc phân tích thông tin. Trong tòan cảnh phân tích thị trường và tư vấn kinh doanh còn chưa phát triển, Nhà nước có thể cố gắng làm thay để có thể đáp những nhu cầu bức xúc của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc làm thay đó không thể kéo dài gây tâm lý ỷ lại từ phía doanh nghiệp, tư duy kinh doanh thụ động, chờ đợi thị trường. Biện pháp tốt nhất là có chính sách khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh nhiệm vụ nghiên cứu thị trường và phân tích thông tin, rất cần phát triển thêm các loại hình khác như: dịch vụ giao nhận và thông quan, dịch vụ phân tích tài chính, bao gồm cả phân tích rủi ro về tỷ giá, dịch vụ pháp lý để các doanh nghiệp tham khảo quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu và ký kết hợp đồng xuất khẩu. 3.2.4.4 Các chính sách đối với các làng nghề * Có chính sách khuyến khích với các ngành nghề truyền thống và tôn vinh các nghệ nhân. Vì hàng song, mây, tre có những đặc điểm riêng biệt ngoài những lợi ích như những hàng hóa thông thường khác nó còn truyền bá về hình ảnh con người Việt Nam nên Nhà nước cần có chính sách khuyến khích riêng. Trong những năm gần đây, hoạt động theo cơ chế thị trường đã làm cho các làng nghề truyền thống có sự phân hóa rõ rệt. Chính vì vậy, để phát triển các làng nghề thủ công truyền thống, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các làng nghề như: Nhà nước có các biện pháp và kế hoạch phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ ở các địa phương trong cả nước. Các làng nghề với tư cách là một đơn vị hành chính, một tổ chức làm ăn có tính phường hội cũng cần được Nhà nước hỗ trợ để xử lý những vấn đề cơ sở hạ tầng, môi trường. Có chính sách khuyến khích nhằm tôn vinh những nghệ nhân có tay nghề cao và đóng góp cho sự phát triển văn hóa dân tộc đồng thời mở trường đào tạo nghề cho người mới vào nghề. * Tạo nguồn cung ứng nguyên liệu cho hàng song, mây, tre Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng song, mây, tre khắc phục một số khó khăn trong việc tiếp cận nguồn nguyên liệu thì Nhà nước nên cho áp dụng một số chính sách sau: Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ các dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu phục vụ cho sản xuất song, mây, tre xuất khẩu, tổ chức xây dựng các ngành công nghiệp khai thác và xử lý nguyên liệu để cung cấp cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu như nguyên liệu mây tre... Nguyên liệu được khai thác, xử lý đúng quy trình công nghệ sẽ đảm bảo chất lượng sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh hàng hóa của Việt Nam trên thị trường thế giới. Có như vậy việc sản xuất mới diễn ra liên tục và ổn định, mới đảm bảo được thời gian giao hàng và các đơn đặt hàng sau mới có thể tiếp tục. Làm được điều này đã thúc đẩy được xuất khẩu và không ngừng nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng song, mây, tre. Tóm lại, chương ba đã cho ta thấy một số giải pháp đối với mặt hàng song, mây, tre xuất khẩu tại công ty Đông Nam á. Để đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới, công ty nên áp dụng những giải pháp như : Các giải pháp về gia công chế biến, giải pháp về nguồn lực và khâu thiết kế mẫu đồng thời công ty cũng nên hoàn thiện công tác tổ chức nghiên cứu thị trường và xây dựng thương hiệu đi kèm với các biện pháp thu hút khách hàng. Ngoài ra, khóa luận cũng đưa ra một số kiến nghị với nhà nước như: tạo lập môi trường kinh doanhlành mạnh cho công ty và các chính sách khuyến khích sự phát triển các làng nghề, tôn vinh các nghệ nhân có những đóng góp cho ngành song, mây, tre xuất khẩu. Qua những giải pháp trên đây, hi vọng rằng công ty Đông Nam á sẽ phát huy được những thế mạnh của mình đồng thời khắc phục được những khó khăn để công ty ngày càng phát triển hơn nữa. Kết luận Kể từ ngày thành lập đến nay, sau 7 năm, cùng với các cơ sở sản xuất, công ty Đông Nam á đã tạo ra một cơ cấu hàng hoá phong phú đa dạng và ngày càng phát triển. Đặc biệt với gần 10 cơ sở sản xuất hàng song, mây, tre xuất khẩu nằm rải rác ở miền Bắc, ngành hàng mây tre đã giải quyết được việc làm cho hàng nghìn lao động, tạo công ăn việc làm cho số lượng lớn lao động truyền thống tại các vùng nghề và một số lao động đang dôi thừa trong xã hội. Đạt được kết quả trên đây trước hết là công lao đóng góp to lớn của những người thợ thủ công trong cả nước, những người khai thác nguyên liệu của các cơ sở sản xuất và địa phương đã vượt mọi khó khăn cùng với công ty để tạo ra ngày càng nhiều những sản phẩm có giá trị xuất khẩu cho công ty. Đó cũng là kết quả của sự năng động, sáng tạo và quá trình làm việc đầy trách nhiệm của nhân viên công ty Đông Nam á và các tổ chức kinh doanh ngành hàng mây tre xuất khẩu và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan hữu quan từ trung ương tới địa phương. Thành tích trên đây tuy thật sự đáng khích lệ nhưng so với tiềm năng và thế mạnh về lao động, nguyên liệu của đất nước thì kim ngạch hàng mây tre xuất khẩu đạt được trong những năm qua còn thấp và chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Để đạt được mục tiêu về kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre từ nay đến năm 2010, đảm bảo kim ngạch năm sau cao hơn năm trước 15 - 25% ngoài sự nỗ lực của những người thợ thủ công, những cơ sở sản xuất ở các địa phương và nhân viên trong toàn công ty, thì Nhà nước cần có những chính sách và cơ chế phù hợp hơn đối với các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời cũng cần có sự hỗ trợ tích cực của các ngành hữu quan từ trung ương tới các địa phương. Từ ngày thành lập cho đến nay, có những lúc công ty gặp khó khăn trắc trở, nhưng nhìn chung trong thời gian qua công ty cũng đã đạt được những thành công nhất định. Trước mắt còn nhiều khó khăn nhưng với kinh nghiệm quí báu đã được đúc rút, với sự hợp tác chặt chẽ giữa những người thợ thủ công ở các cơ sở sản xuất với công ty, chắc chắn những chặng đường khó khăn trước mắt công ty sẽ vượt qua. Mặt khác, công ty cũng cần cùng với các cơ sở sản xuất các địa phương năng động, nhạy bén để điều chỉnh hoạt động và các mối quan hệ trong và ngoài nước sao cho thích ứng với tình hình mới. Như vậy ngành hàng song, mây, tre xuất khẩu sẽ có những bước đi vững chắc hơn, nhanh chóng hơn trong tương lai. TàI liệu tham khảo 1, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thiên - Giáo trình: Thương Mại Quốc Tế– NXB ĐH Quốc Gia HN năm 2004. 2, Phó giáo sư – Nhà giáo ưu tú Vũ Hữu Tửu – “Giáo trình Kỹ thuật Nghiệp Vụ Ngoại thương” - Nhà xuất bản giáo dục năm 2006. 3, Sách “ Làng nghề truyền thống trong quá trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa” - NXB Khoa học xã hội 2004. 4, Văn kiện đại hội Đảng tòan quốc lần thứ VIII, IX – NXB Chính trị Quốc Gia 1996. 5, Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu thời kỳ 2001- 2010 – Bộ Thương mại 2001. 6, Bản báo cáo tình hình của công ty qua các năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005. 7 Niên giám thống kê năm 2004 – NXB Thống kê. 8, Các trang web: Lời cảm ơn Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Nguyễn Kim Anh, nhờ đó mà em đã hoàn thành tốt khóa luận này. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thành viên trong công ty TNHH Đông Nam á, và các thầy cô giáo cùng bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện bản khóa luận tốt nghiệp này. Khóa luận tốt nghiệp của em không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn./. Hà nội tháng 6 năm 2007 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36615.doc